Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh bình dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.79 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG NGỌC ẨN

VAI TRÒ CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở
TỈNH BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG NGỌC ẨN

VAI TRÒ CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở
TỈNH BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: Triết học
: 60.22.03.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ ANH DŨNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của bản
thân, chưa được ai công bố, dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng. Những tư
liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Trần Hoàng Ngọc Ẩn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ CÁC
THÀNH PHẦN KINH TẾ ........................................................................................9
1.1. Kinh tế tri thức, đặc trưng của kinh tế tri thức, điều kiện hình thành và phát
triển kinh tế tri thức ..............................................................................................9
1.2. Các thành phần kinh tế và mối quan hệ của nó trong việc phát triển kinh tế
tri thức ................................................................................................................21
Chƣơng 2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở TỈNH BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY ...33
2.1. Thực trạng phát triển các thành phần kinh tế và ảnh hưởng đối với kinh tế
tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay ..................................................................33
2.2. Nguyên nhân thực trạng và các vấn đề còn đang đặt ra ..............................47

2.3. Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của các thành phần kinh tế đối
với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay ...........................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang thực
hiện đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo
dục… ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI và tiếp tục bổ
sung trong các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo với nội dung tập trung vào thay đổi cơ
cấu, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở đất nước ta từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Việc đa dạng hóa thành phần kinh tế gắn liền với quá trình Việt Nam mở cửa
hội nhập với thế giới. Sự hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như những thách thức
trong việc phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, không thể không nhắc tới những
tác động của sự phát triển nhảy vọt của khoa học – công nghệ trong giai đoạn hiện
nay. Sự phát triển khoa học – công nghệ đã thúc đẩy phát triển kinh tế, mở ra nhiều
lĩnh vực mới, giúp con người khai thác có hiệu quả hơn đối với tài nguyên thiên
nhiên, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia vốn không giàu có về tài nguyên nhưng vẫn
có thể phát triển được đất nước... Muốn có được nền kinh tế dựa trên khoa học –
công nghệ thì tất yếu phải dựa vào sự phát triển tri thức của con người và phát triển
nó theo hướng nền kinh tế tri thức.
Nhận thấy rõ xu hướng tất yếu của thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã mạnh
dạng chủ động đầu tư phát triển nền kinh tế tri thức thông qua nhiều chương trình
nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao.

Là một trong những địa phương trẻ, năng động ở khu vực Đông Nam Bộ và
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương hiện nay đang có tốc độ phát triển
kinh tế nhanh, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và phát triển. Những
chuyển biến trong nền kinh tế của tỉnh chiếm một phần quan trọng là nhờ công cuộc
đổi mới, thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa

1


mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện. Bên cạnh đó, cũng có một phần là nhờ vào sự
đầu tư, phát triển nền kinh tế tri thức của Đảng bộ, chính quyền cùng với nhân dân
tỉnh Bình Dương thông qua các chương trình đầu tư giáo dục, xây dựng các khu
công nghệ cao, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, hợp tác đầu tư…
Việc phát triển kinh tế tri thức không phải chỉ dừng lại bởi đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước hay chủ trương, chính sách của tỉnh mà trực tiếp nhất
vẫn là các thành phần kinh tế.
Trong quá trình phát triển, các thành phần kinh tế ở Bình Dương cũng chịu
sự tác động xu thế phát triển khoa học – công nghệ hiện đại chung của thế giới;
trước xu hướng này muốn tồn tại và phát triển buộc các thành phần kinh tế phải
thay đổi, sự thay đổi này giúp các thành phần kinh tế định hình vị thế khác nhau
trong nền kinh tế của tỉnh. Sự thay đổi này thể hiện ở việc đưa khoa học – công
nghệ mới, hiện đại vào sản xuất cũng như hàm lượng tri thức được tạo ra bởi người
lao động ngày càng tăng lên. Quá trình này diễn ra có sự chênh lệch lớn và khoảng
cách nhất định giữa các thành phần kinh tế, những điều này ảnh hưởng lớn đến vị
thế, vai trò trong việc phát triển kinh tế tri thức cũng như chính sách phát triển kinh
tế – xã hội của Bình Dương. Cho nên việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của các
thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dƣơng
hiện nay” là có ý nghĩa cần thiết về lý luận và thực tiễn đối với tiến trình xây dựng
và phát triển tỉnh nói chung, kinh tế tri thức nói riêng trong giai đoạn hiện nay, đó
cũng là lý do chọn đề tài luận văn của tác giả.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kinh tế tri thức hình thành và phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Những lợi ích mà kinh tế tri thức đem lại cho những nước phát triển,
cũng như một số nền kinh tế mới nổi ở châu Á đã đòi hỏi phải nghiên cứu, làm rõ
để tận dụng, khai thác và phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta.
Nhóm thứ nhất, các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức và vai trò
của kinh tế tri thức. Ở nhóm này, đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều học
giả, nhà khoa học ở nhiều góc độ, cấp độ, khía cạnh khác nhau.

2


Trước tiên là sách “Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát triển
và những vấn đề đặt ra với Việt Nam” (2004), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004 do GS.TS Đặng Hữu viết. Công trình này của GS.TS Đặng Hữu đã trình
bày, đưa ra vai trò của khoa học – công nghệ, cách mạng khoa học – công nghệ hiện
đại đối với phát triển kinh tế tri thức, chỉ ra khái niệm và một số tham số có liên
quan đến kinh tế tri thức, nêu lên cơ hội để rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thông qua phát triển kinh tế tri thức, một số giải pháp để phát triển kinh tế tri thức ở
nước ta gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cuốn “Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay” (2009), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của
TS. Trần Hồng Lưu đã làm rõ những chuyển biến về kinh tế – xã hội do cách mạng
khoa học – công nghệ hiện đại mang lại, vai trò của tri thức và kinh tế tri thức trong
thời đại ngày nay, vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế tri thức,
khả năng phát triển kinh tế tri thức ở các nước đang phát triển và Việt Nam.
Năm 2001, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội dịch và xuất bản cuốn
“Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI” của GS. Ngô Quý Tùng, một
học giả có uy tín Trung Quốc. Tác giả đã chỉ ra xu thế tất yếu trong tương lai của
kinh tế tri thức, việc nghiên cứu và chuẩn bị bước vào nền kinh tế tri thức là cần

thiết và cấp bách. Công trình này cũng đã nêu sự ra đời các khái niệm, nội dung,
đặc điểm của kinh tế tri thức. Việc phát triển kinh tế gắn với phát triển khoa học –
công nghệ hiện đại là một xu hướng toàn cầu, trong đó nổi bật là các ngành đòi hỏi
công nghệ, kỹ thuật cao như: công nghệ thông tin, vật liệu mới, năng lương mới,
công nghệ sinh học... Những vấn đề xã hội mà nền kinh tế tri thức đem đến. Các
giải pháp để phát triển kinh tế tri thức, trong đó chú trọng đào tạo nguồn nhân lực.
Cuốn “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức” được Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia xuất bản năm 2006 của tập thể tác giả do GS.TSKH Vũ Đình Cự và
PGS.TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Nhóm tác giả đã trình bày, phân tích một
số nội dung về kinh tế tri thức có liên quan được đưa ra trong các văn kiện của
Đảng. Công trình tập trung chỉ ra những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học –

3


công nghệ hiện đại đã làm thay đổi về chất của lực lượng sản xuất, hình thành lực
lượng sản xuất mới. Phân tích, làm rõ việc phát triển kinh tế tri thức có tác động
mạnh mẽ đối với phát triển lực lượng sản xuất. Sự đòi hỏi phải xây dựng lực lượng
sản xuất mới, hiện đại để đáp ứng việc phát triển, ứng dụng khoa học – công nghệ
vào sản xuất thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
TS. Nguyễn Thị Ngọc Hương trong luận án tiến sĩ triết học “Phát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, TP. Hồ Chí
Minh, 2014, đã làm rõ những nội dung cơ bản về kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, thực
trạng và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
và kinh nghiệm thực hiện điều này ở một số nước công nghiệp phát triển và bài học
cho Việt Nam.
TS. Cao Quang Xứng với luận án tiến sĩ kinh tế “Tác động của kinh tế tri
thức đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam”,
Hà Nội, 2008, đã phân tích các nội dung về kinh tế tri thức, công nghiệp hóa và hiện
đại hóa gắn với kinh tế tri thức, thực trạng và giải pháp để thực hiện công nghiệp

hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình của các tác giả khác liên quan đến phát
triển kinh tế tri thức như: PGS.TS Trần Cao Sơn với “Môi trường xã hội nền kinh tế
tri thức những nguyên lý cơ bản”, Nhà xuất bản Khoa học – Xã hội (2004); TS.
Nguyễn Thị Luyến, “Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn
cầu hóa”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005); TS. Trần Văn Tùng,
“Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam”, Nhà xuất bản Thế
giới (2001). Các công trình nghiên cứu này đã khái quát, phân tích, làm rõ các khái
niệm, đặc trưng của kinh tế tri thức; quá trình thực hiện kinh tế tri thức ở Việt Nam;
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tri thức; những
thành tựu, hạn chế và giải pháp phát triển kinh tế tri thức.
Nhóm thứ hai, những công trình nghiên cứu về các thành phần kinh tế
và vai trò các thành phần kinh tế đối với phát triển kinh tế – xã hội.
Bàn về vấn đề này đầu tiên phải nói đến đó là các văn kiện của Đảng mà chủ
yếu là văn kiện từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay. Bên cạnh đó, là các giáo
4


trình viết về kinh tế chính trị như: “Giáo trình kinh tế chính trị” (2006), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của Bộ Giáo dục và Đào tạo; “Giáo trình Kinh tế
học Chính trị Mác – Lênin” (2005), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của
Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Các văn kiện và giáo trình này đã trình bày
khái quát lý luận về số lượng, đặc điểm, tính chất, vị trí, mối quan hệ giữa các thành
phần kinh tế trong nền kinh tế nước ta.
Sách “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” (2010), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của GS.TS
Nguyễn Kế Tuấn đã làm rõ một số lý luận về vấn đề sở hữu; thực trạng và giải pháp
vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam.
Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội cho xuất bản cuốn sách

“Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế ở Việt Nam –
Nghiên cứu điển hình tại thành phố Đà Nẵng” của PGS.TS Nguyễn Trường Sơn.
Sách này trình bày, phân tích về năng lực, lợi thế cạnh tranh, vai trò giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Đà Nẵng; các yếu tố từ bên trong và bên
ngoài tạo nên sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Bên cạnh các công trình viết về tổng thể các thành phần kinh tế thì có rất
nhiều công trình bàn về vị trí, vai trò, đặc điểm của từng thành phần kinh tế.
Công trình của GS.TS Bùi Quang Trung, “Mô hình tập đoàn kinh tế nhà
nước ở Việt Nam đến năm 2020” (2013), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
đã lý giải về sự hình thành các tập đoàn kinh tế của nhiều nước trên thế giới, về chủ
trương của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các tập đoàn kinh tế nhà nước;
tác giả còn chỉ ra vị trí, vai trò đầu tàu của tập đoàn kinh tế nhà nước đối với nền
kinh tế và con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
PGS.TS Lương Minh Cừ – ThS. Vũ Văn Thư với “Sở hữu tư nhân và kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay, một số nhận thức về lý luận và thực tiễn” (2011), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tập thể tác giả đã làm rõ về sở hữu, đa dạng
hóa hình thức sở hữu ở nước ta; vị trí, vai trò sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong

5


lịch sử thế giới và Việt Nam, rút các bài học kinh nghiệm, giải pháp, quy luật vận
động của nó.
Năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vụ Hợp tác xã cho tái bản bổ sung cuốn
sách “Một số nội dung cơ bản chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
kinh tế tập thể”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sách đã phân tích nội
dung về kinh tế hợp tác xã ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng, các văn bản pháp
luật, kinh nghiệm mô hình hợp tác xã ở một số nước trên thế giới và thực tiễn ở
nước ta.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, luận văn cũng tham khảo, kế thừa

chọn lọc các bài viết, bài nghiên cứu từ các tạp chí, trang mạng uy tín như: Tạp chí
Cộng sản, Tạp chí triết học, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội…
Tổng thể các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập sâu sắc ở nhiều
khía cạnh khác nhau về kinh tế tri thức, vai trò kinh tế tri thức; các thành phần kinh
tế và vai trò các thành phần kinh tế đối với phát triển kinh tế – xã hội. Các tác giả đã
làm rõ những quan niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế tri thức và giải pháp phát
triển nó ở Việt Nam; chỉ ra sự hình thành, đặc điểm, vị trí và vai trò của các thành
phần kinh tế đối với nước ta và ở một số địa phương. Tuy nhiên, chưa có công trình
kết hợp giữa vấn đề các thành phần kinh tế với phát triển kinh tế tế tri thức; các
công trình này chưa đề cập và làm rõ về kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương, chưa
chỉ ra vị thế các thành phần tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở đây. Do vậy,
luận văn trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học của các
tác giả đi trước, vận dụng lý giải những mặt mạnh, yếu của các thành phần kinh tế
trong việc phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương; làm rõ nguyên nhân và đưa
ra giải pháp để các thành phần kinh tế ngày càng phát huy tốt hơn vai trò của mình
trong việc phát triển kinh tế tri thức.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận về kinh tế tri thức, các thành phần kinh tế nước ta
hiện nay, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với phát triển kinh tế tri thức; luận

6


văn vận dụng đánh giá thực trạng vai trò các thành phần kinh tế trong sự phát triển
kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương và đề xuất các giải pháp cơ bản để nâng cao vai trò
của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức của tỉnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ lý luận chung về kinh tế tri thức, về các thành phần kinh tế

Việt Nam hiện nay và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với phát triển kinh
tế tri thức.
Hai là, phân tích thực trạng vai trò của các thành phần kinh tế trong việc phát
triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương qua những thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân, thực trạng và những vấn đề đang đặt ra.
Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò
các thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu thực tế phát triển kinh tế tri thức của các
thành phần kinh tế ở tỉnh Bình Dương từ thời kỳ đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về nội dung, luận văn chủ yếu nghiên cứu vai trò của các thành phần kinh tế
đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương.
Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến
kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương.
Về thời gian, chủ yếu từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về đa dạng hóa các thành phần kinh tế, phát triển
kinh tế tri thức.

7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành,
liên ngành, kết hợp một số phương pháp như: phân tích và tổng hợp; thống kê, phân

tích số liệu, logic, và lịch sử, so sánh đối chiếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về phát triển kinh tế tri thức, sự diễn
ra của phát triển kinh tế tri thức trong các thành phần kinh tế và vai trò của từng
thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở nước ta nói chung, của
tỉnh Bình Dương nói riêng.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Kết quả luận văn góp phần xác định cơ sở lý luận và thực tiễn giúp các
doanh nghiệp ở Bình Dương hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế tri thức.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên cao
học các chuyên ngành triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và khoa học chính trị.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết và 12 mục.

8


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ
VẤN ĐỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
1.1. Kinh tế tri thức, đặc trƣng của kinh tế tri thức, điều kiện hình thành
và phát triển kinh tế tri thức
1.1.1. Tri thức yếu tố cơ bản của kinh tế tri thức
Loài người vốn bắt nguồn từ giới động vật, nhưng phát triển bỏ xa giới động
vật. Sở dĩ như vậy là vì con người luôn nhận thức và cải tạo thế giới. Sản xuất vật
chất là hoạt động cơ bản, đặc trưng riêng của con người, là hoạt động có mục đích,
có kế hoạch nhằm tác động cải tạo, biến đổi các sự vật của giới tự nhiên, tạo ra của
cải vật chất phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người và xã hội. Để tiến hành

sản xuất đạt hiệu quả mong muốn đòi hỏi con người phải có hiểu biết đúng đắn về
cấu trúc, về bản chất và các quy luật chi phối các sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan. Vì thế cùng với quá trình phát triển sản xuất, con người không ngừng
nhận thức thế giới và thu nhận ngày càng nhiều tri thức, hình thành nên các lĩnh vực
khoa học.
Khái niệm tri thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức, là những
hiểu biết, phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào trong bộ óc
của con người.
Thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, phong phú, đa dạng. Vì thế ý thức với tư
cách là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý thức của con người cũng chứa
đựng các tri thức phong phú, đa dạng về thế giới. Các tri thức khác nhau có vị trí,
vai trò khác nhau trong việc tác động, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Tùy theo các tiêu chí làm cơ sở, mà chúng ta có thể phân chia tri thức của con người
thành nhiều loại khác nhau.
Nếu căn cứ vào các lĩnh vực khách thể nhận thức, chúng ta có thể chia tri
thức thành các loại: tri thức về giới tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con
người, về cuộc sống, tri thức kinh tế, tri thức chính trị…

9


Nếu căn cứ vào mức độ phản ánh, có thể chia ra làm hai loại: tri thức sai lầm,
tri thức đúng đắn chân thực (hay còn gọi là chân lý).
Căn cứ vào cấp độ phản ánh, có thể chia ra: tri thức thông thường, tri thức
khoa học.
Tri thức thông thường là kết quả của nhận thức thông thường (hay còn gọi là
nhận thức thường ngày), nhận thức thường ngày là quá trình nhận thức diễn ra một
cách tự phát, rời rạc, không có kế hoạch. Tri thức thông thường đa dạng, phong phú,
nhưng không có hệ thống, thiếu sự khái quát, chưa được thực tiễn kiểm nghiệm.
Còn tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức khoa học, hình

thành một cách tự giác, tích cực, chủ động, có kế hoạch, trừu tượng và khái quát
cao. Tri thức khoa học là một hệ thống những tri thức hiểu biết phản ánh chân thực
về các sự vật, hiện tượng của thế giới. Vì thế “tri thức khoa học phải có tính hệ
thống và tính có căn cứ” [25, tr.369], điều này thể hiện qua một “hệ thống chỉnh thể
các khái niệm, phạm trù, quy luật, có liên hệ nội tại với nhau mang tính chân thực”
[25, tr.369], bên cạnh đó các dữ liệu, công cụ, phương pháp… để tiến hành hoạt
động tìm ra tri thức khoa học phải đảm bảo tính tin cậy, phản ánh xác và đúng với
hiện thực.
Tri thức khoa học tìm ra những chân lý, quy luật để giải quyết những gì đang
diễn ra ở hiện tại, đã xảy ra ở quá khứ và dự báo, định hướng ở tương lai.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai cấp độ thấp, cao khác
nhau của quá trình nhận thức có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tuy
nhiên tri thức khoa học không bắt nguồn trực tiếp từ tri thức thông thường, mà được
hình thành tương đối độc lập từ hoạt động nhận thức khoa học. Tri thức khoa học là
kết quả của quá trình lao động miệt mài, chăm chỉ của đội ngũ những nhà khoa học
mới có thể tìm ra nó. Quá trình này cần nhiều thời gian, công sức, có thể là vài năm,
vài chục năm, thậm chí là vài thế kỷ. Do nắm được bản chất sự vật nên tri thức khoa
học giúp con người hiểu biết hơn về thế giới xung quanh và giải quyết vấn đề thực
tiễn một cách đúng đắn, hiệu quả. Con người nhờ tri thức khoa học mà đã hiểu biết
cấu tạo cơ thể sống của mình và nhiều loại sinh vật, ứng dụng nó vào y học, sản

10


xuất nông nghiệp; đặc biệt con người đã sản xuất ra những vật dụng, công cụ, vật
liệu, phương tiện mới mà trước đây chỉ có trong trí tưởng tượng của con người thì
nay đã thành hiện thực, nó giúp đời sống con người trở nên tốt đẹp hơn.
Những tri thức khoa học con người tìm được chỉ có ý nghĩa khi được thực
tiễn kiểm nghiệm và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Do thực tiễn
thường xuyên biến đổi vì thế việc nhận thức khoa học cũng phải thay đổi theo để

phục vụ có hiệu quả cho hoạt động thực tiễn.
Tri thức khoa học luôn thúc đẩy sự tiến lên của lịch sử nhân loại. Sự phát
triển của khoa học – công nghệ luôn song hành cùng với tri thức khoa học. Nó thúc
đẩy sản xuất phát triển và hàm lượng tri thức khoa học được kết tinh trong hàng hóa
không ngừng tăng lên. Nó thể hiện ở chỗ tri thức khoa học trở thành điểm xuất phát,
ra đời nhiều ngành sản xuất mới, công cụ sản xuất mới, công nghệ mới, nguyên liệu
mới... mà công dụng nó vừa tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, chi phí sản xuất thấp
mà công dụng cao hơn nhiều lần. Sự phát triển tri thức khoa học không xa rời hoạt
động kinh tế con người, vì thế làm cho đội ngũ lao động có tri thức khoa học ngày
càng sử dụng nhiều vào sản xuất. Sự phát triển của khoa học – công nghệ mà đặc
biệt là từ sau cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã làm con người nhận
ra tri thức ngày càng trở thành yếu tố không thể thiếu, thậm chí là quyết định đến sự
phát triển kinh tế. Khoa học – công nghệ và tri thức khoa học đóng vai trò quyết
định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và dần trở thành lực lược sản xuất
trực tiếp, đưa con người vào nền kinh tế tri thức. Những nội dung này chứng minh
tri thức khoa học là yếu tố không thể thiếu, nó thể hiện bản chất của kinh tế tri thức.
Như vậy, có thể thấy rằng những tri thức con người có được từ nhận thức có
ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển lịch sử xã hội loài người. Mỗi loại
tri thức có ý nghĩa và vai trò riêng biệt của mình. Tuy nhiên để có một đất nước có
nền kinh tế phát triển, người dân có mức sống cao, hạnh phúc… thì không thể
không có tri thức khoa học và để thực hiện điều này thì tri thức phải đưa vào quá
trình sản xuất vật chất, vì suy cho cùng phần lớn tri thức khoa học còn người tìm tòi
dùng để phục vụ sản xuất vật chất. Vì thế phát triển và ứng dụng tri thức khoa học
là cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta.
11


1.1.2. Quan niệm về kinh tế tri thức
Sự phát triển của tri thức nói chung và tri thức khoa học nói riêng đã đưa sản
xuất của con người không ngừng phát triển, làm thay đổi các nền kinh tế trong lịch

sử. Mà kinh tế được hiểu là toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ
hàng hóa và dịch vụ của con người và xã hội; kinh tế cũng thể hiện trình độ sản xuất
và các quan hệ xã hội trong nền sản xuất đó.
Trong tiến trình lịch sử của nhân loại tất yếu sẽ trải qua các giai đoạn kinh
tế khác nhau theo chiều hướng ngày càng phát triển đi lên; sự phát triển này là sự
phát triển của sản xuất và nó luôn đồng hành với tri thức của con người, vì dù ở
giai đoạn kinh tế nào thì con người luôn vận dụng tri thức vào sản xuất từ kinh tế
tự nhiên, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp cho đến kinh tế tri thức.
Nhưng giữa chúng có sự khác nhau trong việc vận dụng và hàm lượng tri thức
chứa trong nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học – công nghệ đã thúc đẩy
hình thành các cuộc cách mạng kỹ thuật làm thay đổi toàn diện đời sống kinh tế –
xã hội của con người. Sự thay đổi do các cuộc cách mạng kỹ thuật tạo nên trong
mỗi thời kỳ lịch sử sẽ có vị thế, vai trò và mức độ tác động khác nhau. Trong các
cuộc cách mạng kỹ thuật nổi bật là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra ở cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX đã đưa nền sang xuất từ nông nghiệp lên công nghiệp và
cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ XX cho đến hiện nay đã chuyển nền
kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức. Với sự ra đời của kinh tế tri thức đánh
dấu sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội của con người, con người tiến vào
thời đại mà trí tuệ, tri thức trở thành sức mạnh của sự phát triển.
Kinh tế tri thức về mặt thuật ngữ xuất hiện bởi các nhà lý luận phương Tây
nêu lên vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là sự nối tiếp quan niệm về
“nền văn minh trí tuệ” mà Alvin Toffler đã đưa ra trong cuốn “Nền văn minh thứ
ba” từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX.
Có nhiều quan niệm về kinh tế tri thức trong đó phải kể đến một quan niệm
phổ biến do OECD và APEC đưa ra, theo đó: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong

12



đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của tăng
trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” [31, tr.98]. Quan
niệm này nhấn mạnh trong nền sản xuất hiện đại việc tạo ra và sử dụng tri thức
trong tất cả lĩnh vực là nền tảng của toàn bộ nền kinh tế.
Giáo sư Ngô Quý Tùng thì cho rằng kinh tế tri thức là: “nền kinh tế mà trong
nó nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và về việc
sáng tạo, phổ biến và sử dụng tri thức trong các ngành sản xuất có hàm lượng khoa
học công nghệ cao” [57, tr.29]. Quan niệm này cho thấy trong nền kinh tế tri thức
thì tri thức như một dạng tài nguyên, việc sử dụng, chiếm hữu nó so với các dạng tài
nguyên thiên nhiên là quan trọng hơn; các ngành đòi hỏi khoa học – công nghệ cao
bắt buộc phải sử dụng nhiều tri thức; tri thức là yếu tố cơ bản bắt buộc phải có trong
nền kinh tế tri thức.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tri thức bắt đầu được
đưa vào từ Đại hội IX. Qua các kỳ Đại hội Đảng quan niệm về kinh tế tri thức
không có điều chỉnh nhiều, nhìn chung Đảng ta quan niệm kinh tế tri thức là kinh tế
mà các sản phẩm và ngành có giá trị cao dựa trên nền tảng tri thức ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, là sự đổi mới công nghệ và phát
triển nguồn nhân lực, kinh tế tri thức gắn liền và tạo điều kiện thúc đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta thông qua tận dụng những thành
tựu khoa học – công nghệ mới, tiên tiến hiện nay đưa vào sản xuất.
Tiến sĩ Hồ Anh Dũng thì đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế
mà trong đó, sự sản sinh, phát triển, chuyển giao và sử dụng tri thức giữ vai trò chủ
đạo đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất và nâng cao không ngừng mọi mặt
đời sống xã hội” [12, tr.11]. Định nghĩa này muốn nhấn mạnh sự phát triển không
ngừng của tri thức và phổ biến trong sản xuất và đời sống sẽ thúc đẩy sự đi lên của
sản xuất và đời sống của con người.
Theo GS. Đặng Hữu, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ
cập, sử dụng tri thức giữ vai trò mang tính quyết định đối với phát triển kinh tế, tạo
ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và xã hội [66, tr.21]. Quan


13


niệm này cho thấy vẫn còn kinh tế nông nghiệp, công nghiệp theo kiểu truyền thống
không đòi hỏi cao về tri thức và công nghệ với tỷ lệ thấp, chiếm đa số là các ngành
kinh tế dựa vào tri thức và khoa học – công nghệ hiện đại và nó giữ vai trò chủ đạo,
quyết định đến đời sống kinh tế – xã hội.
Trong các quan niệm trên tác giả đồng ý với quan niệm của của TS. Hồ Anh
Dũng và GS. Đặng Hữu. Vì các quan niệm này đã nhấn mạnh tri thức giữ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế, nó góp phần tạo ra sản phẩm có giá trị cao; sự phổ
biến tri thức là hoạt động thường xuyên, bắt buột và đẩy mạnh ứng dụng tri thức
vào hoạt động sản xuất để tạo ra tăng trưởng kinh tế, đưa đời sống kinh tế – xã hội
con người đi lên.
Như vậy, khái quát lại, kinh tế tri thức là kinh tế trong đó khoa học – công
nghệ, sự sáng tạo tri thức của con ngƣời đƣợc sản sinh, sử dụng, phát triển và phổ
biến ngày càng sâu, rộng trong lao động sản xuất và đồng thời thúc đẩy sự phát
triển đời sống xã hội con ngƣời ngày càng tốt hơn, văn minh hơn.
Kinh tế tri thức dựa trên sự phát triển của khoa học – công nghệ, sự vận dụng
khoa học – công nghệ vào sản xuất thông qua đổi mới tư liệu sản xuất từ đối tượng
lao động với nhiều loại mới không có sẵn trong tự nhiên và một số có thể thay thế
được; cho đến hệ thống phục vụ sản xuất từ cơ sở hạ tầng cho đến vật chứa bảo
quản ngày càng hiệu quả và tiết kiệm hơn; đặc biệt là công cụ sản xuất không
ngừng hiện đại, tinh vi. Bên cạnh đó, nó còn phát triển trình độ, khả năng của con
người; quá trình sử dụng tri thức ngày càng nhiều và đi vào chiều sâu thúc đẩy
nhiều ý tưởng kinh doanh, tối ưu sản xuất và sáng tạo ra sản phẩm mới; việc phổ
biến, tiếp cận tri thức trở nên dễ dàng hơn giúp con người lao động hiệu quả hơn,
đồng thời nó cũng nâng cao đời sống con người. Những điều này chứng minh kết
luận chính xác của Mác về khả năng khoa học công nghệ sẽ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức

Thứ nhất, nền kinh tế tri thức lấy tri thức mà đặc biệt là tri thức khoa
học làm nền tảng, làm lực lƣợng sản xuất trực tiếp cho sự phát triển kinh tế.

14


Đây là đặc trưng nói lên bản chất của nền kinh tế tri thức. Của cải, sản phẩm
trong nền kinh tế tri thức được tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài
nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, mặc dù vốn và lao động vẫn là những
yếu tố cơ bản không thể thiếu [31, tr.101].
Nhờ sự phát triển của tri thức mà nổi bật là quá trình phát minh, sáng tạo
không ngừng của con người qua công cụ sản xuất, vật liệu mới… theo hướng tự
động hóa, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động… đã làm
thay đổi nhiều mặt trong sản xuất, thay đổi cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản xuất.
Trong nông nghiệp con người có thể tăng năng suất lên vài lần so với cách sản xuất
trước đây nhờ sử dụng nhiều giống cây trồng, vật nuôi và kỹ thuật mới; các lĩnh vực
sản xuất công nghiệp truyền thống đã thay thế các máy móc cơ khí đơn giản thành
những máy tự động hóa tinh vi; dịch vụ thì phát triển với nhiều phương tiện nhanh
hơn, hiệu quả hơn. Song không thể không thể không nhắc đến những ngành công
nghệ cao mà đặc biệt là công nghệ thông tin, đây là những ngành mà sản phẩm chủ
yếu dựa trên tri thức, sự phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin đã giúp con người
có nhiều tiến bộ vượt bật trong sự phát triển kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ,
cũng như sự phát triển của tri thức con người. Sự phát triển của các ngành công
nghệ cao hình thành những tập đoàn, công ty khổng lồ với giá trị kinh tế rất lớn,
trong khi số lượng lao động không quá đông và cũng không sử dụng nhiều tài
nguyên thiên nhiên.
Đồng thời với việc tri thức ngày càng tham gia mạnh mẽ vào toàn bộ đời
sống kinh tế – xã hội thì việc phổ biến tri thức diễn ra cũng rất mạnh mẽ. Việc tiếp
cận tri thức cũng dễ dàng và đa dạng hơn so với trước đây, từ tri thức thông qua
giáo dục – đào tạo, các tài liệu khoa học, cho đến mạng thông tin… Từ việc tiếp cận

dễ dàng và đa dạng hơn so với trước mà con người đã có nhiều cải tiến, phát minh,
ý tưởng mới khi vận dụng nó vào quá trình lao động sản xuất, học tập, nghiên cứu,
sáng tạo, hoạt động xã hội của con người.

15


Thứ hai, nền kinh tế tri thức dựa trên đội ngũ lao động chủ yếu là tri
thức, đƣợc đào tào đầy đủ cả về chất và lƣợng tạo thành nguồn nhân lực chất
lƣợng cao để phát triển kinh tế.
Yếu tố này giữ vai trò quyết định vì trong nền kinh tế tri thức để vận hành
máy móc, công cụ sản xuất, phương pháp sản xuất hiện đại đòi hỏi người lao động
phải đủ năng lực điều khiển và sử dụng nó. Bên cạnh đó, chính đội ngũ lao động sẽ
trở thành nguồn gốc sáng tạo để cải tiến phương tiện, máy móc, kỹ thuật… và đặt ra
những yêu cầu khoa học mới đòi hỏi những nhà nghiên cứu tìm tòi và phát minh.
Thứ ba, quá trình sản xuất dựa trên nền tảng quá trình sử dụng và phát
triển công nghệ hiện đại.
Kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và tạo ra nhiều biến đổi trong đời
sống kinh tế – xã hội theo hướng ngày càng phát triển đi lên, vì thế sáng tạo trở
thành động lực trực tiếp và không thể thiếu của sự phát triển. Trong nền kinh tế tri
thức không hẳn cái khan hiếm, quý giá mới có giá trị mà cái chưa biết cũng tạo nên
giá trị, cái đã biết đã được sử dụng thì sẽ mất dần giá trị của nó. Tìm ra cái chưa biết
tức là việc tạo ra cái mới và cũng có nghĩa là cái cũ bị thay thế và mất đi. Vòng đời
công nghệ, sản phẩm trong nền kinh tế tri thức từ lúc mới nẩy sinh, phát triển, chín
muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn; nếu trước đây vòng đời công nghệ có thể
tính bằng nhiều thập kỷ thì nay tính bằng năm, thậm chí rút ngắn xuống bằng tháng
chẳng hạn trong công nghệ thông tin [31, tr.104].
Đem so sánh kinh tế tri thức với kinh tế công nghiệp trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh thì kinh tế công nghiệp chủ yếu thực hiện tối ưu hóa sản xuất,
tức là hoàn thiện cái đã có, để làm giảm chi phí sản xuất; còn trong kinh tế tri thức

thì chủ yếu thực hiện sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới
người tiêu dùng nhanh hơn. Sản xuất những ngành công nghệ cao và sản xuất dựa
trên công nghệ cao trở thành ngành sản xuất chủ đạo, như C.Mác đã dự báo: “Phát
minh trở thành một nghề đặc biệt” [31, tr.104 -105].
Sự phát triển của khoa học – công nghệ và việc đưa nó vào sản xuất làm định
hình nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên những dây chuyền hiện đại, những

16


công cụ sản xuất mới với năng suất rất cao, độ chính xác và hiệu quả sản xuất
không ngừng đi lên. Cùng với nó là quá trình con người sử dụng, tương tác với
công cụ sản xuất để tạo ra sản phẩm không phải đơn thuần là lao động phổ thông
giản đơn mà là sự tương tác bằng tri thức là chủ yếu.
Thứ tƣ, nền kinh tế tri thức phát triển tạo điều kiện thuận lợi phát triển
lực lƣợng sản xuất.
Điều này xuất phát từ chính yêu cầu của kinh tế tri thức là quá trình sáng tạo
không ngừng và vận dụng nó vào sản xuất và cuộc sống. Nó biểu hiện ở quá trình
cải tiến, tạo ra những công cụ, phương pháp sản xuất mới. Đồng thời với nó là tạo
điều kiện cho mọi người học tập nâng cao trình độ và đặc biệt là phát huy khả năng
sáng tạo của mình, điều này thể hiện bước tiến so với kinh tế công nghiệp trước đó
là công việc sáng tạo hầu như thuộc về số ít những nhà khoa học, những chuyên gia.
Những thành tựu trong khoa học – công nghệ nhanh chóng được đem vào
sản xuất làm biến đổi tư liệu sản xuất, trong đó chủ yếu là công cụ sản xuất. Nhiều
công cụ sản xuất hiện đại có khả năng tự vận hành sử dụng trí tuệ nhân tạo ngày
càng nhiều, nó làm giảm bớt lượng lao động và công sức lao động của con người.
Đồng thời với việc này thì số lượng lao động và thể lực trong lao động ở nhiều lĩnh
vực giảm xuống, nhưng yêu cầu công việc tăng lên thông qua việc sử dụng nhiều trí
lực của con người trong lao động, sản xuất. Việc đòi hỏi sử dụng nhiều tư liệu sản
xuất hiện đại và lao động có trình độ cao ngày càng tăng trong nền kinh tế tri thức

đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ năm, Phân bố nguồn lực và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý theo
hƣớng phát triển và lấy công nghiệp làm nền tảng, kết hợp phát triển dịch vụ,
cân đối và nâng cao hiệu quả trong nông nghiệp.
Công nghiệp phát triển theo hướng đẩy mạnh trong những ngành công nghệ
cao như công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông… Bên cạnh đó, các ngành công
nghiệp khác theo hướng đổi mới công nghệ, dây chuyền hiện đại, nâng cao giá trị
sản phẩm, đẩy mạnh công nghiệp chế biến, chế tạo. Về dịch vụ thì chú trọng phát
triển các ngành phục vụ sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, kết hợp phát triển

17


những ngành dịch vụ truyền thống và có lợi thế. Còn nông nghiệp thì sử dụng và
khai thác nguồn lợi một cách hiệu quả, giảm quy mô nhỏ, lẻ, cách thức lạc hậu, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ sinh học thông qua giống cây trồng, vật nuôi, phương
pháp, kỹ thuật mới theo hướng nâng cao năng suất gắn với chất lượng, bảo vệ môi
trường và kết hợp nó với công nghiệp chế biến.
Thứ sáu, mạng thông tin là cơ sở hạ tầng quan trọng của kinh tế tri thức.
Mạng thông tin phát triển mạnh mẽ trong khoảng hơn 15 năm nay, nó là kết
quả của sự phát triển lâu dài của công nghệ thông tin, của khoa học máy tính… Từ
khi nó định hình và phổ biến đến mọi người, nó đã thúc đẩy nhanh chóng việc tiếp
cập tri thức và ứng dụng nó vào thực tiễn.
Nhờ có mạng thông tin, tri thức được phổ biến rộng rãi đến mọi người;
các hoạt động sản xuất, kinh doanh (kinh doanh điện tử) sôi động nhanh nhạy,
sản xuất gắn chặt với thị trường; tổ chức quản lý có hiệu lực hơn, thúc đẩy phát
triển dân chủ, công khai, minh bạch, nhanh chóng (với chính phủ điện tử có thể
cải cách hành chính, thực hiện dân biết, dân bàn, dân kiểm tra); có thể phát triển
hình thức học tập từ xa (giáo dục điện tử), chia sẽ kinh nghiệm, tri thức qua
mạng, tư vấn, chăm sóc sức khỏe từ xa... Mạng thông tin còn là môi trường rất

thuận lợi để trao đổi các ý tưởng, sáng kiến mới giúp nâng cao năng lực con
người, khả năng sáng tạo của con người và xã hội. Mạng thông tin tạo cho con
người môi trường thuận lợi để tiếp cận và sáng tạo tri thức. Từ khi hình thành và
phát triển mạng thông tin làm thay đổi cách suy nghĩ, học tập, làm việc, cách sản
xuất kinh doanh, tổ chức quản lý, lối sống, giải trí, giao tiếp, văn hóa… Trong
một xã hội mạng thông tin phát triển thì quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trực
tiếp hơn và gần hơn, có thể thực hiện sản xuất theo yêu cầu thông qua các đơn
đặt hàng, hình thức tổ chức sản xuất trở nên linh hoạt, cơ động hơn; sự liên kết
giữa các doanh nghiệp, giữa sản xuất với cung ứng nguyên vật liệu với thị
trường tiêu thụ và người tiêu dùng trở nên chặt chẽ, gắn bó hơn, nhiều ý tưởng từ
người tiêu dùng trở thành ý tưởng sản xuất [31, tr.105 – 106].

18


1.1.4. Điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức
Sự phát triển của tri thức của con người và xã hội, đặc biệt là tri thức gắn với
lao động sản xuất đã thúc đẩy việc cải tiến công cụ sản xuất, cũng như nâng cao sức
lao động của con người, làm cho lực lượng sản xuất phát triển, làm thay đổi các
hình thái kinh tế xã hội cũng như các nền kinh tế từ kinh tế tự nhiên, kinh tế nông
nghiệp, kinh tế công nghiệp cho đến kinh tế tri thức.
Kinh tế tự nhiên có lịch sử ra đời lâu dài, là trình độ sản xuất sớm nhất của
con người, nó gắn liền với thời đại công xã nguyên thủy. Việc sản xuất có sự chi
phối nhiều bởi bản năng sinh vật kết hợp, pha trộn với vốn tri thức ít ỏi của con
người về thế giới xung quanh. Năng suất lao động còn rất thấp, khả năng có sản
phẩm dư thừa gần như là không có, nên phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, thiếu chủ
động trong sản xuất mà bị động dựa vào điều kiện tự nhiên sẵn có xung quanh.
Nhờ cải tiến công cụ sản xuất và tích lũy tri thức mà con người phân công lại
lao động sản xuất; điều này đã đưa nền kinh tế tự nhiên tiến lên nền kinh tế nông
nghiệp. Giai đoạn này trải qua lịch sử rất lâu dài từ cuối xã hội công xã nguyên

thủy, qua xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản và thậm chí hiện nay nó vẫn tồn tại ở một số nơi trên thế giới. Ở nền kinh tế
nông nghiệp do điều kiện hạn chế của khoa học, nên việc sản xuất mang tính chất
thủ công, lạc hậu, hàm lượng tri thức thấp biểu hiện qua công cụ lao động phổ biến
ở thời kỳ này là: chiếc cuốc, chiếc cày, cối xay gió... ; vì vậy con người phải lệ
thuộc vào tự nhiên, làm cho năng suất rất kém, mất mùa xảy ra thường xuyên.
Những trì trệ, yếu kém này là do sự ràng buộc của chế độ phong kiến làm cho sự
phát triển khoa học – công nghệ trong thời kỳ kinh tế nông nghiệp ở các nước châu
Âu, châu Á nhìn chung rất chậm chạm, trì trệ. Tuy nhiên, so với khu vực châu Á và
châu Âu đang trì trệ thì khu vực Trung Cận Đông lại có những bước tiến nhất định
trong khoa học – công nghệ, họ đã lưu giữ và phát triển những thành tựu mà văn
minh Hy – La cổ đại có được, tạo ra những máy móc cơ học đơn giản trong nông
nghiệp. Mặc dù những bước tiến này vẫn chưa thay đổi nền kinh tế nông nghiệp,
nhưng nó tạo đà cho sự phát triển tiếp theo ở thời kỳ Phục hưng khi họ truyền

19


những giá trị này vào Châu Âu, sự phát triển của khoa học – công nghệ và sản xuất
thời kỳ Phục hưng và sau đó là Cận đại đã mở đường cho sự ra đời của chủ nghĩa tư
bản. Khi chủ nghĩa tư bản định hình ở châu Âu đã mở đường cho lực lượng sản xuất
và khoa học – công nghệ phát triển, tạo điều kiện ra đời kinh tế công nghiệp.
Sự ra đời của kinh tế công nghiệp bắt đầu từ việc hình thành cách mạng công
nghiệp diễn ra đầu tiên ở Anh, sau đó nó lan tỏa ra nhiều quốc gia khác. Với việc
kinh tế công nghiệp hình thành đã làm thay đổi trình độ sản xuất của con người,
giúp năng suất lao động của con người tăng lên nhiều lần so với trước, làm thay đổi
nhiều mặt của đời sống xã hội; nhiều công cụ, vật dụng, phương tiện mới mà trước
đây ở kinh tế nông nghiệp không thể có thì bây giờ đã thành hiện thực. Bên cạnh
đó, thay vì phải lệ thuộc tự nhiên bây giờ con người đã chủ động chinh phục tự
nhiên, buộc tự nhiên phục vụ mình. Mặc dù về cơ bản kinh tế công nghiệp đã tìm ra

cách sản xuất mới tiến bộ hơn, cùng với nó là nhiều sản phẩm mới; nhưng cách thức
này và sản phẩm của nó vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào khai thác tài nguyên thiên
nhiên. Nhưng tài nguyên không phải cái nào cũng vô tận và có thể phục hồi; vì thế
nếu theo cách của nền sản xuất công nghiệp thì con người sẽ sớm cạn kiệt tài
nguyên. Nền sản xuất công nghiệp dù đã phát triển đời sống kinh tế – xã hội của
con người nhưng nó vẫn chưa giải quyết những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội
của nó, gây nên khủng hoảng và hai cuộc đại thế chiến. Những hạn chế mà nền sản
xuất công nghiệp tồn tại muốn giải quyết thì phải tiếp tục phát triển khoa học –
công nghệ lên một tầm cao mới, nó đã thúc đẩy hình thành cuộc cách mạng khoa
học – kỹ thuật – công nghệ hiện đại thế kỷ XX.
Cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ hiện đại thế kỷ XX hay còn gọi
là cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại xuất hiện từ sau thế chiến thứ hai cho
đến nay. Cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại xuất phát từ nhu cầu của con
người ngày càng nâng cao, nên việc cải tiến công cụ sản xuất là tất yếu, phải tạo ra
những công cụ sản xuất có thể thay thế con người làm những việc nặng nhọc, thực
hiện “những quy trình công nghệ phức tạp trong đó đòi hỏi cao về thể lực, tốc độ,
độ chính xác, tính liên tục…” [61, tr.515] mà trong giới hạn con người khó có thể

20


làm được và duy trì công việc được lâu. Bên cạnh đó, là vấn đề gia tăng dân số,
biến đổi khí hậu, sức khỏe con người và tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt
cũng đặt ra yêu cầu về việc tạo ra những vật liệu mới, những sản phẩm sinh học mới
đáp ứng tốt cho con người, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, chủ động
trước biến đổi khí hậu… Những thành tựu mà cách mạng khoa học – công nghệ
hiện đại đã đem lại những tiến bộ phi thường, khoa học đã gắn liền với kỹ thuật và
sản xuất, rút ngắn rất nhiều thời gian từ nghiên cứu khoa học đưa vào ứng dụng
trong kỹ thuật và từ kỹ thuật đưa vào sản xuất. Con người đã tạo ra những công cụ
sản xuất mới (máy tính điện tử, các thiết bị tự động, rô bốt…); những vật liệu mới

rẻ hơn, ít hao tốn tài nguyên, một số có tính phục hồi được mà tính năng của nó
vượt trội so với loại có sẵn trong tự nhiên; những nguồn năng lượng mới; trong sinh
học con người đã hiểu hơn về chính cấu tạo cơ thể sống của mình và cải tạo nhiều
giống cây trồng, vật nuôi tạo thành cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Việc
đẩy mạnh sử dụng và khai thác khoa học – công nghệ đã giúp nhiều quốc gia nhanh
chóng trở thành cường quốc mới trên thế giới; thang đo cho sự giàu có, thịnh vượng
không phải dựa vào tài nguyên thiên nhiên mà dựa vào khoa học – công nghệ.
Từ kết quả của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã làm thay đổi
toàn bộ tư liệu sản xuất cũng như người lao động, tạo ra những công cụ sản xuất,
hiện đại. Cùng với đó, là khả năng lao động của người tăng lên vượt bật, lao động
dựa vào chân tay dần bị thay thế bằng trí lực của con người, tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển. Nó đưa con người vào nền kinh tế mới, đó là nền kinh tế
tri thức.
1.2. Các thành phần kinh tế và mối quan hệ của nó trong việc phát triển
kinh tế tri thức
1.2.1. Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay
Về thuật ngữ thì “thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế
dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn
tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản
xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị để xác định từng thành phần

21


×