Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU NGHỆ THUẬT TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA NGUYỄN TUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.83 KB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ THỊ THU

NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU NGHỆ THUẬT
TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN VANG BÓNG MỘT THỜI
CỦA NGUYỄN TUÂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ THỊ THU

NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU NGHỆ THUẬT
TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN VANG BÓNG MỘT THỜI
CỦA NGUYỄN TUÂN

Chuyên ngành: Lý luận văn học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Phạm Thị Phƣơng Huyền

SƠN LA, NĂM 2015



LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian tìm hiểu, nghiên cứu nghiêm túc em đã hoàn thành khóa luận
này. Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo, Thạc sĩ
Phạm Thị Phƣơng Huyền - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, định hướng
cho em từ những bước đi đầu tiên trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận. Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngữ văn,
cô giáo chủ nhiệm và các bạn sinh viên trong tập thể lớp K52 ĐHSP Văn GDCD đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành khóa luận này.
Mặc dù trong quá trình nghiên cứu, được chỉ bảo tận tình và sự cố gắng của
bản thân, nhưng khóa luận chắc chắn còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được
sự nhận xét, góp ý giúp em nhận ra hoàn thiện hơn.
Sơn La, tháng 05 năm 2015
Người thực hiện
Vũ Thị Thu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 6
4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
6. Đóng góp của khóa luận .................................................................................... 7
7. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 9
1.1. Khái quát chung về tác phẩm văn học ........................................................... 9
1.1.1. Khái niệm tác phẩm văn học ....................................................................... 9
1.1.2. Nội dung của tác phẩm văn học .................................................................. 9
1.1.3. Hình thức của tác phẩm văn học............................................................... 11

1.1.4 . Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học ............. 12
1.2. Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp .................................. 12
1.3. Thể loại truyện ngắn và tập truyện Vang bóng một thời .............................. 16
1.3.1. Thể loại truyện ngắn ................................................................................. 16
1.3.2. Tập truyện Vang bóng một thời ................................................................ 17
Tiểu kết ................................................................................................................ 19
CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NỘI DUNG CỦA TẬP TRUYỆN
VANG BÓNG MỘT THỜI ................................................................................ 21
2.1. Đề tài phong phú .......................................................................................... 21
2.1.1. Con người tài hoa...................................................................................... 21
2.1.2. Văn hóa ẩm thực ....................................................................................... 24
2.1.3. Thú vui tao nhã.......................................................................................... 29
2.2. Tư tưởng sâu sắc, giàu chất triết lí ............................................................... 33
Tiểu kết ................................................................................................................ 36


CHƢƠNG 3: ĐẶC SẮC VỀ KẾT CẤU NGHỆ THUẬT CỦA TẬP TRUYỆN
VANG BÓNG MỘT THỜI .................................................................................. 37
3.1. Kết cấu theo trình tự thời gian......................................................................... 37
3.2. Kết cấu đồng hiện ......................................................................................... 39
3.3. Kết cấu theo diễn biến tâm lý nhân vật ........................................................ 41
Tiểu kết…………………………………………………………………………44
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Tuân là một trong số không nhiều nhà văn đã tạo cho mình
một phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo và ông đã có những cống hiến to

lớn cho văn chương Việt Nam thế kỉ XX. Ông để lại một sự nghiệp văn học đồ
sộ với những trang viết độc đáo và tài hoa. Tài năng và những đóng góp của
Nguyễn Tuân đối với văn đàn là một yếu tố để ông là một trong số những tác gia
tiêu biểu đại diện cho nền văn học Việt Nam hiện đại được chọn học trong
chương trình phổ thông hiện nay. Sự nghiệp sáng tác của ông được chia làm hai
giai đoạn chính: trước và sau Cách mạng tháng Tám. Nếu những sáng tác sau
Cách mạng tháng Tám, nhà văn có sự chuyển biến rõ rệt về tư tưởng, nhận thức,
thể hiện qua một số tác phẩm: Đường vui, Tình chiến dịch, Sông Đà, Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi... thì những sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Tuân lại thể
hiện rõ quan điểm của một tài năng văn chương được sinh ra trong một gia đình
nho học, chịu ảnh hưởng lớn từ truyền thống gia đình, đặc biệt là của người cha
- ông Trí Hải Văn - một nhà nho bất đắc chí dưới chế độ phong kiến .
1.2. Thời gian có thể khiến con người trở nên già nua, xấu xí và khiến họ
lãng quên đi quá khứ cho dù đó là quá khứ tốt đẹp. Nhưng có những thứ luôn
bền bỉ và ngự trị cùng thời gian, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân là một
tài sản quý giá như thế. Nguyễn Tuân là người đi nhiều, ông thâm nhập vào cuộc
sống để tìm ra những nét đẹp ngay trong cuộc sống đời thường và rồi sau đó ông
phản ảnh những vẻ đẹp ấy vào tác phẩm văn chương. Suốt đời ông tập trung
phục vụ bạn đọc bằng cách bày biện cái đẹp ra trang giấy để người đọc thưởng
thức. Ông say mê vào cõi quá khứ để tìm tòi phát hiện ghi chép và lưu giữ tất cả
những gì thuộc lĩnh vực văn hóa dân tộc. Trong Vang bóng một thời, thời vàng
son mà Nguyễn Tuân nhận thấy có khi là những sinh hoạt bình thường gần gũi
xung quanh con người do hờ hững mà người ta vô tình bỏ quên, đó là những thú
chơi tao nhã, những nét đẹp cổ truyền của dân tộc việt nam như: uống trà
(Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm); uống rượu (Hương cuội);
chơi thơ (Thả thơ, Đánh thơ); hoa tay đẹp (Trên đỉnh non tản); người có tài nghệ
1


(Chém treo ngành, Ném bút chì) và nhân cách đẹp (Chữ người tử tù)… những

cái đẹp mà con người đã vô tình quên lãng và có lẽ đời sau sẽ không biết đến
nữa.
1.3. Nói đến Nguyễn Tuân người ta nhớ ngay đến đó là con người tài hoa,
uyên bác. Dưới ngòi bút của ông tất cả như hiện hữu trong tâm trí người đọc.
Đọc Vang bóng một thời ta có cảm giác quay về quá khứ, đó là quá khứ có cuộc
sống nhàn nhã, êm đềm như một bức tranh. Với đề tài nghiên cứu về tập truyện
Vang bóng một thời không phải là vấn đề quá mới mẻ đối với nhiều nhà nghiên
cứu nhưng chủ yếu các nhà nghiên cứu chỉ đề cập đến nhiều khá cạnh khác nhau
mà chưa thực sự nghiên cứu xuyên suốt toàn bộ tập truyện ngắn này một cách có
hệ thống. Với lòng nhiệt huyết muốn tìm tòi, hiểu biết thêm những nét đẹp truyền
thống của dân tộc việt nam, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này để nghiên
cứu hi vọng góp thêm vào hệ thống những vấn đề nghiên cứu về Nguyễn Tuân.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Tuân là người tài hoa uyên bác. Ông đã để lại cho đời sự nghiệp
văn học đồ sộ với những áng văn bất tử. Theo các nhà phê bình đánh giá thì ông
là nhà văn đứng hẳn ra một phía riêng. Điều đó chứng tỏ tài năng của Nguyễn
Tuân được đánh giá rất cao. Khi nhìn nhận, đánh về tài năng của Nguyễn Tuân,
các nhà nghiên cứu thường khảo sát thể loại tùy bút vì thể loại này đã tạo nên
phong cách riêng của nhà văn. Tuy nhiên, để tìm hiểu về con người Nguyễn Tuân
- một con người luôn khát khao đi tìm cái đẹp, các nhà nghiên cứu lại tìm đến với
thể loại truyện ngắn, đặc biệt là tập truyện ngắn Vang bóng một thời của ông.
Theo Trương Chính thì trước khi nhà văn lãng mạn Nguyễn Tuân “lột xác”
để trở thành nhà văn cách mạng, sáng tác ra những thiên tùy bút, những bài ký
phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng Nguyễn Tuân cũng có hành trang là
khá nhiều tác phẩm. Tuy ông không thuộc nhóm nào, văn đoàn nào mà đứng
riêng một mình nhưng Nguyễn Tuân cũng đã xây dựng được cho mình một địa
vị vững chắc trên văn đàn. Ở văn của ông ta thấy cái giọng khinh bạc nhiều
người không chịu nổi. Xét cho cùng giọng khinh bạc của ông là do ông phủ
nhận thực tại xấu xa của xã hội, do lòng hoài nghi đạo đức giả dối của người
2



đời, do lòng tự cao tự phụ của mình xen lẫn cả lòng hoài nghi của chính bản
thân mình nữa. “Đọc Vang bóng một thời, chúng ta có cảm giác nhẹ nhàng, êm
dịu như xem một tập tranh cổ họa. Đó là lý do vì sao sau cách mạng, chúng ta
vẫn nhắc đến Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân không cần phải dè dặt gì
cả” [7, 237-238].
Trong Đọc lại “Vang bong một thời” của Nguyễn Tuân nhà phê bình Phan
Cự Đệ đã chia nhân vật trong các tác phẩm thanh hai loại. Một số nhân vật trong
sáng tác của Nguyễn Tuân là những ông Phủ, ông Nghè, ông Ấm… Nhưng
những nhân vật này không phải là lớp quan lại hám lợi, ô trọc mà là một hạng
người biết sống thanh cao, ưa nhàn hạ và đặc biệt là biết hưởng thụ, nhấm nháp
một cách khá trịnh trọng trong cuộc đời. Ở họ ta thấy được cái đẹp trong lối
sống cầu kì dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân. Loại nhân vật thứ hai được tác giả
trìu mến chính là một số lãng tử giang hồ, họ sống một cách “nghệ sĩ” trước
cuộc đời đầy thăng trầm và không bao giờ muốn dừng chân lại ở một nơi nào
nhất định. Qua nhân vật của mình Nguyễn Tuân đã tìm được những nét đẹp,
những lối thoát trong chính cuộc đời lang thang của họ. Dù có là những loại
người khác nhau nhưng Nguyễn Tuân đều tìm thấy ở họ những nét đẹp của nghệ
thuật, của một lối sống khá lập dị cầu kì; ở đâu tác giả cũng cố gắng tìm thấy cái
đẹp nên đôi khi cái đẹp xuất hiện trong văn Nguyễn Tuân ở những trường hợp
khá oái oăm, tàn nhẫn. Cái đẹp của nghệ thuật “ném bút chì”, cái đẹp về chữ viết
của kẻ tử tù hay lạ hơn cái đẹp của nghệ thuật chém treo ngành rất ngọt. Vô hình
chung ta thấy nhà văn đã đi tìm cái đẹp ngay trong cả những hành động tàn bạo,
đao phủ. Nhưng ta cũng không thể phủ nhận trong xã hội đã bắt đầu xuất hiện
những “ông Tây An - nam”, cái xã hội mà phong trào âu hóa và danh lợi đã làm
nhiều người Việt Nam mất gốc thì Vang bóng một thời đã giữ người ta lại với
những hình ảnh gần gũi nhất của dân tộc. Đó là, một lớp người có phẩm chất
thanh cao, đáng quý như: viên quản ngục biết trọng cái tài (Chữ người tử tù), cô
Tú tần tảo nuôi em ăn học (Ngôi mả cũ)… hay những phong tục gần gũi với

người Việt Nam (uống trà, chơi chữ, chơi đèn kéo quân…).

3


Hà Văn Đức trong Nguyễn Tuân và cái đẹp cũng đã nêu ra những vẻ đẹp
của Vang bong một thời, đó là những thú vui như uống trà, đánh thơ, thả thơ… rồi
đến tâm hồn cao đẹp của tên tử tù Huấn Cao. Đây là những nét đẹp không hiện hữu
trong cuộc đời thực, nhưng đó là những nét đẹp xưa mà Nguyễn Tuân đã quay về
tìm kiếm của một thời vang bóng [15].
Giáo sư Hoàng Như Mai đã có những lời nhận xét cảm động khi đọc tập
truyện ngắn này: “Mở cuốn Vang bóng một thời, người ta tưởng như mở hai
cánh cửa bước vào một nhà bảo tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày những
hiện vật của thời xưa, đối với người đương thời có hiếm lạ song ai cũng thấy là
quí giá vô cùng, phải thành kính chiêm ngưỡng, được chiêm ngưỡng rồi thì
trong lòng tràn ngập sung sướng tự hào. Chúng tôi đọc Vang bóng một thời hồi
còn đang là sinh viên đại học thời kỳ Pháp thuộc, bỗng nhiên cảm thấy mình có
tội đối với dân tộc và hối hận rất nhiều. Thả thơ, uống trà, ăn kẹo cuội mạch
nha bên hoa, dưới trăng chơi đèn kéo quân, viết chữ trên lụa treo nhà… Những
cảnh tiêu khiển trang nhã như thế, thanh cao như thế, trí tuệ như thế, một lối
sống văn hóa tuyệt vời như thế, một sự thụ cảm vì biểu diễn nghệ thuật tài hoa
như thế mà chúng tôi không biết, quên đi để sùng bái cái máy hát, chai săm
banh, miếng phómát, lọ nước hoa, chiếc cra-vát, cây súng săn… gửi mua tận
Paris, Marseille, Lyon; để đâm vào các “ba”, “đăng xinh”, “ô-ten”… Chúng
tôi tưởng phải biết dùng những thứ ấy, phải có mặt những nơi ấy, mới được coi
là con người trí thức lịch sự, văn minh quý phái. Chúng tôi càng xấu hổ, trách
sự tệ bạc của mình đối với dân tộc. Vang bóng một thời đã kêu gọi bọn lãng tử
chúng tôi trở về với dân tộc. Đến với cuốn sách, chúng tôi được mở trí khôn đón
nhận bao kiến thức văn hóa tinh tế: pha ấm trà như thế nào, chọn tờ giấy cây
bút lông như thế nào, viết nét chữ như thế nào, đố chữ trong một câu thơ như

thế nào, làm cái rãnh cho đèn kéo quân như thế nào. Ông cha giỏi quá tài quá,
khéo quá” [16, 144-145].
Tôn Thảo Miên qua tập Vang bóng một thời đã đánh giá cao Nguyễn Tuân
về sự hiểu biết sâu sắc những phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc, những
phong tục tốt đẹp bị lãng quên. Nguyễn Tuân quay lưng với cái xã hội bát nháo
4


đương thời nhưng rõ ràng ông đã không quay lưng với những phong tục, truyền
thống tốt đẹp vốn có của dân tộc. Ông say sưa nói về việc thả thơi, đánh thơ,
uống trà, làm đèn trung thu... với một thái độ ca ngợi và tiếc nuối. Ông luôn đi
tìm vẻ đẹp thuần túy trong thiên nhiên, xã hội với mục đích thỏa mãn các cảm
giác và giác quan của mình. Đọc văn Nguyễn Tuân ta thấy sự tỉ mẩn, kỹ càng
trong từng câu chữ chứ không hề hờn hợt, dễ dãi.
Trong một bài viết ngắn “Đọc Vang bóng một thời” (khoảng 3 trang) đăng
trên báo Ngày nay, số 212, ngày 15/06/1940 Thạch Lam đã có cái nhìn tinh tế và
sâu sắc về lối hành văn của Nguyễn Tuân. Ông đề cao Nguyễn Tuân là một nhà
văn đáng kính bởi niềm đam mê sáng tạo, yêu cái đẹp và khả năng “làm sống lại
cả một thời xưa cũ” [7, 229]. Thạch Lam cũng chỉ ra phần khuyết điểm trong
văn Nguyễn Tuân: “Về mặt văn chương, chúng ta muốn tác giả Vang bóng một
thời đến một sự giản dị sáng sủa hơn nữa, cố tránh những lối hành văn cầu kỳ sự cầu kỳ trong cái tìm tòi không phải cầu kỳ trong cách điệu tả - tránh những
chữ nhắc lại, những sự kiểu cách, những lối và âm điệu trong câu văn. Có lẽ tác
giả muốn nói hết cả những cái mình biết và tác giả biết nhiều nên có sự lộn xộn
ấy chăng?” [7, 230]. Kết lại bài viết, Thạch Lam đã đánh giá cao về Nguyễn
Tuân: “Một nhà văn có tài năng đặc biệt, một nghệ sĩ có lương tâm, ở người đó
chúng ta đặt những hi vọng tốt đẹp nhất về sự nghiệp” [7, 231]. Thời gian đã trả
lời cho niềm hi vọng của Thạch Lam và không còn chỉ là hi vọng nữa mà đã
thành hiện thực. Nguyễn Tuân đã đứng ở một vị trí vững vàng, đặc biệt trong
nền văn học nước nhà.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận xét và đánh giá Vang bóng một thời

là tập truyện để lại dấu ấn đậm đà và sâu sắc nhất. Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Tác
phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới sự hoàn thiện, toàn mỹ đó là tập
Vang bóng một thời” [7, 415]. Với Vũ Ngọc Phan khi đọc Vang bóng một thời
ông có cảm tưởng gần giống với cảm tưởng khi ngắm một bức họa cổ. Bởi vì
theo nhà nghiên cứu thì Nguyễn Tuân đã làm công việc của người đi khơi lại
đống tro tàn của dĩ vãng đã gợi lên cho người đọc một nỗi ngậm ngùi luyến tiếc
về một “thời vàng son” đã qua, hướng người ta muốn quay về quá khứ.
5


Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã từng nhận xét Nguyễn Tuân là một nhà văn
suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật. Có thể nói trong suốt cuộc đời của mình bằng
ngòi bút điêu luyện của mình Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Vang
bóng một thời - tập truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân trước Cách mạng
tháng Tám chính là một chặng quan trọng trong hành trình đi tìm cái đẹp của
nhà văn. Nguyễn Tuân luôn khao khát đi tìm cái đẹp và cái thực nhưng thời
điểm trước Cách mạng tháng Tám mà ông đang sống ở một xã hội “ối a ba
phèng” thì để tìm những nét đẹp chân chính không hề dễ chút nào, nói như nhà
văn Nguyễn Đình Thi thì ở xã hội lúc bấy giờ cái đẹp và cái thật không bao giờ
khớp được với nhau. Có lẽ vì thế Nguyễn Tuân đã đi tìm cái đẹp trong quá khứ
và tìm ngay trong chính tâm tưởng, cảm giác của mình rồi sau đó gửi gắm vào
những đứa con tinh thần của ông.
N.I. Niculin - Tiến sĩ Viện văn học thế giới Nga đã gọi Nguyễn Tuân
là “nghệ sĩ ngôn từ”. Văn Nguyễn Tuân không chỉ thu hút sự quan tâm của những
nhà văn trong nước mà còn làm say lòng nhiều nhà nghiên cứu vãn học nước
ngoài, đặc biệt là những nhà văn Liên Xô như: M.ILinxki, Mrian Tkachop. Qua
đó cho thấy vị trí của Nguyễn Tuân trong lòng bạn bè năm châu trên thế giới.
Trong điếu văn đọc trước tang lễ của Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Đình Thi
khẳng định: “Cùng với những bạn cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng… Nguyễn Tuân đã đặt viên đá riêng vào cái nền còn mới

mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta và viên đá của Nguyễn Tuân là một hòn đá tảng…
sẽ chắc bền trong thời gian”.
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như bài viết về tác
phẩm vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Đa số trong các bài viết các tác giả
đều có những nhận xét, đánh giá khái quát về sự nghiệp sáng tác và phong cách
nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Những công trình này là tài liệu bổ ích
cho chúng tôi trong quá trình lựa chọn và nghiên cứu đề tài.
3. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là: Những đặc sắc về nội dung và
6


nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
3.2. Nhiệm vụ
Với đề tài “Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng
một thời của Nguyễn Tuân”, khóa luận tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chính:
- Khảo sát và phân loại các đề tài chủ yếu của tập truyện, qua đó làm nổi bật
sự tài hoa, độc đáo, sống thoát ly nhưng vẫn giàu lòng ưu ái khôn nguôi vào thời
thế, gắn bó sâu nặng với cuộc đời, quê hương, đất nước của tác giả.
- Phân tích và chỉ rõ đặc sắc về kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu đồng
hiện và kết cấu theo diễn biến tâm lí nhân vật trong tác phẩm, từ đó thấy được
tài năng sáng tạo của ngòi bút Nguyễn Tuân.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp chúng tôi chỉ nghiên cứu
“Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng một
thời của Nguyễn Tuân”.
- Phạm vi khảo sát: Tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân,
NXB Văn học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện khóa luận này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại, tổng hợp: Phương pháp
này giúp chúng tôi thống kê, phân loại tác phẩm, bài nghiên cứu có liên quan
đến đề tài, tìm ra được những vấn đề trọng tâm gần với đề tài.
5.2. Phương pháp phân tích văn học: Phương pháp này giúp chúng tôi
phân tích tư liệu để đánh giá những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tập
truyện ngắn Vang bóng một thời.
Ngoài ra, trong quá trình trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng sử dụng
một số phương pháp khác giúp hỗ trợ cho việc nghiên cứu.
6. Đóng góp của khóa luận
Trên cơ sở tổng hợp, kế thừa và phát triển ý kiến của các nhà nghiên cứu
cũng như một số đánh giá của các tác giả đương thời, cộng với việc sử dụng lí
luận về tác phẩm văn học để khảo sát tập truyện ngắn Vang bóng một thời. Từ
7


đó góp phần bổ sung thêm vào hệ thống những nghiên cứu về con người và sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Đồng thời, tăng cường sự hiểu biết của bản
thân về lí thuyết lí luận văn học.
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu của
học sinh, sinh viên.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Những đặc sắc về nội dung của tập truyện ngắn Vang bóng một thời
Chương 3: Những đặc sắc về kết cấu nghệ thuật của tập truyện ngắn Vang
bóng một thời

8



CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát chung về tác phẩm văn học
1.1.1. Khái niệm tác phẩm văn học
Để đời sống văn học luôn hoạt động và phát triển không ngừng, ta phải dựa
trên bốn yếu tố đó là: thời đại - nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Trong những yếu
tố trên, tác phẩm văn học được xem là chỉnh thể trung tâm của đời sống văn học.
Bên cạnh đó, tác phẩm cũng là cơ sở của mối quan hệ giữa tác giả với cuộc sống
và bạn đọc. Tác phẩm văn học có thể là một bài ca dao, một trường ca, một
truyện thơ có thể là một vở kịch, một truyện ngắn, một bút kí… hoặc một bộ
tiểu thuyết như Chiến tranh và hòa bình của L.Tônxtôi hay bộ Tấn trò đời của
H. Ban dắc… Trong cuốn Từ điển thuận ngữ văn học, khái niệm tác phẩm văn
học đã được tường giải: “Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do
một cá nhân hoặc một tập thể sáng tạo. Tác phẩm văn học có thể tồn tạo dưới
hình thức truyền miệng hay hình thức văn bản nghệ thuật được ghi giữ qua văn
tự có thể được viết bằng văn vần hay văn xuôi. Đó là một thực tế hoàn chỉnh
thống nhất của các yếu tố nội dung và hình thức vừa có khả năng phản ánh hiện
thực cuộc sống vừa có thể biểu hiện thế giới tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của
người viết; nó được sáng tạo theo quy luật thẩm mĩ và ít nhiều đều có ý nghĩa xã
hội nhất định” [1, 142].
1.1.2. Nội dung của tác phẩm văn học
Nội dung của tác phẩm văn học là sự bắt nguồn vững chắc từ mối quan hệ
một thiết giữa văn học và đời sống hiện thực. Nó bao gồm cả nhân tố khách
quan của đời sống và nhân tố chủ quan của nhà văn. Có thể nói nội dung của tác
phẩm là toàn bộ những hiện tượng thẩm mĩ độc đáo, được phản ánh bằng hình
tượng thông qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ, tức là tiếng
nói riêng của nhà văn bao gồm những cảm xúc tâm trạng, lý tưởng, khát vọng
của tác giả về hiện thực đó. Qua tác phẩm văn học bao giờ cũng là một đời sống
khiến độc giả nhớ tới một hiện thực nào đó. Tuy nhiên, nội dung của tác phẩm

văn học không phải là số cộng đơn giản của hai phương diện khách quan và chủ
9


quan mà là một quan hệ biện chứng xuyên thấm lẫn nhau của chúng. Xuyên qua
nội dung cụ thể của các tác phẩm ở một cấp độ cao hơn, sâu hơn là nội dung tư
tưởng (nội dung khái quát). Đó chính là sự khái quát những gì đã trình bày trong
nội dung cụ thể thành những vấn đề của đời sống và giải quyết những vấn đề ấy
theo một khuynh hướng tư tưởng nhất định. Thông thường người ta cũng ít khi
đồng nhất nội dung tác phẩm với nội dung của đối tượng khách quan mà tác
phẩm phản ánh. Biến việc phân tích nội dung tác phẩm thành việc phân tích một
đối tượng nằm ngoài tác phẩm. Trong trường hợp ngược lại thì người ta rút gọn
nội dung tác phẩm vào tư tưởng, đạo lý, dụng ý của tác giả biến tác phẩm thành
minh họa cho một tư tưởng có sẵn trừu tượng. Tìm hiểu cội nguồn nội dung của
tác phẩm là cần thiết nhưng các cách làm như trên thường làm nghèo hoặc đi xa
nội dung tác phẩm. Một câu hỏi được đặt ra đó là “phải chăng cốt truyện, nhân
vật, chúng là nội dung tác phẩm?”. Đó chỉ là nội dung theo quan điểm “hiện
thực ngây thơ”. Nội dung đích thực của văn học là cuộc sống được lí giải, đánh
giá, ước mơ, là nhận thức và lí tưởng,nỗi niềm đã hóa thành máu thịt hiển hiện,
chứ không phải khái niệm về hiện thực hay khái niệm về lí tưởng và tình cảm.
Khi nói đến nội dung của tác phẩm, Sec-nư-xep-ki không chỉ nhấn mạnh
đến việc “tái hiện các hiện tượng, hiện mà con người quan tâm mà cần nhấn
mạnh đến việc giải thích cuộc sống”, đề xuất sự phán xét đối với các hiện tượng
được miêu tả. Theo ông việc thể hiện sự phán xét đối với các hiện tượng được
miêu tả trong tác phẩm là một ý nghĩa mới của tác phẩm nghệ thuật, nhờ đó
nghệ thuật đứng vào hàng các hoạt động tư tưởng, đạo đức của con người. Như
vậy, nội dung của tác phẩm không phải giản đơn là các hiện thực được miêu tả
hoặc ý nghĩ trừu tượng của nhà văn, mà là một mối quan hệ mật thiết chủ quan.
Đó là cái nội dung toàn vẹn phong phú, nhiều bình diện độc đáo của nghệ thuật,
đòi hỏi phải thể hiện qua hình thức nghệ thuật chứ không thể thông báo bằng lời.

Chính nội dung đó đòi hỏi văn học nghệ thuật phải tạo ra các hình thức chủ thể
như người trần thuật, nhân vật, cái nhìn, giọng điệu… xây dựng thành công các
loại nhân vật là điều kiện để thể hiện nội dung đặc thù của tác phẩm văn học vì
đó là hình thức mang quan hệ đời sống - tác giả, tác giả - bạn đọc.
10


1.1.3. Hình thức của tác phẩm văn học
Chu Mạnh Trinh khi nhận xét về Truyện Kiều đã cho rằng: nếu như tác giả
không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì
không thể có cái bút lực ấy. Có thể coi con mắt trông thấy cả sáu cõi và tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời chính là vấn đề của nội dung còn cái bút lực lại là một
trong những vấn đề thuộc hình thức của tác phẩm. Hình thức của tác phẩm chính
là sự biểu hiện của nội dung, là một hệ thống các phương tiện và phương thức
thể hiện nội dung tác phẩm. Nhà thơ người Đức là Gớt đã có một nhận định vô
cùng thâm thúy rằng: “Chất liệu của nghệ thuật thì ai cũng thấy, nội dung của
nó thì chỉ những ai có chung với nó mới thấy được, còn hình thức thì vẫn là bí
ẩn với phần đông”.
Hình thức của tác phẩm văn học mang tính cụ thể thẩm mĩ và không lặp lại.
Cụ thể như ở thể lục bát mà nói thì lục bát của Nguyễn Du, của ca dao, của
Nguyễn Bính hay của Tố Hữu đều không giống nhau, ngay trong sáng tác cùng
một thể loại, cùng một tác giả cũng không giống nhau. Cùng là sáng tác của Tố
Hữu với thể lục bát nhưng ở tác phẩm Bà bủ đầy vẻ dân dã, thô mộc, tác phẩm
việt bắc thì ngôn ngữ đã được chải chuốt đến mức tuyệt đỉnh của sự êm ái véo
vắt và hài hòa nhưng không làm mất vẻ hồn hậu của tiếng hát đồng quê. Ngoài
ra trên một phương diện nhất định thì cốt truyện cũng là một yếu tố tạo nên hình
thức của tác phẩm. Cũng giống thể loại mỗi cốt truyện cũng có tính đặc trưng
khác nhau. Ví như cốt truyện trong tiểu thuyết bằng thơ Espghêni Ônêghin của
Puskin là sự tự do, lỏng lẻo, còn cốt truyện trong nhóm truyện Benkin cũng của
Puskin lại rất chặt chẽ, mà mỗi tác phẩm đều có cái hay riêng. So sánh về hình

thức cốt truyện trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyễn
Hồng… trước Cách mạng tháng Tám ta cũng thấy sự khác biệt rõ rệt. Từ những
ví dụ đó cho thấy rằng hình thức của tác phẩm không phải là chất liệu, không
phải là thủ pháp trừu tượng, hình thức tác phẩm bao giờ cũng là hiện tượng nghệ
thuật sinh động, độc đáo gắn liền với nội dung cụ thể.
Hình thức mang nội dung chính là khái niệm chỉ hình thức như là phương
thức hình thành xuất hiện của một nội dung nhất định. Hình thức có trong toàn
11


tác phẩm cũng như nội dung biểu hiện trong toàn tác phẩm.Hình thức không chỉ
có trong ngôn ngữ, kết cấu cốt truyện, và những yếu tố thường coi là thuộc về
hình thức mà hình thức còn có cả trong nhân vật.Và hình thức nhân vật trong
truyện cổ tích sẽ khác hình thức nhân vật trong văn học Việt Nam. Hình thức
nhân vật tự sự, thơ, kịch, đều không giống nhau…
Tóm lại, hình thức tồn tại trong toàn tác phẩm như là tính xác định của nội
dung, sự biểu hiện của nội dung. Hình thức tác phẩm không phải là tổng cộng
các mặt của hình thức của các lớp mà là một hệ thống hình thức chỉnh thể, trong
đó chẳng những có sự thống nhất hình thức với nội dung mà còn có sự thống
nhất, quy định giữ các mặt hình thức. Sự thống nhất nhất đó tạo nên giá trị thẩm
mĩ trọn vẹn của tác phẩm văn học.
1.1.4 . Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học
Nội dung và hình thức vốn là một phạm trù triết học có liên quan đến mọi
hiện tượng trong đời sống. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung
nhất định và nội dung bao giờ cũng là một nội dung được thể hiện qua một hình
thức. Không thể có cái này mà không có cái kia và ngược lại. Tác phẩm nghệ
thuật là một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm có giá trị thì nội
dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Biêlinxkin cũng
cho rằng một tác phẩm nghệ thuật có giá trị là một tác phẩm mà nội dung và
hình thức phải có sự hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể xác,

nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng
vậy. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được biểu hiện ở hai mặt đó là,
nội dung quyết định hình thức và hình thức phải phù hợp với nội dung.
Trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức, nội dung luôn đóng vai
trò chủ đạo. Nó là cái có trước, thông qua ý thức năng động và tính tích cực chủ
quan của người nghệ sĩ, cố gắng tìm một hình thức phù hợp nhất đê bộc lộ một
cách đầy đủ, hấp dẫn nhất bản chất của nó.
1.2. Nguyễn Tuân - ngƣời nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp
Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910, quê làng Mộc, tức Nhân Mục, nay
thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Sinh tại Hà Nội, trong
12


một gia đình nhà nho. Bố là một ông ấm, đỗ Tú tài khoa thi chữ Hán cuối cùng,
sau làm kí lục, đã sống ở nhiều nơi; mẹ bán hàng tạp hóa. Khi còn ít tuổi ông
cùng gia đình theo bố sống ở nhiều tỉnh miền Trung đặc biệt các tỉnh Khánh
Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và ở lâu hơn cả là Thanh Hóa.
Nguyễn Tuân học thành chung ở thành phố Nam Định, ông tham gia bãi khóa,
bị đuổi học. Ông lại cùng một số thanh niên có đầu óc tiến bộ lúc đó, rủ nhau
trốn ra nước ngoài, nhưng bị bắt ở Băng Cốc - Thái Lan, bị kết án giam và quản
thúc ở Thanh Hóa. Ông còn bị chính quyền thuộc địa bắt lần thứ hai tại Hà Nội
và bị giam ở Nam Định vào năm 1941. Có thời kỳ ông làm ở nhà máy đèn
Thanh Hóa. Thời gian này Nguyễn Tuân bắt đầu viết báo, viết văn, làm phóng
viên báo Đông Tây. Hết hạn quản thúc, ông ra Hà Nội sống bằng nghề làm báo,
làm văn. Đã viết trên các báo Đông Tây, Nhật Tân, Hà thành ngọ báo, Tiểu
thuyết thứ bảy, Hà Nội tân văn, Tao đàn, Thanh nghị, Trung Bắc chủ nhật...
Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa Nguyễn Tuân đến với những trang
viết mới. Ông hân hoan chào đón cuộc đổi đời của lịch sử và chân thành đứng
vào hàng ngũ cách mạng. Năm 1946 ông cùng đoàn Văn nghệ sĩ vào công tác
khu V (Trung Bộ) đang kháng chiến; 1947 phụ trách một đoàn kịch lưu động.

Trong Đại hội thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam (1948) ở Việt Bắc, ông được
bầu làm Tổng thư kí ban chấp hành Hội và giữ chức vụ này đến 1958. Thời gian
kháng chiến chống Pháp, ông công tác ở Hội Văn nghệ đóng ở Việt Bắc; đã
tham gia nhiều chiến dịch và có chuyến đi thực tế trong vùng hậu dịch. Từ 1958,
là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Nguyễn Tuân hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực: Viết văn, làm báo, diễn
kịch… ở lĩnh vực nào ông cũng say sưa thể hiện cái “tôi” của mình. Trong số các
nhà văn đã từng đi qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế
quốc Mỹ, Nguyễn Tuân là người đến với cách mạng khá sớm. Ông mất ngày 28-71987 tại Hà Nội. Với những đóng góp cho nền văn học nghệ thuật nước nhà, ông
được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng
yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những văn hóa cổ truyền của
13


dân tộc. Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học. Đặc biệt ông yêu tha thiết tiếng
mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương,
Tản Đà…, Những nhạc điệu hoặc đài các của lối hát ca trù, hoặc dân dã mà thiết
tha của giọng hà Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ… những phong cảnh đẹp của
quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa,
chơi chữ đẹp, đánh thơ… những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế
của người Việt.
Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết
để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Vì rất mực đề cao và giữ gìn nhân cách
của kẻ sĩ, nên ông rất căm ghét những thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa.
Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Ông còn là một diễn viên kịch nói và
là một trong những diễn viên điện ảnh đầu tiên của nước ta. Ông thường vận
dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng
quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương. Thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân
là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật.

Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối
lập với tính vụ lợi của con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không
thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc và ông
đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ để chứng minh cho quan niệm
ấy.Trên con đường đi tới cái đẹp chân chính, đích thực Nguyễn Tuân là con người
có nhiều tìm tòi và phát hiện mới mẻ, đạt tới những giá trị thẩm mĩ thật sự. Chẳng
hạn cái giọng khinh bạc của Nguyễn Tuân đã được phát huy trên lập trường mới, là
vũ khí lợi hại đánh vào kẻ thù của dân tộc và của chủ nghĩa xã hội.
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm
đầu tay. Ông đã “thử bút” với nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực
trào phúng… Nhưng mãi đến năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và
thành công xuất sắc với thể loại tùy bút. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân
được chia làm hai giai đoạn chính: trước và sau Cách mạng tháng Tám.Những
tác phẩm chính trước Cách mạng tháng Tám: Vang bóng một thời (1940), Tuỳ
14


bút I (1941), Thiếu quê hương (1943), Nhà Bác Nguyễn (1940), Một chuyến đi
(1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Tàn đèn đầu
lạc (1941), Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943), Nguyễn (1945)… Và sau
Cách mạng tháng Tám, ông bắt đầu bằng Chùa Đàn, rồi được khẳng định là nhà
văn có sự chuyển biến rõ rệt về tư tưởng với một số tác phẩm như: Chùa Đàn
(1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1953), Tùy bút
kháng chiến (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), Bút ký Trung Hoa
(1955), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976)…
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân xuất hiện trong văn học như
cây bút văn xuôi đầy tài năng, tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn thời kỳ
cuối (1940-1945). Hầu hết sáng tác của ông - chủ yếu là tùy bút, truyện ngắn đều tập trung làm nổi bật cái “tôi” tài hoa, độc đáo, bất hòa sâu sắc với trật tự
ngột ngạt đương thời. Đó cũng chỉ là sự thoát ly vào cái đẹp của một thời đã

qua, vào “chủ nghĩa xê dịch” và vào cuộc sống hành lạc ở nhà hát, thuốc phiện;
song ông thoát ly mà vẫn giàu lòng ưu ái không nguôi vào thời thế, vẫn gắn bó
sâu nặng với cuộc đời, với quê hương đất nước. Nhưng bằng sự nổ lực của bản
thân, Nguyễn Tuân đã khẳng định tài năng bằng phong cách nghệ thuật độc
đáo và tên tuổi của ông đã tỏa sáng cho đến ngày nay. Nguyễn Tuân chỉ thật sự
công nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ tùy bút - du ký Một
chuyến đi (1938).
Ngoài truyện ký, Nguyễn Tuân còn có những tùy bút tinh tế về cỏ cây
quê hương, món ăn dân tộc, thể hiện một tấm lòng trân trọng gắn bó sâu nặng
với cảnh sắc, hương vị đất nước, với vẻ đẹp trong sinh hoạt văn hóa cổ truyền:
Phở, Cây Hà Nội, Cốm, Giò lụa, Tờ hoa, Tình rừng... được tập hợp trong cuốn
Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988). Ông cũng viết tiểu luận phê bình và
dựng chân dung văn học: Ông viết về tiếng Việt giàu và đẹp, về Truyện Kiều, về
Tú Xương, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy
Tưởng, Thạch Lam, về Đôxtôiepxki, Sêkhôp, Lỗ Tấn…
Với gần năm mươi năm hoạt động văn học liên tục, Nguyễn Tuân có một vị trí
quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Con đường nghệ thuật của Nguyễn
15


Tuân cũng có ý nghĩa điển hình cho một lớp văn nghệ sĩ Việt Nam có tinh thần dân
tộc nhưng mang nặng quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, đã chuyển mình trở
thành văn nghệ sĩ cách mạng. Một tinh thần dân tộc thiết tha, nhất là đối với những
giá trị văn hóa cổ truyền, quán xuyến toàn bộ sáng tác của Nguyễn Tuân. Có lẽ
trong những trang viết của Nguyễn Tuân, đằng sau những ngoa ngắt và khinh bạc
của một thời tù túng, bế tắc, là niềm khao khát cái đẹp và cái thật, khát khao tự do
và sáng tạo, với sức mạnh muốn phá hết mọi ràng buộc, khuôn phép có sẵn. Văn
Nguyễn Tuân vừa có màu sắc cổ điển vừa mới mẻ, hiện đại. Với một phong cách
nghệ thuật độc đáo, một trình độ sử dụng tiếng Việt bậc thầy, Nguyễn Tuân có
đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

1.3. Thể loại truyện ngắn và tập truyện Vang bóng một thời
1.3.1. Thể loại truyện ngắn
Đặc trưng của từng thể loại văn học và sự tác động qua lại, mối quan hệ
giữa các thể loại trong tiến trình phát triển của văn học là những vấn đề cơ bản
của lí luận văn học. Trong đó, một thể loại được coi là “xung kích” của đời sống
văn học, có tính chất là “thuốc thử” đối với hầu hết các nhà văn trên con đường
sáng tạo nghệ thuật đầy cam go… đó chính là truyện ngắn.
Ở phương Tây (Âu, Mỹ), thể loại truyện ngắn xuất hiện tương đối muộn so
với các thể loại khác. Nó xuất hiện trên một tạp chí xuất bản hàng đầu thế kỉ
XIX, phát triển lên đến đỉnh cao nhờ những sáng tác của văn hào E.T.A
Hoffmann và Anton Chekhov, sau đó trở thành một hình thức nghệ thuật lớn của
văn học thế kỉ XX. Còn ở Trung Quốc và Nhật Bản trước đây người ta vẫn coi
truyện ngắn thuộc thể loại tiểu thuyết, được gọi là “tiểu thuyết đoản thiên” để
phân biệt với tiểu thuyết chương hồi dài tập hay “tiểu thuyết trường thiên”.
Ở Việt Nam, truyện ngắn đầu tiên là Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỉ XX. Đây
cũng là truyện ngắn đầu tiên theo lối Tây phương của văn học Việt Nam. Sau này
Phạm Duy Tốn không viết truyện ngắn nữa nhưng trên văn đàn văn học Việt Nam
hiện đại đã xuất hiện nhiều nhà văn có tài và có duyên với thể loại văn học mới mẻ
này như: Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…
16


Truyện ngắn thường là những câu chuyện kể bằng văn xuôi và có xu
hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu chuyện dài như tiểu thuyết.
Theo sách giáo khoa chính thống hiện nay, truyện ngắn được định nghĩa là tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện
của đời sống như: đời tư,thế sự hay sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn
gọn bởi truyện ngắn được viết ra để đọc liền mạch. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn
chưa phải là đặc điểm chủ yếu để phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự
loại khác (vì các loại truyện dân gian cũng có độ dài tương đương với truyện

ngắn). Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy
đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện
tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn
của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức
tạp. Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện
ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Nhân vật của truyện ngắn thường là một
hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại
của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian và
không gian hạn chế. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều
tuyến mà thường xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Truyện
ngắn được coi như những viên đa sinh tố, một truyện ngắn hay có thể cung cấp
cho độc giả cả nhận thức cũng như niềm vui mãnh liệt không kém gì tiểu thuyết
nhưng lại mất ít thời gian tiêu hóa hơn. Đọc một truyện ngắn có thể chỉ mất
mười lăm phút nhưng khả năng thuyết phục của nó thì rất rõ. Và đó cũng chính
là điều mà độc giả vô cùng kì vọng vào truyện ngắn. Và truyện ngắn có thể trở
thành một “quả bom” nghệ thuật với những hiệu ứng tức thời.
1.3.2. Tập truyện Vang bóng một thời
1.3.2.1. Ý nghĩa nhan đề
Khi nghe cái tên Vang bóng một thời có lẽ người đọc sẽ hiểu rằng đây là
những câu chuyện, những hình ảnh xưa mà nó chỉ vang lên trong một thời gian
ngắn và nay người ta không còn nhớ đến nữa. Nhưng vốn là người yêu cái đẹp,
trân trọng và than tiếc những cái đã qua, Nguyễn Tuân cố sức làm sống lại cả
17


một thời xưa cũ, một thời gần chúng ta quá, nhưng đối với chúng ta như xa lạ vì
không ai gợi lại những vẻ đẹp ấy cả. Có lẽ, Nguyễn Tuân là người đầu tiên làm
việc ấy. Tập Vang bóng một thời như tên gọi của nó, chỉ là sự vang bóng những
dấu vết của một thời tác giả ghi lại trên trang giấy. Trong hơn mười truyện ngắn,
ấy là cuộc đời cũ cách không đầy mười năm, hiện ra là những công việc và hành

vi mà tác giả tìm tòi phô diễn hết cái có ý nghĩa và cái nên thơ. Những nhân vật
trong truyện với các quan niệm, khác với quan niệm của chúng ta ngày nay,
những công việc những vui chơi cũng khác ngày nay. Tất cả những cảnh sinh
hoạt đó được nhà văn ghi lại với một thái độ trân trọng, ông đã làm sống lại cả
một dĩ vãng thắm đỏ và người đọc có cảm giác như đang hồi tưởng về “thời vàng
son” của quá khứ. Như nhan đề của quyển sách, Vang bóng một thời là tập truyện
ngắn được tác giả ghi lại những cảnh xưa có tính cách đặc Việt Nam. “Cái tiếng
vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua mà ngày nay người ta cứ tưởng
như còn văng vẳng bên tai” [10, 25]. Cả Vang bóng một thời, cái tên tạo cho ta
nhiều sức gợi, sức liên tưởng mạnh mẽ. Tập truyện làm sống lại một thời phong
kiến đã qua với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống, sinh hoạt xã hội
nho phong của một nền văn minh xưa cũ, nó cũng là niềm nuối tiếc của một tâm
hồn hoài cổ trước những cái hay, cái đẹp, những nghệ thuật cầu kỳ của một thời
đại đã qua. Tất cả là những cái đẹp của một thời vang bóng, cảm tưởng của người
đọc khi gấp sách lại là ngậm ngùi, nuối tiếc một cái gì đã mất hút vào xa xưa.
1.3.2.2. Hoàn cảnh sáng tác
Tập truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1940, không khí xã hội
bấy giờ rất ngột ngạt, u uất, bế tắc. Trong những năm này, nhà văn đâu dễ tìm
cái đẹp chân chính. Vây bủa xung quanh người nghệ sĩ toàn những chuyện xấu
xa, lừa lọc. Khó lòng mà tìm kiếm được cái đẹp trong một cái xã hội “ối a ba
phèng”. Dưới một chế độ nghẹt thở, luôn luôn xảy ra đàn áp khủng bố, một số
nhà văn lãng mạn trong lúc chưa tìm thấy ánh sáng của cách mạng đã cảm thấy
cô đơn, bất lực trước cuộc đời. Không chịu đựng nỗi cái buổi “Tây tàu nhố
nhăng” có những tên thực dân tàn bạo, Nguyễn Tuân đã đi tìm cái đẹp trong đời
sống xã hội và văn hóa cổ truyền của dân tộc, ông đã tìm nguồn an ủi trong vẻ
18


đẹp truyền thống. Mặc dù ra đời trong không khí ngột ngạt như thế nhưng Vang
bóng một thời có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nói về hoàn cảnh sáng tác của tập

truyện, để thấy rằng Vang bóng một thời ra đời trong thời điểm rất đặc biệt, đó là
buổi giao thời giữa xã hội cũ và xã hội mới. Sống trong xã hội có sự phân hóa rõ
rệt như thế, đại bộ phận trí thức chưa tìm được lối đi cho mình, phần lớn họ đã
rơi vào bế tắc. Nguyễn Huy Tưởng từng thổ lộ: “phận sự một người như tôi,
muốn thể hiện lòng yêu nước cũng chỉ bằng cách viết văn mà thôi” [20, 414].
Nguyễn Tuân cũng vậy, ông cũng không thể chấp nhận thực tại đen tối và để
chống lại trật tự xã hội đầy bất công ấy, ông chỉ còn cách đi tìm những vẻ đẹp
còn lưu giữ trong vốn văn hóa mà ông cha để lại, thông qua những sinh hoạt
hàng ngày của họ như uống trà, thả thơ, chơi hoa,… Tập truyện Vang bóng một
thời như một sợi dây níu giữ những ai chạy theo cuộc sống kiếm tiền mà đã
quên đi cội nguồn dân tộc. Tác phẩm không chỉ ca ngợi cái đẹp mà thấp thoáng
đâu đó là tấm lòng yêu nước, thiết tha với dân tộc của tác giả. Nhà văn đã tìm
cái đẹp trong quá khứ, đó cũng là tìm lại cái đẹp chính trong tâm tưởng mình. Vì
thế mà cho tới bây giờ người ta vẫn không ngừng nâng niu và ngắm nghía.
Tiểu kết
Đời sống văn học bao gồm nhiều chỉnh thể: Tác phẩm, tác giả, trào lưu,…
trong đó, tác phẩm văn học chính là nhân tố trung tâm của đời sống văn học và
là đơn vị cơ bản, trực tiếp của người sáng tác, nghiên cứu, phê bình, thưởng
thức. Vì thế, mọi vấn đề cơ bản của văn học đều tập trung trước hết ở tác phẩm.
Có thể coi tác phẩm như một chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học. Tính
chỉnh thể này được xem xét chủ yếu trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức của tác phẩm. Nội dung và hình thức chiếm một vị trí hết sức quan trọng
trong các vấn đề của lí luận văn học, bởi nó gắn liền với bản chất, chức năng của
văn học đối với đời sống, gắn với quy luật phát triển của văn học. Đối với mỗi
tác phẩm văn học, nội dung và hình thức là phạm vi chủ yếu để thể hiện giá trị
tư tưởng và nghệ thuật của chúng.

19



Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân xứng đáng là nhà
văn ở tầm cỡ lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác
đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Nguyễn Tuân chọn cho mình một phong cách
không lẫn với nhà văn nào khác được. Vang bóng một thời là tác phẩm đầu của
ông gần như đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ. Tập truyện làm sống lại cả một thời
phong kiến đã qua với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống sinh hoạt
nho phong của một nền văn minh xưa cũ, nó là niềm tiếc nuối của một tâm hồn
hoài cổ trước những cái hay, cái đẹp, những nghệ thuật cầu kì của một thời đã
qua, cái thời ấy nay đã chết rồi, chỉ còn để lại một tiếng vang mà thôi…

20


×