Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN : Mối quan hệ giữa IAS, IFRS, VAS với kế toán môi trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.34 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

TIỂU LUẬN
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC
KẾ TOÁN
Tên đề tài: “Mối quan hệ giữa IAS, IFRS, VAS với kế toán môi
trường ở Việt Nam hiện nay”

Sinh viên thực hiện: PHAN THỊ THU THẢO
Mã sinh viên
: DH00300499
Lớp : DH3KE3
Khoá : 3 (2013-2017)
Hệ
: CHÍNH QUY


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

TIỂU LUẬN
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ
TOÁN
Tên đề tài: “Mối quan hệ giữa IAS, IFRS, VAS với kế toán môi trường ở
Việt Nam hiện nay”

Sinh viên thực hiện: PHAN THỊ THU THẢO
Mã sinh viên


: DH00300499
Lớp : DH3KE3
Khoá : 3 (2013-2017)


Hệ

:

CHÍNH QUY

Hà Nội, tháng 2017
Với xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, hàng loạt các nhân tố quốc tế nảy sinh tác động
tới sự thay đổi kế toán, đó là: Sự độc lập về kinh tế, chính trị, đầu tư nước ngoài trực tiếp;
các chiến lược kinh doanh đa quốc gia; công nghệ mới; sự phát triển của thị trường tài
chính quốc tế; sự mở rộng các dịch vụ tài chính và kinh doanh quốc tế... Nhân tố thúc đẩy
sự thay đổi về kế toán nảy sinh từ sự lớn mạnh độc lập quốc tếvà từ sự hài hòa các quy
tắc của các mối qian hệ kinh tế, tài chính quốc tế. Sự phân biệt giữa Đông và Tây (các
nước XHCN kế hoạch hóa tập trung và các nước tư bản Tây Âu), giữa Nam và Bắc (các
nước phát triển và các nước đang phát triển) làm nảy sinh sự thay đổi nhanh chóng về
mức độc hính trị dẫn tới sự thay đổi kinh tế, làm thay đổi cơ cấu kinh doanh và kế toán
quốc tế. Kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô cũ, các nước Đông Âu và Trung
Quốc đã thay đổi theo hướng tiếp cận kinh tế thị trường trong sự phát triển của họ.
Hơn nữa sự phát triển rộng khắp xu hướng điều tiết của thị trường và cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở các nước phát triển và đang phát triển đã gợi mở ra nhiều cơ
hội mới cho đầu tư nước ngoài, liên doanh, liên kết quốc tế. Mặt khác, các tập đoàn kinh
tế như cộng đồng chung Châu Âu (EU) có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình nhất thể hóa
nền kinh tế thế giới thông qua sự tự do hóa thị trường, hàng hóa, nhân công và vốn giữa
các quốc gia. Trong những năm gần đây, EU đã hợp nhất như một khối kinh tế, chính trị
lớn, là một thành viên tập hợp nhiều quốc gia, tạo nên một thị trường tiêu dùng tiềm năng

với khoảng 350 triệu người tiêu dùng.
Các tổ chức quốc tế như liên hợp quốc (UN), tổ chức phát triển kinh tế- xã hội, OECD
tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa. Ngày nay, các thị trường tài chính quốc tế đòi hỏi sự
hài hòa những điểm không tương đồng về chính sách thuế, kiểm soát trao đổi giới hạn
đầu tư, yếu cầu những nguyên tắc kế toán. Sự thay đổi quốc tế hóa đòi hỏi sự thay đổi
nhanh chóng và năng động bản chất của kế toán quốc tế. Truyền thống và thực hành kế
toán của mỗi quốc gia sẽ là những thử thách trong những năm trước mắt với nhiều vấn đề
mới nảy sinh và thức đẩy quá trình tăng cường hài hóa quốc tế.


Trong quá trình phát triển kinh tế, những hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra đã
khiến nhiều quốc gia dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề bảo vệ môi trường. xét ở
phạm vi doanh nghiệp (DN), để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý môi trường,
công tác kế toán giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Kế toán quản trị môi trường lần đầu tiên
được đề cập đến trên thế giới vào những nằm đầu của thâp kỷ 70 của thế kỷ XX. Sau đó
đã có nhiều nghiên cứu, quy định về kế toán quản trị môi trường và không ít quốc gia đã
thực hiện ứng dụng kế toán quản trị môi trường rất thành công như: Canada, Argentina,
Mỹ, Đan Mạch, Nhật Bản, Singapore, Indonesia, Nam Phi…
Theo liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC), kế toán quản trị môi trường “là quá trình quản lý
hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường thông qua sự phát triền và ứng dụng hệ thống kế
toán phù hợp với vấn đề môi trường…”. Kế toán quản trị môi trường là một bộ phận của
kế toán quản trị DN, nhầm thu thập, xử lý, phân tích và sử dụng các thông tin tiền tệ và
hiện vật liên quan tới các tác động của DN đến môi trường, từ đó cải thiện hoạt động của
DN ở cả khía cạnh tài chính và môi trường.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính – kế toán, kế toán quản trị môi trường gồm
các nội dung: kế toán chi phí môi trường trên cơ sở kiểm soát chi phí và áp dụng các
phương pháp xác định chi phí môi trường thích hipwj; kế toán các khoản thu nhập, doanh
thu hay lợi ích môi trường phục vụ cho dự toán và kiểm soát thực hiện dự toán; kiểm soát
rác thải, phế thải và tập trung quản lý hiệu quả các nguồn lực.
Kế toán quản trị môi trường tập trung vào việc hạch toán những vấn đề có liên quan

đến môi trường mà cụ thể là hạch toán dòng vật liệu, hạch toán chi phí, thu nhập liên
quan đến môi trường, phân tích chu kỳ sống sản phẩm, đánh giá trách nhiệm, hiệu quả
quản lý và bảo vệ môi trường… nhằm cung cấp thông tin chủ yếu cho các quản trị nội bộ
DN. Kế toán quản trị môi trường là công cụ vô cùng quan trọng phục vụ cho việc quản lý
và bảo vệ môi trường.
Kế toán là một hoạt động mang tính chuyên môn cao có chức năng cung cấp các thông
tin trung thực, hợp lý về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
giúp cho người sử dụng có thể đưa ra các quyết định. Kế toán phải làm cho người sử
dụng hiểu được, tin cậy và phải giúp so sánh được các thông tin tài chính. Muốn vậy, cần
phải có các quy định làm khuôn mẫu giúp đánh giá, ghi nhận và trình bày thông tin tài
chính, đó chính là những chuẩn mực kế toán.
Vậy chuẩn mực kế toán là những quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, nội dung,
phương pháp và thủ tục kế toán cơ bản, chung nhất, làm cơ sở ghi chép kế toán và lập


Báo cáo tài chính nhằm đạt được sự đánh giá trung thực, hợp lý, khách quan về thực
trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chuẩn mực kế toán quốc tế là điều kiện đảm bảo cho các doanh nghiệp, tổ chức toàn
thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán thống nhất trong việc lập và ban hành các BCTC.
IASB đã ban hành và công bố được 41 chuẩn mực kế toán quốc tế (IASs) và 8 chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRSs).
Hiện tại có 12 IAS không còn hiệu lực và đã được thay thế bởi các chuẩn mực ban hành
sau nó.
Nội dung của một IAS bao gồm:







Đưa ra vấn đề mà IAS sẽ giải quyết
Phạm vi mà IAS được áp dụng
Trình bày các khái niệm có liên quan trong IAS
Cách trình bày vấn đề có liên quan trong các báo cáo tài chính (nếu có)

Chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là điều kiện để đảm bảo các
doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách
thống nhất trong công tác lập báo cáo tài chính (BCTC). Việc áp dụng IFRS nhằm cải
thiện chất lượng thông tin kế toán và do HĐ chuẩn mực kế toán quốc tế thuận tiện cho
các nghiệp vụ tài chính trên thế giới.
Giữa những năm 1973 và năm 2000, chuẩn mực quốc tế phát hành. Trong thời kỳ này
các nguyên tắc kế toán được biểu hiện là chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS). Từ năm
2001, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế mô tả các nguyên tắc kế toán với tên gọi
mới là Chuẩn mực lập BCTC quốc tế, mặc dù các chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn tiếp
tục được thừa nhận.
Năm 2005, đánh dấu sự bắt đầu của kỷ nguyên mới về cách quản lý kinh doanh
toàn cầu và hoàn thành sự nỗ lực trong 30 năm bằng việc ban hành các nguyên tắc lập
BCTC cho thị trường vốn trên thế giới. Cũng trong năm này, rất nhiều quốc gia đã
chính thức áp dụng hệ thống chuẩn mực lập BCTC được xây dựng phù hợp với quốc
gia mình và bắt đầu áp dụng từ 1/1/2005, như Úc, Hồng Kông, các nước Châu Âu…
Hầu hết các nguyên tắc kế toán được chấp nhận phổ biến (GAAP) của các quốc
gia đã bị giảm tầm quan trọng hoặc đang dần dần được thay thế bởi IFRS. Cụ thể,
Canada thông báo GAAP (mà tương tự như GAAP của Mỹ) sẽ thay thế bằng IFRS
vào năm 2011. Ngoại trừ GAAP của Mỹ được coi như là sức ép cạnh tranh trong


chuẩn mực kế toán và trong tương lai cần thiết có sự hợp nhất giữa GAAP của Mỹ và
IFRS.
IFRS do Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và Hội đồng giải thích lập
BCTC quốc tế (IFRIC) biên soạn theo định hướng thị trường vốn và hệ thống lập

BCTC. Phương thức lập BCTC được mô tả là tập trung vào mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với nhà đầu tư và tập trung vào luồng thông tin đến thị trường vốn. Cơ quan
nhà nước vẫn sử dụng BCTC như là hoạt động kinh tế, tuy nhiên BCTC này được lập
cho mục đích của nhà đầu tư.
IFRS được áp dụng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Cụ thể,
BCTC cung cấp thông tin toàn diện, đúng đắn, kịp thời và do đó nhà đầu tư có nhiều
thông tin về thị trường vốn giảm được rủi ro trong việc đưa ra quyết định kinh tế.
BCTC được định dạng theo biểu mẫu thống nhất và loại trừ sự khác biệt trong chuẩn
mực kế toán, các thông tin trên BCTC có tính so sánh qua đó sẽ giúp cho các nhà đầu
tư giảm chi phí trong việc xử lý thông tin kế toán, giảm sự khác biệt khác biệt quốc tế
trong chuẩn mực kế toán. Ngoài ra, chất lượng thông tin cao hơn, tính minh bạch rõ
ràng sẽ làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư.
Đặc điểm cơ bản của IFRS thông qua các chuẩn mực đó là nguyên tắc giá trị
hợp lý được đề cập nhiều hơn. Đáng chú ý đó là việc áp dụng giá trị hợp lý trong các
chuẩn mực IAS 16, 36, 38, 39, 40, IFRS 2, IFRS 3. Danh sách các chuẩn mực sử dụng
giá trị hợp lý sẽ nhiều thêm qua thời gian. Chuẩn mực lập BCTC hiện tại (IAS và
IFRS) bao gồm:
IAS 1: Trình bày BTCT
IAS 2: Hàng tồn kho
IAS 7: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
IAS 8: Chính sách kế toán, sự thay đổi trong ước tính kế toán và sai sót
IAS 10: Các sự kiện phát sinh sau ngày thành lập Bảng cân đối kế toán
IAS 11: Hợp đồng Xây dựng
IAS 12: Thuế Thu nhập doanh nghiệp
IAS 14: Báo cáo thông tin tài chính theo bộ phận
IAS 16: Tài sản, nhà cửa và thiết bị


IAS 17: Kế toán về thuê tài sản
IAS 18: Doanh thu

IAS 19: Lợi ích người lao động
IAS 20: Kế toán đối với nguồn tài trợ và trình bày sự hỗ trợ của chính phủ
IAS 21: Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái
IAS 23: Chi phí đi vay
IAS 24: Trình bày các bên liên quan
IAS 26: Kế toán và báo cáo lợi ích hưu trí
IAS 27: BCTC hợp nhất và riêng biệt
IAS 29: Lập BCTC trong nền kinh tế siêu lạm phát
IAS 31: Lập BCTC về lợi ích của liên doanh
IAS 32: Công cụ tài chính: Trình bày
IAS 33: Lãi trên cổ phiếu
IAS 34: Lập BCTC tạm thời
IAS 36: Giảm giá trị tài sản
IAS 37: Dự phòng, công nợ và tài sản ngẫu nhiên
IAS 38: Tài sản cố định vô hình
IAS 39: Công cụ tài chính: ghi nhận và đo lường
IAS 40: Tài sản đầu tư
IAS 41: Nông nghiệp
IFRS 1: Áp dụng lần đầu IFRS
IFRS 2: Thông tin dựa trên cổ phiếu
IFRS 3: Hợp nhất kinh doanh
IFRS 4: Hợp đồng bảo hiểm


IFRS 5: Tài sản dài hạn chờ để bán và hoạt động gián đoạn
IFRS 6: Thăm dò và đánh giá tài sản nguyên khoáng sản
IFRS 7: Công cụ tài chính: Trình bày
IFRS 8: Bộ phận kinh doanh
Theo kế hoạch của IASB, trong thời gian tới IASB sẽ tập trung vào những vấn đề liên
quan đến IFRS. Vấn đề lập báo cáo (hiện được đổi tên là trình bày BCTC) là công việc

ưu tiên phải làm. Đầu tiên là giải quyết những gì những gì được trình bày trên BCTC, dẫn
đến việc sửa đổi dự án ghi nhận doanh thu thông qua việc phân tích tài sản, nợ phải trả
thay vì phương pháp hiện nay tập trung vào các nghiệp vụ đã hoàn thành và doanh thu đã
thu được tiền. Phương pháp này có ảnh hưởng lớn về thời gian ghi nhận lợi nhuận, do đó
dẫn đến việc ghi nhận doanh thu theo các giai đoạn thông qua chu trình nghiệp vụ. IASB
cũng tiếp tục xem xét lại chuẩn mực hợp nhất kinh doanh, cũng như nỗ lực hợp nhất giữa
IFRS và GAAP của Mỹ…
Có thể nói rằng việc áp dụng IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức
ghi nhận, đo lường và trình bày các chỉ tiêu và khoản mục trên BCTC. IFRS được chấp
nhận như chuẩn mực chuẩn mực lập BCTC cho các công ty tìm kiếm sự thừa nhận trên
thị trường chứng khoán thế giới. Việc áp dụng IFRS sẽ tăng khả năng so sánh của các
thông tin tài chính và tăng chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm sự bất
định trong đầu tư, giảm rủi ro đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí
vốn. Hơn nữa, thông qua việc áp dụng IFRS sẽ giảm ngăn cách buôn bán chứng khoán
bằng việc đảm bảo BCTC minh bạch hơn. BCTC được lập theo IFRS dễ hiểu và có thể so
sánh sẽ cải thiện và tạo lập mối quan hệ với người sử dụng BCTC.
Tuy nhiên, việc áp dụng IFRS cũng không hoàn toàn dễ dàng đối với các doanh
nghiệp. Một trong những thách thức đó là phải có đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính
có năng lực. Điều này không phải là vấn đề đơn giản vì IFRS được coi là rất phức tạp
ngay cả đối với các nước phát triển. Theo đó, phương pháp hạch toán các giao dịch theo
IFRS dựa trên bản chất các giao dịch và dựa trên nhiều xét đoán và đánh giá phân tích
của các nhà quản lý, những người sẽ tư vấn cho kế toán viên lập BCTC. Hơn nữa, để áp
dụng IFRS đơn vị phải bỏ ra chi phí ban đầu lớn, xây dựng lại hệ thống thu thập, xử lý và
trình bày các thông tin tài chính./.
Với mục tiêu đáp ứng cho nhu cầu hội nhập, từ năm 1996 Việt Nam đã nghiên cứu
toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS). Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt
Nam được nghiên cứu và xây dựng dựa trên cơ sở các IAS và IFRS được cập nhật mới


nhất, nên thuận lợi là chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được vận dụng sát với hệ thống

chuẩn mực kế toán quốc tế.
Tại Việt Nam, Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền ban hành các chuẩn mực kế
toán. Các chuẩn mực kế toán này được nghiên cứu và soạn thảo bởi Ban chỉ đạo nghiên
cứu, soạn thảo chuẩn mực kế toán Việt Nam gồm 13 thành viên, bao gồm các thành viên
đến từ các cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính và các thành viên đến từ các trường đại học
và Hội kế toán Việt Nam. Vụ chế độ kế toán là đơn vị thường trực của các Ban chỉ đạo và
các Tổ soạn thảo chuẩn mực, có nhiệm vụ tổ chức triển khai việc soạn thảo, tiếp thu ý
kiến và hoàn chỉnh trình Bộ ký ban hành.
Việt Nam đã ban hành được 26 chuẩn mực kế toán sau 5 đợt ban hành. Các chuẩn mực kế
toán của Việt Nam cũng đã dịch ra tiếng Anh nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư nước
ngoài trong việc tìm hiểu hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam. Các chuẩn mực kế toán
Việt Nam so với chuẩn mực kế toán quốc tế đã 11 có sự tương đối phù hợp về nội dung,
về cơ sở đánh giá, ghi nhận và trình bày trên BCTC mà còn cả về hình thức trình bày.
Những khác biệt giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam và hệ thống chuẩn mực
kế toán quốc tế. Với xu hướng toàn cầu hóa về hợp tác và phát triển kinh tế, sự hình
thành hàng loạt các công ty đa quốc gia, thị trường tài chính quốc tế và các hoạt động
thương mại quốc tế, nhà đầu tư không chỉ hoạt động trong phạm vi khu vực mà còn mở
rộng hoạt động ra toàn thế giới. Các báo cáo tài chính phải nói cùng một ngôn ngữ, nhằm
nâng cao tính khách quan, tính có thể tin cậy được, tính có thể so sánh được là một nhu
cầu khách quan và tất yếu. Một ví dụ điển hình ảnh hưởng đến việc so sánh của các nhà
đầu tư do sự khác biệt của chuẩn mực kế toán của công ty Daimler Benz năm 1993, công
ty sản xuất hàng đầu của Đức và là công ty đầu tiên của nước này niêm yết cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán NewYork, đã buộc phải chấp nhận các yêu cầu công bố thông tin
theo chuẩn mực kế toán Mỹ. Theo đó, Công ty Daimler Benz đã phải công bố quỹ dự trữ
vào khoảng 4 tỷ DM (tương đương 2 tỷ đô la Mỹ) trên thị trường New York mà theo luật
của Đức thì công ty không cần phải công bố khoảng quỹ dự trữ này. Luật kế toán của
Đức theo khuynh hướng chống rủi ro -risk-averse trong đầu tư, trong khi đó hệ thống kế
toán Mỹ theo khuynh hướng risk-friendly và báo cáo tài chính được thiết kế nhằm cung
cấp thông tin cho các cổ đông tiềm năng (Geoffrey Mazullo, 1999). Sự khác biệt này đem
lại sự phẫn nộ của các cổ đông của Công ty Daimler Benz ở Đức mà nguyên nhân xuất

phát từ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán.
Có thể nói rằng, việc ban hành và áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế tại thị
trường vốn trên thế giới là một yêu cầu cấp bách và chính đáng nhằm hài hòa các sự khác


biệt của hệ thống các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận và cung cấp cho nhà đầu
tư một cái nhìn chung khi so sánh các báo cáo tài chính với nhau.
So với số lượng của chuẩn mực kế toán quốc tế đã ban hành thì chuẩn mực kế toán
Việt Nam ít hơn. Hiện nay, Bộ Tài chính đang lên kế hoạch để tiếp tục ban hành các
chuẩn mực kế toán khác cho phù hợp với tình hình phát triển tại Việt Nam.
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam ra đời và đưa ra được những nguyên tắc cơ bản
trong việc xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và trình bày các chỉ tiêu tài chính trên
báo cáo tài chính.
Hệ thống tài khoản kế toán sử dụng:
Hệ thống tài khoản kế toán là một phần quan trọng trong hệ thống kế toán của doanh
nghiệp dùng để phân loại và hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế, tài chính theo nội dung
kinh tế.
Tại Việt Nam, hệ thống tài khoản do Bộ Tài chính ban hành. Hệ thống tài khoản trước
đây được ban hành theo Quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT đã được thay thế bởi hệ thống tài
khoản kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 cho chế độ kế toán
doanh nghiệp và Quyết định 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006 cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Quyết định 15/2006/QĐ-BTC được ban hành là một bước tiến giúp doanh nghiệp
có thể đơn giản hóa công tác nghiên cứu và tuân thủ chế độ kế toán, nhất thể hóa công tác
kế toán tiến tới nâng cao tính minh bạch trong kế toán tài chính, đảm bảo tính có thể so
sánh được về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam với
nhau.
Theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006, khi xây dựng hệ thống tài khoản,
doanh nghiệp sẽ tuân thủ đúng với nội dung, kết cấu và phương pháp hạch toán của các
tài khoản cấp 1 và cấp 2; doanh nghiệp chỉ có thể xây dựng hệ thống tài khoản cấp 3 trở
đi cho phù hợp với tình hình quản lý của doanh nghiệp. Vì sự ràng buộc chặt chẽ nói trên

nên việc ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị
nhiều hạn chế.
Trên thực tế, hệ thống tài khoản của các doanh nghiệp thường lập ra nhằm cho mục đích
báo cáo thuế là chính nên cũng ảnh hưởng đến khả năng xây dựng một hệ thống tài khoản
phục vụ cho mục đích kế toán quản trị của doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính:


Tương tự như hệ thống tài khoản của doanh nghiệp, hệ thống Báo cáo tài chính của Việt
Nam phải xây dựng tuân theo mẫu do Bộ Tài chính đưa ra. Trong khi đó, IAS 01 – Trình
bày báo cáo tài chính chỉ yêu cầu doanh nghiệp phải trình bày đầy đủ các chỉ tiêu tài
chính cần thiết trong từng loại báo cáo.
Hệ thống phương pháp đánh giá tài sản:
Đối với phương pháp đánh giá các tài sản, chuẩn mực kế toán Việt Nam thì phương pháp
khấu hao ngoài ra còn có các phương pháp đánh giá tài sản khác là đánh giá lại và tổn
thất.

Nguyên nhân này là do Việt Nam chủ yếu đo lường giá trị tài sản theo phương pháp “giá
gốc” hay “giá lịch sử” (historical/ original cost) mà ít sử dụng phương pháp “giá trị hợp
lý” (fair value). Nguyên tắc giá gốc làm cho báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt
Nam mang tính bảo thủ cao, không phản ảnh được một cách chính xác giá trị hiện tại của
các tài sản khi được đánh giá lại.
Tuy nhiên, việc đánh giá lại của tài sản đòi hỏi phải có thị trường hoạt động, thị trường
hoạt động là thị trường có đặc điểm sau: các giao dịch trên thị trường là đồng nhất,
thường có thể tìm thấy những người muốn mua và bán, và có sẵn giá cả công khai. Vì ở
thị trường Việt Nam, thị trường hoạt động chưa xây dựng được mức giá chuẩn của một số
tài sản nên cũng ảnh hưởng đến việc đánh giá lại giá trị của một số tài sản.
Do đặc thù tại Việt Nam, công tác kế toán đôi khi lại phụ thuộc vào các thông tư
hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực kế toán. Các nhân viên thực thi công tác kế toán tại
các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không xem trong các nội

dung của chuẩn mực mà quá phụ thuộc vào các thông tư hướng dẫn ban hành kèm theo;
đây cũng là một nội dung có ảnh hưởng đáng kể đến thông tin tài chính được trình bày
cho các nhà đầu tư. Chuẩn mực kế toán Việt Nam được cập nhật lại hàng năm phù hợp
với sự phát triển đa dạng của nền kinh tế thế giới.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được xây dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán
quốc tế (IAS/IFRS) từ những năm 2000 đến 2005 theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc
thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp
Việt Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực.
Đến nay, Việt Nam đã xây dựng và ban hành được 26 chuẩn mực kế toán. Việc được xây
dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế là nhằm đảm bảo hệ thống chuẩn mực kế
toán Việt Nam góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong báo cáo tài chính


(BCTC) của các doanh nghiệp, phản ánh được các giao dịch của nền kinh tế thị trường,
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, VAS hiện mới chỉ là sự
vận dụng đơn giản IAS/IFRS trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, thực tế VAS chưa hòa
hợp với IAS/IFRS và chưa cập nhật theo những thay đổi của IAS/IFRS những năm gần
đây.
Sự hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế; lý giải
những khác biệt giữa VAS với IAS/IFRS, đồng thời đề xuất các giải pháp mang tính định
hướng sự phát triển chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp quá trình hội nhập quốc tế.
1. Thực trạng về sự hòa hợp giữa Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) với Chuẩn mực kế
toán quốc tế ( IAS/IFRS):
Khi xây dựng các các chuẩn mực kế toán, quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là tuân thủ
hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. VAS cơ bản đã được xây dựng dựa trên IAS/IFRS,
theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế
và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, VAS đã cơ bản tiếp cận với
IAS/IFRS, phản ánh được phần lớn các giao dịch của nền kinh tế thị trường, nâng cao
tính công khai, minh bạch thông tin về BCTC của các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, VAS
hiện nay vẫn bộc lộ nhiều điểm khác biệt với IAS/IFRS. Điều này thể hiện qua một số

biểu hiện chủ yếu sau:
- Khác biệt cơ bản nhất là VAS chưa có quy định cho phép đánh giá lại tài sản và nợ phải
trả theo giá trị hợp lý tại thời điểm báo cáo. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc kế toán các
tài sản và nợ phải trả được phân loại là công cụ tài chính, làm suy giảm tính trung thực,
hợp lý của BCTC và chưa phù hợp với IAS/IFRS.
- VAS 21 không quy định trình bày Báo cáo biến động vốn chủ sở hữu thành một báo cáo
riêng biệt như IAS 1, mà chỉ yêu cầu trình bày trong thuyết minh BCTC. Ngoài ra, chế độ
kế toán Việt Nam quy định mẫu biểu báo cáo một cách cứng nhắc, làm triệt tiêu tính linh
hoạt và đa dạng của hệ thống BCTC, trong khi IAS/IFRS không đưa ra mẫu biểu cụ thể
của báo cáo.
- Theo VAS 21, doanh thu và chi phí tài chính được tính vào lãi/lỗ hoạt động kinh doanh
trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là không phù hợp với thông lệ quốc tế, khi các
khoản lãi/lỗ bán cổ phiếu vốn không phải của hoạt động mang tính thường xuyên của
doanh nghiệp lại được hiểu là kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu.
- IAS 2 cho phép sử dụng các phương pháp ước tính giá trị hàng tồn kho như phương
pháp chi phí định mức hoặc phương pháp giá bán lẻ, nhưng vấn đề này không được đề


cập ở VAS 2. VAS 2 cho phép áp dụng phương pháp “Nhập sau - Xuất trước” (LIFO)
trong khi IAS/ IFRS không cho phép áp dụng phương pháp này.
- VAS 3 chỉ cho phép đánh giá lại tài sản cố định là bất động sản, nhà xưởng và thiết bị
trong trường hợp có quyết định của Nhà nước, đưa tài sản đi góp vốn liên doanh, liên kết,
chia tách, sáp nhập doanh nghiệp và không được ghi nhận phần tổn thất tài sản hàng năm.
Trong khi đó, theo IAS 16, doanh nghiệp được phép đánh giá lại tài sản theo giá thị
trường và được xác định phần tổn thất tài sản hàng năm, đồng thời được ghi nhận phần
tổn thất này theo quy định tại IAS 36.
- VAS 11 quy định lợi thế thương mại được phân bổ dần trong thời gian không quá 10
năm kể từ ngày mua trong giao dịch hợp nhất kinh doanh. Trong khi đó, IFRS 3 quy định
doanh nghiệp phải đánh giá giá trị lợi thế thương mại tổn thất;
- VAS hiện thiếu một số chuẩn mực liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh

như: thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); công cụ tài chính (IFRS 9); tổn thất tài sản
(IAS 19) các khoản tài trợ của Chính phủ (IAS 20); nông nghiệp (IAS 41); phúc lợi của
nhân viên ( IAS 36)…
Gần đây, có một số nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định mức độ hòa hợp giữa
chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế. Kết quả của một nghiên
cứu chỉ ra rằng, mức độ hòa hợp của VAS với IAS/IFRS liên quan đến 10 chuẩn mực
được chọn nghiên cứu ở mức bình quân là 68%. Theo đó, các chuẩn mực về doanh thu
và chi phí có mức độ hòa hợp cao hơn các chuẩn mực về tài sản. Mức độ hòa hợp về đo
lường (81,2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa về khai báo thông tin (57%) [5;
tr159].
Như vậy, mức độ hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 90%,
theo phát biểu của ông Bùi Văn Mai – nguyên Vụ trưởng Vụ chế độ kế toán - Bộ Tài
chính trong một phỏng vấn của báo Vnexpress, nghĩa là tồn tại một khoảng cách đáng kể
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế. Trong một chừng mực
nào đó, rõ ràng những khác biệt này có ảnh hưởng đến quá trình hội nhập quốc tế về kế
toán của Việt Nam, dù rằng, không phải là không có những nguyên nhân khách quan của
nó.
2. Nguyên nhân tồn tại những khác biệt giữa Chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực
kế toán quốc tế:
Có nhiều lý do để giải thích cho sự chưa hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS, trong đó có
những nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân thuộc về môi trường kế toán.


Nguyên nhân trực tiếp:
- VAS về cơ bản được soạn thảo dựa trên các IAS/IFRS tương ứng được ban hành đến
cuối năm 2003, nhưng sau đó không được cập nhật những sửa đổi của IAS liên quan và
IFRS mới được ban hành sau năm 2003;
- IAS/IFRS ngày càng hướng tới đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý nhằm đảm
bảo tính ‘liên quan’ của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng, trong khi đó giá
gốc vẫn là cơ sở đo lường chủ yếu được qui định bởi VAS;

- IAS/IFRS cho phép sử dụng xét đoán và ước tính nhiều hơn so với VAS, dẫn đến
IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin liên quan đến sử dụng xét đoán và ước tính nhiều
hơn.
Nguyên nhân thuộc về môi trường kế toán:
- Thứ nhất, văn hoá của người Việt Nam là tránh rủi ro và sự không chắc chắn. Áp dụng
IAS/IFRS, sự không chắc chắn là rất cao bởi vì BCTC theo IAS/IFRS sử dụng nhiều ước
tính kế toán, ví dụ như giá trị hợp lý. VAS với các ước tính kế toán ít hơn và thận trọng
hơn làm hạn chế những yếu tố không chắc chắn, tuy nhiên, điều này cũng giảm nhiều sự
phù hợp của thông tin trên BCTC. Đặc điểm văn hoá này là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp và
rất quan trọng đến việc VAS chưa áp dụng hoàn toàn IAS/IFRS.
- Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn khá non trẻ, Việt Nam mới phát triển
kinh tế thị trường từ những năm cuối của thế kỷ 20, thị trường vốn của Việt Nam là một
trong những thị trường non trẻ nhất trên thế giới, mới được hình thành hơn mười năm
nay. Đến nay, nó vẫn chưa thể hiện rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, mới chỉ trong
phạm vi quốc gia, chưa liên thông với thị trường vốn trên thế giới. Trong khi đó, định
hướng của IAS/IFRS là xây dựng hệ thống các chuẩn mực kế toán hoàn toàn thị trường
và hỗ trợ thị trường vốn, một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, chất
lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới, nhằm giúp những người tham gia
vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới ra quyết định kinh tế. Do vậy, định hướng
phát triển của VAS để phục vụ cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn không mạnh như
IAS/IFRS; nhu cầu của Việt Nam về một hệ thống kế toán phức tạp và hợp lý như
IAS/IFRS để phục vụ thị trường vốn là chưa cấp bách. Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay,
nhiều đối tượng sử dụng BCTC chưa có nhu cầu thực sự đối vối thông tin tài chính chất
lượng cao vì thông tin tài chính chỉ đóng vai trò thứ yếu trong việc ra quyết định của họ.
- Thứ ba, Việt Nam là một nước theo hướng điển chế luật (code law) hay luật thành văn
(civil law), khác với các nước theo hướng thông luật (common law). Trong các nước theo


hướng điển chế luật, nhìn chung, sự bảo vệ quyền cổ đông và yêu cầu về tính minh bạch
của thông tin thấp hơn trong các nước theo hướng thông luật. VAS được xây dựng phù

hợp với đặc điểm hệ thống luật của một nước theo hướng điển chế luật trong khi
IAS/IFRS được phát triển phù hợp với hệ thống luật của các nước theo hướng thông luật.
Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia mà cơ sở, nguyên tắc kế toán được quy chiếu vào chế độ
kế toán quốc gia. Theo đó, Nhà nước có vai trò kiểm soát kế toán về phương pháp đo
lường, đánh giá, soạn thảo và trình bày báo cáo; việc soạn thảo, ban hành các chuẩn mực
kế toán và các hướng dẫn thực hiện phải do các cơ quan nhà nước thực hiện và được đặt
trong các bộ luật hoặc các văn bản pháp lý dưới luật. Trong khi đó, tại các quốc gia phát
triển IAS/IFRS, các cơ sở, nguyên tắc kế toán không quy chiếu vào chế độ kế toán quốc
gia; việc kiểm soát của Nhà nước được thực hiện thông qua việc giải thích mục tiêu,
nguyên tắc kế toán, phương pháp đo lường, đánh giá, soạn thảo và trình bày BCTC;
chuẩn mực, nguyên tắc kế toán thường được thiết lập bởi các tổ chức tư nhân chuyên
nghiệp, điều đó cho phép chúng trở nên dễ thích ứng với thực tiễn và sáng tạo hơn, và
phần lớn các nguyên tắc này không được quy định trực tiếp trong các văn bản luật.
3. Định hướng phát triển chuẩn mực kế toán Việt Nam hòa hợp với chuẩn mực kế toán
quốc tế:
Có thể nói rằng, việc áp dụng IAS/IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức
ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác biệt trong chuẩn
mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp
dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập và trình bày BCTC. IAS/IFRS
được chấp nhận như chuẩn mực lập BCTC cho các công ty tìm kiếm sự thừa nhận trên thị
trường chứng khoán thế giới. Việc sử dụng IAS/IFRS mang lại những lợi ích khá rõ,
như : tiết kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng hòa nhập vào chuẩn mực kế
toán quốc tế được chấp nhận; sự hội nhập về kế toán giúp cho các công ty huy động vốn
trên thị trường quốc tế. Đến nay, đã có hơn 119 quốc gia trên thế giới thực hiện việc yêu
cầu (bắt buộc) hoặc cho phép (không bắt buộc) các công ty niêm yết trên thị truờng
chứng khoán của họ sử dụng IAS/IFRS khi lập và trình bày BCTC.
Tuy nhiên, việc áp dụng IAS/IFRS không phải là hoàn toàn dễ dàng đối với các doanh
nghiệp ở các quốc gia. Một trong những thách thức đó là phải có đội ngũ nhân viên kế
toán và chi phí. Điều này không đơn giản vì IAS/IFRS được xem là khá phức tạp ngay
cả đối với các nước phát triển. Để áp dụng IAS/IFRS đơn vị phải bỏ ra chi phí ban đầu

khá lớn, xây dựng lại hệ thống thu thập, xử lý và trình bày các thông tin tài chính. Ngoài
ra, phương pháp xây dựng IAS/IFRS về cơ bản là theo mô hình Anglo-America, do đó có
thể không phù hợp với các nước đang phát triển vì có sự khác biệt lớn về văn hóa và môi
trường kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (Prather-Kinsey,


2006). Theo Carmona and Trombetta (2008), IAS/IFRS dựa trên nguyên tắc (principlebased IAS/IFRS) có tính linh hoạt cao nên có thể khó vận dụng vào hoàn cảnh các nước
đang phát triển, vốn thiếu một thị trường phát triển để có thể áp dụng phương pháp dựa
trên thị trường (market-base) để ước tính giá trị hợp lý
Từ các nguyên nhân của sự chưa hòa hợp giữa VAS với IAS/IFRS và những phân tích
nêu trên, có thể thấy, việc Việt Nam lựa chọn mô hình vận dụng có chọn lọc IAS/IFRS
làm cơ sở chủ yếu để xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán cho mình là một sự lựa chọn
hợp lý. Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế nói chung
và hội nhập về kế toán nói riêng, một số giải pháp mang tính định hướng cần được xem
xét một cách tích cực, như sau:

Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, trong IAS/IFRS, giá trị hợp lý được sử dụng ngày càng
nhiều trong đo lường và ghi nhận các yếu tố của BCTC. Cuộc họp tháng 09/2009 tại Mỹ,
nhóm các nước G-20 đã xác nhận lại cam kết thúc đẩy việc hội tụ hệ thống chuẩn mực
BCTC quốc tế ( IFRS) trong đó có đề cập đến việc sử dụng giá trị hợp lý như một cơ sở
đo lường chủ yếu nhằm tăng cường tính thích hợp của thông tin trình bày trên BCTC.
Cũng trong năm 2009, Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) công bố dự thảo “Các
quy định về đo lường giá trị hợp lý’, trong đó, thống nhất giá trị hợp lý là “ giá trị đầu ra”
của tài sản hay nợ phải trả. Trong khi đó, VAS1 hầu như chỉ đưa ra nguyên tắc giá gốc.
Việc sử dụng giá gốc làm cơ sở đo lường chủ yếu có thể đạt được độ ‘tin cậy’ nhưng làm
giảm tính ‘liên quan’ của thông tin được cung cấp bởi BCTC. Do vậy, trong một tương lai
không xa, việc nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và điều kiện, phương pháp vận dụng
“Nguyên tắc giá trị hợp lý” trở thành một vấn đề cần được Việt Nam xem xét và thực
hiện một cách nghiêm túc.
Thứ hai, cần khẩn trương đánh giá, sửa đổi, bổ sung cập nhật 26 chuẩn mực đã ban hành

cho phù hợp với những thay đổi của IAS/IFRS và thực tiễn hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam.
Thứ ba, nhằm đáp ứng kịp thời sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế, cần sớm ban
hành 5 chuẩn mực kế toán liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh trong đời
sống kinh tế, bao gồm: Thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); Tìm kiếm, thăm dò và xác
định giá trị các nguồn tài nguyên khoáng sản (IFRS 06); Công cụ tài chính (IFRS 7;
IFRS 9); Các khỏan tài trợ của Chính phủ (IAS 20): Tổn thất tài sản (IAS 36). Một số
chuẩn mực cũng cần có bước chuẩn bị để ban hành trong thời gian tiếp theo như: Tài sản


nắm giữ để bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; Phúc lợi của nhân viên; Nông
nghiệp.
Thứ tư, Việt Nam cần từng bước tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế và luật pháp phù
hợp với yêu cầu của IAS/IFRS. Chẳng hạn như thị trường giao dịch tài sản cần phải
‘minh bạch’ và ‘hoạt động’ để có thể sử dụng giá trị hợp lý làm cơ sở đo lường giá trị tài
sản…
Kế toán môi trường ở nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển có thể coi là những kinh
nghiệm đáng quý cho các nước đi sau như Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các DN Hoa
Kỳ, việc áp dụng những biện pháp bảo vệ môi trường và áp dụng kế toán môi trường sẽ
làm tăng chi phí nói chung và chi phí về môi trường nói riêng, song cũng sẽ giúp DN thu
lợi ích lớn hơn từ những hoạt động bảo vệ môi trường như: Thu nhập tăng lên từ tiết kiệm
nước, năng lượng, nguyên liệu sử dụng, giảm chất thải, giảm chi phí xử lý chất thải.
Hiện nay, việc áp dụng kế toán môi trường tại nước này chủ yếu tập trung vào vấn đề
chi phí môi trường phục vụ cho quá trình ra quyết định của nhà quản trị, tập trung vào
cung cấp thông tin về môi trường theo yêu cầu của cơ quan quản lý và các thông tin kế
toán này được thể hiện trong Báo cáo sáng kiến toàn cầu (GRI).
Kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc... cho thấy, việc áp dụng kế toán
môi trường trong doanh nghiệp tuy làm gia tăng chi phí về môi trường, song cũng giúp
cho doanh nghiệp gia tăng lợi ích từ thu nhập về sản phẩm thân thiện với môi trường; tiết
kiệm chi phí nguyên liệu, chi phí xử lý chất thải, chi phí bị xử phạt do gây ô nhiễm...

Tại Đức, các DN áp dụng kế toán môi trường giúp đưa ra quyết định thay đổi về kỹ
thuật, về hệ thống tổ chức quản lý, về chiến lược sản phẩm theo hướng sản phẩm xanh,
về sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường… Sự thay đổi này dẫn đến tiết kiệm
chi phí nguyên liệu, năng lượng, nước, tiết kiệm chi phí xử lý chất thải, nâng cao năng
suất, hiệu quả hoạt động... Kinh nghiệm của các DN Đức cũng cho thấy, việc áp dụng kế
toán môi trường chủ yếu tập trung vào hạch toán dòng vật liệu, phân tích Bảng đầu vào đầu ra, xác định lượng nguyên liệu, năng lượng, nước sử dụng hàng năm, xác định lượng
khí thải, nước thải, chất thải rắn hàng năm.
Ở châu Á, Nhật Bản là quốc gia mà các DN luôn đi đầu trong việc nghiên cứu và ứng
dụng kế toán môi trường. Thực tế tại các DN quốc gia này cho thấy, việc áp dụng những
biện pháp bảo vệ môi trường và áp dụng kế toán môi trường sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế
của DN và hiệu quả bảo vệ môi trường.


Việc áp dụng kế toán môi trường tập trung vào hạch toán dòng vật liệu, kế toán chi phí
và thu nhập về môi trường, phân tích bảng cân bằng sinh thái, phân tích chu kỳ sống sản
phẩm, xác định lượng nguyên liệu, năng lượng, nước sử dụng hàng năm, xác định lượng
khí thải nước thải, chất thải rắn hàng năm, kế toán chi phí và thu nhập về môi trường. Kế
toán môi trường của Nhật Bản chú trọng đến việc sử dụng cả thước đo hiện vật và thước
đo giá trị trong quá trình hạch toán và thông tin về môi trường được trình bày trong Báo
cáo thường niên về môi trường, xã hội và tài chính.
Về cơ bản, để áp dụng kế toán môi trường đòi hỏi phải có hệ thống các chính sách,
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan của Chính
phủ liên quan đến vấn đề môi trường và kế toán, các tổ chức bảo vệ môi trường, các hội
nghề nghiệp về kế toán trong, ngoài nước và đặc biệt đối tượng chính là cộng đồng DN.
Việc áp dụng kế toán môi trường trong DN của các quốc gia ban đầu thường mang tính
tự nguyện, nên trong giai đoạn đầu, các cơ quan quản lý chỉ ban hành những hướng dẫn
DN thực hiện kế toán môi trường. Thực tiễn cho thấy, các DN thực hiện kế toán môi
trường thì hiệu quả kinh doanh ngày càng tăng, tạo động lực cho tất cả các DN khác áp
dụng kế toán môi trường. Vì vậy, các cơ quan quản lý nên ban hành những chuẩn mực về
kế toán môi trường, quy định những thông tin môi trường trình bày trong báo cáo cung

cấp cho bên ngoài DN, nhằm đảm bảo sự thống nhất quản lý về môi trường.
Theo các chuyên gia kế toán, các DN của mỗi quốc gia, tùy theo cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực và trình độ quản lý ở mỗi giai đoạn có thể nhấn mạnh một hoặc nhiều nội
dung của kế toán môi trường nhưng về cơ bản nội dung của kế toán môi trường là: Hạch
toán dòng vật liệu; Phân tích chu kỳ sống sản phẩm; Kế toán chi phí và thu nhập về môi
trường; Đánh giá trách nhiệm trong quản lý môi trường; Trình bày thông tin về môi
trường trong báo cáo của DN…
Trong bối cảnh hiện nay, DN Việt Nam có thể lựa chọn vận dụng từ kinh nghiệm kế
toán quản trị môi trường từ các nước Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc cho phù hợp với
điều kiện hoạt động của DN mình. Thực tế cũng cho thấy, kế toán môi trường thường
được áp dụng tại các DN có quy mô lớn có nguồn tài chính dồi dào và chính sách hoạt
động nghiêm ngặt. Do vậy, đối với các DN Việt Nam, trong giai đoạn đầu, có thể kế toán
môi trường nên được thử nghiệm tại một dây chuyền hoặc một bộ phận trước khi tiến
hành đại trà toàn DN.
Kể từ khi thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo định hướng kinh tế thị trường,
nhất là trong những năm gần đây. Chính sách thuế và hệ thống kế toán Việt Nam đã có
nhiều thay đổi theo hướng ngày càng phù hợp hơn với cơ chế quản lý mới và hội nhập


với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Cùng với xu thế này, sự khác biệt giữa
chính sách thuế và hệ thống chuẩn mực, chế độ kế toán đã xuất hiện và ngày càng trở nên
rõ ràng.
Sự khác biệt giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán Việt Nam còn trở nên sâu sắc
hơn, khi hệ thống kế toán tiếp tục hội nhập sâu hơn với thông lệ kế toán quốc tế. Thực tế
này sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng cũng như
việc chấp hành chế độ chính sách tại các doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần hài
hòa một cách hợp lý sự khác biệt giữa chúng, trong đó cần quan tâm giải quyết một số
nội dung cơ bản.
Trước xu hướng hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam với các nước trong
khu vực và trên thế giới, chính sách thuế và chính sách kế toán cần được đổi mới một

cách đồng bộ trong mối quan hệ mất thiết, kế thừa với nhau. Các cơ quan soạn thảo và
hoạch định chính sách thuế và chính sách kế toán, cần tăng cường trao đổi, hội thảo để
xác định và từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các chính sách một cách hợp lý.
Việt Nam đang thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với việc đa dạng hóa
các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác ngoài doanh nghiệp nhà nước.
Trước đây, chúng ta chỉ có những chính sách tài chính, quy định dành riêng cho các
doanh nghiệp nhà nước mà không cú cỏc chính sách và quy định đối với doanh nghiệp cổ
phần và trách nhiệm hữu hạn, từ đó, không tạo ra môi trường bình đẳng và sự đồng nhất,
có thể so sánh được. Còn ngày nay, cạnh tranh mạnh mẽ hơn, bình đẳng hơn đòi hỏi các
doanh nghiệp phải công khai thông tin một cách hữu hiệu hơn để tăng cường thu hút đầu
tư. Thêm vào đó nhu cầu của nhà đầu tư là có một cơ sở để so sánh các công ty với nhau
nhằm đưa ra các quyết định đầu tư bắt đầu nảy sinh cùng với sự ra đời của thị trường
chứng khoán Việt Nam và sự thay đổi trong chính sách đầu tư của Việt Nam. Đó là Chính
phủ Việt Nam ngày càng mong muốn kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn vào Việt
Nam.
Do đó, sự ra đời của hệ thống chuẩn mực kế toán đã đáp ứng nhu cầu minh bạch hóa
thông tin của doanh nghiệp thụng cỏc báo cáo tài chính có khả năng phản ánh đúng thực
trạng kinh doanh của doanh nghiệp và tạo một cơ sở chung để so sánh các doanh nghiệp
với nhau. Không phải chỉ là sự so sánh giữa các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, mà
còn có thể so sánh doanh nghiệp Việt Nam với những doanh nghiệp nước ngoài, hoặc là
doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể so sánh với doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế, mục
tiêu của chuẩn mực kế toán là rất cao và khác hẳn với cơ chế chính sách mà Việt Nam đó
cú từ những năm trước.


Đây chính là tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vì yêu cầu
đặt ra đối với các công ty niêm yết là phải công khai, minh bạch thông tin và báo cáo tài
chính trung thực.
Đây cũng là một nhân tố tạo lòng tin cho nhà đầu tư nước ngoài do rủi ro đối với việc
thông tin tài chính không được minh bạch hóa ở Việt Nam đã được giảm bớt. Nhà đầu tư

nước ngoài có thể an tâm hơn khi đầu tư ở Việt Nam.
Cả hai điều này cộng lại đó giúp doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn được dễ dàng
hơn, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa hội nhập về dịch vụ kế toán, kiểm toán.
Kế toán, kiểm toán đã trở thành một nghề nghiệp được xã hội và pháp luật thừa nhận thì
sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán để hướng dẫn và kiểm tra là tất yếu
Thực tế vận dụng chuẩn mực kế toán Việt Nam vào thực tiễn cho thấy về cơ bản nội
dung của các chuẩn mực kế toán Việt Nam là có sự thống nhất, không có sự xung đột với
các cơ chế tài chính hiện hành nhờ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
quá trình thực hiện.
Các công ty kế toán hay kiểm toán cũng sẽ hoạt động dễ dàng hơn trên phạm vi quốc tế
khi cú cỏc chuẩn mực kế toán quốc tế chung được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Như đã phân tích ở phần các nguyên nhân khiến cho Việt Nam chưa áp dụng toàn bộ
các chuẩn mực kế toán quốc tế, một trong những nguyên nhân quan trọng là mức độ phát
triển của nền kinh tế.
Có những quy định trong chuẩn mực kế toán quốc tế mà chỉ có thể thực hiện được khi
nền kinh tế của một nước là nền kinh tế thị trường. Ví dụ như các quy định về đánh giá
lại tài sản hay xác định giá trị hợp lý trong IAS 16, IAS 38 chỉ thực hiện được khi mà các
tài sản được đánh giá lại giá trị có thị trường hoạt động. Khái niệm về thị trường hoạt
động như sau :
“Thị trường hoạt động là thị trường thỏa mãn đồng thời ba điều kiện sau :
(a)Cỏc sản phẩm được bỏn trờn thị trường này có tính tương đồng
bán trên thị trường này có tính tương đồng

Các sản phẩm được

(b)người mua và người bán có thể tìm thấy nhau vào bất cứ lúc nào người mua và người
bán có thể tìm thấy nhau vào bất cứ lúc nào
(c)giỏ cả được công khai.” giá cả được công khai.”



Khái niệm về thị trường hoạt động đã được trích dẫn ở trên cho thấy chỉ có một nền
kinh tế thị trường mới có thể những thị trường hoạt động cung cấp các ước tính đáng tin
cậy về giá trị của tài sản. Nếu chúng ta cứ bàn về vấn đề hoàn thiện các chuẩn mực kế
toán Việt Nam theo các chuẩn mực kế toán quốc tế mà không có cơ sở vững chắc từ nền
kinh tế thỡ đú sẽ là những giải pháp không khả thi.
Không chỉ có vậy, nền kinh tế phát triển thì mới nảy sinh các hoạt động kinh tế cần sự
điều chỉnh của các chuẩn mực kế toán quốc tế. Như hoạt động tài chính ở nước ta chưa
phát triển đến mức cần có chuẩn mực kế toán điều chỉnh nờn dự thế giới đó cú IAS 32 là
chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày công cụ tài chính thì cho đến nay Việt Nam mới
chỉ bàn đến việc soạn thảo chuẩn mực kế toán này ở Việt Nam.
Do đó, tốc độ phát triển của nền kinh tế là một điều kiện quyết định việc tiến hành đưa
chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với chuẩn mực kế toán quốc tế là nhanh hay chậm,
dễ dàng hay khó khăn.
Mà để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế thì cần phải có những chính sách
phát triển kinh tế đúng hướng của Nhà Nước. Bên cạnh đó Nhà Nước cần hoàn thiện các
cơ chế và hệ thống pháp luật kinh tế tài chính phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà Nước.
Sự chuẩn bị của các doanh nghiệp:
Các chuẩn mực kế toán đưa ra vừa để quản lý các hoạt động của doanh nghiệp vừa để
tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực thi các nghĩa vụ của họ về báo cáo tài
chính.
Do đó, các chuẩn mực có thể có sức sống trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp
hay không phụ thuộc vào các doanh nghiệp rất nhiều.
Nếu như các doanh nghiệp không tìm hiểu các chuẩn mực được ban hành và có ý thức
chấp hành nghiêm chỉnh các chuẩn mực thỡ cỏc chuẩn mực kế toán sẽ hoàn toàn không
có ý nghĩa thực tiễn. Việc tuân theo các chuẩn mực đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu được
đỳng, sõu và đầy đủ định nghĩa, khái niệm và cách hạch toán được quy định trong các
chuẩn mực. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện nếu như hội kế toán và kiểm toán Việt
Nam (VAA) đứng ra chủ trì và tổ chức nhiều buổi hội thảo để phổ biến các chuẩn mực kế

toán cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc với những người thực
hiện việc soạn thảo các chuẩn mực để giải đáp các vướng mắc trong khi thực hành các
chuẩn mực kế toán ở doanh nghiệp. Đó có thể coi như là một cầu nối giữa những người


soạn thảo chuẩn mực và những người tuân theo chuẩn mực tạo ra một sự tác động qua lại
giữa hai đối tượng đó.
Các doanh nghiệp cũng phải có ý thức đầu tư hơn nữa vào việc cải thiện việc tổ chức
công tác kế toán, hệ thống thông tin và nguồn nhân lực kế toán ở doanh nghiệp mình. Đó
là do các chuẩn mực kế toán quốc tế yêu cầu hệ thống kế toán của doanh nghiệp phải
cung cấp nhiều thông tin chi tiết và phức tạp hơn (ví dụ như phải trình bày nhiều thông
tin hơn trên báo cáo tài chính). Do đó, nếu doanh nghiệp không có hệ thống thông tin tốt
đáp ứng nhu cầu thông tin chi tiết, không có đội ngũ nhân viên kế toán đủ khả năng sử
dụng hệ thống thông tin và đủ khả năng lập các báo cáo theo các chuẩn mực kế toán quốc
tế thì việc áp dụng hoàn toàn các chuẩn mực kế toán quốc tế ở các doanh nghiệpViệt Nam
là hoàn toàn không khả thi. Do đó, Nhà Nước và các bộ ban ngành liên quan nờn cú
chiến lược, kế hoạch giúp đỡ các doanh nghiệp cải thiện hệ thống thông tin, tổ chức công
tác hạch toán kế toán một cách khoa học và hiệu quả hơn và nâng cao khả năng tri thức
của nguồn nhân lực kế toán. Một biện pháp hiệu quả để nâng cao nhân lực của nguồn
nhân lực kế toán thì ngay từ bây giờ các doanh nghiệp nên giúp đỡ nhân viên kế toán của
mình tiếp cận với các bằng cấp kế toán quốc tế uy tín như ACCA của Anh, CPA của ÚC,
…..
Như vậy, để chuẩn bị cho việc đưa các chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với các
chuẩn mực kế toán quốc tế thì chúng ta cần phải chuẩn bị rất nhiều điều kiện hỗ trợ như
đã phân tích ở trên. Không có những điều kiện hỗ trợ đú thỡ bất cứ giải pháp nào đưa ra
để giỳp cỏc chuẩn mực kế toán Việt Nam tiệm cận với các chuẩn mực kế toán quốc tế đều
không có tính khả thi.
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường và đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, Việt Nam cần khẩn trương bổ sung và hoàn thiện pháp luật liên quan đến kế toán

môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững..



×