Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Luận văn Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.7 KB, 30 trang )

Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường

A.

Một số ví dụ thực tế về các tranh chấp môi trường quốc tế và phương thức giải
quyết.

1. Vụ việc tranh chấp giữa Canada và Mỹ (1939 - 1941)
Năm 1939 Mỹ kiện Canada ra trọng tài về việc khói thải độc hại phát thải từ lò luyện kim Trail ở
Canada gây hại tới tiểu bang Washington (Mỹ). Lò luyện kim này nằm cách biên giới với Mỹ 7 dặm,
trong đó Mỹ yêu cầu xác định về việc gây ô nhiễm môi trường của lò luyện kim Trail, hình thức bồi
thường thiệt hại và yêu cầu biện pháp nhằm ngăn ngừa những tác hại có thể xảy ra trong tương lai.
Trọng tài vụ Trail Smelter phán quyết “không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử
dụng lãnh thổ của mình để phát tán khói gây thiệt hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người
dân của quốc gia khác; những thiệt hại phải thể hiện ở những chứng cứ xác thực và thuyết phục”. Vấn
đề chứng cứ đã được kết luận bằng các thí nghiệm khoa học.
Trong phán quyết cuối cùng, hoạt động của lò luyện kim đã bị hạn chế.
Từ đó trong tập quán quốc tế đã hình thành nên một tập quán mà đã được nhiều quốc gia áp
dụng để giải quyết tranh chấp với quốc gia khác về việc kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới
đó là “các quốc gia chịu trách nhiệm về mọi tổn thất gây ra do vi phạm nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm
không khí xuyên biên giới”.
Ngoài ra, mặc dù vụ Trail Smelter chỉ đề cập một loại nguồn gây ô nhiễm xuyên biên giới, quy
định này, như kết luận của trọng tài, về nguyên tắc có thể áp dụng cho hầu hết các loại nguồn gây ô
nhiễm không khí tầm xa. Những kỹ thuật hiện đại về quan trắc và thí nghiệm giúp tính toán với độ
chính xác hợp lý khối lượng các chất gây ô nhiễm xuyên biên giới phát thải từ từng quốc gia và xác
định những khu vực bị ảnh hưởng. Vì vậy, việc thu thập những chứng cứ cần thiết, thậm chí đạt tiêu
chuẩn “xác thực và thuyết phục” như trong phán quyết của vụ Trail Smelter, không còn là một
chướng ngại tiềm tàng để xác định trách nhiệm đối với việc gây ô nhiễm không khí tầm xa. Do đó, các
quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với bất kỳ thiệt hại, thỏa mãn “chuẩn mực” nghiêm trọng, gây ra



do hành vi vi phạm luật quốc tế.
2. Vụ tranh chấp giữa Argentina - Uruguay về việc xây nhà máy bột giấy gây nguy cơ ô nhiễm
môi trường.
Tranh chấp phát sinh từ năm 2003 khi Montevideo (Uruguay) cho phép xây dựng Nhà máy bột
giấy Botnia tại dòng sông trên mà không tham vấn Buenos Aires. Khi cơ sở này đi vào hoạt động năm
2006, lo ngại nguy cơ ô nhiễm môi trường, cư dân địa phương Argentina và các nhà hoạt động môi
trường đã phong tỏa cây cầu bắc qua sông, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động giao thông và
kinh tế, đặc biệt là cho phía Uruguay.
Hai nước đã đưa vụ việc ra Tòa án quốc tế Hague (Hà Lan). Phán quyết của tòa nêu rõ Uruguay
đã vi phạm hiệp ước song phương nhưng vẫn cho nhà máy Botnia tiếp tục hoạt động vì không tìm
được chứng cứ nhà máy gây ô nhiễm.
Trải qua hơn 7 năm đàm phán thương lượng cuối cùng ngày Ngày 28/7/2010, Tổng thống
Argentina Cristina Fernández và Tổng thống Uruguay José Mujica đã ký thỏa thuận cùng kiểm soát
môi trường trên sông Uruguay.
Thỏa thuận mới ký kết quy định việc thành lập ủy ban kiểm soát chung gồm các nhà khoa học
hai nước, có nhiệm vụ giám sát hoạt động xử lý chất thải của mọi cơ sở công nghiệp, nông nghiệp và
khu dân cư dọc hai bờ sông Uruguay.
3. Tranh chấp về việc xây đập thủy điện trên sông Mekong
Sông Mekong là một dòng sông quốc tế quan trọng, bắt nguồn từ Tây Tạng và chảy qua tỉnh Vân
Nam của Trung Quốc, trước khi đến Miến Điện, Lào, Thái Lan, Cam Bốt và Việt Nam.
Lưu vực Mekong là một trong những khu vực nghèo nhất thế giới, bị tàn phá bởi bom đạn. Vì
thế nên sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, các cơ quan tài chánh thế giới và một số cường
quốc như Hoa Kỳ, Úc châu, Nhựt Bản, Liên hiệp các Quốc gia Âu châu, Liên hiệp Quốc, đã tập trung
những nỗ lực để giúp tái thiết và phát triển khu vực qua các chương trình xóa đói giảm nghèo. Trong
nhiều thập niên vừa qua, nền kinh tế của khu vực Mekong được tăng trưởng, tuy nhiên điều này dẫn
đến tình trạng thiếu hụt điện năng.
Các dự án Đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong
Nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng điện năng trên, các quốc gia trong lưu vực Mekong, được sự hỗ
trợ của các tổ chức tài chánh quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Á châu đã phác
họa các kế hoạch khai thác nguồn nước sông Mekong trong đó có việc xây dựng các đập thủy điện.



Trung Quốc là nước đầu tiên khai thác quy mô tiềm năng thủy điện của sông Mekong và đã đi
được nửa đoạn đường trong công trình xây một chuỗi những đập thủy điện khổng lồ trên dòng chính
thượng nguồn sông Mekong, với 4 đập lớn đã được đưa vào xử dụng và 4 đập khác trong dự trù.
Trong khi đó thì ở vùng hạ lưu sông Mekong các đập thủy điện chỉ được xây dựng trên các phụ lưu
như Pak Mun ở Thái Lan, Nam Theun ở Lào và Sesan, Seprok ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam.
Tuy nhiên gần đây Camphuchia và Lào đã thiết lập những kế hoạch xây đập thủy điện trên dòng
chính ở hạ lưu sông Mekong với tất cả 11 dự án: 9 nằm trong lãnh thổ Lào và 2 trong phần đất của
Cambốt. Trong số 9 dự án thủy điện ở Lào (6 ở Bắc Lào, 2 ở Trung Lào và 1 ở Nam Lào) Xayaburi là
đập thủy điện thứ 3 trong chuỗi 6 đập bực thang được dự định xây dựng ở Bắc Lào. Xayaburi là đề án
đầu tiên được đem ra cứu xét và gây ra nhiều tranh cãi trong thời gian hơn 1 năm qua.
Đập Xayaburi nằm cách Luang Prabang 150km về phía Nam, thuộc loại “đập tràn”, xử dụng dòng
chảy cơ bản để vận hành các động cơ phát điện, có công xuất 1.285MW, được 4 ngân hàng Thái Lan:
Kasikorn Bank, Bangkok Bank, Krung Thai Bank và Siam Commercial Bank tài trợ; đầu tư công trình là
công ty SEAN và Ch. Karnchang của Thái Lan và phần lớn điện lượng sản xuất sẽ bán cho công ty
EGAT-Thailand.
Theo thỏa ước Mekong năm 1995, thì các quốc gia thành viên của Uỷ hội sông Mekong (MRC),
Camphuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ngoài việc cam kết hợp tác để đảm bảo sự phát triển bền
vững sông Mekong, còn đồng ý về quy trình tham vấn liên chính phủ “Thông Báo-Tiền Tham KhảoĐồng thuận” (Procedures for Notification, Prior Consultation and Agreement- PNPCA); đây là một quá
trình mà các thành viên của Ủy hội phải tuân theo, khi có ý định khai thác dòng chính sông Mekong
thí dụ như xây đập thủy điện.
Vì thế, đối với đề án Xayaburi chánh phủ Lào phải tuân thủ tiến trình PNPCA này và ngày
21/09/2010 thông báo với MRC ý định xây đập thủy điện Xayaburi. Tiếp đến MRC chuyển hồ sơ của
đề án đến các quốc gia thành viên Camphuchia, Thái Lan, và Việt Nam cứu xét. Ủy ban hỗn hợp MRC
đã lần lượt nhóm họp nhiều lần để thảo luận về đề án thủy điện này. Trong lần họp sau cùng tại
Vientiane vào ngày 19/04/2011 kết thúc thời gian ấn định 6 tháng của quy trình PNPCA, Ủy ban Hổn
hợp đã không đạt được sự đồng thuận và phải đệ trình lên Hội đồng Bộ trưởng MRC để lấy quyết
định. Đại diện của phía Cam Bốt và Việt Nam cho rằng báo cáo EIA (Environmental Impact
Assessment) của Lào về những tác động của đập thủy điện Xayaburi trên Môi trường của hạ lưu

Mekong thiếu trung thực và có nhiều thiếu sót.
Tác động của 11 đập thủy điện trên hạ lưu sông Mekong và châu thổ ĐBCL VN


Qua các tài liệu tham khảo, chúng ta có thể nhận ra những ảnh hưởng tiêu cực rất trầm trọng
mà các đập thủy điện xây trên dòng chính hạ lưu sông Mekong có thể gây ra đối với môi trường, cũng
như trên các mặt kinh tế và xã hội.
Môi trường
Nếu dự án xây đập Xayaburi được chấp thuận sẽ tạo ra một tiền lệ để 10 đập thủy điện khác
được xây tiếp trên dòng chính của hạ nguồn sông Mekong.
Bảng “Đánh giá Môi trường Chiến lược” (Strategic Environmental Assessment-SEA) của Ủy hội
Sông Mekong MRC cho thấy nếu tất cả 11 đập thủy điện này được xây thì 90% khối lượng phù sa sẽ bị
giữ lại, ảnh hưởng đến đặc tính phì nhiêu và khả năng bành trướng của châu thổ ĐBCLVN.
Sự sút giảm phù sa vận chuyển xuống hạ lưu còn ảnh hưởng đến cấu trúc của dòng sông và
trạng thái cân bằng của nguồn dinh dưỡng: khiến bờ sông bị sạt lở, lòng sông bị bào mòn, các thảm
thực vật và các vùng đất trũng bị hủy hoại; nguồn dinh dưỡng N và P bị xáo trộn, tạo điều kiện cho
các loài rong, tảo bộc phát, làm tắc nghẽn dòng sông, với hậu quả hệ thủy sinh học bị hủy diệt.
Di trú theo mùa là đặc tính sinh học mang tính sinh tồn của các loài cá và hầu hết khoảng 1700
loài cá của sông Mekong cần phải thay đổi nơi sống, lội xuôi ngược dòng sông hoặc di chuyển đến
những vùng đất trũng, vùng ngập nước tìm những nơi thích nghi để sinh sản và tăng trưởng. Vì dòng
sông là hành lang hoán trú của loài cá, nên xây các đập thủy điện trên dòng chính sẽ làm gián đoạn
chu trình sinh lý thiết yếu của cá, như đẻ trứng, gây giống và tăng trưởng. Đập Xayaburi ngăn cản lộ
trình hoán trú của ít nhất 23 loài cá đến vùng thượng nguồn Luang Prabang ở Lào, Chiang Khong và
Chiang Saen ở Thái Lan và tối thiểu 41 loài cá có thể bị diệt chủng.
Những ảnh hưởng tiêu cực này sẽ rõ rệt hơn khi tất cả 11 đập được xây và hơn nữa chiều dài
của dòng sông sẽ trở thành một chuỗi những hồ nước đọng. Nếu tất cả các đề án được thực hiện, sẽ
có đến 40% khối lượng thủy sản trong hạ lưu bị thất thoát, tương đương với khoảng trên 1 triệu tấn
cá và trị giá mất mát có thể lên đến 4-5 tỉ Mỹ kim mỗi năm.Ấy là chưa kể đến khối lượng cá sống gần
các cửa sông đổ ra biển của châu thổ ĐBCLVN. Tương tự như thế, đối với Cam Bốt, những tác động
của 11 đập thủy điện cũng rất nghiêm trọng.

Các quốc gia trong lưu vực hạ nguồn sông Mekong cùng chia xẻ các trận lũ hằng năm. Lũ là món
quà thiên nhiên ban cho cư dân lưu vực Mekong. Lũ mang lại sự sống cho hệ sinh thái phức tạp của
lưu vực, làm sạch đồng ruộng và đem đến thủy sản cho người dân địa phương. Nếu tất cả 11 đề án
thủy điện trên hạ lưu Mekong được xây, thì vào mùa khô các ”đập tràn” phải tích lũy nước để vận
hành và như thế miền Tây Nam phần VN sẽ bị cạn kiệt, nước biển tràn sâu hơn vào nội địa làm trầm
trọng thêm tình trạng ruộng vườn vốn bị nhiễm mặn vào mùa khô, giảm diện tích canh tác và ngành


nuôi trồng thủy sản vùng ven biển cũng gặp khó khăn.
Nỗ lực Giải quyết tranh chấp của Việt Nam và các quốc gia:
* Những vận động của nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Do tầm vốc quốc tế của
các dự án xây đập thủy điện trên sông Mekong nên trong thời gian qua nhóm đã nỗ lực kết hợp với
các tổ chức quốc tế và giới chính trị của các quốc gia tài trợ MRC kêu gọi sự hỗ trợ và tìm cách tạo
dựng một kênh pháp lý thích hợp để những nhận định khách quan của Nhóm được chuyển đạt đến
các giới chức có thẩm quyền quyết định về đề án Xayaburi.
Hợp tác với The Australian Mekong Resource Centre (AMRC), Sydney University
Tác động của các đập thủy điện xây trên dòng chính hạ lưu Mekong gây ra những biến đổi phức
tạp liên quan đến các lãnh vực khoa học, kinh tế, xã hội, nhân sinh…. Học viện Nghiên cứu Tài nguyên
Sông Mekong (AMRC) thuộc Đại học Sydney, Australia là một trung tâm nghiên cứu khoa học quốc tế
về khu vực Mekong, ngoài công tác nghiên cứu giảng dạy còn là một tổ chức khoa học có mục đích hỗ
trợ chiều hướng phát triển hợp lý duy trì sự toàn vẹn, đa dạng của hệ sinh thái khu vực Mekong và
tính cộng sinh giữa cuộc sống, những nét văn hoá đặc thù của khu vực, vì thế Nhóm NCVHĐNCL Úc
châu đã kết hợp chặt chẽ với AMRC để trao đổi và tiếp thu những kiến thức mới liên quan đến sự
phát triển của khu vực Mekong và châu thổ ĐBCLVN.
Kết giao với Tổ chức International Rivers
Nhóm đã kết giao với Tổ chức International Rivers, qua Giám đốc Chương trình Đông Nam Á, Bà
Ame Trandem ở Bangkok , cùng với 263 tổ chức phi chánh quyền (NGOs) và trên 22 ngàn người dân
của hơn 100 quốc gia trên thế giới kêu gọi hai chánh phủ Lào và Thái Lan hủy bỏ đề án xây đập thủy
điện Xayaburi và 10 đập khác trên dòng chính sông Mekong vì những đập này gây ra những tác hại
nghiêm trọng đến tương lai vùng hạ nguồn.

Tham khảo với giới chức ngoại giao
Những tranh chấp trước đây trong việc sử dụng nguồn nước và chia sẻ quyền lợi riêng lẻ của
từng quốc gia trong các lưu vực sông Nile thuộc vùng đông bắc Phi châu (giữa Ai Cập, Sudan,
Tanzania, Ethiopa, Congo, Tanzania, Kenya…..), sông Zambezi ở Phi châu (giữa Zambia, Angola,
Zimbawe, Malawi, Tanzania, Botswana, Mozambique và Nambia), sông Jordan ở Trung Đông (giữa
Israel, Jordan, Syria và Lebanon), hệ thống sông Ganges-Brahmaputra-Meghna (giữa Ấn Độ, Pakistan,
Trung Quốc và Bangladesh) hay chính trong hệ thống sông Murray-Darling-Murrumbidgee (giữa các
tiểu bang và vùng lãnh thổ của Úc châu) khiến chúng ta không khỏi băn khoăn nghĩ rằng địa chính trị
và lợi ích phe nhóm sẽ đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến những quyết định về các đề án thủy


điện Mekong. Vì thế Nhóm NCVH ĐNCL Úc châu đã ra sức tranh thủ sự ủng hộ của giới chánh trị ở Úc
và Hoa Kỳ.
Úc là quốc gia có những chương trình viện trợ cho Việt Nam với mục đích xóa nghèo và đồng
thời cũng là một trong số các quốc gia cốt yếu tài trợ cho MRC, nên nhóm NCVHĐNCL đã viết văn thư
gởi đến chánh phủ liên bang Úc, Ngoại trưởng Kevin Rudd, trình bày quan điểm của nhóm về những
ảnh hưởng tiêu cực không thể đảo ngược của 11 đập thủy điện trên cuộc sống của người dân vùng hạ
lưu và châu thổ ĐBCLVN. Cùng lúc Nhóm cũng gởi văn thư đến bà Dân biểu Julie Bishop, Phó chủ tịch
đảng Tự do và phát ngôn viên ngoại giao của Liên đảng Tự do-Quốc gia, đối lập ở Quốc hội, nêu lên
mối quan ngại về những ảnh hưởng tiêu cực của đập Xayaburi. Ngoài ra, chúng tôi đã gởi văn thư đến
Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ Tịch Tiểu bang Đông Á và Thái Bình Dương tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Đối với chúng tôi, việc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, theo đề nghị của Thượng nghị sĩ
Jim Webb, vào ngày 29/11/2011 đã nhất trí thông qua một nghị quyết kêu gọi bảo vệ lưu vực sông
Mekong và đình hoãn việc xây dựng các đập thủy điện trên dòng chảy chính của con sông này cùng
những lời tuyên bố tại Bali vào tháng 11/2011 của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton trước Diễn đàn
Khu vực Đông Nam Á rằng Washington đang hợp tác với Ngân hàng Phát triền Á châu và Liên hiệp các
quốc gia Âu châu để cải thiện cơ sở hạ tầng và môi trường ở hạ nguồn sông Mekong cùng kêu gọi
ngưng tất cả mọi việc xây thêm đập cho đến khi nào đánh giá toàn bộ các tác động đối với môi
trường là những tin tức rất khích lệ, cho thấy sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới dành cho
công trình bảo vệ sông và khu vực Mekong.

Lào vẫn kiên quyết thực hiện dự án Xayaburi
Trong hội nghị lần thứ 18 của MRC tổ chức vào ngày 7-8/12/2011, tại Siem Reap, Hội đồng Bộ
trưởng bốn nước Cam Bốt, Lào, Thái Lan và Việt Nam quyết định hoãn việc xây dựng đập Xayaburi.
Bản thông cáo được Ủy hội Sông Mekong công bố sau cuộc họp, cho biết các nước thành viên đã
đồng ý là cần phải “ nghiên cứu bổ sung về sự phát triển bền vững và quản lý dòng sông Mekong, kể
cả đối với tất cả các dự án thủy điện”. Thông cáo còn cho biết chính quyền Nhật Bản sẽ được tiếp cận
để giúp thực hiện việc nghiên cứu bổ sung và những công trình nghiên cứu mới sẽ cung cấp “một bức
tranh hoàn chỉnh hơn” về các vấn đề nẩy sinh từ việc xây đập.
Các nhà bảo vệ môi trường, trong đó có Nhóm NCVHĐNCL Úc châu và chánh phủ hai quốc gia
Camphuchia và Việt Nam tỏ ra phấn khởi với kết quả trên. Tuy nhiên kết quả này không có nghĩa là đề
án thủy điện Xayaburi đã được khai tử, vì Lào cho thấy sẽ kiên trì vận động.
Đồng ý “nghiên cứu bổ sung” có thể là một chiến thuật để các bên có thêm thời gian thương
lượng. Tối thiểu, Lào không lo ngại về phía Thái Lan, vì đầu tư công trình là một tổng công ty của Thái


Lan, đề án được 4 ngân hàng Thái Lan đồng ý tài trợ và hầu hết nguồn điện sản xuất sẽ được bán cho
Thái Lan; thêm vào đó Bộ trưởng Tài nguyên Thiên nhiên & Môi trường, Ông Preecha
Reongsomboonsuk khẳng định là Thái Lan không phản đối đề án.
Điều mà nhiều người đang chờ xem là bằng cách nào chính phủ Lào thuyết phục được
Camphuchia và Việt Nam. Xayaburi không phải là con đập duy nhất được dự định xây trên dòng chính
hạ lưu Mekong. Các tổ chức kinh doanh, các tổng công ty của Camphuchia, Thái Lan và Việt Nam đã
có những kế hoạch tham gia xây thêm 10 đập khác. Cả 4 quốc gia hạ lưu Mekong tuy đều có những lo
ngại về các tác động tiêu cực đến môi trường, nhưng đồng thời cũng có những lợi ích trong việc xây
dựng các con đập. Vì thế, kế tiếp là những màn vận động chánh trị bên trong hậu trường với những
mặt cả cũng như đánh đổi, để Phnom Penh và Hà Nội chấp nhận đề án Xayaburi của Lào.
Hơn thế nữa, vấn đề của 11 đập thuỷ điện cần được tìm hiểu trên một phạm vi rộng lớn hơn,
qua khuôn khổ hợp tác của tổ chức Tiểu vùng Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion- GMS), vì
trong tổ chức này Trung Quốc là một đối tác rất quan trọng và lại có mối quan hệ song phương mạnh
mẽ ảnh hưởng đến các chính sách, chủ trương và đường lối của chánh phủ Lào. Thế thì, liệu mối bang
giao chặt chẽ này cùng sự kiện Trung Quốc đã từng đơn phương xây đập ở thượng nguồn, bất chấp

những phản đối của các quốc gia khác trong lưu vực, đủ khuyến khích Lào theo đuổi con đường cứng
rắn đối đầu với Việt Nam trong vấn đề đập Xayaburi không?
Kết quả của phiên họp Hội đồng Bộ trưởng MRC ở Siem Reap không có nghĩa là sứ mệnh cứu
sống dòng sông Mekong đã hoàn tất. Khối đoàn kết gồm những nhà bảo vệ môi trường, các tổ chức
phi chính phủ (NGOs) và các xã hội dân sự, với thành phần quan tâm đến sự sống còn của vùng hạ lưu
Mekong và châu thổ ĐBCLVN sẽ phải tiếp tục tích cực vận động để giữ cho dòng sông được xuôi chảy,
nhằm bảo đảm cuộc sống của hơn 60 triệu cư dân trong lưu vực.
Bên cạnh sự tham gia của các nước thành viên Uỷ hội sông Meekong (Việt Nam, Lào, Thái Lan,
Campuchia), Trung Quốc, Nhật Bản thì còn có sự can thiệp càng ngày càng sâu của Mỹ vào tranh chấp
này. Tiến sỹ Cronin thừa nhận rằng những đề nghị gần đây của Mỹ có liên quan trực tiếp đến địa
chính trị. Mối nguy hiểm là việc gộp lại tất cả các vấn đề môi trường, chính trị và kinh tế-xã hội trên
sông Mê Công vào sự cạnh tranh giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc, điều có thể che phủ các
bước đi thực tế và các biện pháp xây dựng lòng tin cần thiết để có thể giải quyết hiệu quả tương lai
của dòng sông.
Trên cơ sở 3 ví dụ về tranh chấp môi trường xuyên quốc gia trên, nhóm đưa ra một vài quan


điểm về những vấn đề cơ bản quanh đề tài “Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường quốc
tế”.

B.
1.

Nghiên cứu đề tài.

Khái niệm tranh chấp và tranh chấp môi trường quốc tế. Các biện pháp giải quyết tranh
chấp môi trường quốc tế.

1.1 Khái niệm tranh chấp và tranh chấp môi trường.
Để hiểu rõ khái niệm tranh chấp môi trường quốc tế, trước hết ta cần nghiên cứu khái niệm

“Tranh chấp môi trường”.
Khái niệm “Tranh chấp môi trường” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau trong từng bối cảnh
và cách tiếp cận khác nhau. Thật khó khi đưa ra một định nghĩa thống nhất về “tranh chấp môi
trường” trong khi có quá nhiều cách giải thích về khái niệm này. Có những tác giả cho rằng tranh chấp
môi trường là một dạng của xung đột môi trường (Environment Conflict) (Pieter Glasbergen, 1995);
nhưng cũng có những tác giả lại cố tìm cách lý giải sự khác biệt giữa tranh chấp môi trường và xung
đột môi trường (Gerard Cormick, 1982)
- Theo Từ điển Luật Black, tranh chấp là “một loại xung đột hoặc tranh cãi, nhất là những xung
đột dẫn đến kiện tụng”
- Brown và Marriot định nghĩa “tranh chấp” là “một loại hay một kiểu xung đột biểu lộ trong
những nội dung khác biệt, bị thuộc quyền tài phán.”
- Cũng với quan điểm tương đồng, Crowfoot và Wondolleck phân biệt bản chất xác định
(Specific nature) của “tranh chấp” với một khái niệm rộng hơn, không xác định bản chất (non specific
nature) của “xung đột”. Họ mô tả tranh chấp là “… những khác biệt cơ bản hiện hữu, những điều trái
ngược và đôi khi là sự ép buộc giữa các nhóm lớn trong xã hội về giá trị, hành vi của họ hướng tới môi
trường tự nhiên”. Sự “tranh chấp” không khác biệt với quá trình xung đột mà là một phần cụ thể, có
thể nhận biết của xung đột, gọi là “một nội dung xung đột cụ thể là một phần của một xung đột xã hội
liên tiếp và rộng hơn”.
Xung đột môi trường như định nghĩa ở đây là dựa trên giá trị lớn và tập trung vào nhóm về tự
nhiên, do đó dễ giải quyết hơn. Trái lại, những tranh chấp có đặc điểm là tính riêng biệt, làm cho
tranh chấp khó điều chỉnh và giải quyết. Felstiner, Abel và Sarat đã chỉ ra sự nảy sinh tranh chấp gồm


đến 3 giai đoạn: “gọi tên, đổ lỗi và yêu cầu” (“naming, blaming and claiming”). “Naming” liên quan
đến việc nhận dạng một trải nghiệm xác định là có hại. “Blaming” liên quan đến việc quy kết sự có hại
đó cho lỗi của cá nhân hay thực thể xã hội, còn giai đoạn ba, “claiming”, xuất hiện khi cá nhân hay
thực thể chịu trách nhiệm yêu cầu biện pháp cứu chữa. Cuối cùng, khi toàn bộ hay một phần của yêu
cầu bị từ chối, yêu cầu chuyển thành tranh chấp.
Còn đối với khái niệm “môi trường”, dưới tiếp cận hệ thống có thể coi, “môi trường là tập hợp
các phần tử nằm ngoài hệ thống được xem xét và có tương tác với hệ thống được xem xét”. Như vậy,

theo nghĩa rộng nhất, “môi trường” là một khái niệm bao quát có thể bao hàm bất kì nhân tố nào của
môi trường thiên nhiên bao gồm cả những vấn đề về quản lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng
lượng, phát triển và công nghiệp hóa.
Thực tế thuật ngữ “môi trường” thậm chí có thể hiểu là mở rộng từ môi trường tự nhiên đến
những phương diện của môi trường nhân tạo, như trong trường hợp định nghĩa của Luật bảo vệ Môi
trường của Việt Nam: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan
hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và thiên nhiên”
Cesare P.R. Romano cho rằng: tranh chấp môi trường là những tranh chấp có chứa đựng yếu tố
môi trường. Richard Bilder định nghĩa tranh chấp môi trường ở cấp độ quốc tế là “bất cứ sự bất đồng
hoặc xung đột về quan điểm hoặc lợi ích giữa các quốc gia liên quan tới sự biến đổi của hệ thống môi
trường tự nhiên bằng sự can thiệp của mình.”
Trong các tài liệu về hòa giải và biện pháp giải quyết tranh chấp môi trường chúng ta có thể tìm
thấy rất nhiều định nghĩa khác nhau về tranh chấp môi trường. Moore định nghĩa tranh chấp môi
trường là “…tình trạng căng thẳng, bất đồng, cãi lộn, tranh luận, cạnh tranh, thi đấu, xung đột hay cãi
cọ về yếu tố nào đó của môi trường tự nhiên.”
Bingham, trong nghiên cứu về một “thập kỉ của kinh nghiệm” về giải quyết những tranh chấp
môi trường, bà không định nghĩa “tranh chấp môi trường” nhưng phân loại những tranh chấp được
xem xét thành 6 dạng chung: sử dụng đất, quản lý tài nguyên thiên nhiên và sử dụng đất công, nguồn
nước, năng lượng, chất lượng không khí và chất độc trong không khí.
Để làm rõ sự khác biệt giữa 2 khái niệm “tranh chấp môi trường” và “xung đột môi trường”,
Gerard Cormick, một nhà nghiên cứu có nhiều năm kinh nghiệm trong việc hòa giải các tranh chấp
môi trường đã đưa ra một số phân tích: Theo ông, “Xung đột môi trường” nảy sinh khi “có sự bất
đồng về mặt giá trị hay do sự khan hiếm của các nguồn tài nguyên” còn “tranh chấp môi trường” xuất
hiện như “có liên quan đến một vấn đề cụ thể về môi trường ngay cả khi các xung đột về giá trị vẫn


đang diễn ra”. Cormick tiếp tục làm rõ luận điểm của mình khi ông cho rằng: Tranh chấp môi trường
có thể được giải quyết một cách hiệu quả khi các bên liên quan tìm thấy một số thỏa thuận có thể
chấp nhận được để đưa ra một hướng giải quyết về một vấn đề mà họ đang bất đồng bất chấp việc

họ vẫn đang tiếp tục có rất nhiều các khác biệt về giá trị cơ bản nghĩa là vẫn tồn tại các xung đột môi
trường. Sở dĩ, Cormick đưa ra quan điểm như vậy bởi xuất phát điểm của ông cho rằng rất khó để có
thể giải quyết triệt để được các xung đột môi trường, trong khi đó tranh chấp môi trường chỉ là một
dạng cụ thể của xung đột môi trường đang tiếp diễn và hoàn toàn có thể giải quyết một cách triệt để.
Chia sẻ quan điểm với Cormic, James E. Crowfoot, Julia Marie Wondolleck trong tác phẩm
“Environmental Disputes: Community Involvement in Conflict Resolution” coi “xung đột môi trường
là một dạng của xung đột xã hội, nó chính là những khác biệt, sự đối lập cơ bản và liên tục thậm chí là
những sự áp đặt giữa các nhóm khác nhau trong xã hội về giá trị, quan điểm và hành vi của họ đối với
môi trường tự nhiên. Các dạng xung đột như vậy thường rất có quy mô lớn và nó xuất hiện một phần
do sự gia tăng không kiểm soát được của dân số, sự thay đổi của công nghệ, sự thay đổi cơ cấu xã
hội, các chuẩn mực xã hội. Trong quá trình xung đột môi trường, tất yếu sẽ nảy sinh các tranh chấp về
các vấn đề cụ thể, đó là những mâu thuẫn công khai, không tiềm ẩn, dễ phát hiện đó chính là những
“tranh chấp môi trường”. Như vậy, “tranh chấp môi trường” là một dạng sơ khai, dễ nhận biết của
xung đột môi trường, nói cách khác đó là một dạng “xung đột môi trường công khai. Cũng chính từ
tiếp cận như vậy, James E. Crowfoot, Julia Marie Wondolleck đã đề xuất việc sử dụng từ “settlement
(giải quyết)” trong việc “giải quyết các tranh chấp môi trường (Environmental Disputes settlement”
và đối với việc “giải quyết xung đột môi trường (Environment Conflict)” thì nên dùng từ “Resolution”
hay “Manage” vì khó có thể giải quyết được triệt để các “xung đột môi trường” nhưng đối với các
“tranh chấp môi trường” thì hoàn toàn có thể.
Từ những phân tích của Cormick và James E. Crowfoot, Julia Marie Wondolleck có thể nhận thấy
có những khác biệt nhất định giữa “tranh chấp môi trường” và “xung đột môi trường”. Tuy nhiên,
không thể phủ nhận có một mối quan hệ chặt chẽ giữa xung đột và tranh chấp môi trường. Xung đột
môi trường là khái niệm rộng hơn, nó liên quan đến những xung đột về giá trị hay lợi ích giữa các
nhóm trong xã hội. Xung đột môi trường có thể góp phần thúc đẩy các mô thức tranh chấp đang tiếp
diễn liên quan đến những bối cảnh, những yêu cầu hay đưa ra các chính sách môi trường xác định
hơn. Tranh chấp môi trường có thể giải quyết tốt còn quá trình xung đột môi trường rộng và phổ biến
hơn thì dường như tiếp diễn thông qua tranh chấp xảy ra sau.


Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau như vậy về tranh chấp môi trường, nhưng hầu hết

các cách hiểu ở trên đều thống nhất ở một quan điểm cho rằng: tranh chấp môi trường là một dạng
sơ khởi; bộc lộ công khai và là một bộ phận của xung đột môi trường, đó là những mâu thuẫn, tranh
chấp, bất đồng giữa các cá nhân, các nhóm xã hội trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi
trường.
Tranh chấp môi trường là những xung đột giữa các tổ chức, cá nhân, các cộng đồng dân cư về
quyền và lợi ích liên quan đến việc pḥòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; về
việc khai thác, sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên và môi trường; về quyền được sống trong môi
trường trong lành và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản do làm ô nhiễm môi trường gây
nên.
Tranh chấp môi trường quốc tế là “sự bất đồng hoặc xung đột về quan điểm hoặc lợi ích giữa
các quốc gia liên quan đến sự biến đổi của hệ thống môi trường tự nhiên bằng sự can thiệp của
mình.”
Tranh chấp môi trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Nó được
nảy sinh như một hệ quả tất yếu của quá trình khai thác và bảo vệ môi trường khi có sự tranh giành
lợi thế dẫn đến đối chọi lợi ích giữa các nhóm xã hội. Nguồn tài nguyên của môi trường là hữu hạn
trong khi nhu cầu của con người là vô hạn, do vậy, luôn tồn tại hiện tượng tranh chấp, giành giật
quyền lợi trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên môi trường dẫn tối một hiện tượng đặc biệt
trong tranh chấp xã hội đó là tranh chấp môi trường. Những tranh chấp đó có thể xuất hiện giữa các
cá nhân, giữa các nhóm cùng chia sẻ các nguồn tài nguyên môi trường, cũng có thể xuất hiện giữa các
địa phương, các quốc gia trong việc khai thác và bảo vệ môi trường...Tranh chấp môi trường có quá
trình bắt đầu, kết thúc và hoàn toàn có thể giải quyết được một cách triệt để thông qua các biện
pháp đối thoại, phân xử, hòa giải môi trường...
Trong các ví dụ đầu tiên, ta có thể thấy có các tranh chấp môi trường cơ bản sau:
- tranh chấp về ô nhiễm không khí tầm xa giữa Canada với Mỹ.
- tranh chấp về ô nhiễm sông giữa Arhentina với Uruguay.
- tranh chấp về việc xây dựng các đập thủy điện trên sông Mekong giữa các quốc gia thành viên
có lãnh thổ sông Mekong chảy qua.
Đây đều là những tranh chấp diễn ra hết sức phức tạp và nan giải, ảnh hưởng đến một bộ phận
lớn dân cư, khó giải quyết... bởi nó mang yếu tố quốc tế trong mỗi vụ việc tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế là các hoạt động khắc phục, loại trừ tranh chấp đã



phát sinh bằng một phương pháp nào đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh
chấp bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội, duy trì một môi trường trong sạch để hướng tới sự phát triển
bền vững.
1.2

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế:

Vì những đặc thù về chủ thể, vụ việc và sự nhạy cảm chính trị của các tranh chấp môi trường quốc
tế mà các phương pháp gỡ rối những mâu thuẫn này cần có những nguyên tắc riêng.
- Nguyên tắc đầu tiên và có lẽ cũng là quan trong nhất khi giải quyết các tranh chấp về môi trường
quốc tế đó là giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình.
Theo Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp quốc tế của
mình chỉ bằng các biện pháp hoà bình để từ đó hoà bình, an ninh quốc tế và công lí không bị đe doạ.
Cụ thể là không được sử dụng sức mạnh hoặc đe doạ sử dụng sức mạnh, không được ép buộc hoặc
áp đặt để giải quyết tranh chấp và không được dùng biện pháp khống chế để buộc bên tranh chấp
khác phải theo cách giải quyết có lợi cho mình. Điều 33, Hiến chương Liên hợp quốc quy định một
loạt biện pháp hoà bình để các bên tranh chấp có thể tự do lựa chọn. Đó là đàm phán trực tiếp, trung
gian, hoà giải, toà án quốc tế, vv. Việc lựa chọn biện pháp thích hợp hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí và
sự thoả thuận tự nguyện của các bên tranh chấp. Trong trường hợp các bên tranh chấp sau khi đã áp
dụng một trong các biện pháp hoà bình, vẫn chưa đạt kết quả, sẽ tiếp tục cùng nhau thương lượng để
giải quyết hoà bình tranh chấp đó, đồng thời tự kiềm chế để không có những hành động làm phức
tạp thêm quan hệ của mình hoặc nguy hại hoà bình và an ninh quốc tế. Nguyên tắc giải quyết tranh
chấp hòa bình các tranh chấp quốc tế được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố của
Liên hợp quốc về các nguyên tắc của luật pháp quốc tế năm 1970, và trong nhiều văn bản pháp lí
quốc tế quan trọng khác.
- Ưu tiên bảo vệ các quyền và lợi ích chung về môi trường của cộng đồng, của các quốc gia;
- Đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các quốc gia để hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững;

- Ngăn chặn sớm sự xâm hại đối với môi trường. Do tính chất không thẻ sửa chữa được đối với
những thiệt hại môi trường nên các tranh chấp môi trường nảy sinh khi thiệt hại thực tế chưa xảy ra
cũng phải được giải quyết triệt để nhằm ngăn chặn trước hậu quả.
- Đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại về môi trường
- Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp môi trường nảy sinh nhằm bảo đảm trật tự xă


hội, tránh sự chuyển hoá những tranh chấp nhỏ, đơn giản thành các cuộc biểu tình chính trị, khiếu
kiện kéo dài, gây rối loạn trật tự xă hội, mất tình đoàn kết giữa các quốc gia.
2.

Các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế cơ bản.

Ngày nay, vấn đề sự khan hiếm cũng như sự phân bố không đồng đều về các nguồn tài nguyên
và các dịch vụ môi trường đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi các nguồn tài nguyên của môi
trường ngày càng trở lên hạn hẹp là những vấn đề nóng bỏng nhất, thu hút sự quan tâm hết sức
đông đảo của cả thế giới.
Thật không khó một chút nào cho những người quan tâm khi tìm kiếm qua internet các chủ đề
về lĩnh vực tranh chấp môi trường hay các cơ quan/ tổ chức tư vấn giải quyết tranh chấp môi trường
tại các quốc gia trên thế giới như: Hội đồng chất lượng môi trường (Council on Environmental Quality
- CEQ), Hoa Kỳ; Viện giải quyết các tranh chấp về môi trường (Institute fo mediate disputes on
Environment), Hoa Kỳ; Trung tâm đánh giá và giải quyết tranh chấp môi trường (Center for
Environment Disputes Assessment and Resolution - CEDAR), Đại học NewSouthWales, Australia hay
Hiệp hội liên kết giải quyết tranh chấp môi trường của Nhật Bản (The Environmental Dispute
Coordination Commission...Điều này càng chứng tỏ tranh chấp môi trường đang ngày càng trở nên
một chủ đề nóng hổi thu hút sự quan tâm, theo dõi của nhiều ngành, cấp trong xã hội.
Một thống kê cho biết: (Theo thời báo New York (New York time)) ra ngày thứ 4, ngày 15 tháng
11 năm 2007: Hàng năm, Viện giải quyết các tranh chấp về môi trường của Hoa Kỳ phải giải quyết
bằng hình thức đưa ra tòa hàng nghìn vụ tranh chấp môi trường.Tại Nhật Bản, theo số liệu của Hiệp
hội liên kết giải quyết các tranh chấp môi trường từ 01 tháng 4 năm 2000 đến 31 tháng 3 năm 2001,

trên toàn nước Nhật có 83.881 đơn thư khiếu kiện có liên quan đến tranh chấp môi trường được gửi
đến các cấp chính quyền cơ sở. Kể từ khi thành lập năm 1970 đến tháng 3 năm 2001, Hiệp hội liên kết
giải quyết tranh chấp môi trường đã thụ lý 743 vụ tranh chấp môi trường trong đó đã có 736 vụ được
giải quyết triệt để, cũng trong thời gian đó, Hiệp hội kiểm tra ô nhiễm môi trường toàn diện Nhật Bản
(The Perfectural Population Examination Commission) đã thụ lý 924 vụ tranh chấp môi trường trong
đó có 875 vụ được giải quyết. Theo Zhou Shengxian, Chủ tịch Hội đồng bảo vệ Môi trường quốc gia
thì trong năm 2005 đã có trên 50.000 vụ tranh chấp môi trường xảy ra trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
Cũng theo Zhou các tranh chấp môi trường liên quan đến việc gây ô nhiễm môi trường đã gây tổn hại
lên đến 105 triệu nhân dân tệ tương đương 13.1 triệu đô la Mỹ trong năm 2005. Còn theo Zou
Keynuan thì tranh chấp môi trường đã “không dừng lại ở trong biên giới của các quốc gia nữa mà đã
vượt ra khỏi đường biên giữa các quốc gia trở thành các tranh chấp môi trường xuyên quốc gia do


hiện tượng di dân tự do, hiện tượng tăng dân số không kiểm soát, các luồng di cư và nhập cư bất hợp
pháp...những tranh chấp này hoàn toàn có khả năng trở thành các xung đột môi trường và đe dọa an
ninh quốc gia…
Trong quá trình khai thác và bảo vệ môi trường, các vấn đề môi trường (Environment problems)
như tranh chấp môi trường và xung đột môi trường, kỳ thị môi trường...giữa các nhóm xã hội này
thường xuyên xảy ra và có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng dân số, tiến bộ khoa học
và công nghệ và đồng nghĩa với nó là sức ép ngày càng lớn đối với môi trường tự nhiên (Gladwin
1979). Sự tranh giành lợi thế này dẫn đến hậu quả là đã khoét sâu bất bình đẳng xã hội, đối chọi lợi
ích giữa các nhóm xã hội, và cuối cùng là tranh chấp, xung đột giữa các cá nhân, các nhóm quyền lợi.
Những vấn đề này ngày càng trở lên bức thiết đối với con người trong việc bảo vệ môi trường sống
của mình trong hiện tại và cho thế hệ tương lai.
Bertram I. Spector, trong bài viết “Transboundary Environmental Disputes” (Tranh chấp môi
trường xuyên biên giới) cho rằng để giải quyết dạng tranh chấp môi trường đặc biệt này giải pháp chủ
yếu và đang được xem như tối ưu nhất là thương lượng, đàm phán, hòa giải.
Michael McCloskey trong “Đánh giá một cách hệ thống kiểu quản lý tài nguyên trên cơ sở cộng
đồng” đã cho rằng đàm phán và thương lượng giữa các đối tác ngày càng được sử dụng như là các
giải pháp tốt nhất để giải quyết các tranh chấp môi trường

Peter T Ailen, trong bài viết “Public Participation in resolving Environmental Disputes and the
problem of representativeness” (Vai trò của công chúng trong việc tham gia giải quyết các tranh chấp
môi trường và vấn đề của việc đại diện) đã thông qua các luận cứ thực tiễn về giải quyết tranh chấp
môi trường tại Đức, Australia để khẳng định những ưu điểm và vai trò của việc tham gia của người
dân (tham gia của cộng đồng) trong việc giải quyết các vấn đề về tranh chấp môi trường. Ông cũng chỉ
ra những hạn chế của việc giải quyết tranh chấp môi trường bằng các phương pháp đàm phán, hay
đại điện. Theo ông, những cá nhân hay nhóm xã hội, tham gia đàm phán hay đối thoại thường rất dễ
đi vào xu hướng thoả hiệp và từ đó tranh chấp môi trường tưởng như đã được giải quyết nhưng trên
thực tế nó vẫn tồn tại.
Tanis M. Frame, Thomas Gunten and J.C. Day đã sử dụng phương pháp ra quyết định trên cơ sở
chia sẻ sự sáng tạo (Innovative Shared Decision Making) hay mô hình lập kế hoạch hợp tác
(Collaborative planning Models) để giải quyết các tranh chấp môi trường về đất đai. Nhóm tác giả này
đã tiến hành nghiên cứu 17 trường hợp tranh chấp đất đai tại Bristish Columbia. Từ đó đi đến khẳng
định hiệu quả của mô hình lập kế hoạch hợp tác trong việc giải quyết các tranh chấp môi trường.
Những nguyên tắc giải quyết trên đây là cơ sở cho việc đối thoại, thương lượng, điều hoà và giải


quyết các tranh chấp môi trường. Tuy nhiên, vì đặc thù riêng của tranh chấp môi trường mà khó có
thể có một phương án vẹn toàn để giải quyết mọi tranh chấp và xung đột. Mọi đàm phán, thỏa thuận
đều phải căn cứ trên chuẩn mực giá trị chung về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Chuẩn
mực đó bao gồm cả những chuẩn mực về kỹ thuật và những chuẩn mực về đạo đức để chống lại các
hành vi phá hoại môi trường.
Tranh chấp môi trường đang diễn ra rất phức tạp và tồn tại dưới nhiều hình thức, quy mô và cấp
độ khác nhau đặc biệt là các tranh chấp môi trường xuyên biên giới và liên quốc gia, đòi hỏi những
nhà quản lý môi trường phải có những nhìn nhận và đánh giá đúng đắn tầm quan trọng của các dạng
tranh chấp để từ đó vận dụng các thiết chế xã hội, tìm các biện pháp thương thuyết, hoà giải giữa các
bên xung đột để từ đó đưa ra các hướng giải quyết có hiệu quả.
2.1 Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng phương thức thương lượng.
Thương lượng hoặc đàm phán là biện pháp được sử dụng ở nơi mà các bên tham gia có các
quyền lợi xung đột nhưng đều có nhu cầu chung là đạt tới một thỏa thuận nào đó. Cuộc đàm phán

hợp lý, đúng đắn sẽ tạo ra một thỏa thuận khôn ngoan
Thương lượng luôn là hình thức quan trọng của việc giải quyết tranh chấp môi trường vì tính
chất đơn giản và hiệu quả của nó: “Các cuộc đàm phán, thương lượng hợp lý, đúng đắn chắc chắn sẽ
đạt đến một sự thỏa thuận khôn ngoan, làm hài long tất cả các bên”. Đây là cơ hội tốt nhất để các
bên thu thập thêm thong tin, xem xét hoàn cảnh xảy ra sự việc, đánh giá đúng bản chất của vụ việc,
giải tỏa những hiểu lầm, khúc mắc và cùng tìm đến các giải pháp tối ưu trong điều kiện chi phí về thời
gian, sức lực và tài chính ở mức thấp nhất.
Thượng lượng thường được diễn ra giữa các chủ thể đại diện. Do số lượng người có liên quan
trong mỗi vụ tranh chấp môi trường quá đông nên quá trình thương lượng thường không diễn ra trực
tiệp giữa tất cả những người có liên quan.
2.2. Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng hòa giải:
Hòa giải môi trường (Environmental Mediation) là quá trình đàm phán mang tính chính thức
hơn và ngắn gọn hơn giữa các đại diện chính thức được thừa nhận của các bên chịu tác động. Bước
này được thực hiện sau khi xung đột đã diễn ra hoàn toàn. Các bên đương sự mong muốn tham gia
hòa giải đã có thể xác định rõ. Trong các tình huống tranh chấp, các đương sự chỉ thực sự mong
muốn đàm phán khi họ cảm thấy rằng họ không thể đạt được mục tiêu của mình mà không mất chi
phí.


Đối thoại chính sách (Policy dialogue) được thực hiện thông qua các hội nghị không chính thức
để thỏa thuận và cố vấn cho các cơ quan. Cuộc đối thoại này được thực hiện từ các cơ quan khác
nhau trên một nhóm liên cơ quan, hoặc họ có thể là các chuyên gia bên ngoài-người sẽ phải đệ trình
báo cáo cho những người ra quyết định.
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của hòa giải
Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội,
nhưng quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Trên thế giới có nhiều quan niệm
khác nhau về hòa giải: Hòa giải (conciliation) là sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải; hành vi của
người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết
tranh chấp (GQTC) giữa họ. Việc GQTC thông qua người trung gian hòa giải (bên trung lập); Hòa giải là
một quá trình mà bên thứ ba tạo điều kiện và phối hợp để các bên thương lượng với nhau. Từ điển

pháp lý của Rothenberg định nghĩa hòa giải là “hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp,
mỗi bên nhượng bộ một ít”. Một định nghĩa khác của hòa giải là “việc GQTC giữa hai bên thông qua
sự can thiệp của bên thứ ba, hoạt động một cách trung lập và khuyến khích các bên xóa bớt sự khác
biệt”. Theo Từ điển tiếng Việt, “hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột, xích
mích một cách ổn thoả”. Từ những quan niệm trên, có thể rút ra một số đặc trưng chung của hòa giải
như sau:
Một là, hòa giải là một biện pháp GQTC.
Hai là, chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận
với nhau về GQTC. Điều này làm cho hòa giải có sự khác biệt với thương lượng. Người trung gian có
thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Người
này phải có vị trí độc lập với các bên và hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp. Bên thứ
ba làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra phán
quyết.
Ba là, sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp
quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng
chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên.
Như vậy, có thể hiểu hòa giải là một phương thức GQTC với sự giúp đỡ của một bên thứ ba
trung lập, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết các tranh chấp phù hợp với quy định
của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội.
Trong nhiều thế kỷ, “hòa giải” đã được sử dụng như một hình thức GQTC. Trong xã hội
phương Tây hiện đại, nó thường được mô phỏng như một hình thức GQTC “thay thế”, và hòa giải là


một nét đặc trưng nổi bật của xu hướng GQTC thay thế. Điều này đặt ra câu hỏi là nó thay thế cho cái
gì. Nếu câu hỏi như vậy được đưa ra trong ngữ cảnh pháp luật, thì câu trả lời sẽ gắn với hình thức tố
tụng. Ở đây, “thay thế” hàm nghĩa những khác biệt về định tính với hình thức tố tụng, nó bao gồm
một tập hợp các nguyên tắc và quy định mà có thể là đối lập với những nguyên tắc và quy định về
hoạt động của Tòa án. Trong ngữ cảnh này, “thay thế” còn hàm ý một sự lựa chọn, các bên cố ý lựa
chọn sử dụng trung gian hòa giải vì những lợi thế được cảm nhận so với hình thức tố tụng.
Tuy nhiên, có thể sẽ có sự hiểu lầm khi coi hòa giải là biện pháp thay cho tố tụng. Hầu hết các

tranh chấp trong xã hội hiện đại được chính các bên tự giải quyết thông qua đàm phán. Trong số
tương đối ít vụ tranh chấp cần đến luật sư, thì chỉ có một tỷ lệ rất ít số vụ như vậy được tiến hành
theo trình tự thủ tục tố tụng, thậm chí số vụ tranh chấp được đưa ra Tòa án xét xử còn ít hơn thế.
Trong số những vụ cần đến luật sư và không được giải quyết bằng tố tụng, thì một vài vụ đơn giản là
không được theo đuổi nữa, còn những vụ khác thì được luật sư giải quyết hoặc các bên giải quyết
thông qua đàm phán hay thỏa thuận. Vì vậy, xét về phương thức chủ đạo được sử dụng để GQTC
trong xã hội hiện đại, thì bản thân tố tụng lại chính là một phương thức “thay thế” với nghĩa là nó
hiếm khi được sử dụng. Nếu trung gian hòa giải được cho là một phương thức thay thế, thì nó cần
phải được nhìn nhận như một phương thức thay thế cho hầu hết các phương pháp GQTC thường
được sử dụng nhất. Vì đa số các vụ tranh chấp được giải quyết thông thường bên ngoài hệ thống Tòa
án, nên yêu cầu áp dụng phương thức hòa giải phải được đánh giá khác với các phương thức thay thế
khác cho hình thức tố tụng, kể cả việc giải quyết tại Tòa án.
2.2.2. Ưu điểm của hòa giải
* Linh hoạt về thủ tục
Hòa giải có thể được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau, thủ tục có thể được thỏa
thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế là các bên được bày tỏ ý kiến xem
quá trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các
bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật quá
phức tạp. Ngược lại, phương thức tố tụng Tòa án có một cách thức tổ chức cứng nhắc hơn, có những
quy định và thủ tục cố hữu. Có một vài yếu tố mang tính kỹ thuật đòi hỏi rất cao, buộc các bên phải
nghiêm chỉnh chấp hành cả trong thời gian trước và đang diễn ra quá trình xét xử.
Một sự khác biệt quan trọng giữa hòa giải và biện pháp tố tụng là những thông tin và chứng cứ
nào có thể được sử dụng, sử dụng và kiểm chứng như thế nào. Trong tố tụng, vấn đề này được điều
chỉnh theo quy định về chứng cứ và thủ tục để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy. Trong hòa giải
thường không có quy định nào về chứng cứ và cũng không có quy định về kiểm chứng cũng như xem


xét về mặt thủ tục. Chỉ có những quy định thủ tục mở về phương pháp nói chuyện và giao tiếp. Các
bên tranh chấp được phép kể chuyện của họ nếu thấy phù hợp và có thể biểu lộ tình cảm mà không
bị bài bác và bị cho là không có ý nghĩa.

Tuy nhiên cũng có những giới hạn đối với tính linh hoạt của hoạt động hòa giải. Mặc dù nó
không phải là một quá trình cứng nhắc, nhưng khi các hòa giải viên hướng dẫn, các bên vẫn phải có
sự thống nhất cao trong các giai đoạn khác nhau. Các hòa giải viên phải thực hiện một cách có hệ
thống qua từng giai đoạn của hoạt động hòa giải theo trình tự cụ thể. Điều này giúp khai thác được
từng điểm mạnh trong toàn bộ quá trình hòa giải, vì mỗi một giai đoạn trong quá trình đó đều có cái
lý lẽ riêng của nó. Vì thế, mặc dù có sự linh hoạt, nhưng hòa giải mang tính tổ chức hơn so với những
cuộc đàm phán có tính chất tùy tiện. Một trong những đóng góp của một hòa giải viên là có thể xác
lập trật tự trong những cuộc đàm phán vô tổ chức và thiếu thống nhất.
* Tính thân mật
Tính thân mật trong hòa giải luôn luôn gắn liền với tính linh hoạt của nó. Ở đây, tính thân mật là
muốn nói đến không gian và môi trường, phong thái và ngôn ngữ trong hòa giải, hành vi giao tiếp và
ứng xử của những người tham gia. Hoạt động này thân mật, hoặc có khả năng thân mật, từ góc độ
trang phục ăn mặc, địa điểm tổ chức, không gian và môi trường, ngôn ngữ sử dụng và thời gian tham
dự. Hòa giải không có thủ tục nghi lễ và không gian trầm tĩnh huyền bí như của hoạt động xét xử.
Hoạt động xét xử tại Tòa án luôn thể hiện tính trang trọng, nghi lễ và tính thứ bậc. Nhưng trong hòa
giải, các bên tham gia thường không có cảm nhận về hình thức nghi lễ và tính thứ bậc trong đó.
Giá trị của tính thân mật là ở chỗ nó có thể làm cho quá trình trung gian hòa giải gần gũi và thân
thiện với các bên tranh chấp hơn, không tạo ra sự lo lắng và căng thẳng so với hoạt động xét xử tại
tòa. Đặc biệt hơn là trong trung gian hòa giải, các bên có thể sử dụng ngôn ngữ thông tục hàng ngày,
khác hẳn với những hình thức giao tiếp được phong cách hóa trong môi trường Tòa án. Tuy nhiên,
hòa giải viên cũng có thể yêu cầu sử dụng ngôn ngữ trang trọng và các bên tranh chấp cũng có thể
khách sáo trong việc sử dụng ngôn từ khi hòa giải. Khác với hệ thống Tòa án, mức độ trang trọng đến
đâu thì cũng có thể được các bên thỏa thuận để phù hợp với văn hóa của các bên tranh chấp.
* Sự tham gia của các bên vào quá trình hòa giải
Chính tính thân mật và tính linh hoạt của hòa giải cho phép sự tham gia trực tiếp của các bên
vào quá trình này. Sự tiếp cận và tham gia trước hết dành cho các bên tranh chấp. Trong hòa giải, các
bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá
trình. Quá trình hòa giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp. Đây là một
bước rất quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp của hòa giải. Hòa giải đem lại cơ hội cho các



bên trình bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với nhau. Sự tham gia trực tiếp của các bên tranh chấp
trong hòa giải là rất cần thiết vì nó đề cao được tinh thần trách nhiệm của các bên đối với các lựa
chọn của mình. Thông thường, so với việc để những người bên ngoài như thẩm phán hay trọng tài
viên đưa ra quyết định thì bản thân các bên thường đưa ra những quyết định có lợi hơn cho mình.
Bằng cách này, sự tham gia có thể xóa bỏ cảm giác của các bên khi cho rằng họ phải chịu áp lực để
đưa ra một quyết định nào đó. Nếu các bên nhận thấy rằng họ “làm chủ” quá trình, thì họ có thể dễ
dàng ủng hộ kết quả hơn. Không một phương pháp GQTC nào có thể đảm bảo sự tham gia trực tiếp
của các bên được như hình thức hòa giải, các bên đánh giá rất cao “quyền tự quyết” của hình thức
này dù tranh chấp chưa được giải quyết. Quá trình tham gia vào hòa giải cũng mang tính giáo dục cho
các bên ở chỗ họ được trực tiếp tham gia và học được cách thức giải quyết vấn đề mà có thể áp dụng
trong những hoàn cảnh khác.
Ngược lại, mô hình tố tụng truyền thống chỉ cho phép sự tham gia rất hạn chế và theo nguyên
tắc nhất định đối với những bên có lợi ích hợp pháp liên quan. Nó khuyến khích sự thụ động, sự phụ
thuộc và thiếu vắng trách nhiệm lựa chọn.
* Đặt con người ở vị trí trung tâm
Trong khi phần lớn việc GQTC có xu hướng tập trung vào hành vi, vào tình tiết là chính thì trong
hòa giải, trọng tâm là con người chứ không phải tình tiết vụ việc. Việc này đòi hỏi hòa giải viên phải
xét đến nhu cầu hiện tại cũng như mối quan tâm của các bên. Hòa giải cho phép giải quyết vụ việc
dựa trên lợi ích mong muốn của các bên. Hòa giải viên thường không yêu cầu các bên phải thuyết
phục hay làm cho họ tin về những tình tiết thực tế, hơn nữa, họ cũng thiếu những cơ chế hỗ trợ điều
tra hoặc kiểm nghiệm sự thật. Mặt khác, các bên cũng không có điều kiện để chất vấn hay kiểm
chứng những lời nói hay tuyên bố của nhau theo những cách thức giống như trong tố tụng Tòa án.
* Duy trì mối quan hệ
Bên cạnh việc đặt con người ở vị trí trung tâm, hòa giải còn đặt trọng tâm vào khía cạnh duy trì
mối quan hệ. Điều này mang ý nghĩa nhân văn của GQTC. Các bên có cơ hội thể hiện tình cảm, bày tỏ
sự quan tâm đến các quan hệ trong tương lai giữa các bên. GQTC bằng hòa giải có thể duy trì hoặc cải
thiện quan hệ giữa các bên nhờ việc xem xét đến lợi ích và quan tâm thực tế của các bên, có thủ tục
dễ dàng và áp dụng phương pháp cùng tham gia, xây dựng mô hình đàm phán và các kỹ thuật giải
quyết vấn đề mang tính xây dựng, có cách quản lý xung đột đầy tính nhân văn… làm cho hòa giải trở

thành một phương thức GQTC mềm dẻo chứ không cứng nhắc như tố tụng Tòa án. Mặc dù hoạt động
tố tụng cũng sẽ giải quyết được tranh chấp thông qua xét xử, nhưng nó có thể dẫn đến sự thiệt hại
mà không thể sửa chữa được trong các mối quan hệ vì gắn với hoạt động tố tụng là những ngôn ngữ


không thiện chí. Thậm chí, hoạt động trọng tài cũng không thường xuyên đảm bảo việc duy trì các
mối quan hệ được tiếp tục lâu dài.
* Tạo lập quy chuẩn
Khi đưa ra quyết định, Tòa án và các trọng tài viên đều dựa vào các quy phạm pháp luật, nghĩa là
các quy tắc và nguyên tắc được quy định trong các đạo luật. Trong hòa giải, các bên không viện dẫn
các quy phạm để định hướng giải quyết, nhưng các quy phạm lại có thể được các bên rút ra từ chính
kết quả giải quyết vụ việc.
Trong hòa giải, các bên được tự do không áp dụng các quy tắc, nguyên tắc và chính sách mà vốn
có tính ràng buộc với các Tòa án, trọng tài viên. Thỏa thuận giữa các bên có thể đạt được trên cơ sở
lợi ích chung vì nó chỉ diễn ra vào một thời điểm cụ thể nhất định. Các bên thường có cách nhìn của
họ về lợi ích rộng hơn so với một thẩm phán. Chính vì vậy, các doanh nghiệp mong muốn sớm đi đến
một thỏa thuận GQTC trước đó mà không cần phải đề cập đến quyền và nghĩa vụ pháp lý để sao cho
họ có thể lồng ghép những thương vụ làm ăn sau này vào trong thỏa thuận giải quyết. Khi xây dựng
các quy phạm riêng để GQTC, các bên có thể quyết định những lợi ích riêng của họ, xác lập những ưu
tiên, cân đối và hoàn thành hợp đồng xét theo cách thức kinh doanh hay đánh giá xã hội và phương
pháp giải quyết của chính họ. Đây là một biểu hiện của quyền tự định đoạt. Một khía cạnh khác trong
bản chất của việc tạo lập quy phạm trong hòa giải là tính linh hoạt của kết quả. Các bên có thể nhất trí
về kết quả mà có lẽ chẳng bao giờ giống như kết luận của Tòa án. Tuy nhiên, các quyết định hòa giải
của các bên phải là một thỏa thuận phải hợp pháp hoặc không được trái với chính sách công theo quy
định trong luật.
* Sự kín đáo và tính bảo mật
Sự kín đáo và tính bảo mật được thể hiện ở việc: phiên họp hòa giải được tổ chức kín, người
ngoài chỉ có thể biết được trình tự thủ tục và nội dung nếu được các bên đồng ý; không công bố công
khai nội dung được trao đổi trong phiên họp; việc công bố điều khoản giải quyết là vấn đề phải được
hai bên thỏa thuận.

Trình tự, thủ tục hòa giải được tiến hành trên cơ sở “không có sự phản cung”, nghĩa là không
cho phép các bên được sử dụng những tuyên bố trong hòa giải làm chứng cứ nếu sau này phải xét xử
tại Tòa và hòa giải viên cũng thường bị ràng buộc bởi nguyên tắc bảo mật. Những yêu cầu này tạo
điều kiện để có các cuộc đàm phán thẳng thắn và cởi mở và vì lợi ích của một bên hay của các bên
nếu muốn tránh để các vấn đề riêng tư của họ bị công bố với các đối thủ cạnh tranh làm ăn kinh
doanh, những người thân quen hoặc bạn bè.
2.3. Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng trọng tài.


Trong vụ tranh chấp giữa Mỹ với Canada về ô nhiễm không khí tầm cao ở trên, phía Mỹ đã lựa
chọn phương thức bằng trọng tài để giải quyết cho tranh chấp của mình. Cuối cùng phán quyết của
trọng tài đã trở thành một tập quán quốc tế có hiệu lực bắt buộc đối với các quốc gia trên thế giới do
tính nghiêm minh và xác đáng của các phán quyết trọng tài.
“Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, trong đó, các bên tham gia
tranh chấp thống nhất tranh chấp phát sinh nếu có sẽ do một hoặc một số người (“trọng tài viên”,
“Ủy ban trọng tài”) giải quyết, và quyết định của một hoặc một số người đó (“phán quyết”) có tính
chất bắt buộc thực hiện. Có thể hiểu “trọng tài” một cách đơn giản là một biện pháp giải quyết tranh
chấp mang tính pháp lý, giống như việc kiện tụng ở tòa án, và hoàn toàn khác biệt với nhóm các biện
pháp không mang tính bắt buộc về mặt pháp lý như đàm phán, trung gian, điều tra và hòa giải.
Ngày nay, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được xem như phương thức phổ biến nhất. Trọng
tài không chỉ xét xử những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân với cá nhân, mà thậm chí cả những
tranh chấp giữa cá nhân với quốc gia hay quốc gia với quốc gia.
Phân xử ràng buộc là hướng giải quyết do trọng tài quyết định. Nó có áp lực pháp luật với các
bên tham gia.
- Đặc điểm của biện pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Các bên thường mong muốn đưa
tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài bởi lẽ biện pháp này có nhiều ưu thế so với tòa án, cụ thể như
sau:
+ Thứ nhất, việc tự do lựa chọn trọng tài viên: đối với những tranh chấp có tính chuyên môn
cao, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn đúng với lĩnh vực tranh chấp.
+ Thứ hai, thời gian nhanh chóng, thủ tục linh hoạt: thủ tục giải quyết tranh chấp tại trọng tài

nhanh hơn kiện tụng tại tòa án.
+ Thứ ba, phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi.
+ Thứ tư, tính chung thẩm: nhìn chung, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, các bên
tham gia tranh chấp không có quyền kháng cáo đối với phán quyết của trọng tài (tuy nhiên, tòa án
vẫn có quyền hạn nhất định đối với việc ra quyết định hủy phán quyết trọng tài hoặc tuyên bố phán
quyết của trọng tài vô hiệu).
+ Thứ năm, tính bảo mật: nội dung tranh chấp được giữ bí mật, phán quyết của trọng tài không
được công bố rộng rãi. Điều này rất có lợi khi công ty muốn giữ uy tín của mình.
Mặc dù trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp rất được ưa chuộng hiện nay song trên
thực tế, có nhiều quốc gia không ủng hộ biện pháp này. Khả năng thứ nhất là họ không muốn sử dụng


công cụ pháp lý để giải quyết tranh chấp bởi vì các biện pháp ngoại giao sẽ đảm bảo cho việc giải
quyết tranh chấp được quyết định bởi các bên. Khả năng thứ hai là vấn đề thực thi phán quyết của
trọng tài còn chưa có sự đảm bảo chắc chắn. Mặc dù phán quyết của trọng tài được thừa nhận rộng
rãi, tuy nhiên, việc thực thi phán quyết, hay hiệu lực của phán quyết trọng tài còn phụ thuộc vào ý
thức và hành vi của các bên trong tranh chấp.
- Các hình thức trọng tài
Kể cả khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài từ trước (thỏa thuận trong đó quy định tranh chấp
phát sinh sẽ được giải quyết tại trọng tài), hay khi tranh chấp đã phát sinh và các bên quyết định sẽ
đưa tranh chấp giải quyết tại trọng tài, việc đầu tiên phải thống nhất là hình thức trọng tài được lựa
chọn. Các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận sử dụng trọng tài vụ việc ad hoc hoặc trọng tài
định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế).
+ Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc không thuộc một tổ chức trọng tài nào, do đó, các bên tham gia tranh chấp có
thể thỏa thuận quyết định tất cả các vấn đề về trọng tài như số lượng trọng tài viên, cách thức chỉ
định, thủ tục tố tụng trọng tài, luật áp dụng… Trọng tài vụ việc có ưu điểm là linh hoạt, chi phí thấp và
thủ tục nhanh chóng hơn, với điều kiện là các bên tham gia tranh chấp có ý chí hợp tác.
Đối với trọng tài vụ việc, Ủy ban trọng tài là do các bên hoặc do đại diện của các bên chỉ định.
Sau khi Ủy ban trọng tài được thành lập, việc phân xử sẽ do Ủy ban trọng tài thực hiện và các bên

không được tham gia vào việc phân xử đó.
+ Trọng tài định chế
Trọng tài định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế) là hình thức tổ chức, một trung tâm trọng
tài hoạt động thường trực (thực chất là họ cung cấp dịch vụ trọng tài) với những quy định có sẵn về
những vấn đề liên quan tới trọng tài như thủ tục, cách tiến hành tố tụng trọng tài … Có thể kể tên
một số trung tâm trọng tài nổi tiếng trên thế giới như LCIA (The London Court of International
Arbitration) ở London, CIArb ( The Chartered Institute of Arbitrators) ở Anh hay ICC (The International
Court of Arbitration) ở Paris.
Thông thường, khi các bên thống nhất đưa tranh chấp ra xét xử theo phương thức trọng tài định
chế, trung tâm trọng tài được lựa chọn sẽ chịu trách nhiệm chỉ định trọng tài viên cho Ủy ban trọng
tài.
Trọng tài định chế, với những quy định và thủ tục riêng của mình, thường được xem là “chính
thống” hơn so với trọng tài vụ việc. Tuy nhiên, chi phí cho trọng tài định chế thường cao hơn, và thủ
tục tố tụng lại chậm hơn so với trọng tài vụ việc.


2.4. Giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bằng con đường Tòa Án:
Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, Toà án công lý quốc tế của Liên hợp quốc hoạt động theo
Hiến chương liên hợp quốc 1945 và Quy chế Tòa án công lý quốc tế. Hiến chương dành cả chương XIV
từ Điều 92 đến Điều 96 để quy định các vấn đề cơ bản về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng và hoạt động
của Tòa. Quy chế Tòa án quốc tế gồm 70 điều là cơ sở pháp lý để Tòa tiến hành các hoạt động tư
pháp.
Hoạt động chức năng của Tòa được tiến hành bởi các Thẩm phán được bầu theo quy chế. Cơ
quan có thẩm quyền đề cử và bầu thành viên của Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc là Đại hội
đồng là Hội đồng bảo an. Tòa Án công lý quốc tế Liên hợp quốc là cơ quan có chức năng giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa chủ thể là các quốc gia. Các quốc gia có thể lựa chọn thẩm quyền giải quyết
tranh chấp của Tòa được thiết lập theo ba phương thức, như chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo
từng vụ việc, chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án trong các điều ước quốc tế hoặc tuyên bố đơn
phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa.
Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc tiến hành xét xử một vụ tranh chấp theo hai trình tự đầy

đủ và rút gọn. Thành phần của một phiên tòa có thể là toàn bộ các thẩm phán, có thể ít hơn nhưng
tối thiểu là 9 vị thẩm phán. Các bước thuộc trình tự xét xử của Tòa thường gồm 2 giai đoạn là giai
đoạn xem xét về hình thức, giai đoạn thứ 2 là giai đoạn xét xử về nội dung vụ việc, theo 2 thủ tục nói
và viết.
Về pháp lý, phán quyết của Tòa có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với các bên. Nếu một trong
các bên không chịu thi hành bản án, phía bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an can thiệp, buộc
phải chấp hành. Phán quyết của Tòa chỉ có giá trị pháp lý trong mối quan hệ giữa các bên tranh chấp.
Trong trường hợp các bên bất đồng trong việc giải thích và thực hiện phán quyết thì có thể yêu cầu
Tòa giải thích hoặc sửa đổi phán quyết, Tòa xem xét và có thể chấp nhận hay từ chối yêu cầu này.
3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường quốc tế bởi các tổ chức quốc tế.
Các tổ chức quốc tế hiện nay không chỉ là trung tâm phối hợp hành động của các quốc gia nhằm
hướng tới những lợi ích chung mà còn có vai trò rất to lớn trong việc giải quyết những tranh chấp
quốc tế, trước hết là tranh chấp giữa các quốc gia thành viên. Căn cứ vào các điều ước quốc tế thành
lập các tổ chức quốc tế, có thể khẳng định, việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ là quyền hạn
mà còn là chức năng của chính các tổ chức đó. Tuy nhiên, khi các quốc gia thành viên của một tổ chức


quốc tế và đồng thời cũng là một bên trong một tranh chấp quốc tế thì họ không chỉ có thể tìm đến
những cơ chế giải quyết trong khuôn khổ của tổ chức quốc tế đó mà còn hoàn toàn có quyền tự do
thỏa thuận lựa chọn những cơ chế giải quyết phù hợp khác.
Chính việc nâng cao vai trò của tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế và việc gia tăng số
lượng các tổ chức quốc tế đã mang lại sự thay đổi nhất định trong hệ thống các biện pháp hòa bình
giải quyết các tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Mỗi tổ chức quốc tế đều có đặc trưng riêng trong
cơ chế giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình.
* Liên hợp quốc
Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế phổ cập có vai trò rất quan trọng trong quan hệ quốc
tế. Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, các cơ quan chính, ở các mức độ khác nhau, đều
có thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, trong đó, vai trò chính thuộc về Hội đồng
bảo an và Tòa án quốc tế.
Hội đồng bảo an là cơ quan có trách nhiệm chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc

tế và có chức năng rộng lớn nhất trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, trong đó bao gồm
tranh chấp về môi trường quốc tế. Nói chung, thẩm quyền của Hội đồng bảo an được xác định đối với
các loại hình tranh chấp quốc tế mà khả năng kéo dài có thể đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế. Với
những loại tranh chấp đó, Hội đồng bảo an có quyền:
- Yêu cầu các bên giải quyết tranh chấp giữa họ bằng các biện pháp nêu ở Điều 33 Hiến
chương Liên hợp quốc;
- Điều tra mọi tranh chấp hoặc tình thế nếu xét thấy diễn biến có thể gây bất hòa giữa các
nước hoặc đe dọa hòa bình an ninh quốc tế;
- Kiến nghị các bên những thủ tục hoặc phương thức giải quyết thỏa đáng.
Mặt khác, nếu Hội đồng bảo an xét thấy có sự đe dọa hoặc phá hoại hòa bình, có hành vi xâm
lược thì cơ quan này có quyền:
- Yêu cầu các bên tuân thủ những biện pháp tạm thời;
- Quyết định áp dụng những biện pháp phi quân sự
- Áp dụng những biện pháp quân sự.
Như vậy, trên cơ sở của chương VI Hiến chương Liên hợp quốc thì Hội đồng bảo an có toàn
quyền thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp trung gian, hòa giải, ủy ban
điều tra, ủy ban hòa giải.
Ngoài Hội đồng bảo an, các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc như Đại hội đồng cũng có
thể thực hiện chức năng hòa giải nếu tranh chấp không được chuyển giao cho Hội đồng bảo an xem


xét và giải quyết.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tổng thư ký có vai trò quan trọng. Tổng thư ký có
quyền thông báo cho Hội đồng bảo an về các vấn đề về bất kỳ mà theo nhận định của Tổng thư ký có
thể đe dọa việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tổng thư ký có thể đưa vấn đề tranh chấp ra
trước Hội đồng bảo an xem xét mặc dù Tổng thư ký không có tiếng nói quyết định. Trong thực tiễn
hoạt động của Liên hợp quốc, Tổng thư ký theo yêu cầu của Đại hội đồng của Liên hợp quốc, Tổng
thư ký theo yêu cầu của Đại hội đồng và Hội đồng bảo an có thể đóng vai trò trung gian, hòa giải.
* Tổ chức quốc tế khu vực và tổ chức quốc tế.
Văn bản pháp lý của một số tổ chức quốc tế khu vực và tổ chức quốc tế có quy định về trình

tự, thủ tục và hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên của
mình. Việc sử dụng tổ chức quốc tế khu vực để giải quyết tranh chấp quốc tế có thể được thực hiện
theo sáng kiến của các quốc gia tranh chấp, thành viên của các tổ chức quốc tế này, theo sáng kiến
của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc hoặc theo quy định của tổ chức quốc tế khu vực.
Trong một số tổ chức quốc tế hiện nay, có nhiều tổ chức khu vực đã có những hợp tác để
cùng hỗ trợ nhau trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, phát triển bền vững cũng như tự mình giải quyết
các tranh chấp môi trường giữa các quốc gia thành viên hoặc giữa các quốc gia thành viên với quốc
gia ngoài khu vực như hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Asean, liên minh châu Âu EU, cơ quan năng
lượng nguyên tử quốc tế IAEA, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế của khối các nước công nghiệp
phát triển (OECD) ….
Ví dụ về việc hợp tác khu vực trong việc kiểm soát ô nhiễm xuyên biên giới tầm xa của các quốc
gia châu Âu. Từ năm 1975, Hội nghị về An ninh và Hợp tác châu Âu đã tạo một động lực chính trị cần
thiết cho sự ban hành một chính sách chung về kiểm soát ô nhiễm không khí, và những biện pháp đặc
biệt đã được thảo luận thông qua Ủy ban Kinh tế khu vực châu Âu của Liên Hiệp Quốc ví dụ thành lập
chương trình quan trắc châu Âu năm 1976, và sau đó vào năm 1979 ban hành Công ước Geneva về ô
nhiễm không khí tầm xa.
Công ước này được coi như là thỏa thuận khu vực duy nhất quy định việc kiểm soát ô nhiễm
không khí tầm xa, trong đó bầu khí quyển châu Âu được coi như là một nguồn tài nguyên dùng chung
và do đó bắt buộc các quốc gia phải có sự hợp tác xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát ô
nhiễm cũng như những tiêu chuẩn phát thải chung. Vì vậy, mục tiêu của Công ước là ngăn ngừa, giảm
thiểu và kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa, từ bất kể nguồn gây ô nhiễm nào, nhưng không quy
định trách nhiệm đối với tổn hại do ô nhiễm không khí. Công ước có hiệu lực năm 1983, và hiện nay


×