Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG, KHUNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.18 KB, 86 trang )

1

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KIM THỊ TUYÊN
372129
NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI CỦA DOANH
NGHIỆP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG,
KHUNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ

Chuyên ngành: Luật Thương mại Quốc tế
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học
Thạc sĩ Nguyễn Thị Anh Thơ

Hà Nội - 2016
Lời cam đoan và ô xác nhận của giảng viên hướng dẫn


2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, cáckết luận, số liệu trong khóa luận tốt
nghiệp là trung thực, đảm bảođộ tin cậy./.
Xác nhận của
giảng viên hướng dẫn


Tác giả khóa luận tốt nghiệp
(Ký và ghi rõ họ tên)


3

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới ThS. Nguyễn Thị Anh
Thơ – người Thầy đã chỉ bảo, hương dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt thời
gian thực hiện và hoàn thiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Pháp luật
Thương mại Quốc tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Pháp luật Giải
quyết tranh chấp và bạn bè vì sự ủng hộ và những ý kiến đóng góp quý báu giúp tôi
hoàn thành khóa luận
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các thành viên trong gia đình đã động viên, ủng
hộ, chia sẻ và là chô dựa tinh thần giúp tôi tập trung nghiên cứu và hoàn thành
khóa luận của mình.


4

Danh mục các từ viết tắt
BLDS
LTM
NQTM
SHTT
VBQPPL
WTO


: Bộ luật Dân sự
: Luật Thương mại
: Nhượng quyền thương mại
: Sở hữu trí tuệ
: Văn bản quy phạm pháp luật
: Tổ chức Thương mại thế giới (World
Trade Orgnization)

MỤC LỤC
Trang phụ bìa.....................................................................................................i


5
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh hiệu quả, ngày
càng được mở rộng, phát triển trên phạm vi toàn cầu. Sự xuất hiện của phương thức
kinh doanh này đã tạo ra cuộc cách mạng trong phân phối hàng hóa/dịch vụ và làm
thay đổi nền kinh tế của nhiều quốc gia. Đây cũng là chiến lược rất quan
trọng đối với các nước đang phát triển bởi việc chuyển giao hệ thống kinh doanh uy
tín, việc đào tạo và hỗ trợ tiếp theo của bên nhượng quyền khuyến khích doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ban hành
các quy định pháp luật riêng biệt để điều chỉnh hoạt động NQTM. Kể từ ngày
11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Những cam kết mở cửa thị trường và việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật đã tạo điều kiện cho hoạt động NQTM tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Đồng
thời thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt
Nam thông qua phương thức NQTM. Có thể kể tới hàng loạt các thương hiệu từ
nước ngoài đã thâm nhập và phát triển nhanh chóng ở Việt Nam trong thời gian qua

bằng phương thức này như: Lotteria, Kentucky, Gloria Jean’s Coffee, The Body
Shop…
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã xây dựng và hoàn
thiện các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM nói chung và hoạt động
NQTM của nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi các
quy định này đã cho thấy nhiều hạn chế, bất cập gây khó khăn cho quá trình tiến
hành hoạt động nhượng quyền của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Do
đó, cần phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời các quy định pháp luật điều chỉnh
hoạt động NQTM để từ đó tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các doanh
nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thông qua hình thức NTQM.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nhượng quyền thương mại
của Doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng, khung pháp luật và một vài
khuyến nghị” để nghiên cứu và hoàn thiện khóa luật tốt nghiệp. Với đề tài trên, khóa
luận tập trung nghiên cứu thực trạng các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện NQTM
tại Việt Nam, cũng như những bất cập trong các quy định pháp luật Việt Nam điều
chỉnh hoạt động NQTM của doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam. Trên cơ sở đó,
đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật NQTM, đáp


6
ứng yêu cầu phát triển hoạt động thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về NQTM nói chung và pháp luật NQTM điều chỉnh hoạt động
NQTM của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam nói riêng là một nội dung quan
trọng của pháp của pháp luật thương mại đã và đang được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Ở các phạm vi và mức độ khác nhau, nhiều công trình nghiên cứu
khoa học và bài viết đã được công bố, đề cập tới các vấn đề pháp lý và kinh tế của
hoạt động NQTM của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.

Ở cấp độ luận án có thể kể tới luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Đặng
Hải Yến với đề tài: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh
nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (Đại học Luật
Hà Nội-2008).
Nghiên cứu về Nhượng quyền thương mại ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học
là các công trình: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại
tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Minh Huệ (Trường Đại học Luật Hà Nội –
2005); “Nhượng quyền thương mại (franchise)-Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn
Việt Nam” của tác giả Hoàng Thu Thủy (Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội
– 2009); “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền
thương mại của nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trịnh Thị
Ngọc Lan (Trường Đại học Luật Hà Nội – 2014)…
Ngoài ra có thể kể tới các bài viết tiếp cận NQTM dưới các góc độ khác nhau
trên các tạp chí như bài: “Ảnh hưởng của pháp luật nhượng quyền thươn mại đối
với sự phát triển của nhượng quyền thương mại ở Việt Nam” của Tiến
sĩ luật Nguyễn Bá Bình - Giảng viên Đại học Luật Hà Nội.; GS., Andrew Terry Trường Luật kinh doanh, Khoa Kinh doanh, Đại học Sydney, Úc trên tạp chí Nhà
nước và pháp luật; “Nhượng quyền thương mại – Bản chất và mối quan hệ với hoạt
động chuyển giao công nghệ, hoạt động Li-xăng” của TS.Nguyễn Bá Bình trên tạp
chí Nghiên cứu lập pháp; “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ luật cạnh tranh”
của tác giả Nguyễn Thanh Tú trên tạp chí nghiên cứu lập pháp; …
Có thể nói, những công trình nghiên cứu trên đây đều liên quan đến đề tài
nghiên cứu của khóa luận và tôi có thể kế thừa các kết quả nghiên cứu này trong
việc giải quyết nội dung đề tài khóa luận. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập
trung nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và chi tiết về thực trạng pháp luật
điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại


7
Việt Nam. Chính vì vậy, ở khóa luận này, tác giả sẽ phân tích các quy định pháp luật
hiện hành của Việt Nam về nhượng quyền thương mại, từ đó phát hiện ra một số bất

cập và nêu ra hướng khắc phục, hoàn thiện.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của khóa luận là tập trung làm rõ thực trạng NQTM của doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, khung pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động này,
trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
NQTM của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ giải
quyết những vấn đề cơ bản sau:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về NQTM và pháp luật điều
-

chỉnh hoạt động NQTM của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Phân tích nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM của
doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, đánh giá những ưu điểm và hạn chế
của pháp luật hiện hành về NQTM của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt

-

Nam.
Nêu lên được thực trạng các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện hoạt động

-

nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh hoạt động

nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: thực trạng NQTM của doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam và khung pháp luật điều chỉnh hoạt động này, các văn bản
pháp luật thực định của Việt Nam về NQTM của doanh nghiệp nước ngoài; thực
tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
(i) Những quy định pháp luật về Bản giới thiệu Nhượng quyền thương mại
(ii) Những quy định pháp luật về Quyền và Nghĩa vụ của Bên nhượng quyền và
Bên nhận quyền.
(iii)Những quy định pháp luật về đăng ký NQTM của doanh nghiệp nước ngoài
tại Việt Nam.
(iv) Những quy định của pháp luật về hoạt động NQTM của doanh nghiệp nước
ngoài tại Việt Nam trong mối quan hệ với pháp luật sở hữu trí tuệ
(v) Những quy định của pháp luật về hoạt động NQTM của doanh nghiệp nước
ngoài tại Việt Nam trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh


8
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành được sử dụng như phương
pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp, kết hợp nghiên cứu lí luận
với thực tiễn để hoàn thành khóa luận.

6. Kết quả nghiên cứu đề tài
Khóa luận đã đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất, trình bày và phân tích được các vấn đề lý luận về nhượng quyền
thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng như pháp luật điều
chỉnh hoạt động này; xác định rõ mối quan hệ giữa pháp luật điều chỉnh nhượng
quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam với các chế định pháp
luật khác như pháp luật sở hữu trí tuệ, pháp luật cạnh tranh. Từ đó đánh giá sự cần

thiết phải có những quy định cụ thể và gắn bó mật thiết, bổ trợ giữa các chế định
pháp luật kể trên với pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của
doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam nhằm tạo ra hệ thống pháp luật nhượng
quyền thương mại đầy đủ và toàn diện.
Thứ hai, phân tích và làm sáng tỏ những bất cập của pháp luật hiện hành điều
chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ ba, nêu được thực trạng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ tư, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.

7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, khóa luận được cơ cấu thành 03 chương với
các nội dung cụ thể sau:
Chương I. Tổng quan về hoạt động nhượng quyền thương mại
Chương II. Khung pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại
của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Chương III. Thực trạng về hoạt động nhượng quyền thương mại của Doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam và một số khuyến nghị về hoàn thiện khung
pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của Doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam.


9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

1.1.

Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền

thương mại
Trên thế giới, người ta đã từng nói nhiều đến franchise - nhượng quyền
thương mại - với tư cách là một phương thức kinh doanh hiệu quả và sinh lợi cao.
Có người cho rằng hoạt động NQTM đầu tiên là các thỏa thuận tài chính và cho
phép bán sản phẩm bia tại các xưởng sản xuất bia và rượu ở Đức và ở Anh từ trước
thế kỷ XVIII. Các học giả khác thì lại khẳng định NQTM xuất hiện lần đầu tiên khi
Nữ hoàng I-da-ben-la của Tây Ban Nha cho phép Cri-xtop Cô-lông tìm đường tới
phương Đông.1 Tuy nhiên, hoạt động NQTM được chính thức thừa nhận khởi
nguồn và phát triển tại Mỹ vào giữa thế kỷ XIX (năm 1851) khi mà Nhà máy Singer
(sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng NQTM đầu tiên với đối tác của mình. Singer
đã áp dụng phương thức thu phí bản quyền sáng chế của những đại lý muốn bán sản
phẩm của ông trong những khu vực địa lý nhất định. Sau đó chính những đại lý này
sẽ phải có trách nhiệm hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng máy khâu. 2 Đây là giải
pháp mang lại nhiều lợi ích, nó giúp Singer vừa có thể thu phí bản quyền sáng chế,
đồng thời có thể sử dụng tiền thu được để sản xuất máy khâu và xuất thẳng đến các
đại lý bán buôn của mình. Ý tưởng kinh doanh đầy thông minh với nhiều lợi ích của
Singer đã thu hút được sự chú ý, sau đó đã có nhiều công ty vận dụng, phát triển
phương thức kinh doanh này. Nhưng đó mới chỉ là bước tiến ban đầu làm nền móng
cho sự phát triển của NQTM về sau.
Từ những năm 50-60 của thế kỷ XX trở đi, khi NQTM không chỉ dừng lại ở
nhượng quyền phân phối sản phẩm mà đã phát triển thành nhượng quyền công thức
kinh doanh thì nó thực sự phát triển mạnh mẽ. NQTM trở thành phương thức kinh
doanh thịnh hành, thành công không chỉ tại Mỹ mà còn ở những nước phát triển
khác như Anh, Pháp... Theo số liệu của phòng thương mại Mỹ thì từ năm 1974 đến
năm 2005 trung bình chỉ có 5% số doanh nghiệp hình thành theo mô hình nhượng
quyền kinh doanh tại Mỹ là thất bại, trong khi con số này là 30-65% cho các doanh
1 Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”, NXB Công an nhân dân, tr.
949
2 Trần Thu Hiền (2005), “Tìm hiểu về phương thức kinh doanh Franchise (nhượng quyền thương mại) trên
thế giới và thực trạng áp dụng tại Việt Nam”, Đại học Ngoại thương, Hà Nội.



10
nghiệp không theo mô hình nhượng quyền. 3 Sự phát triển của hình thức kinh doanh
này còn thể hiện ở ngay việc trong năm 2005 có tới 12/52 tiểu bang của Mỹ đều có
luật bắt buộc bất kỳ công ty nào muốn tham gia vào thị trường chứng khoán đều
phải có đăng ký nhượng quyền. Đó là bang California, Illinois, Indiana, Maryland,
Minnesota, New York, North Dakota, Rhode Island, South Dakota, Virginia,
Wisconsin và Washington.4 Một trong những hệ thống NQTM nổi tiếng lúc đó là
McDonal’s thành lập năm 1955, chỉ sau hơn 10 năm phát triển, đến năm 1968
McDonal’s đã có 1000 cửa hàng NQTM 5 - một con số khổng lồ cho thấy sự phát
triển của hệ thống nhượng quyền McDonald’s và vai trò quan trọng của phương
thức kinh doanh NQTM.
Bên cạnh đó, khu vực Đông Nam Á cũng là khi vực nhượng quyền sôi động.
Thị trường Trung Quốc được coi là thị trường tiềm năng để phát triển phương thức
kinh doanh bằng NQTM. Một loạt các tên thương mại nổi tiếng thế giới đã có mặt
tại quốc gia này, chủ yếu là trong lĩnh vực đồ ăn nhanh. Tại Malaysia, năm 1992,
Chính phủ nước này đã chính thức triển khai, phát triển hoạt động kinh doanh
thương mại thông qua NQTM (chính sách Franchise Development Program) nhằm
đẩy mạnh hoạt động NQTM nội địa và tham gia NQTM quốc tế. 6 Không nằm ngoài
xu hướng đó, Singapore và Thái Lan cũng có những chính sách tương tự nhằm đẩy
mạnh tối đa hoạt động NQTM tại những quốc gia này.
Trong xu hướng hội nhập chung, Việt Nam cũng dần tiếp cận với phương
thức kinh doanh NQTM. NQTM được xem là xuất hiện ở Việt Nam vào giữa thập
niên 90 khi mà đồng loạt xuất hiện hệ thống các quán cà phê Trung Nguyên trên
khắp mọi miền đất nước. Cùng với Trung Nguyên, Công ty Kinh Đô Bakery cũng
bắt đầu tiến hành hoạt động NQTM vào năm 2004. Tháng 10/2004, cửa hàng
nhượng quyền chính thức đầu tiên của Kinh Đô bakery đã đi vào hoạt động NQTM
ở Việt Nam.Các chủ thể kinh doanh trong nước không chỉ thực hiện NQTM tại Việt
Nam, sau cú đột phá của Trung Nguyên ra thị trường nước ngoài, một số thương


3 Lý Quí Trung (2006),“Franchise - Bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh”, NXB
Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

4 Lý Quí Trung (2006),“Franchise - Bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh”, NXB
Trẻ, TP Hồ Chí Minh
5Xem truy cập ngày
09/03/2016
6 Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền
thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nôi, tr. 40


11
hiệu khác của Việt Nam cũng đã thực hiện thành công việc NQTM như công ty CPSX-TM-DV Phở hai mười bốn nhượng quyền nhà hàng phở 24 (ngày 09/5/2007),
hay Công ty TNHH Vũ Giang tiến hành NQTM cửa hàng Cửa hàng Cafe Bobby
Brewers (ngày 30/11/2007); công ty CP-SX-TM-DV Phở hai mười bốn nhượng
quyền nhà hàng phở 24 (ngày 09/5/2007).7
Tại thị trường Việt Nam, hoạt động NQTM còn sôi động hơn bởi sự góp mặt
của các thương hiệu hàng đầu thế giới, thông qua việc doanh nghiệp Việt Nam nhận
NQTM từ các hãng này để kinh doanh tại Việt Nam. Các nhà nhượng quyền tiên
phong như Jollibee (từ Philippines), Lotteria (từ Hàn Quốc) và KFC (từ Mỹ) đến
Việt Nam vào những năm 1996-1997. Tuy vậy, trong thập niên đầu tiên, ở Việt Nam
chỉ có 23 hệ thống nhượng quyền.8 Nhưng hoạt động này đã phát triển khá nhanh,
bình quân 15-20%/năm, kể từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
WTO năm 2007. Đến tháng 7 năm 2015, Việt Nam có khoảng hơn 140 hệ thống
NQTM, doanh thu đạt hàng triệu đô la Mỹ mỗi năm. Nhượng quyền chủ yếu diễn ra
tại các lĩnh vực: Ẩm thực (42 thương vụ); cửa hàng thời trang (19 thương vụ); bán
lẻ (15 thương vụ)...9 Một số tổ chức, hiệp hội cũng đã được thành lập nhằm thực
hiện việc quảng bá, xúc tiến hoạt động nhượng quyền như Câu lạc bộ nhượng
quyền thương mại Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Trung

tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh…

1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại
1.2.1. Khái niệm Franchise - “Nhượng quyền thương mại”
Trên thế giới
Xét về mặt ngôn ngữ, Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp cổ là “Franc” có
nghĩa là đặc quyền hay tự do. Theo Từ điển Cambridge của Anh thì franchise là một
quyền được bán sản phẩm của công ty trong một khu vực cụ thể và phải sử dụng tên
công ty đó. Có thể thấy rằng,định nghĩa này chỉ đúng về bản chất kinh tế mà chưa
thể hiện rõ ràng bản chất pháp lý của khái niệm. Còn theo Từ điển Webster của Anh

7Xem truy cập ngày
09/03/2016
8 Nguyễn Bá Bình, Andrew Terry (2013), “Ảnh hưởng của pháp luật nhượng quyền thương mại đối với sự
phát triển của nhượng quyền thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứ lập pháp, số 21/2013, tr. 12 -13
9Xem truy cập
ngày 09/03/2016


12
thì từ “franchise” được định nghĩa một cách chính xác hơn. Theo đó, franchise là
một đặc quyền được trao cho một người để bán sản phẩm của chủ thương hiệu.10
Về cơ sở pháp lý, với sự phát triển nhanh chóng, đến nay hầu như các quốc
gia đều đã luật hóa các quy định điều chỉnh hoạt động NQTM nhưng do sự khác
biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội nên, định nghĩa về NQTM
ở các quốc gia thường khác nhau.
Theo quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ, Ủy ban Thương mại Liên bang
(Federal Trade Commission) đã định nghĩa rằng: “Nhượng quyền thương mại là
hợp đồng, thỏa thuận giữa các bên, mà trong đó bên nhượng quyền cho phép bên
nhận quyền được quyền hoạt động kinh doanh cũng như được quyền bán hay phân

phối sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền
sẽ có quyền kiểm soát đối với việc vận hành hệ thống của bên nhận quyền, đồng
thời trợ giúp, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong quá trình hoạt động. Và như một
điều kiện để nhận hoặc bắt đầu hoạt động nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả
hoặc cam kết thanh toán một khoản phí đã được yêu cầu cho bên nhượng quyền”
(Franchise Rule - 16 CFR Part 436).11
Khái niệm nhượng quyền thương mại theo pháp luật Nga: Chương 54, Bộ
luật dân sự Nga, khái niệm bản chất pháp lý của “sự nhượng quyền thương mại”
như sau:“Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải
cấpcho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không
thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng
một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu
hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc
quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn
hiệu dịch vụ…”12
Đạo Luật về Nhượng quyền thương mại năm 2015 (“Franchising Code of
Conduct 2005”) của Australia đã đưa ra khái niệm tương đối đầy đủ và toàn diện về
NQTM,theo đó: “NQTM là một thỏa thuận, theo đó một bên (bên nhượng quyền)

10Xem truy cập ngày 09/03/2016
11Xem />SID=a449cb921f26892b2c549b1d76ddef2f&mc=true&node=sp16.1.436.a&rgn=div6, truy cập ngày
09/03/2016
12 Nguyễn Thị Vân (2011), “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập quốc tế”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội.


13
cấp cho một bên khác (bên nhận quyền) quyền thực hiện hoạt động đề nghị giao kết
hợp đồng, cung cấp hoặc phân phối hàng hóa, dịch vụ trong hoặc ngoài lanh thổ
nhượng quyền theo hệ thống hoặc kế hoạch kinh doanh, mà cơ bản được xác định,

kiểm soát, đề xuất bởi bên nhượng quyền. Việc tiến hành các hoạt động kinh doanh
được gắn liền với nhãn hiệu, hoạt động quảng cáo hoặc biểu tượng thương mại của
bên nhượng quyền. Trước khi bắt đầu hoạt động kinh doanh và trong quá trình kinh
doanh, bên nhận quyền phải thanh toán cho bên nhượng quyền một khoản tiền phí
nhượng quyền thương mại”13.
Mặc dù có nhiều khái niệm về NQTM khác nhau được đưa ra nhằm giải
thích, hướng dẫn các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền đạt hiệu quả. Tuy
nhiên có thể tổng kết rằng, tất cả những khái niệm đó đều thể hiện quan điểm chung
là NQTM là việc bên nhượng quyền sẽ cho phép bên nhận quyền được bán hoặc
phân phối sản phẩm, dịch vụ của mình dưới nhãn hiệu, tên thương mại, các đối
tượng khác của quyền SHTT do bên nhượng quyền sở hữu; và để được phép làm
việc này, bên nhận quyền phải trả những chi phí nhất định và chấp nhận một số hạn
chế do bên nhượng quyền quy định.
Tại Việt Nam
Nhượng quyền thương mại đã xuất hiện tại Việt Nam từ đầu thập niên 90 và
thuật ngữ này lần đầu được đề cập đến trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua khái
niệm “cấp phép đặc quyền kinh doanh” tại điểm a mục 4.1.1 14 của Thông tư số
1254/1999 của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường. Tại Nghị định số
11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ (sửa đổi) quy định chi
tiết thi hành Chương III Phần VI Bộ luật Dân sự 1995 chính thức thừa nhận hoạt
động “cấp phép đặc quyền kinh doanh”- một dạng hoạt động NQTM, là một trong
những hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Khoản 6, Điều 4 Nghị định số
11/2005/NĐ-CP, “cấp phép đặc quyền kinh doanh” là hoạt động theo đó: “bên nhận
sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên giao để tiến hành
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại”.
Tuy nhiên phải đến khi Luật Thương mại 2005 ra đời, có hiệu lực từ ngày
01/01/2006, thì khái niệm “Nhượng quyền thương mại” mới lần đầu tiên chính thức
xuất hiện và được ghi nhận tại Điều 284: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động
13Xem truy cập ngày 09/03/2016
14 “Các Hợp đồng với nội dung cấp li xăng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá kèm theo các bí quyết sản xuất,

kinh doanh được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam có giá trị thanh toán cho một Hợp đồng trên
30.000 USD (hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh - tiếng anh gọi là franchise)”.


14
thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau
đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức
kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc
điều hành công việc kinh doanh.”
Thế nhưng, khái niệm này lại chưa thể hiện được các đặc trưng của quan hệ
NQTM cũng như sự khác biệt rõ ràng với hoạt động Li-xăng và chuyển giao công
nghệ ở chỗ: chưa đề cập rõ đến tính độc lập về mặt pháp lý và kinh doanh của bên
nhượng quyền và bên nhận quyền trong quan hệ NQTM; chưa thể hiện hết các nội
dung của quyền thương mại; chưa làm rõ tính kết hợp trong một thể thống nhất của
các quyền đối với dấu hiệu nhận biết thương nhân cấu thành nên quyền thương mại;
chưa đề cập đến tính đồng bộ và tính hệ thống của các cửa hàng trong hệ thống
Nhượng quyền – đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động NQTM.Cách quy định như
Điều 284, LTM 2005 có thể được hiểu rằng các dấu hiệu nhận biết thương nhân của
bên nhượng quyền như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh… đều có thể tách riêng để chuyển nhượng, từ đó khiến NQTM có thể được
hiểu không có sự khác biệt đáng kể so với hoạt động li xăng và chuyển giao công
nghệ.15

1.2.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa bên

nhượng quyền và bên nhận quyền
Mối quan hệ kinh tế nào cũng cần có sự liên kết mật thiết với nhau, cùng
nhau phát triển. Tuy nhiên, đối với NQTM thì mối liên hệ này càng trở nên mật
thiết bởi bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều cùng nhau kinh doanh trên cùng
một sản phẩm, quy trình kinh doanh như nhau, là những bản sao hoàn hảo của nhau.
Vì thế cả hai bên phải tạo ra một mối quan hệ liên tục, thông suốt trong toàn bộ thời
gian của hợp đồng NQTM. Tính mật thiết của mối quan hệ giữa Bên nhượng quyền
và Bên nhận quyền thể hiện từ ngay sau khi các bên hình thành nên quan hệ
NQTM. Kể từ thời điểm đó, Bên nhượng quyền phải tiến hành việc cung cấp tài
15 Vũ Đặng Hải Yến, “Báo cáo rà soát văn bản pháp luật – Luật Thương mại 2005”
Xem www.vibonline.com.vn/Files/Download.aspx?id=2174, truy cập ngày 09/03/2016


15
liệu, đào tạo nhân viên của Bên nhận quyền. Không chỉ vậy, mà cùng với sự lớn
mạnh và phát triển theo thời gian của hệ thống, Bên nhượng quyền phải thường
xuyên trợ giúp kỹ thuật, đào tạo nhân viên của Bên nhận quyền đối với những ứng
dụng mới áp dụng chung cho cả hệ thống.
Nhượng quyền thương mại luôn có sự kiểm soát của Bên nhượng quyền đối
với việc điều hành công việc của Bên nhận quyền
Để đảm bảo tính đồng nhất của một hệ thống nhượng quyền không bị phá vỡ,
pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đều thừa nhận và trao quyền kiểm soát
đối với việc điều hành hoạt động kinh doanh cho bên nhượng quyền. Theo đó, Bên
nhượng quyền có thể định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc thực hiện các quyền
thương mại của Bên nhận quyền. Sự hỗ trợ của Bên nhượng quyền đối với Bên
nhận quyền như đã nói ở trên sẽ trở nên vô nghĩa và thiếu đi tính thực tế nếu như
Bên nhượng quyền không có quyền năng kiểm soát hoạt động điều hành kinh doanh
của Bên nhận quyền. Quyền năng này của Bên nhượng quyền đã thực sự tạo nên
chất kết dính quan trọng trong việc xây dựng tính thống nhất của hệ thống NQTM
và sự ổn định về chất lượng hàng hoá và dịch vụ.16

Nhượng quyền thương mại phải mang tính đồng bộ, thống nhất.
NQTM là sự phát triển đồng bộ một thương hiệu tạo ra sự thống nhất một
hình ảnh các cửa hàng, để khách hàng vào bất cứ cơ sở, cửa hàng nào trong hệ
thống cũng đều cảm thấy thoải mái, hài lòng như nhau. Hệ thống nhượng quyền
như một guồng máy mà mỗi cửa hàng, cơ sở là một mắt xích, để tạo nên chính thể
đó. Sự thay đổi của một mắt xích tất yếu làm ảnh hưởng tới cả hệ thống. Đây là
điểm nhạy cảm của NQTM, bởi nó có thể giúp phát triển danh tiếng của hàng hoá,
hệ thống nhượng quyền một cách nhanh chóng nhưng cũng có thế làm cho uy tín
xây dựng trong một thời gian dài của sản phẩm/dịch vụ nhượng quyền đó sụp đổ.
Chính vì vậy, đối với NQTM thì cần phải bảo đảm được tính đồng nhất về các yếu
tố liên quan trực tiếp đến quy trình kinh doanh đó như: chất lượng hàng hoá, dịch
vụ; phương thức phục vụ; cách thức bài trí cơ sở kinh doanh (từ hình ảnh bên ngoài
cho đến khu vực bên trong của cơ sở); việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, biểu tượng
kinh doanh, tên thương mại của Bên nhượng quyền; hoạt động quảng bá, khuyến
mại; đồng phục của nhân viên; các ấn phẩm của cơ sở kinh doanh…
Đối tượng của nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại”

16 Nguyễn Bá Bình (2006), “Nhượng quyền thương mại – Bản chất và mối quan hệ với hoạt động chuyển
giao công nghệ, hoạt động Li-xăng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02/2006, tr.22


16
“Quyền thương mại” được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định, cùng với đó là việc được sử
dụng nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo…của bên nhượng quyền. Trong quan hệ NQTM, nội
dung cốt lõi chính là việc bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sử
dụng “quyền thương mại” của mình trong kinh doanh.

1.3.


Phân loại hoạt động Nhượng quyền thương mại
Có nhiều cách để phân loại NQTM, dựa vào mối quan hệ giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền, người ta phân chia nhượng quyền thương mại theo bản
chất và hình thức hoạt động (hình thức bán franchise) của nó 17; dựa vào tiêu chí
lãnh thổ, có thể phân NQTM thành NQTM nội địa và NQTM quốc tế.

1.3.1. Theo bản chất hoạt động
Căn cứ vào bản chất hoạt động, NQTM có thể phân loại thành NQTM phân
phối sản phẩm và nhượng quyền công thức kinh doanh:

- Nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product distribution franchise)
Bên nhượng quyền sản xuất ra các sản phẩm sau đó bán lại sản phẩm cho
bên nhận quyền và bên nhận quyền sẽ phân phối trực tiếp sản phẩm tới người tiêu
dùng dưới thương hiệu của bên nhận quyền. Bên nhận quyền thường không nhận
được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía bên nhượng quyền ngoại trừ việc được phép sử
dụng nhãn hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu và phân phối sản phẩm của bên nhượng
quyền trong một phạm vi khu vực và thời gian nhất định. Bên nhận quyền sẽ quản
lý, điều hành cửa hàng nhượng quyền của mình khá độc lập, không bị ràng buộc
nhiều bởi những quy định từ phía bên nhượng quyền, thậm chí có thể sáng tạo cung
cách phụ vụ và kinh doanh theo ý mình. Hình thức này tương tự với kinh doanh cấp
phép (licensing) mà trong đó chủ thương hiệu quan tâm nhiều hơn đến việc phân
phối sản phẩm của mình và không quan tâm mấy đến hoạt động hàng ngày hay tiêu
chuẩn hình thức của cửa hàng nhượng quyền. 18 Đổi lại, bên nhận quyền sẽ phải trả
cho bên nhượng quyền một khoản phí nhất định, gọi là phí nhượng quyền (franchise
fee). Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong các ngành kinh doanh xe hơi, ô tô,

17 Hoàng Thu Thủy (2009), “Nhượng quyền thương mại (franchise)-Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế đối ngoại, Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 15
18 Hoàng Thu Thủy (2009), “Nhượng quyền thương mại (franchise)-Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt

Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế đối ngoại, Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 15-16


17
nước giải khát đóng chai, xăng dầu… Một số thương hiệu sản phẩm nổi tiếng có thể
kể đến như Coca-Cola, the Ford Motor…

- Nhượng quyền công thức kinh doanh (Business format franchise)
Đối với hình thức này, bên nhận quyền ngoài việc bán hàng hóa, dịch vụ với
thương hiệu của bên nhượng quyền còn được giao cả bí quyết sản xuất, bí quyết
kinh doanh, công thức điều hành quản lý. Các chuẩn mực của mô hình kinh doanh
phải tuyệt đối được giữ đúng. Mối liên hệ và hợp tác giữa bên nhượng quyền và bên
nhận quyền phải rất chặt chẽ và liên tục. Bên nhượng quyền có thể hỗ trợ cho bên
nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh như: hỗ trợ đào tạo, tiếp thị
quảng cáo, phân phối và các dịch vụ hậu mãi. Còn bên nhận quyền phải trả cho bên
nhận quyền một khoản phí có thể là phí trọn gói một lần hoặc một khoảng phí hàng
tháng dựa trên doanh số và có thể tổng hợp luôn cả hai khoản phí kể trên tùy vào sự
thỏa thuận của hai bên. Đồng thời bên nhận quyền cũng phải tuân thủ đúng quy
cách vận hành mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền. Chẳng hạn, nếu muốn
được NQTM một của hàng thức ăn nhanh McDonald’s nổi tiếng thế giới của Mỹ
vào thời điểm năm 2015, khoản phí nhượng quyền ban đầu phải trả cho chủ thương
hiệu là 45.000USD và một số khoản phí khác như phí quảng cáo là không ít hơn
4%trên doanh số, phí dịch vụ là 4%.19

1.3.2. Theo hình thức hoạt động
Căn cứ vào hình thức hoạt động, có thể phân NQTM thành ba hình thức:
NQTM độc quyền, NQTM phát triển khu vực và NQTM riêng lẻ:
- Nhượng quyền thương mại độc quyền (master franchise)
Bên nhận quyền được phép kinh doanh độc quyền và phân phối hàng hóa,
dịch vụ tại một khu vực nhất định, có thể là trong phạm vi một thành phố hay một

quốc gia. Và bên nhận quyền sẽ phải trả một khoản phí NQTM ban đầu cao hơn
nhiều so với hợp đồng NQTM riêng lẻ. Tuy nhiên, họ được phép nhượng quyền cho
các bên thứ ba nằm trong phạm vi khu vực mà họ được kiểm soát dưới hình thức
bán lẻ, hoặc họ được chủ động mở thêm nhiều cửa hàng dưới tên thương hiệu đó.

- Nhượng quyền thương mại phát triển khu vực (Area development franchise)
Đối với hình thức này, bên nhận quyền được độc quyền mở rộng và điều
hành một số lượng lớn đơn vị kinh doanh theo đúng thỏa thuận trong phạm vi một
lãnh thổ nhất định và không được nhượng quyền cho bên thứ ba. Bên nhận quyền sẽ
19Xem truy cập ngày
10/03/2016


18
thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch đã được bên nhượng quyền định trước. Mỗi đơn
vị kinh doanh do bên nhận quyền thiết lập đều không có tư cách pháp nhân và hạch
toàn phụ thuộc vào bên nhận quyền.20 Để được độc quyền trong một khu vực nhất
định, bên nhận quyền phải trả một khoản phí ban đầu tương đối cao, đồng thời phải
cam kết số lượng cửa hàng phát triển được theo tiến độ thời gian nhất định đã thỏa
thuận trước.

- Nhượng quyền thương mại riêng lẻ (single unit franchise)
Bên nhận quyền ký hợp đồng trực tiếp với bên nhượng quyền để mở ra đơn
vị kinh doanh theo hệ thống nhượng quyền của bên bán, tại một địa điểm nhất định
và trong một thời gian cụ thể. Sau thời gian này, hợp đồng có thể được gia hạn và
bên nhận quyền phải trả thêm một khoản phí. Bên nhận quyền theo hình thức này
không thể nhượng lại cho bên thứ ba hay tự ý mở thêm cửa hiệu kinh doanh cùng
thương hiệu. Với các ví dụ điển hình như KFC, Jolibee, Loterria, McDonald’s thông
qua hình thức này để nhượng quyền vào Việt Nam.


1.3.3. Theo tiêu chí lãnh thổ
Căn cứ vào tiêu chí lãnh thổ, có thể phân loại NQTM thành hai hình thức:

- Nhượng quyền thương mại nội địa
Đây là hoạt động NQTM mà trong đó, đối tượng “quyền thương mại” không
được chuyển dịch qua biên giới quốc gia. Hình thức hoạt động NQTM này chỉ diễn
ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia và là quan hệ được thiết lập giữa các
nhà đầu tư, các thương nhân trong nước.

- Nhượng quyền thương mại quốc tế
Khác với hình thức NQTM nội địa, NQTM quốc tế có phạm vi rộng hơn.
Đối với mỗi chế định pháp luật điều chỉnh NQTM ở mỗi quốc gia hoặc tổ chức
quốc tế khác nhau, quan niệm về NQTM quốc tê lại có những điểm khác biệt. Yếu
tố chủ thể của hoạt động là thương nhân nước ngoài hoặc yếu tố có sự dịch chuyển
“quyền thương mại” ra khỏi biên giới một quốc gia và được phát triển kinh doanh ở
một số quốc gia khác cũng có thể tạo nên hình thức hoạt động NQTM quốc tế.

1.4.

Lợi ích của hoạt động nhượng quyền thương mại
Trong nhiều năm qua, với bề dày lịch sử phát triển, NQTM được xem là sự
lựa chọn thông minh dành cho các doanh nghiệp. Và sự phát triển nhanh và mạnh
20 Hoàng Thu Thủy (2009), “Nhượng quyền thương mại (franchise)-Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế đối ngoại, Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 18


19
mẽ của nó ngày nay như một tất yếu. Tại sao NQTM lại phát triển nhanh đến vậy?
Câu trả lời chắc chắn là do nó có khả năng đem lại lợi ích cho nhiều phía.


1.4.1. Lợi ích đối với Bên nhượng quyền
Hoạt động NQTM sẽ mang lại cho bên nhượng quyền một số lợi ích nhất
định sau:
Thứ nhất,nhân rộng mô hình kinh doanh, mạng lưới bán hàng mà không cần
đầu tư xây dựng hệ thống: Khi muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, vốn luôn là
mối lo ngại lớn nhất đối với mỗi doanh nghiệp. Nhưng trong hệ thống nhượng
quyền, người bỏ vốn ra để mở rộng kinh doanh lại chính là bên nhận quyền
(franchisee), điều này giúp cho bên nhượng quyền có thể mở rộng phạm vi kinh
doanh gián tiếp bằng chính đồng vốn của bên nhượng quyền, giảm chi phí thâm
nhập thị trường.
Thứ hai,gia tăng giá trị thương hiệu qua việc thúc đẩy, quảng bá hình ảnh:
việc nhân rộng địa bàn kinh doanh sẽ đưa hình ảnh về sản phẩm xuất hiện với mật
độ nhiều hơn, nhanh chóng đến được với khách hàng hơn. Chi phí quảng bá cũng
được tối thiểu hóa bằng cách trải rộng cho rất nhiều cửa hàng. Điều này giúp bên
nhượng quyền tiết kiệm một khoản ngân sách lớn, tạo được lợi thế cạnh tranh. Hơn
nữa, quảng cáo càng hiệu quả, hình ảnh về sản phẩm càng được nâng cao, giá trị vô
hình của công ty ngày càng lớn.
Thứ ba, tối đa hóa thu nhập: Khi nhận quyền, các bên nhận quyền phải trả
các khoản phí nhượng quyền, đồng thời phải mua sản phẩm, nguyên liệu của bên
nhượng quyền. Nhờ đó mà các bên nhượng quyền có thể tối đa hóa thu nhập của
mình. Không dừng lại ở đó, do tạo được áp lực về hiệu quả kinh doanh trên đồng
vốn bỏ ra đối với bên nhận quyền mà bên nhượng quyền có thể thu được nhiều lợi
nhuận hơn nữa.
Thứ tư, tận dụng nguồn nhân lực “địa phương” để thâm nhập hiệu quả vào
các thị trường nội địa của các quốc gia, hạn chế việc đối mặt với các rào cản thương
mại hoặc pháp lý, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường bên ngoài.
Thứ năm,tạo dựng cho mình một hệ thống liên kết mạnh về thương mại và tài
chính.

1.4.2. Lợi ích đối với Bên nhận quyền

Bên cạnh đó, kinh doanh bằng phương thức NQTM cũng mang lại cho bên
nhận quyền nhiều lợi ích khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất, giúp bên nhận quyền tránh được những thất bại trong những bước
đầu tiên, giảm thiểu rủi ro và xác suất thành công cao. Bởi kinh doanh theo một mô


20
hình quản lý có sẵn, cung cấp một loại hàng hoá, dịch vụ đã có sức cạnh tranh trên
thị trường, phần trăm rủi ro trong kinh doanh được giảm xuống mức đáng kể. Theo
thống kê tại Mỹ, trung bình chỉ có 23% doanh nghiệp nhỏ kinh doanh độc lập có thể
tồn tại sau 5 năm, còn đối với các doanh nghiệp mua franchise tỉ lệ này là 92%. 21
Hơn nữa, nếu người quản lý có thể là những người mới bước vào nghề, không có
kinh nghiệm, muốn kinh doanh thành công phải mất khá nhiều thời gian cho việc
học hỏi các đặc trưng riêng của từng loại mô hình để đưa ra quyết định, lựa chọn
thích hợp. Trong khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, họ sẽ được huấn luyện,
đào tạo bài bản và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công (ở một
chừng mực nhất định)... mà bên nhượng quyền đã trải nghiệm, tích lũy và có được.
Thứ hai, khởi động kinh doanh nhanh, cạnh tranh giảm thiểu. Dựa trên
thương hiệu và phương thức kinh doanh đã được áp dụng thành công sẽ là một lợi
ích vượt trội so với việc gây dựng một nhãn hiệu chưa ai biết tới và không phải chịu
sự cạnh tranh gay gắt của những thương hiệu hiện đang có tiếng trên thị trường.
Thứ ba, tận dụng các nguồn lực. Bên nhận quyền có điều kiện tập trung vào
việc điều hành hoạt động kinh doanh hơn vì những phần còn lại như xây dựng chiến
lược tiếp thị, quy trình vận hành, chiến lược kinh doanh sẽ do bên nhượng quyền
đảm trách.
Thứ tư, được hưởng ưu đãi và giảm chi phí đối với sản phẩm, nguyên vật
liệu. Nếu so sánh, ta sẽ thấy là các doanh nghiệp kinh doanh độc lập đều phải tự
mình đi thương thảo, thường là kí kết các hợp đồng mua nguyên vật liệu, hàng hóa,
dịch vụ với ít điều khoản có lợi. Thậm chí một số nhà cung cấp hàng hóa có thể từ
chối hợp tác với các doanh nghiệp mới toanh do tài khoản không đủ lớn để đảm bảo

việc thanh toán. Nhưng đối với bên nhận quyền trong hoạt động NQTM thì khác, họ
sẽ luôn được mua sản phẩm hay nguyên vật liệu với khối lượng lớn theo một tỉ lệ
khấu hao đầy hấp dẫn. Từ đó có thể ổn định đầu vào, tạo lợi thế cạnh tranh và tránh
được tổn thất từ biến động thị trường
Thứ năm, có cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp cận công nghệ kĩ thuật
từ bên nhượng quyền chuyển giao sang.
Thứ sáu, dễ vay vốn ngân hàng, nhận hỗ trợ về tài chính. Do mô hình kinh
doanh này có xác suất thành công tương đối cao nên thường xuyên nhận được sự tin
tưởng từ các tổ chức tín dụng. Hầu như tất cả các doanh nghiệp kinh doanh nhượng
quyền lớn trên thế giới đều chủ động đàm phán, thuyết phục các ngân hàng ủng hộ
21Xem truy cập ngày 10/03/2016


21
các đối tác mua franchise của mình bằng chính sách cho vay lãi suất thấp. Bên cạnh
đó, một số nhà nhượng quyền còn cam kết hỗ trợ cho bên nhận quyền một số vốn
ban đầu để mở cơ sở kinh doanh.

1.4.3. Lợi ích đối với Quốc gia – nơi tiến hành hoạt động NQTM
NQTM bùng nổ và phát triển mạnh mẽ không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho
hai bên nhượng quyền và bên nhận quyền mà còn đem lại những lợi ích nhất định
khác cho Quốc gia – nơi hoạt động NQTM được tiến hành, cụ thể như:
Về phía người tiêu dùng: Hoạt động NQTM giúp người tiêu dùng thuận lợi
hơn trong việc tiếp cận với hàng hoá, dịch vụ với một hệ thống bán hàng hoặc cung
cấp dịch vụ đồ sộ. Hơn nữa, ở hướng tích cực thì người tiêu dùng có thể có những
sản phẩm/dịch vụ đảm bảo chất lượng, được phục vụ như nhau tại nhiều nơi không
có sự phân biệt đối xử. NQTM còn sẽ làm cho khả năng người tiêu dùng được bảo
vệ tăng lên, bởi nếu có điều gì đó xấu xảy ra thì với một tiềm lực mạnh và vì uy tín
của thương hiệu mà chủ thương hiệu sẽ cố gắng để người tiêu dùng có thể phục hồi
nhanh nhất, được người tiêu dùng ủng hộ, hơn nữa vì thương hiệu của mình mà chủ

thương hiệu sẽ hạn chế đến mức tối đa những tác động xấu có thể ảnh hưởng đến
người tiêu dùng.
Về sự phát triển của xã hội: NQTM giúp cho các doanh nghiệp mới tránh
được thất bại, nhờ thế lượng vốn được đầu tư hợp lý, các tình trạng xấu như phá
sản, vốn tồn đọng được giải quyết. Bên nhượng quyền khi kiểm soát được các tiêu
chuẩn đối với bên nhận quyền thì uy tín được đảm bảo, lượng khách hàng tiêu dùng
sản phẩm/dịch vụ của mình được nâng cao, sẽ giúp cho bên nhượng quyền yên tâm
phát triển sản phẩm phục vụ người tiêu dùng tốt hơn, đem lại lợi nhuận ngày càng
tăng cho bên nhượng quyền. Đất nước có nhiều doanh nghiệp tham gia các hệ thống
NQTM thành công thì khả năng phát triển được tiềm lực kinh tế, tăng uy tín của
mình trên trường quốc tế, thu hút đầu tư, đời sống người dân được ổn định càng
tăng cao. Theo thống kê của hội đồng Franchise thế giới năm 2006, có ít nhất
15.000 người bán franchise, 12 triệu người mua franchise. Số người mua này có
doanh thu 1,5ngàn tỉ USD/năm và tạo 12 triệu việc làm trên toàn cầu. Tại Mỹ, hoạt
động NQTM chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút được trên 8 triệu người lao
động trong khu vực này và bình quân cứ 8 phút lại có 1 franchise ra đời tại nước
này.22 Còn ở Anh, franchise là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất
22 Vnmedia (27/07/2006), “Nhượng quyền thương mại sẽ bùng nổ tại Việt Nam”,
Xem truy cập ngày 10/03/2016


22
của nền kinh tế với khoảng 32.000 doanh nghiệp nhượng quyền, doanh thu mỗi năm
đạt 8,9 tỉ bảng Anh.23 Khu vực Nhượng quyền thương mại cũng thu hút một lượng
lao động lớn với khoảng 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ.
Về nền kinh tế: Nền kinh tế theo sự phát triển của NQTM sẽ cũng được phát
triển cả về bề rộng và chiều sâu. Khi NQTM phát triển sẽ kích thích cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp nhượng quyền, các doanh nghiệp này để cạnh tranh với nhau sẽ
cố gắng tìm cách nâng cao uy tín doanh nghiệp, để được nhiều thương nhân khác
chú ý tham gia vào hệ thống nhượng quyền của mình. Bên nhượng quyền ngày càng

mở rộng hệ thống kinh doanh và ngày càng tiếp nhận thêm nhiều bên nhận quyền
mới, vì thế, sự sôi động của nền kinh tế càng được thúc đẩy bởi sự gắn bó, sự liên
kết bằng lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh trong hoạt động NQTM.
Như vậy, có thể thấy, với sự ra đời và phát triển của mô hình kinh doanh
NQTM cùng với những lợi ích to lớn mà NQTM mang lại có thể khẳng định chắc
chắn rằng NQTM có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với các bên trong quan hệ này
cũng như quốc gia – nơi hoạt động NQTM diễn ra. Có lẽ vậy mà NQTM trong
tương lai vẫn hứa hẹn sẽ là một trong những phương thức thâm nhập thị trường ưu
việt được nhiều chủ doanh nghiệp lựa chọn.

23 Vnmedia (27/07/2006), “Nhượng quyền thương mại sẽ bùng nổ tại Việt Nam”,
Xem truy cập ngày 10/03/2016


23
CHƯƠNG 2
KHUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.

2.1.

Tổng quan về pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của
doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam
Khi tiến hành NQTM tại Việt Nam thì hoạt động NQTM của các doanh
nghiệp nước ngoài đó sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Do đó, các
Doanh nghiệp nước ngoài cần tìm hiểu kỹ những quy định về NQTM trong pháp
luật Việt Nam đặc biệt là những nội dung liên quan đến việc cung cấp Bản giới
thiệu nhượng quyền, về hoạt động đăng ký nhượng quyền thương mại, hay về các
cam kết của Việt Nam trong WTO liên quan tới nhượng quyền thương mại… để có
thể thực hiện hoạt động nhượng quyền một cách thuận lợi nhất.


2.1.1. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM ở Việt Nam
Việc xây dựng và hoàn chỉnh hành lang pháp lý đối với NQTM có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển của hình thức này tại Việt Nam. Việt Nam là một
trong 33 quốc gia trên thế giới có hệ thống quy phạm pháp luật riêng biệt để điều
chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại.24
Trước thời điểm ra đời và có hiệu lực của Luật Thương mại 2005, pháp luật
về NQTM của Việt Nam chỉ được quy định rải rác, thiếu nhất quán trong một số
VBQPPL. Văn bản đầu tiên có quy định về NQTM là thông tư số 1254/1999/TTBKHCNMT ra ngày 12/07/1999 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/1998/NĐ-CP
ngày 01/07/1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ. Hoạt
động NQTM lúc này chỉ được đề cập đến như một trong các nội dung nhỏ của hợp
đồng chuyển giao công nghệ, là hợp đồng với nội dung cấp li-xăng sử dụng nhãn
hiệu hàng hóa kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh và được chuyển từ nước
ngoài vào Việt Nam chứ chưa có một khái niệm cụ thể và càng không công nhận
NQTM là một mô hình kinh doanh.
Ngày 02/02/2005, Chính phủ cho ra đời Nghị định số 11/2005/NĐ-CP, sửa
đổi những quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ, NQTM vẫn có tên là “cấp
phép đặc quyền kinh doanh” và chịu sự chi phối của pháp luật về chuyển giao công
nghệ. Ngoài ra, Điều 755 của BLDS năm 2005 cũng quy định rằng hành vi “cấp
phép đặc quyền kinh doanh” là một trong các đối tượng chuyển giao công nghệ.
24 Nguyễn Bá Bình (2010), “Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02/2010, tr. 15


24
Tuy nhiên, những đối tượng nào được chuyển giao là đối tượng của SHCN thì vẫn
chịu sự chi phối của luật pháp về SHTT. Một vấn đề nữa là, theo Điều 7 Luật
chuyển giao công nghệ 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2007) lại quy định“cấp
phép đặc quyền kinh doanh” không thuộc phạm vi đối tượng chuyển giao công
nghệ. Đây chính là điểm mâu thuẫn giữa Luật Chuyển giao công nghệ 2006 với

BLDS 2005.
Và đến năm 2005, NQTM chính thức được luật hóa và công nhận tại Mục 8,
Chương VI, Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006) đã đánh dấu một
bước ngoặt cho hoạt động NQTM ở Việt Nam. Hoạt động nhượng quyền được quy
định từ Điều 284 đến điều 291, LTM 2005 bao gồm các nội dung: định nghĩa
NQTM, quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền và nhận quyền, hợp đồng
nhượng quyền, nhượng quyền lại cho bên thứ ba, đăng ký nhượng quyền.
Sau khi LTM 2005 ra đời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐCP ngày 31/ 03/ 2006 quy định chi tiết LTM về hoạt động NQTM. Nghị định này đã
chi tiết hóa hoạt động nhượng quyền, hướng dẫn doanh nghiệp đăng ký NQTM
cũng như làm rõ nội dung NQTM mà hợp đồng Nhượng quyền cần có. Tiếp đó, là
Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25/05/2006 của Bộ Thương mại ra đời nhằm
hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM, trong đó thông tư nêu rõ cách thức, thủ tục
đăng ký NQTM giúp cho việc đăng ký hoạt động NQTM trở nên rõ ràng hơn.
Ngày 17/11/2008, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 106/2008/QĐ-BTC
quy định mức lệ phí mà thương nhân dự kiến nhượng quyền phải nộp khi đăng ký
hoạt động NQTM. Theo đó, đối với thương nhân nước ngoài NQTM vào Việt Nam,
cấp mới thông báo là 16.500.000 đồng/ giấy; đối với thương nhân Việt Nam NQTM
ra nước ngoài và thương nhân NQTM trong nước, cấp mới thông báo là 4.000.000
đồng/ giấy.25
Ngày16 tháng 12 năm 2011, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số
120/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định
của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại cho phù hợp với thực tiễn cũng
như tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Dù đã có những quy định riêng để điều chỉnh hoạt động NQTM tại Việt Nam
từ năm 2005, nhưng pháp luật Việt Nam lại không có quy định cụ thể nào về xử
phạt nếu có vi phạm trong lĩnh vực này. Phải tới 8 năm sau - năm 2013, Chính phủ
mới ban hành Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định về xử phạt vi
25 Điều 1, Quyết định số 106/2008/QĐ-BTC ngày 17/11/2008, quy định mức lệ phí mà thương nhân dự kiến
nhượng quyền phải nộp khi đăng ký hoạt động NQTM.



25
phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, quy định về xử phạt vi phạm
hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực NQTM lại chỉ chứa đựng
trong duy nhất một điều là Điều 95 của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP và các quy
định này còn khá chung chung, mức xử phạt thì gần như chỉ mang tính tượng trưng
và không tương xứng với tính chất và quy mô của hoạt động NQTM trên thực tế.
Và gần đây nhất, ngày 25/04/2014, Bộ Công thương đã ban hành Văn bản số
15/VBHN-BCT đây là văn bản hợp nhất của Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày
31/3/2006 của Chính phủ, quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động NQTM,
và Nghị định số 120/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết Luật
Thương mại có hiệu lực từ ngày 01/02/2012 tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh
nghiệp khi tra cứu các quy định về NQTM, bởi trước đó các quy định này được quy
định rải rác ở một số văn bản pháp luật khác nhau.
Bên cạnh đó, các hoạt động NQTM tại Việt Nam còn chịu sự điều chỉnh của
một số văn bản quy phạm pháp luật khác như: Luật Sở hữu tri tuệ 2005; Luật Cạnh
tranh 2004; Bộ Luật Dân sự 2005; Luật Doanh nghiệp 2014; Luật Đầu tư 2014;…
và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng
09 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu
trí tuệ về sở hữu công nghiệp; …
Các doanh nghiệp nước ngoài khi nhượng quyền vào Việt Nam sẽ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật nhượng quyền thương mại Việt Nam. Do đó, những văn
bản quy phạm pháp luật kể trên không chỉ sử dụng để điều chỉnh hoạt động NQTM
của các doanh nghiệp Việt Nam mà cũng được sử dụng để điều chỉnh cả những hoạt
động NQTM của doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam. Ở mức độ nào đó, có thể
nói hành làng pháp lý dành cho hoạt động NQTM phần nào đã tương đối đầy đủ
đảm bảo tốt cho việc triển khai chính sách phát triển NQTM và thực thi chức năng
quản lý nhà nước đối với phương thức kinh doanh này.


2.1.2. Biểu cam kết Dịch vụ cụ thể của Việt Nam trong WTO
Bên cạnh những quy định quan trọng nêu trên, thì trước khi các Doanh
nghiệp nước ngoài tiến hành NQTM vào Việt Nam cũng cần phải chú ý đến những
cam kết trong Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam trong WTO. Theo bảng
phân loại các ngành và phân ngành dịch vụ của WTO (tài liệu MTN.GNS/W/120)
dẫn chiếu đến Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm (ProvisionalCentral Product


×