Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận: Công tác đánnh giá tác động môi trường của Việt Nam những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.02 KB, 19 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh
hưởng đến môi trường của các dự án quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, của
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học kỹ thuật, y tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp
thích hợp về bảo vệ môi trường.
Hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở đây có loại mang tính kinh tế - xã
hội của quốc gia, của một địa phương lớn, hoặc một ngành kinh tế văn hóa quan
trọng (luật lệ, chính sách quốc gia, những chương trình quốc gia về phát triển
kinh tế - xã hội, kế hoạch quốc gia dài hạn), có loại mang tính kinh tế - xã hội vi
mô như đề án xây dựng công trình xây dựng cơ bản, quy hoạch phát triển, sơ đồ
sử dụng một dạng hoặc nhiều dạng tài nguyên thiên nhiên tại một địa phương
nhỏ. Tuy nhiên, một hoạt động có ý nghĩa vi mô đối với cấp quốc gia, nhưng có
thể có ý nghĩa vĩ mô đối với xí nghiệp. Hoạt động vi mô nhưng được tổ chức
một cách phổ biến trên địa bàn rộng có khi lại mang ý nghĩa vĩ mô.
Tác động đến môi trường có thể tốt hoặc xấu, có lợi hoặc có hại nhưng
việc đánh giá tác động môi trường sẽ giúp những nhà ra quyết định chủ động lựa
chọn những phương án khả thi và tối ưu về kinh tế và kỹ thuật trong bất cứ một
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nào.
Công tác đánh giá tác động môi trường ở các nước phát triển trên thế giới
đã được chú trọng từ lâu và thực hiện một cách có hiệu quả. Còn ở Việt Nam,
công tác này mới được chú trọng trong những năm trở lại đây, khi mà kinh tế
phát triển, các dự án càng ngày càng nhiều và với quy mô lớn nên việc ảnh
hưởng tới môi trường là tác động không thể tránh khỏi.
1


Những ngày qua, cuộc sống của người dân khu vực Thủy điện Sông Tranh
2 liên tục chịu ảnh hưởng bởi các trận động đất kích thích. Trong khi đó, Báo cáo
đánh giá tác động môi trường (ĐGTĐMT) được lập từ năm 2005 lại khẳng định
thủy điện này "không có khả năng gây động đất kích thích khi tích nước, không


gây rủi ro môi trường". Dưới góc nhìn của nhiều nhà khoa học, ĐGTĐMT ở Việt
Nam hiện nay có nhiều vấn đề chứ không riêng gì ở Thủy điện Sông Tranh 2.
Vậy thì Việt Nam chúng ta đã thực hiện công tác đánh giá tác động như
thế nào và hiệu quả ra sao? Đó chính là vấn đề được quan tâm hiện nay và là chủ
đề của bài tiểu luận này.
Do còn hạn chế về thời gian và trình độ hiểu nên bài làm không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô cùng toàn thể các
bạn. Em cũng xin chân thành cảm ơn giảng viên Th.s Trần Thị Ninh đã hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.

2


NỘI DUNG CHÍNH
I.

TỔNG QUAN VỀ ĐTM

I.1 Lịch sử hình thành của ĐTM ở Việt Nam
Ở Việt Nam lần đầu tiên quy trình ĐTM được đưa ra trong Luật Bảo vệ
Môi trường năm 1993, và đến nay đã có những điều chỉnh đáng kể.
Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên được quy định tại điều 17 và 18 của Luật
BVMT ban hành ngày 27/12/1003, và tiếp đó là Nghị địn 175/CP của Chính phủ
về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993. Các quy định này yêu cầu tất cả các dự
án trong nước và đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải thực hiện
ĐTM. Các dự án đã đi vào hoạt động cũng cần lậ báo cáo đánh giá tác động môi
trường dưới dạng “kiểm toán môi trường”.
Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã giành riêng một
chương quy định về công tác đánh giá tác động môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.

Nếu như bước tiến hành báo cáo ĐTM sơ bộ được coi là bắt buộc đối với
các dự án trước khi có Luật BVMT 2005, thì sau khi luật này có hiệu lực, bước
này đã bị xóa bỏ. Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi luật BVMT 2005 được
ban hành là giai đoạn bước đệm của Việt Nam. Đến năm 2008, một bảng danh
mục các đối tượng gầm 162 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường đã được quy định tại Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 28/2/2008. Các dự án thuộc danh mục này sẽ phải thực hiện báo
cáo đánh giá tác động môi trường chi tiết, nếu không chỉ cần thực hiện cam kết
bảo vệ môi trường. Đối tượng của quy định “ĐTM bổ sung” là các dự án mở
3


rộng hoặc thay đổi công nghệ của các cơ sở đang sản xuất. Khái niệm này thay
thế cho dạng báo cáo ĐTN của các cơ sở.
Theo luật bảo vệ môi trường Việt Nam đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp
thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và được ban hành theo Lệnh số
29/2005L-CTN của Chủ tịch nước ngày 12 tháng 12 năm 2005 định nghĩa rằng :
“Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi
trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi
triển khai dự án đó”.
I.2 Mục đích, ý nghĩa của ĐTM
A, Mục đích
Nhằm cung cấp một quy trình xem xét tất cả tác động có hại đến môi
trường của các chính sách chương trình, hoạt động và của dự án. Nó góp phần
loại trừ cách “đóng cửa” ra quyết định như vẫn thường thấy trước đây, không
tính đến ảnh hưởng môi trường trong các khu vực công cộng và tư nhân.
Tạo ra cơ hội có thẻ trình bày với người ra quyết định về tính phù hợp của
chính sách, chương trình, hoạt động, dự án về mặt môi trường để ra quyết định
có tiếp tục thực hiện hay không.
Đối với các chương trình chính sách, hoạt động, dự án được chấp nhận

thực hiện thì ĐTM tạo ra cơ hội trình bày sự phối kết hợp các điều kiện có thể
giảm nhẹ tác động có hại tới môi trường.
Tạo ra cơ phương thức để cộng đồng có thể góp cho quá trình ra quyết
định thông qua các đề nghị bằng văn bản hoặc gửi ý kiến tới người ra quyết định.
Công chúng có thể tham gia vào quá trình này thông qua các cuộc họp công khai
hoặc trong việc hòa giải giữa các bên.
4


Với ĐTM, tòan bộ quá trình phát triển được công khai để xem xét một
cách đồng thời lợi ích của tất cả các bên: bên đề xuất dự án, Chính phủ và cộng
đồng. Điều đó góp phần lựa chọn được dự án tốt hơn để thực hiện.
Những dự án mà về cơ bản không đạt yêu cầu hoặc sai vị trí thì có xu
hướng tự loại trừ, không phải thực hiện ĐTM và tất nhiên là không cần cả đến sự
chất vấn của công chúng.
Thông qua ĐTM, nhiều dự án được chấp nhận nhưng phải thực hiện
những điều kiện nhất định, chẳng hạn chủ dự án phải đảm bảo quá trình đo đạc
giám sát, lập báo cáo hàng năm hoặc phải có phân tích sau dự án và kiểm toán
độc lập.
Trong ĐTM phải xé cả đến các khả năng thay thế, chẳng hạn như công
nghệ, địa điểm đặt dự án phải được xem xét hết sức cẩn thận.
B, Ý nghĩa
Khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn. Việc xem xét kỹ lưỡng dự án
và những dự án có khả năng thay thế từ công tác ĐTM sẽ giúp cho dự án hoạt
động có hiệu quả hơn.
ĐTM có thể giúp tiết kiệm thời gian và tiền của trong thời gian phát triển
lâu dài. Qua các nhân tố môi trường tổng hợp được xem xét đến trong các quá
trình ra quyết định của Chính phủ tránh được những chi phí không cần thiết và
tránh được những hoạt động sai lầm, phải khắc phục trong tương lai.
Giúp nhà nước, các cơ sở và cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ hơn. Các

đóng góp của cộng đồng trước khi dự án được bắt đầu, hoạt động có thể nâng
cao mối liên hệ cộng đồng và đảm bảo hiệu quả đầu tư. Thực hiện công tác ĐTM
tốt có thể đóng góp cho sự phát triển thịnh vượng trong tương lai. Thông qua các
5


kiến nghị của ĐTM, việc sử dụng tài nguyên sẽ thận trọng hơn và giảm được sự
đe dọa của suy thoái môi trường đên sức khỏe con người và hệ sinh thái.
III.3 Quy trình thực hiện ĐTM ở Việt Nam
- Khảo sát điều kiện địa lý, địa chất, khí tượng, thủy văn;
- Điều tra, khảo sát, thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên, môi trường, KT XH;
- Khảo sát, thu mẫu, đo đạc và phân tích các mẫu không khí, mẫu nước, mẫu
đất trong và xung quanh khu vực dự án;
- Xác định các yếu tố vi khí hậu trong khu vực dự án;
- Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực thực hiện dự án;
- Xác định các nguồn gây ô nhiễm của dự án như: khí thải, nước thải, chất
thải rắn, tiếng ồn; xác định các loại chất thải phát sinh trong quá trình xây dựng
và hoạt động của dự án bằng các phương pháp thống kê, phân tích, thu thập,
đánh giá nhanh;
- Đánh giá mức độ tác động, ảnh hưởng của các nguồn ô nhiễm kể trên đến
các yếu tố tài nguyên, môi trường, xã hội, con người xung quanh khu vực thực
hiện dự án;
- Xây dựng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho giai đoạn xây
dựng dự án;
- Xây dựng các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, phương án quản lý môi trường
quá trình hoạt động và dự phòng sự cố môi trường;

6



- Đề xuất phương án xử lý nước thải, khí thải, phương án thu gom và xử lý
chất thải rắn từ hoạt động của dự án;
- Tham vấn ý kiến UBND và UBMTTQ phường nơi thực hiện dự án;
- Xây dựng chương trình giám sát môi trường;
- Lập hội đồng thẩm định và phê duyệt báo cáo.
II.

THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐTM Ở VIỆT NAM VÀ HIỆU
QUẢ CỦA BÁO CÁO ĐTM Ở VIỆT NAM

II.1 Thực tiễn thực hiện ĐTM ở Việt Nam
Qua thực tiễn 15 năm hoạt động thực hiện đánh giá tác động môi
trường đã giúp chính phủ Việt Nam từng bước cụ thể hóa và cải thiện hệ
thống quy định ĐTM, tạo lập và phát triển năng lực đội ngũ thực hiện
ĐTM; nhờ ĐTM nhiều dự án có nguy cơ, rủi ro cao đối với môi trường và
xã hội đã buộc phải chấm dứt hoặc điều chỉnh lại. Tuy nhiên, họat động
ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều hạn chế bất cập và yếu kém về cả chất
lượng cũng như việc thực thi theo quy định pháp luật.
Nhìn chung ĐTM vẫn bị hành xử như một thủ tục nhằm hợp thức
hóa quá trình thẩm định và phê duyệt các dự án, hoạt động đầu tư. Bản tha
quy định luật pháp hiện hành về ĐTM cũng chưa chặt chẽ. Nhiều hậu quả
nghiêm trọng về môi trường và xã hội đã xảy ra do các yêu cầu về ĐTM bị
làm ngơ hoặc không được thực hiện nghiêm chỉnh.
Sau thời gian thực hiện đội ngũ chuyên gia thực hiện tổ chức và
dịch vụ tư vấn ĐTM đã tăng nhanh đáp ứng nhu cầu thị trường của các
họat động đầu tư nở rộ trên cả nước. Trước đây chúng ta phải thuê chuyên
7


gia nước ngoài thì nay rất nhiều cơ quan trong nước đã đảm nhiệm được

vai trò này và đưa ra nhiều báo cáo chất lượng tốt. Tuy nhiên, yêu cầu về
năng lực vẫn còn bị bỏ ngỏ, chưa có chế tài pháp lý nào ràng buộc. Về
điều này, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên viện trưởng viện hạt nhân Đà
Lạt, đã từng đề nghị “cần có chứng chỉ bắt buộc đối với cán bộ thực hiện
ĐTM ở Việt Nam”. Cán bộ thẩm địnhvà phê duyệt báo cáo ĐTM ở cấp
trung ương thuộc Vụ Thẩm định (Bộ TN-MT) và Bộ trưởng Bộ TN-MT
chịu trách nhiệm phê duyệt. Ở cấp địa phương phòng Thẩm định thuộc Sở
TN-MT và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm phê duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường. Theo đánh giấ của các chuyên gia
năng lực thẩm định báo cáo ĐTM đã được nâng cao đánh kể do có nhiều
cán bộ được đào tạo bài bản trong nước cũng như ngoài nước. Tuy nhiên ở
cấp cơ sở thì năng lực của đội ngũ nàyc òn hạn chế, chưa đáp ứng được
nhu cầu đa dạng vê kiến thức khoa học môi trường có liên quan đến nhiều
ngành khác nhau.
Còn về phần các chủ đầu tư, các nhà quản lý chưa ý thức được ý
nghĩa của công tác ĐTM. Họ chỉ coi đây như một thủ tục, giấy thông
hành. Vì vậy, họ chỉ làm báo cáo ĐTM lấy lệ chứ không quan tâm đến
những tác động và nguy cơ môi trường thực sự.
Một số dự án sân golf gây nên bất bình trong dư luận cộng đồng
một phần là do quy trình ĐTM không được thực hiện nghiêm túc. Bên
cạnh đó, hiện tượng các chuyên gia tư vấn thường được “khoán” cho một
báo cáo ĐTM cho “phù hợp với yêu cầu của pháp luật” là rất phổ biến ở
các địa phương. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình báo cao ĐTM thường bị
làm ngơ hoặc xem nhẹ.Các phương án giảm thiểu tác động môi trường thì
quá sơ sài , hoặc thiếu tính khả thi, chỉ là lời hứa hẹn không có cơ sở.
8


Quyết định thông qua báo cáo ĐTM được định đoạt bởi hôi đồng
phê duyệt chứ không thuộc thẩm quyền của hôi đồng thẩm định. Như vậy,

trong trường hợp dự án được thông qua và đi vào hoạt động gây ra những
tấc động và suy thoái môi trường sẽ khó quy trách nhiệm cho các bên liên
quan. Bất cập này cũng không được quy định rõ trong hệ thống văn bản
QPPL về ĐTM mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm kiểm tra
giám sát thực hiện nội dung của báo cáo ĐTM. Giám sát sau phê duyệt
còn yếu kém Các cơ quan quản lý không có đủ nhân lực, trang thiết bị và
thời gian để giám sát môi trường trong quá trình xây dựng và hoạt động
của dự án. Họ cũng chưa đủ quyền để cưỡng chế việc thực thi các yêu cầu
được ghi trong quyết định phê duyệt còn yếu kém Các cơ quan quản lý
không có đủ nhân lực, trang thiết bị và thời gian để giám sát môi trường
trong quá trình xây dựng và hoạt động của dự án. Họ cũng chưa đủ quyền
để cưỡng chế việc thực thi các yêu cầu được ghi trong quyết định phê
chuẩn báo cáo ĐTM.
II.2 Hiệu quả của báo cáo ĐTM của Việt Nam
Bản chất của công tác ĐTM là tìm hiểu, dự báo các tác động môi
trường và tác động xã hội tiêu cực, đề xuất giải pháp ngăn ngừa, hạn chế
các tác động này khi dự án được thực hiện, đảm bảo dự án không chỉ
mang lại lợi ích kinh tế mà còn thúc đẩy phát triển an sinh xã hội và bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên, một bộ phận các nhà quản lý và chủ đầu tư
chưa nhận thức được ý nghĩa của công tác này. Họ thường coi yêu cầu lập
báo cáo ĐTM như là một thủ tục trong quá trình chuẩn bị hoặc thực hiện
dự án. Thậm chí nhiều người còn “đổ lỗi” cho ĐTM như một lực cản của
hoạt động phát triển sản xuất và đầu tư. Vì vậy, khi được yêu cầu lập báo
cáo ĐTM, họ chỉ làm lấy lệ, chú trọng làm cho đủ thủ tục để dự án được
9


thông qua chứ không quan tâm đến những tác động và nguy cơ môi trường
thực sự. Phong trào cấp phép ồ ạt cho các dự án xây dựng sân golf ở Việt
Nam trong những năm qua là một minh chứng điển hình. Nếu các dự án

này tuân thủ thực hiện ĐTM nghiêm túc và chất lượng thì sẽ không có
những xung đột xảy ra giữa các chủ dự án và cộng đồng địa phương do
tranh chấp quyền sở hữu, tiếp cận, sử dụng tài nguyên đất, rừng và nguồn
nước.
Bên cạnh đó, hiện tượng các chuyên gia tư vấn thường được
“khoán” làm một báo cáo ĐTM cho “phù hợp với yêu cầu của pháp luật”
là rất phổ biến ở các địa phương. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình và yêu
cầu chất lượng báo cáo ĐTM thường bị làm ngơ hoặc xem nhẹ. Các
phương án giảm thiểu tác động thì hoặc là quá sơ sài, hoặc thiếu tính khả
thi, hoặc chỉ là lời hứa hẹn không có cơ sở” .
Ông Phạm Quang Tú, Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển, nhấn
mạnh “khía cạnh xã hội của báo cáo ĐTM hiện nay rất nhạt nhòa” và dẫn
chứng bằng các báo cáo ĐTM của dự án xây dựng nhà máy thủy điện
Hương Sơn và dự án khai thác mỏ ti-tan ở tỉnh Hà Tĩnh. Nội dung các báo
cáo ĐTM cho thấy phần đánh giá tác động xã hội thường quá ngắn gọn,
rất chung chung, thiếu cơ sở khoa học, và ít thuyết phục. Ví dụ, phần đánh
giá tác động xã hội trong báo cáo ĐTM cuả dự án ti-tan Hà Tĩnh chỉ có ½
trang; dự án thủy điện Hương Sơn có 01 trang. Các đánh giá được trình
bày chung chung, không có chiều sâu, và dường như chỉ được “xào xáo”
lại từ các báo cáo DTM khác”. Báo cáo ĐTM của dự án thủy điện Lai
Châu – một trong ba công trình thuỷ điện lớn trên sông Đà với công suất
thiết kế là 1.200MW, toàn bộ nội dung dày tới 200 trang, nhưng phần
đánh giá tác động kinh tế – xã hội chỉ cũng chiếm 2 trang (1% toàn bộ nội
10


dung). Rõ ràng, yêu cầu đánh giá tác động xã hội đã không được đề cao
trong yêu cầu lập báo cáo ĐTM.
Yêu cầu tham vấn cộng đồng trong hoạt động ĐTM, thông tin minh
bạch với cộng đồng về dự án và kết quả ĐTM đã được đề cập đến trong

các văn bản pháp luật về ĐTM. Tuy nhiên các yêu cầu này vẫn chưa rõ
ràng và chưa phải là quy định bắt buộc thực hiện. Theo các chuyên gia, có
một số bất cập trong việc nhận thức về chủ thể cộng đồng – ai là cộng
đồng? Khái niệm “cộng đồng” chưa được quy định rõ ràng, nên chuyên
gia tư vấn ĐTM thường không hỏi ý kiến người dân mà lại hỏi cán bộ của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hoặc Hội đồng Nhân dân của địa phương vì cho
rằng đây là những tổ chức đại diện cho dân. TS. Vũ Quang, giảng viên
Khoa Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội bình luận: “Thông thường, Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc là cơ quan đại diện cho nhân dân. Nhưng bản thân
cơ quan này ít quan tâm đến lĩnh vực môi trường và hoạt động mang tính
chất nhà nước nhiều hơn. Liệu tổ chức này có hoàn toàn phù hợp khi đại
diện cho cộng đồng trong hội đồng thẩm định ĐTM?”. Hơn nữa, đối với
các hội và tổ chức xã hội dân sự – với vai trò là cầu nối giữa cộng đồng và
các cơ quan chức năng chính phủ, song những quy định liên quan đến vai
trò và quyền lợi tham gia của họ vào công tác ĐTM gần như chưa được đề
cập đến trong các quy định pháp luật.
Cũng chính vì không phải quy định bắt buộc, việc thông tin, tham
vấn và lắng nghe ý kiến cộng đồng diễn ra ở các mức độ khác nhau tùy
từng địa phương. Các thành phố lớn như Hà Nội, T.p. Hồ Chí Minh, công
tác này được thực hiện khá nghiêm chỉnh; ở các vùng sâu, vùng xa còn
nghèo nàn, lạc hậu, hoặc dân trí thấp thì hoạt động này hầu như không
diễn ra, hoặc có thì cũng chỉ mang tính hình thức (8). Tuy nhiên, đối với
11


những dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công tác này lại được thực
hiện rất nghiêm túc. Điển hình là Dự án nhiệt điện Phú Mỹ 2 tại Bà Rịa
Vũng Tàu do WB hỗ trợ đã thực hiện rất tốt việc tổ chức các buổi họp báo
với sự tham gia của các bên liên quan: chính quyền, sở, ngành, các tổ chức
liên quan và các hộ dân nằm trong vùng dự án; trình bày minh bạch các

thông tin chung liên quan đến dự án cũng như biện pháp giảm thiểu ô
nhiễm.
Nhận thức được tầm quan trọng của yêu cầu trên, tháng 12/2008,
Bộ TN-MT đã ban hành Thông tư 05/2008/TT-BTNMT ngày 08/12/2008
về Hướng dẫn đánh giá tác động môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và cam kết bảo vệ môi trường, quy định rõ ràng các điều về
tham vấn cộng đồng và cơ chế minh bạch thông tin.
III.

NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ĐTM Ở VIỆT NAM
III.1 Nguyên nhân
 Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức
Như chúng ta đã biết bản chất của công tác ĐTM là tìm hiểu, dự báo các tác
động môi trường và tác động xã hội tiêu cực, đề xuất giải pháp ngăn ngừa,
hạn chế các tác động này khi dự án được thực hiện, đảm bảo dự án không
chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn thúc đẩy phát triển an sinh xã hội và bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ các nhà quản lý và chủ đầu tư
chưa nhận thức được ý nghĩa công tác này. Họ coi yêu cầu lập báo cáo
ĐTM như là một thủ tục trong quá trình chuẩn bị để thực hiện dự án (vé qua
cửa). Nhiều người còn đỗ lỗi cho ĐTM như một lực cản của hoạt động phát
triển sản xuất và đầu tư. Vì vậy, khi được yêu cầu lập báo cáo ĐTM chỉ làm
lấy lệ, chú trọng làm cho đủ thủ tục để dự án được thông qua chứ không
quan tâm đến những tác động và nguy cơ môi trường thực sự.
12


Ví dụ: phong trào cấp phép ồ ạt cho các dự án xây dựng sân golf ở Việt
Nam trong những năm qua là một minh chứng điển hình. Bên cạnh đó còn

nhiều ví dụ khác không kém phần nóng như; việc cấp phép xây dựng các
tòa nhà chung cư hay các dự án khu nghỉ dưỡng, các dự án công nghiệp,
khu chế xuất cũng có nhiều dự án lâm vào cảnh tương tự, để xảy ra tình
trạng không khả thi. Hiện nay có rất nhiều dự án giải tỏa mặt bằng đất bỏ
không còn người dân thì thiếu đất sản xuất. Nếu như các nhà hoạch định
không quá đam mê xây dựng các dự án phát triển theo kiểu như vậy thì
không có tình trạng mâu thuẫn như hiện nay. Nếu các dự án này tuân thủ
thực hiện ĐTM nghiêm túc và chất lượng thì sẽ không có những sung đột
xảy ra giữa các chủ dự án và cộng đồng địa phương do tranh chấp quyền sở
hữu, tiếp cận sử dụng tài nguyên…
 Tham nhũng và quản lý yếu kém
Một trong những thách thức đối với quy trình thực thi ĐTM chính là tham
nhũng và quản lý yếu kém.
Có rất nhiều báo cáo ĐTM bị mua chuộc và thường được dùng để xoa dịu
các cơ quan chính phủ, cộng đồng, khiến họ lầm tưởng rằng mọi thứ đều ổn
định nhưng thực ra, các tác động nghiêm trọng lên môi trường vẫn đang
tiềm ẩn bên trong.
Có rất nhiều nhiều lý giải tại sao chất lượng báo cáo ĐTM thường thấp
nhưng một nguyên nhân quan trọng cần nhắc tới là lượng thông tin và dữ
liệu về môi trường mà nhiều báo cáo chuẩn bị quá sơ sài. Bởi nhu cầu về số
lượng báo cáo ĐTM ngày càng nhiều trong khi nguồn dữ liệu cơ sở lại vô
cùng ít ỏi đã dẫn tới việc hàng loạt báo cáo ĐTM có chất lượng thấp và ít
giá trị” – ngân hàng Thế giới (WB) nhìn nhận.
Cũng theo Ngân hàng này thì báo cáo ĐTM yếu kém chính là sản phẩm của
những cán bộ có năng lực và thông tin về môi trường hạn chế.
 Cơ chế giám sát lỏng lẻo
13


Muốn tạo ra các ĐTM hiệu quả và có ý nghĩa chiến lược thì phải có

cơ chế giám sát phù hợp. Việc bỏ qua bước này hiện đang là một trong
những điểm yếu của quy trình ĐTM.
Thông thường, bản ĐTM mà các cơ quan chính phủ phê duyệt được
mặc định đã gồm cả một kế hoạch quản lý môi trường phục vụ hoạt động
giám sát. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân như phân bổ kinh phí không
đều, thiếu cán bộ thực thi giám sát của chính phủ, thiếu nguồn thông tin –
dữ liệu chất lượng, thiếu cam kết từ phía chính phủ về việc triển khai các
hoạt động giám sát cùng những ưu tiên mang tính cạnh tranh khác nên
các kế hoạch quản lý ĐTM về sau hầu như không được thực hiện.
Một thực tế thì dù có sản phẩm ĐTM có giá trị và ý nghĩa nhưng nếu
chúng ta thực hiện công tác đánh giá không tốt thì cũng chỉ là “Công dã
tràng” bởi tâm lý của các chủ đầu tư vẫn còn coi nặng hiệu quả của kinh
doanh theo hướng có lợi nhất cho họ. Bỏ mặc quyền lợi chung của toàn xã
hội.
Ví dụ điển hình cho việc nầy là VEDAN trắng trợn vi phạm Luật
BVMT – xả trái phép nước thải chưa qua xử lý xuống sông Thị Vải kéo dài
liên tục trong 14. Đây là vụ việc gây xôn xao dư luận cả nước, với thời gian
dài 14 năm xả thải có thể nói đã đầu độc dòng sông Thị Vải gây hại cho bao
nhiêu người dân đã sinh sống ở hai bên sông, triệt hạ các hệ sinh thái, và
nhiều loài vật trong khu vực này. Vụ VEDAN vi phạm kéo dài tới 14 năm,
vậy các đơn vị chức năng giám sát ở đâu và làm gì trong thời gian này?
Làm ngơ hay không phát hiện ra?
Cũng thấy một kẽ hở khác trong vụ việc này là sau khi vụ việc bị lực
lượng Cảnh sát môi trường phát hiện và điều tra thì có một số tội danh
không xử phạt được do đã hết hạn xử phạt hành chính. Các tội danh này đều
liên quan tới báo cáo ĐTM bổ sung và cam kết bảo vệ môi trường. Chủ yếu
là sử phạt hành chính, hoặc phạt tiền ở mức nhẹ. Nên điều này các chủ
14



doanh nghiệp có thể phớt lờ đi, sẵn sàng nộp phạt để đạt lợi nhuận cho họ
một cách cao nhất.
 Vai trò của Cộng đồng người dân trong các đánh giá ĐTM
Vấn đề lấy ý kiến của quần chúng nhân dân khu vực dự án và các khu
vực có liên quan được nêu rõ trong chương 3 luật bảo vệ môi trường. Song
vấn đề này thực tế chưa làm tốt được. Minh chứng cho điều nàylà ngày
càng nhiều dự án đã được đánh giá tác động phê duyệt, cho phép triển khai
dự án nhưng khi triển khia các dự án thì xuất hiện nhiều ý kiến của cộng
đồng dân cư. Họ cho rằng chính họ chưa được hỏi ý kiến hoặc không được
đưa vào trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chính vì vậy hiện nay
vấn đề khiếu kiện về ô nhiễm môi trường của các cộng đồng dân cư về hoạt
động sản xuất kinh doanh của các nhà máy, khu công nghiệp ngày càng
nhiều, đây là một thực tế đáng buồn mà chúng ta có thể bắt gặp ở nhiều khu
công nghiệp – nhà máy trong cả nước.
Có những dự án mặc dù đã được cộng đồng các nhà khoa học, cũng
như cộng đồng địa phương phản ánh là nguy hại đến môi trường. Song vẫn
được triển khai. Ví dụ như vụ khai thác Boxit ở Tây Nguyên có thể nó là
điển hình.
III.2 Giải pháp
 Về nôi dung đánh giá tác động môi trường
Cần tập trung hoàn thiện các quy trình áp dụng của phương pháp đánh giá
tác động ĐTM không chỉ tập trung cho các dự án phát triển, tăng cường hơn
nữa việc áp dụng các kế hoạch phát triển quy môi quốc gia vùng ngành.
Các vấn đề tồn tại trong các đánh giá tác động ĐTM và cam kết bảo vệ môi
trường cần phải khắc phục, hoàn thiện hơn nữa các công cụ xử phạt nhằm
nâng cao hiệu lực của pháp luật.
 Về công tác thực hiện triển khai thực hiện

15



Cần có chính sách phù hợp để đảm bảo sự tham gia một cách hữu ích và
đầy đủ của cộng đồng vào công tác đánh giá tác động môi trường.
Cần lồng ghép cá kết quả đánh giá tác động môi trường vào nghiên cứu khả
thi và ra quyết định.
Xây dựng các chương trình tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ thực
hiện, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Để đảm bảo cho việc thực hiện ĐTM có hiệu
quả cả khi đánh giá và khâu giám sát.
Cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm đảm bảo việc thực hiện ĐTM có thể
đảm bảo về mặt khoa học mang đầy đủ ý nghĩa.

16


PHẦN KẾT LUẬN
Hơn 15 năm trôi qua kể từ khi có quy định đầu tiên về ĐTM ở Việt
Nam, không thể phủ nhận những cố gắng và nỗ lực của Chính phủ Việt
Nam trong việc thực hiện đánh giá tác động môi trường. Từ quá trình hoàn
thiện dần hệ thống văn bản QPPL đến phát triển đội ngũ và năng lực thực
hiện ĐTM đã có những phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bản thân quy
định luật pháp ĐTM vẫn còn nhiều lỗ hổng và bất cập, chưa ràng buộc được
trách nhiệm pháp lý và yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của chủ đầu tư, chính
quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, cá nhân và tổ
chức tư vấn ĐTM. Hệ thống pháp luật đầy đủ và nghiêm minh sẽ giúp Việt
Nam loại trừ được những bất cập liên quan đến công tác ĐTM như hiện
nay. Nhìn lại công tác ĐTM, người lạc quan có thể tạm hài lòng mà nói:
“Chúng ta đã có nửa cốc nước rồi”, song người bi quan lại trăn trở: “Chúng
ta mới có nửa cốc nước thôi”. Dù cách nói thế nào, thực tế vẫn là chúng ta
chưa có được “một cốc nước đầy” và còn phải nỗ lực rất nhiều để có được
điều đó.


17


-

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thế Chinh – Giáo trình kinh tế và quản lý môi trường, NXB
Thống kê.
Nghị định 29/2011/NĐ-CP (chương 3)
Thông tư 26/2011/TT-BTNMT (Chương 3)
Th.s Trần Quang Hồng, Trương Hồng Quang (6/2011). Hoàn thiện pháp
luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện nay.
/>ĐTM ở Việt Nam – một nửa cốc nước (17/02/2009).
/>Nguyễn Giang Văn Hiên (11/01/2014). Đánh giá tác động môi trường : Vì
sao chưa hiệu quả? />
18


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG
I.TỔNG QUAN VỀ ĐTM.......................................................................3
I.1. Lịch sử ra đời của ĐTM ở Việt Nam ...............................................3
I.2 Mục đích, ý nghĩa của ĐTM ............................................................. 4
I.3. Quy trình thực hiện ĐTM ở Việt Nam..............................................6
II. THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐTM Ở VIỆT NAM VÀ HIỆU QUẢ CỦA CÁC
ĐTM Ở VIỆT NAM
II.1 Thực tiễn thực hiện ĐTM.................................................................7
II.2 Hiệu quả của các ĐTM ở Việt Nam.................................................9

III. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ
CỦA ĐTM Ở VIỆT NAM
III.1 Nguyên nhân...................................................................................12
III.2 Giải pháp.........................................................................................15
PHẦN KẾ LUẬN..................................................................................17

19



×