Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Một sô biện pháp sửa lỗi và rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.21 KB, 11 trang )

PHN I:
T VấN
I. Lí DO CHN TI:
Mụn Ting Vit trng Ph thụng cú nhim v hỡnh thnh nng lc hot ng
ngụn ng cho hc sinh. Nng lc hot ng ngụn ng trong 4 dng hot ng tng
ng vi chỳng l 4 k nng: Nghe, núi, c, vit. c l mt phõn mụn ca chng
trỡnh Ting vit bc Tiu hc. õy l mt phõn mụn cú v trớ c bit trong chng
trỡnh vỡ nú m nhim vic hỡnh thnh v phỏt trin cho hc sinh k nng chuyn ch
vit thnh ngụn ng, mt k nng quan trng hng u ca hc sinh bc hc u
tiờn. Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình
thành năng lực đọc cho học sinh. Nng lc c c to nờn t bn k nng cng l
bn yờu cu v cht lng ca c c ỳng, c nhanh (c lu loỏt, trụi chy)
c cú ý thc (khụng hiu c ni dung nhng iu mỡnh c hay cũn gi l c
hiu) v c din cm. Bn k nng ny c hỡnh thnh trong hai hỡnh thc c:
c thnh ting v c thm. Chỳng c rốn luyn ng thi v h tr ln nhau. S
hon thin mt trong nhng k nng ny s cú tỏc ng tớch cc n nhng k nng
khỏc.
Ví d: c úng l tin ca c nhanh cng nh cho phép thông hiu ni dung
vn bn. Ngc li nếu không hiu iu ang c thì không th c nhanh v din
cm c. Nhiu khi, khó m nói c rch ròi k nng no lm c s cho k nng
no, nh c úng m hiu úng, hay chính nh hiu úng mi c úng. Vì vy
trong dy c không th xem nh yu t no.Nhng kinh nghim i sng, nhng
thnh tu vn húa, khoa hc, nhng t tng, tỡnh cm ca th h trc v ca c
nhng ngi ng thi phn ln c ghi li bng ch vit. Nu khụng bit c thỡ
con ngi khụng th tip thu nn vn minh ca loi ngi, khụng th sng mt cuc
sng bỡnh thng,...v ngc li.
Bit c con ngi ó nhõn kh nng tip nhn lờn nhiu ln, t õy h bit tỡm
hiu, ỏnh giỏ cuc sng, nhn thc cỏc mi quan h t nhiờn, xó hi, t duy . Bit
c con ngi cú kh nng ch ng mt phng tin vn húa c bn giỳp h giao tip
c vi th gii bờn trong ca ngi khỏc, thụng hiu t tng, tỡnh cm ca ngi
khỏc. c bit trong thi i bựng n thụng tin thỡ bit c cng quan trng vỡ nú


giỳp ngi ta s dng cỏc ngun thụng tin khụng nhng bit c Ting Vit m cn
phi bit c c ting nc ngoi. c chớnh l hc, hc na, hc mói, c t hc,
hc c i.
i vi hc sinh k nng c l yờu cu c bn u tiờn. Nu khụng bit c cỏc
em s khụng tham gia vo hot ng hc cỏc mụn khỏc t kt qu c.
Vỡ vy, dy c cú ý ngha rt quan trng trong chng trỡnh dy hc Tiu hc.
Yờu cu v k nng c t ra cho hc sinh lp 5 cn t ti ú l:
- c ỳng tc ;
- c lu loỏt
- c thm nhanh xác định đại ý (nội dung) của văn bản ;
1


- Bc u bit c din cm bi vn hay bi th núi chung, cú cm xỳc, bit
nhn ging nhng t gi cm, gi t, bit c rừ li tỏc gi, phân biệt đúng li nhõn
trờn thỡ 3 yờu cu u cỏc em ó c rốn luyn qua cỏc lp 1, 2, 3. Riờng yờu cu
th 4 cỏc em bt u c lm quen t lp 4 v n lp 5 yờu cu v k nng c
din cm c nõng dn lờn. Trong khi ú trng Tiu hc, vic dy c, bờn cnh
nhng thnh cụng, cũn nhiu hn ch: hc sinh ca chỳng ta cha c c nh
mong mun. Kt qu c ca cỏc em cha ỏp ng c yờu cu ca vic hỡnh thnh
k nng c, c bit l k nng c din cm. Vỡ cha th hin din cm trong bi
c nờn trong quỏ trỡnh giao tip ca cỏc em cng cha th hin c s giao tip
lch s nh núi li cho hi, cm n, xin li, mi, nh, yờu cu, ngh. Mi hc
sinh ó cú c k nng c din cm thỡ chc chn vic cm th vn hc d dng
hn v sõu sc hn . Nhiu giỏo viờn cng cũn lỳng tỳng khi dy tp c. Cn c bi
vi ging nh th no, lm th no sa cha cỏch c cho hc sinh din cm
hn...ú l nhng trn tr ca giỏo viờn trong nhng gi tp c.
Xut phỏt t nhng thc trng núi trờn, tụi mnh dn a nhng ý kin ca mỡnh
trong vic Một sô biện pháp sửa lỗi và rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5 .

II. C S Lí LUN:
Dy c cú ý ngha rt to ln Tiu hc. c tr thnh mt ũi hi c bn u
tiờn i vi mi ngi i hc. u tiờn tr em phi hc c sau ú cỏc em phi c
hc. c giỳp cỏc em chim lnh c mt ngụn ng dựng trong giao tip v
hc tp. c l mt cụng c hc tp tt c cỏc mụn hc. c to ra hng thỳ v
ng c hc tp. c to iu kin hc sinh cú kh nng t hc v tinh thn hc
tp c i. V vic rốn cho hc sinh bit c din cm cỏc vn bn l iu rt quan
trng mi gi dy tp c cho hc sinh lp 5. Hc sinh bit cỏch c din cm cỏc
vn bn s cú tỏc dng giỳp cỏc em s hiu sõu sc hn v ni dung bi c tc l ó
gúp phn giỳp cỏc em bit cm th vn hc c tt hn. Hn th na vic dy hc
sinh bit c din cm giỳp cỏc em bit cỏch giao tip lch s hn khi núi li cm n,
li xin li, li cho hi, li nh, li yờu cu,
Vi nhim v l mt phõn mụn ginh khỏ nhiu thi gian thc hnh. Nhim
v quan trng nht ca nú l hỡnh thnh nng lc c cho hc sinh. Nng lc c
c to nờn bn k nng b phn, cng l bn yờu cu v cht lng ca c::
c ỳng, c nhanh, c cú ý thc (c hiu) v c din cm.
Trong bn yờu cu trờn thỡ yờu cu v c din cm bc u t ra cho hc sinh
lp 4 sau ú c nõng dn lờn lp 5. Yờu cu v c din cm trong ni dung
chng trỡnh tp c lp 5 ú l: bit c din cm bi vn, bi th, trớch on kch
ngn cú ngha l ũi hi hc sinh phi bit iu chnh ging c v cao , cng ,
nhn ging cỏc t ng quan trng th hin ỳng cm xỳc trong bi. Thụng qua
68 bi tp c thuc cỏc loi hỡnh vn bn ngh thut, bỏo chớ, khoa hc trong ú cú
46 bi vn xuụi, 4 bi l trớch on kch, 18 bi th (4 bi ca dao ngn c dy trong
mt tit).V mt dng vn bn khỏc nhau cỏch th hin ging c din cm khỏc
nhau. Tuy nhiờn dự dng vn bn no thỡ yờu cu v k nng c din cm phi
m bo c cỏc yờu cu sau:
2


- Đọc ngắt, nghỉ đúng chỗ,

- Đọc đúng kiểu câu,
- Đọc đúng tốc độ ,
- Đọc đúng cường độ,
- Đọc đúng cao độ
Như vậy nếu trong một giờ dạy tập đọc ở lớp 5 khi học sinh đọc bài mà không
đảm bảo được các yêu cầu trên thì coi như giờ dạy tập đọc chưa hoàn thành. Chúng ta
thử nhìn nhận nếu trong một giờ dạy tập đọc trong lớp không có một em nào biết đọc
diễn cảm thì giờ học sẽ rất rời rạc, buồn chán và tẻ nhạt, cả giáo viên lẫn học sinh đều
không cảm thấy có hứng thú để học. Nhưng ngược lại, nếu trong một giờ dạy học tập
đọc trong lớp có nhiều học sinh biết cách đọc diễn cảm thì giờ dạy học tập đọc trở
nên hấp dẫn và lôi cuốn học sinh vào giờ học.
Đọc diễn cảm là giai đoạn đọc cuối cùng trong một tiết dạy tập đọc. Sau khi học
sinh đã được luyện đọc đúng, đảm bảo tốc độ, đọc lưu loát và được tìm hiểu để hiểu
nội dung bài thì học sinh mới được luyện đọc diễn cảm. Đó là một điều thuận lợi để
giáo viên dạy học sinh luyện đọc diễn cảm. Bởi lẽ sau khi học sinh đã hiểu được nội
dung văn bản thì việc xác định giọng đọc sẽ dễ dàng hơn. Đọc diễn cảm trước hết
phải xác định nội dung, nghĩa, lý của bài đọc, sắc thái tình cảm, giọng điệu chung của
bài. Đây là nhiệm vụ của quá trình dạy đọc hiểu. Kết thúc quá trình đọc hiểu học sinh
phải xác định được cảm xúc của bài: vui, buồn, tự hào, tha thiết, trang nghiêm sâu
lắng, ngợi ca,...ngay trong một bài cũng có thể hòa trộn nhiều cảm xúc nhưng rà soát
lại các bài tập đọc của chương trình tập đọc lớp 5 ta thấy tông giọng chủ yếu của nó
có thể tạm gọi tên là: vui tươi nhẹ nhàng, tự hào yêu mến, tha thiết, ngợi ca trầm
hùng, mạnh mẽ.
Cần hiểu rằng “đọc diễn cảm” không phải là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên,
dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô
diễn cảm xúc của bài đọc. Vì vậy phải hòa nhập được với câu chuyện, bài văn, bài
thơ có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu
cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu.
PHẦN II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I.THỰC TRẠNG KỸ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CỦA HỌC SINH LỚP 5
+ Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương phát âm chưa chuẩn, ông bà, bố mẹ người
lớn nói thế nào các em bắt chước như thế.
+ Do bố mẹ ở địa phương khác chuyển đến hay đến xây dựng gia đình nói , phát âm
chưa đúng.
1. Về phía giáo viên
+ Nhìn chung hiện nay giáo viên của chúng ta chưa thực hiện tốt những kỹ năng
đọc, vì vậy không làm chủ được các nội dung dạy học tập đọc. Nhiều giáo viên chưa
đọc đúng chính âm, đọc chưa được diễn cảm, hiểu chưa đúng những điều được đọc từ
cấp độ từ ®ến câu, đoạn và cả nội dung, đích thông báo của toàn văn bản.
+ Nhiều giáo viên nền cảm thụ văn học còn hạn chế. Nhiều giáo viên chưa chú
trọng chữa các lỗi phát âm cho học sinh, không có biện pháp luyện cho học sinh đọc
3


to, đọc nhanh, đọc diễn cảm. Giáo viên còn nặng về phương pháp truyền thống, nặng
thuyết trình không chú ý năng lực chủ động của học sinh. Gọi học sinh đọc ít, kể cả
khâu rèn đọc và đọc giảng. Nhất là khi đọc diễn cảm giáo viên chỉ gọi một em khá
đọc mang tính hình thức. Chưa chú ý đến việc rèn đọc cho học sinh, nhận xét bạn đọc
đúng hay sai để sửa cho bạn và điều chỉnh mình khi mình đọc sai. Khi học sinh đọc
sai đọc lại để sửa thì chưa rèn dứt điểm đối với những lỗi sai của học sinh. Kĩ năng
đọc là mục đích cuối cùng của chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi giờ học. Đặc
biệt là đối với học sinh lớp 4, 5 thì kĩ năng đọc diễn cảm là mục đích cuối cùng sau
mỗi giờ tập đọc. Những kĩ năng này trước hết phải có ở giáo viên, thầy giáo phải đọc
được bài tập đọc với giọng cần thiết, phải giải mã được nội dung bài tập đọc từ việc
hiểu từ, câu đến việc hiểu ý, tình của văn bản. Thầy giáo không thể hình thành ở học
sinh kỹ năng mà bản thân anh ta không có, không thể gặt hái những gì mà chúng ta
không có khả năng gieo trồng. Vì vậy trong dạy học chúng ta không có quyền đòi hỏi
học sinh làm những gì mà bản thân chúng ta không làm được. Giáo viên không thể
luyện cho học sinh đọc hay, đọc diễn cảm khi mà bản thân người thầy chưa xác định

được bài văn cần đọc với giọng điệu như thế nào. Như vậy có nghĩa là để đạt được cái
đích cuối cùng ấy của giờ dạy tập đọc là học sinh phải đọc đúng, hay, đọc diễn cảm
và hiểu nội dung văn bản, bên cạnh đó có yêu cầu về kĩ năng đọc diễn cảm cái cần
thiết đầu tiên là phải có kĩ năng đọc diễn cảm ở người giáo viên.
2. Thực trạng về học sinh.
Qua khảo sát đọc cuối năm học 2012 - 2013 của HS lớp 5 trường tôi, kết quả thu
được như sau:
Bảng 1:

Lớp

5A

Ngắt
giọng sai


số
27

SL
7

%
26

Đọc sai
kiểu câu

Đọc chưa

diễn cảm

SL

%

SL

6

22

11

%
41

Đọc
diễn cảm
SL
3

%
11

Qua điều tra ta thấy thực trạng học sinh đọc diễn cảm một văn bản là rất ít. Hầu
như các em mới chỉ đạt đến yêu cầu: đọc đúng tốc độ, phát âm tương đối chính xác,
hiểu được nội dung bài còn yêu cầu về kỹ năng đọc diễn cảm là rất thấp. Nguyên
nhân chủ yếu là do giáo viên chúng ta chưa thực sự chú tâm để tìm ra cách đọc mẫu
cho mình. Nhiều giáo viên còn lúng túng khi xác định giọng đọc của bài, các lần đọc

mẫu của giáo viên chưa giống nhau làm cho học sinh không biết mình sẽ bắt chước
theo kiểu đọc nào.
Học sinh ở nhiều vùng miền khác nhau nên phương ngữ của các em cũng
không giống nhau: học sinh dân tộc thiểu số chủ yếu ở miền Bắc nên nói phương ngữ
Bắc, học sinh ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế lại
phát âm bằng phương ngữ Trung còn học sinh Quảng Nam – Đà Nẵng lại phát âm
4


bằng phương ngữ Nam. Điều này rất khó cho giáo viên khi tổ chức rèn kỹ năng đọc
diễn cảm trong một lớp.
Học sinh đã đọc kém lại lười đọc, không chú ý đến cách hướng dẫn đọc của cô,
không nghe những bạn đọc đúng để mình học tập, để mình đọc đúng.
Đối với những em đã đọc đúng thì chưa chịu rèn kỹ năng đọc diễn cảm (đọc
hay) để thể hiện được cảm xúc, tình cảm thái độ qua giọng đọc và tính cách của các
nhân vật như : đọc đúng tốc độ, cao độ, trường độ, và âm sắc.
Việc chuẩn bị bài của các em ở nhà chưa kỹ, không luyện đọc nhiều lần trước
khi đến lớp.
2.1.Thực trạng HS đọc không đúng chỗ ngắt giọng.
Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra là một cách
đọc không để ý đến nghĩa. Vì vậy đọc ngắt giọng đúng là mục đích của dạy đọc thành
tiếng vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài.
Lỗi học sinh mắc phải khi đọc những bài văn xuôi, thường ngắt giọng sai ở
những câu văn dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp. Ví dụ: Bài “Những người bạn tốt”,
HS ngắt giọng sai trong câu: “ Trên đường trở về kinh đô, / đến giữa biển thì đoàn
thủy thủ trên chiếc tàu chở / ông nổi lòng tham, / cướp hết tặng vật và đòi giết ông
A – ri - ôn.”.
Bài “ tranh làng Hồ ” ngắt giọng sai câu: “ Tết đến, / đứng trước những cái chiếu
bày tranh làng Hồ rải / trên các lề phố Hà nội, / lòng tôi thấm thía một nỗi biết ơn
đối với những người nghệ sĩ/ tạo hình của nhân dân”.

Lỗi HS mắc phải khi đọc những bài thơ là do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc
theo áp lực của nhà thơ. Với thơ 4 tiếng các em quen ngắt nhịp 2/2.
Ví dụ:
-“Em yêu / màu đỏ
Như máu / con tim”
“Hạt gạo làng ta
Có vị / phù sa”
Với thơ 5 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2, với thơ 7 tiếng các em ngắt
nhịp 3/4 hoặc 4/3.
Ví dụ:
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui / nghe giữa núi đồi”
Với thơ lục bát sẽ được ngắt nhịp 2 / 2/ 2 ( 6 tiếng), 4/4 ( 8 tiếng). Ví dụ:
“Bầy ong giữ hộ cho người
Những mùa hoa đã / tàn phai tháng ngày”
Những trường hợp trên đã bị xem là ngắt giọng sai vì đã tách một từ ra làm hai,
tách từ chỉ loại với danh từ, tách danh từ ra khỏi định ngữ đi kèm, ngắt giọng sau một
hư từ.
2.2. Lỗi về đọc không đúng kiểu câu.
Học sinh chỉ biết đọc đều cho tất cả các loại câu: Kể, khiến, cảm, hỏi. Học sinh
không biết cách thể hiện khi nào thì thể hiện ngữ điệu yếu, ngữ điệu mạnh, ngữ điệu
xuống, ngữ điệu lên
5


- Ngữ điệu yếu xuất hiện ở dấu 3 chấm:
Ví dụ:
“Trời săp tối rồi (...)
Cha không bế con về được nữa.”
- Ngữ điệu mạnh xuất hiện ở câu cảm và câu khiến như là:

“Đứa nhỏ thôi ! Nặng lắm rồi.”.
- Ngữ điệu xuống (hạ giọng)
Ví dụ:
“Có hồ nước lặn sôi tăm cá
Có bưởi cam thơm mát bóng dừa.”
- Ngữ điệu lên xuất hiện ở các câu hỏi.
Ví dụ: - Có không/ má thằng An? (Lòng dân)
- Mày có dặn lão Sáu Bo tối đánh xe ra bìa rừng chưa? (Người gác rừng tí
hon).
2 .3. Lỗi về tốc độ đọc.
Ở những văn bản đòi hỏi phải thể hiện tốc độ đọc nhanh, khi yêu cầu đặt ra như
thế học sinh thường hiểu là với văn bản này phải đọc liến thoắng đọc nhanh đến nỗi
mà người nghe không thể nào theo dõi được hoặc đối với những văn bản yêu cầu đặt
ra là đọc chậm rãi thì học sinh lại đọc quá chậm: đọc từng tiếng một, rời rạc như có
cảm giác học sinh vừa đọc vừa dừng lại để đánh vần.
2.4. Lỗi về cường độ.
Khi nói đến sử dụng cường độ trong đọc diễn cảm cần phải nói đến chuyện dạy
đọc to cho học sinh. Đọc phải đủ lớn để các bạn ngồi ở vị trí xa nhất cũng có thể nghe
được. Nhưng thực tế trong một lớp học vẫn còn tồn tại một số học sinh đọc quá nhỏ
thậm chí giọng đọc phát ra không đủ để cho bạn ngồi cùng bàn có thể theo dõi được.
2.5. Lỗi về cao độ.
Thể hiện cao độ khi đọc là muốn nói đến chỗ lên giọng, xuống giọng. Học sinh ở
lớp khi đọc bài còn tuỳ tiện lên giọng xuống giọng sau mỗi câu mà không biết chỗ đó
có dụng ý nghệ thuật gì.
Ví dụ: Khi đọc: “Bầm ơi có rét không Bầm?” (bài Bầm ơi). Học sinh cho rằng
đây là loại câu hỏi nên cần lên cao giọng ở cuối câu mà không tính đến dụng ý nghệ
thuật của tác giả.
IV. CÁCH SỮA LỖI CHO HỌC SINH KHI ĐỌC DIỄN CẢM.
1. Chữa lỗi ngắt giọng.
Những lỗi sai trên là do người đọc không tính đến cấu trúc ngữ pháp: chủ ngữ và

vị ngữ . Chỗ ngắt giọng không được rơi vào sau hư từ hoặc trong cụm 1 từ, 1 từ lại
tách ra làm hai. Để chữa được những lỗi này giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh:
- Thường ngắt giọng giữa ranh giới chủ ngữ và vị ngữ. Ví dụ:

Em/ yêu màu đỏ (Bài Sắc màu em yêu).
Tôi/ đứng vui nghe giữa núi đồi (Bài Đất nước).
- Thường ngắt giọng giữa ranh giới các từ. Ví dụ:
6


Như/ máu con tim (Bài Sắc màu em yêu).
Chỗ ngắt giọng sẽ không rơi vào sau hư từ trong câu mà rơi vào trước hư
từ trong câu. Ví dụ:
Những mùa hoa/ đã tàn phai tháng ngày (Bài Hành trình những bầy ong). “Đã”
là hư từ trong câu.
Có thể nói thơ là sự “phân vân” giữa nhạc và ý nên chỗ cần luyện ngắt nhịp là
chỗ mà nhạc thơ theo áp lực tự nhiên và ý nghĩa ngữ pháp không khớp với nhau.
Không phải bao giờ cũng ngắt nhịp theo ý. Có trường hợp phải ưu tiên cho nhạc. Ví
dụ : Trong câu lục bát chỗ ngắt nhịp nhất thiết sẽ rơi vào sau tiếng thứ 6 của câu 8
tiếng nếu nó được gieo vần. Trong trường hợp này thậm chí một từ cũng phải ngắt
làm hai. Ví dụ:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau/ đớn lòng.
Để chỉ ra chỗ sai cho học sinh trong cả ngắt giọng sai ở văn xuôi cũng như thơ,
giáo viên cần cho học sinh hiểu về cú pháp trong câu, cần cho học sinh thấy sự ngắt
giọng sai đã phản ánh một cách hiểu sai về nội dung ý nghĩa.Ví dụ: Trên đường trở
về kinh đô, đến giữa biển thì đoàn thuỷ thủ trên chiếc tàu chở/ ông nổi lòng tham
cướp hết tặng vật và đòi giết ông A-ri-ôn. Ở đây nhân vật ông nếu theo cách ngắt
giọng như thế thì “ông” chính là người nỗi lòng tham chứ không phải là các thuỷ thủ
nỗi lòng tham mà “ông” đòi giết “ông” thì rất vô lý.

Tuy nhiên cũng khônng nên cứng nhắc khi dạy ngắt giọng, giáo viên phải biết
rằng trong cùng một câu lại có nhiều cách ngắt giọng. Vấn đề là giáo viên nên chọn
cách ngắt giọng nào cho hay hơn. Ví dụ: Những tháp khoan/ nhô lên trời ngẫm nghĩ
(trong bài Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà). Cách ngắt nhịp trên cũng đúng
nhưng có thể ngắt nhịp thành: Những tháp khoan nhô lên trời/ ngẫm nghĩ.
2. Chữa lỗi về ngữ điệu.
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu yếu: Hầu hết tất cả các bài văn xuôi hay thơ khi
được đặt dấu ba chấm (…) đọc đến đây chúng ta phải hạ giọng thấp hơn so với giọng
đọc ban đầu. Dấu ba chấm ở đây chỉ sự ngập ngừng chưa nói hết thì phải đọc với ngữ
điệu yếu.
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu mạnh: Hầu hết các kiểu câu cảm và câu khiến sẽ có
ngữ điệu mạnh. Hoặc trong một ngữ đoạn, ngữ điệu mạnh nêu bật những từ người ta
muốn nhấn mạnh đặc biệt là lúc này ngữ điệu mạnh trùng với trọng âm. Ví dụ: khi
đọc một đoạn trong bài “Mùa Thảo quả” được đọc nhấn giọng ở các từ: lướt thướt,
quyến, đưa, ngọt lựng, thơm nồng. Còn những câu khiến mời mọc, đề nghị nhẹ nhàng
mà trên chữ viết thường ghi dấu chấm sẽ được đọc với giọng nhẹ hơn. Ví dụ: Mời em
vào nhà chơi. Cũng có khi những câu có hình thức là câu hỏi mà tính thông báo thực
chất là câu mệnh lệnh cũng đọc với ngữ điệu mạnh.
Ví dụ: “Cả lớp có im lặng không?”.
* Cách chữa về lỗi thể hiện ngữ điệu xuống (hạ xuống): thường dùng để kết thúc
câu kể (câu tường thuật). Vì đường ranh giới câu không chỉ thể hiện ở chỗ ngừng mà
còn ở ngữ điệu kết thúc đi xuống. Nếu ta không hạ giọng ở cuối mỗi câu sẽ không tạo
ra sự luân chuyển nhịp nhàng cao độ của các câu, vì vậy khi đọc chóng bị mệt và
7


người nghe khó theo dõi. Ngoài ra, ngữ điệu xuống thường dùng để đọc lời tác giả
trong những văn bản xen lẫn lời tác giả và lời nhân vật, nhất là khi lời tác giả lọt vào
giữa lời nhân vật . Ví dụ: An... (An “dạ”). Mày qua bà Mười dắt con heo về …, đội
luôn dạ lúa. Rồi…cha con ráng đùm bọc lấy nhau.

* Cách chữa lỗi về lên giọng: Khi đọc câu hỏi cần phải lên giọng. Ví dụ: Em đã
học bài chưa? Phải cao giọng ở cuối câu. Tuy nhiên những câu hỏi kết thúc bằng ngữ
khí từ thì không lên giọng (à, đấy ư, thế, hả, chứ). Ví dụ: Chồng chị à?
3. Cách chữa lỗi về tốc độ đọc.
Để chữa lỗi về thể hiện tốc độ giáo viên cần hướng dẫn:
- Khi đọc những văn bản có nội dung miêu tả một công việc dồn dập khẩn trương
thì phải đọc nhịp nhanh. Nhưng không có nghĩa là các em phải đọc một cách liến
thoắng mà đọc với tốc độ nhanh hơn bình thường để người nghe có thể theo dõi được.
- Khi đọc những văn bản có cảm xúc phấn khởi tự hào cần thể hiện tốc độ không
quá chậm.
- Là một bài văn xuôi trữ tình, chan chứa cảm xúc cần phải được đọc chậm. Đọc
với tốc độ chậm là chậm so với mức bình thường chứ không phải các em đọc chậm
từng tiếng một sẽ làm cho người nghe hiểu sai về nội dung văn bản.
4. Cách chữa lỗi về cường độ.
Giáo viên phải tập cho tất cả học sinh trong lớp mình có thói quen đọc đúng cường
độ, nghĩa là phải đọc đủ lớn để cho cả lớp và cô giáo có thể nghe được. Giáo viên
phải giáo dục cho học sinh hiểu được tác hại của việc đọc quá nhỏ, thì cô và các bạn
sẽ không theo dõi được, mà không theo dõi được thì không thể sửa sai cách đọc cho
chúng ta được.
5. Cách chữa lỗi về cao độ.
Như đã nêu ở phần cách chữa lỗi về ngữ điệu, ở mỗi loại kiểu câu lại có một ngữ
điệu lên, xuống khác nhau. Tuy nhiên vẫn tồn tại trương hợp ngoại lệ. Ví dụ: Có khi
là câu hỏi nhưng khi đọc không cần lên giọng ở cuối câu. Chẳng hạn khi đọc câu:
“Bầm ơi, có rét không Bầm ?” Đây là kiểu câu hỏi nhưng khi đọc ta không lên giọng
ở cuối câu mà lại hạ giọng vào cuối câu. Vì đây là câu hỏi thể hiện sự trăn trở, day dứt
của người con nơi chiến trận đang nghĩ về người mẹ yêu quý của mình. Một câu hỏi
không cần có câu trả lời. Như vậy tuỳ thuộc vào từng văn bản cụ thể mà giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh thể hiện đúng cao độ.
V. BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH.
Xuất phát từ những thực trạng mắc lỗi của học sinh, muốn rèn kỹ năng đọc diễn

cảm cho học sinh người giáo viên cần thực hiện như sau:
1. Các công việc cần chuẩn bị trước khi đến lớp.
- Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của nội dung bài dạy, xác định rõ thể loại
văn bản, tìm ra giọng đọc phù hợp với văn bản đó.
- Giáo viên phải luyện đọc mẫu trước ở nhà. Giọng đọc mẫu của giáo viên rất
quan trọng : Muốn học sinh của mình đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên cần
phải đọc diễn cảm văn bản đó. Để đọc đúng, hay giáo viên phải có lòng ham muốn
đọc hay và có ý thức tự điều chỉnh mình đọc đúng hơn, hay hơn, có ý thức trau chuốt
giọng đọc của mình. Giáo viên nên sử dụng máy ghi âm ghi lại giọng đọc của mình,
8


máy ghi âm sẽ giúp mình phát hiện ra các nhược điểm để tự mình điều chỉnh, sửa
chữa.
- Giáo viên phải dự tính được lỗi học sinh mắc phải trong bài trong quá trình đọc
để đưa ra cách chữa lỗi hay nhất.
2. Các công việc cần làm trong giờ dạy tập đọc ( phần luỵên đọc diễn cảm).
- Khi đọc mẫu giáo viên phải làm chủ được âm thanh giọng đọc của mình. Âm
thanh phát ra đủ lớn để cả lớp cùng nghe. Biết làm chủ giọng đọc cũng chính là biết
làm chủ ngữ điệu, tốc độ, cường đô, cao độ. Giáo viên phải đọc đúng, diễn cảm một
cách chắc chắn nghĩa là nhiều lần làm mẫu khác nhau, nhiều lần như một đều tạo ra
một mẫu đọc thành tiếng không đổi.
- Phải biết quan sát cách đọc của học sinh.
- Biết tái hiện lời đọc của học sinh trong thế đối chiếu với lời đọc mẫu ( chỉ dùng
khi thật cần thiết).
- Biết phối hợp nhịp nhàng lời mô tả giọng đọc với làm mẫu. Phối hợp nhịp
nhàng giữa lời mô tả giọng đọc với làm mẫu nghĩa là có sự hài hòa giữa những lời
yêu cầu, chỉ dẫn về cách đọc và khả năng biểu diễn những yêu cầu chỉ dẫn này bằng
giọng đọc mẫu của giáo viên.
- Trong giờ dạy tập đọc giáo viên không thể bắt ép học sinh phải đọc theo một

phương ngữ nhất định khi mà phương ngữ các em có được khác với phương ngữ mà
cô yêu cầu.
3. Cách tổ chức cho học sinh rèn kỹ năng đọc diễn cảm.
- Cho học sinh làm quen với toàn tác phẩm, xác định giọng đọc chung của cả bài.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh đàm thoại, nhận ra thể loại của văn bản, hiểu ý đồ
của tác giả, thảo lụân với học sinh để xác định giọng đọc chung của cả bài.
- Học sinh luyện đọc, phân tích thể hiện, lập dàn ý và xác định giọng đọc của từng
đoạn.
- Giáo viên cần chọn một đoạn tiêu biểu trong bài để hướng dẫn học sinh cách đọc
diễn cảm: Cách ngắt, nghỉ đúng chỗ; cách nhấn giọng vào những từ ngữ quan trọng
trong đoạn văn, đoạn thơ đó (cần cho học sinh thấy rõ vì sao cần phải ngắt nghỉ và
nhấn giọng vào những từ ngữ quan trọng đó). Ở phần này giáo viên nên viết đoạn cần
hướng dẫn đọc vào bảng phụ để hướng dẫn và học sinh tiện theo dõi.
- Tổ chức cho học sinh luyện tập để thể hiện giọng đọc của từng câu, đoạn. Chú ý cho
học sinh luyện tập những câu khó đọc trong bài. Khi học sinh luyện tập giáo viên cần
chỉ ra chỗ khó đọc, những điểm nút trong bài đòi hỏi học sinh phải hiểu mới tìm cách
thể hiện điều đó trong giọng đọc. Trong khi luyện tập học sinh phải biết lắng nghe,
thảo luận nhận xét về giọng đọc, giải thích vì sao đọc như thế này là hay, đọc như thế
này là chưa hay, chỗ nào trong cách đọc của thầy, của bạn làm mình thích nhất.
- Cuối cùng giáo viên phải tổ chức cho học sinh luyện đọc cá nhân và tổ chức cho học
sinh thi đọc diễn cảm để các em có cảm hứng khi đọc diễn cảm.
- Cho cả lớp bình chọn bạn đọc bài diễn cảm nhất để khích lệ học sinh.
Vì những lời khen ngợi, động viên học sinh sẽ kích thích được sự tiến bộ của học
sinh trong những giờ học sau, đặc biệt là đối với những học sinh còn yếu.
VI. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.
9


Rút kinh nghiệm từ những năm học trước, năm học 2013 - 2014tôi đã áp dụng
những biện pháp nói trên ngay từ đầu năm học. Với sự giúp đỡ và tạo điều kiện của

các giáo viên trong khối tôi đã tiến hành khảo sát về kĩ năng đọc diễn cảm của học
sinh lớp 5A tôi đang dạy (lớp thực nghiệm) và các lớp khác trong khối Năm (lớp đối
chứng) . Kết quả thu được như sau:
Bảng 2:

Lớp

5A

Ngắt
giọng sai

số
27

SL
6

%
22

Đọc sai
kiểu câu

Đọc chưa
diễn cảm

SL

%


SL

6

22

10

%
37

Đọc
diễn cảm
SL
5

%
19

Qua khảo sát trên cho thấy ở các lớp không vận dụng những phương pháp
trên vào giảng dạy phần đọc diễn cảm của học sinh lớp 5 thì kết quả HS đọc diễn
cảm đạt tỷ lệ thấp. Trong khi ở lớp tôi nhờ áp dụng những biện pháp trên nên
kết quả thu được cao hơn so với các lớp khác rất nhiều.
VII. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Kết luận .
Qua quá trình thực hiện tôi nhận thấy khi học sinh đã biết đọc diễn cảm ở mỗi
bài đọc các em đã bồi bổ thêm các kỹ năng trong giao tiếp, các em đã mạnh dạn và tự
tin hơn khi tham gia giao tiếp với người lớn, thầy cô, bạn bè và mọi người xung
quanh như : nói lời chào hỏi, nói lời cảm ơn, nói lời xin lỗi, lời mời, lời nhờ, lời đề

nghị, lời yêu cầu...
Đối với giáo viên phải nắm vững kiến thức chính âm, chính tả. Tự bản thân mình
phải học tập nâng cao và rèn luyện liên tục. Nắm bắt được đối tượng học sinh mình
dạy mắc lỗi do nguyên nhân nào mà có kế hoạch dạy học kịp thời, phù hợp. Phải kiên
trì, nhẫn nại thường xuyên uốn nắn giúp học sinh thấy và hiểu rõ lỗi mà mình mắc
phải. Từ đó mà có ý thức, thói quen đọc đúng diễn cảm bài tập đọc .
Bản thân với năng lực có hạn và thời gian nghiên cứu chưa đủ để có thể hoàn
thiện sáng kiến một cách đầy đủ, khoa học.Do đó nội dung sáng kiến không tránh
khỏi những luận điểm chưa lí giải đầy sức thuyết phục và hợp lí.
Kính mong quý thầy cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp và mọi người quan tâm
đến rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 để bổ sung thêm những gì còn
khiếm khuyết để “nó” thật sự trở thành một sản phẩm chung và thiết thực.
Có được kết quả trên cũng chính là nhờ vào sự quan tâm chỉ đạo, sự đóng góp ý
kiến nhiệt tình của Ban Giám hiệu nhà trường, sự đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp trong Hội đồng, sự tận tâm của các cô giáo, thầy giáo chủ nhiệm và sự cố
gắng nổ lực của học sinh nên bước đầu đã có những kết quả đáng khích lệ.
2.Ý kiến đề xuất:
10


Nhm hn ch vic mc li v cỏch ngt ngh v c din cm ca hc sinh lp
5 núi riờng v hc sinh Tiu hc núi chung, gúp phn vo vic c ỳng, c hay.
Mt iu chỳng ta thy rừ: hc sinh Tiu hc kh nng trớ tu ca tr c th hin v
phỏt trin l nh vo vic nm vng ting m . Trỡnh nm vng ting m ca
tr mt phn ln ph thuc vo nng lc nm ting m ca cỏc thy cụ giỏo.
Tụi xin trỡnh by mt s ý kin xut sau õy:
- Cung cp y ti liu, sỏch tham kho cho giỏo viờn v hc sinh .
- Thng xuyờn t chc tp hun nõng cao nng lc i ng giỏo viờn v kin thc
Ting Vit.
- Thờng xuyên dự giờ của giáo viên để nắm vững phơng pháp giảng dạy, từ đó khắc

phục kịp thời những tồn tại để thống nhất phơng pháp giảng dạy đặc biệt là việc rèn
đọc diễn cảm.
- Khơi dậy phong trào thi ngâm thơ, kể chuyện, đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên
trong khối, trong trờng.
- Thờng xuyên bồi dỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các môn học nhất là
phân môn Tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên nhất là đồ dùng dạy
phân môn Tập đọc.

Trờn õy l mt vi kinh nghim tụi mnh dn a ra. Tuy nhiờn ú cha
phi l gii phỏp ti u. Vỡ th tụi rt mong cú s b sung, úng gúp ý kin ca
cỏc cp qun lớ, cỏc ng chớ giỏo viờn ngy cng cú nhiu phng phỏp dy
hc tt hn.
Tụi xin chõn thnh cm n !

11



×