Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN lý LUẬN về CHUYÊN CHÍNH vô sản của CHỦ NGHĨA mác lê NIN và sự vận DỤNG xây DỰNG CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.12 KB, 26 trang )

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN VỀ CHUYÊN CHÍNH
VÔ SẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU

2

1. Tư tưởng lí luận về chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác Lênin

4

1.1. Tư tưởng C.Mác- Ph.Ăngghen về chuyên chính vô sản

4

1.2. VI.Lênin bảo vệ và phát triển lí luận về chuyên chính vô sản.

9

2. Sự vận dụng lí luận chuyên chính vô sản của Đảng ta trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội thời gian qua
2.1. Quan điểm của Đảng ta về thực hiện chuyên chính vô sản
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

14



14

2.2. Một số giải pháp nhằm giữ vững và tăng cường bản chất của
chuyên chính vô sản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

18

nước ta
KẾT LUẬN

25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

26


2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN VỀ CHUYÊN CHÍNH
VÔ SẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Sự ra đời và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học luôn gắn liền với
điều kiện hiện thực xã hội và thực tiễn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Hệ
thống lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong quá trình phát triển, luôn được bổ
sung và hoàn thiện. Bằng tư duy khoa học sáng tạo trên nền tảng thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng; qua thực tiễn đấu tranh của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; trước những đổi mới của cuộc sống và thời đại,
lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sức sống

của mình, thực sự trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động
của giai cấp công nhân quốc tế, các Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa
nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng loài người.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản luôn có vị trí quan trọng trong hệ thống
lý luận mácxít, VI.Lênin khẳng định: “Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận
đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản mới là người mácxít.
Đó là điều khác nhau sâu sắc nhất giữa người mácxít và người tiểu tư sản tầm
thường. Chính dùng viên đá thử vàng ấy mà thử thách sự hiểu biết thực sự và sự
thừa nhận thực sự chủ nghĩa Mác”1.
Tư tưởng chuyên chính vô sản chỉ ra rằng, trong quá trình đấu tranh cách
mạng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải đánh đổ
giai cấp tư sản, tiến hành cải tạo xã hội cũ - xã hội tư bản chủ nghĩa và xây dựng
1

VI.Lênin toàn tập, tập33, Nxb tiến bộ M.1970, tr.42


3
thành công xã mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, giai cấp
công nhân phải giành được chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản.
Chuyên chính vô sản là hình thức chính trị tất yếu phải trải qua để đưa loài người
tiến tới một xã hội không còn giai cấp, không còn áp bức, bóc lột, mọi người
được sống tự do, hạnh phúc. Chính vì vậy, V.I.Lênin cho rằng đây là vấn đề chủ
yếu nhất của toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp của giai câp vô sản đặc biệt là trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chuyên chính vô sản, theo VI.Lênin đó là: “Việc tổ chức đội tiền phong
của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức” 2. Vì
vậy, chuyên chính vô sản đã, đang và sẽ là vấn đề chống phá quyết liệt của các
thế lực thù địch đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần quan
điểm chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành và vận dụng
sáng tạo tư tưởng chuyên chính vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Người quan tâm đến vấn đề giành chính quyền và tổ chức xây dựng chính quyền
cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng về chuyên chính vô sản của Hồ
Chí Minh là tài sản vô giá, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta trong
việc vận dụng, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Trong thời gian qua, nước ta cũng đã xuất hiện những quan điểm sai trái,
phản động xuyên tạc bản chất chủ nghĩa xã hội, suy tôn chủ nghĩa tư bản khi
chúng đã có sự điều chỉnh thích nghi, ca ngợi và duy trì trật tự vĩnh hằng của chủ
nghĩa tư bản. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con
đường tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội hiện nay, thực chất vẫn đặt ra những
vấn đề trực tiếp đó là chuyên chính vô sản hay chuyên chính tư sản. Vì thế, làm
rõ tư tưởng về chuyên chính vô sản là một trong những vấn đề quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay.
2

VI.Lênin toàn tập, tập33, Nxb tiến bộ, M.1976, tr.109.


4
1. Tư tưởng lí luận về chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin
1.1. Tư tưởng C.Mác- Ph.Ăngghen về chuyên chính vô sản
Tư tưởng về chuyên chính vô sản hình thành gắn liền với quá trình hoạt
động lý luận và thực tiễn của C.Mác- Ph.Ăngghen với quá trình chuyển đổi lập
trường từ duy tâm sang duy vật, từ dân chủ cách mạng sang cộng sản chủ nghĩa.
Trong quá trình đó, với tư duy biện chứng duy vật và thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, C.Mác- Ph.Ăng ghen đã
không ngừng tìm tòi khám phá trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn

qua từng thời kỳ, từng giai đoạn thăng trầm của phong trào cách mạng để hoàn
thiện học thuyết của mình. Thông qua các tác phẩm chủ yếu như: “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản” (1848); “đấu tranh giai cấp ở Pháp” (1850); “ngày 18 tháng
sương mù của Lui-Bôlapactơ” (1851); “thư gửi cho Vâyđơmâye”(1852); “nội
chiến ở Pháp”(1871)…tư tưởng về chuyên chính vô sản không ngừng được bổ
sung, phát triển và ngày càng rõ hơn. Tuy nhiên tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự
manh nha hình thành tư tưởng về chuyên chính vô sản đã dược C.Mác đề cập tới
trong tác phẩm “hệ tư tưởng Đức” viết năm 1845. Trong tác phẩm này, khi phê
phán những quan điểm sai trái, duy tâm của các nhà tư tưởng Đức, đứng trên lập
trường duy vật về lịch sử, C.Mác đã phân tích, luận giải xã hội tư bản, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phát hiện thấy một lực lượng có khả năng xoá
bỏ trật tự xã hội tư bản chủ nghĩa đó là giai câp vô sản. Cùng với tư duy biện
chứng và khả năng suy luận lôgíc, C.Mác cho rằng, giai câp vô sản muốn thực
hiện vai trò lịch sử của nó thì trước hết phải giành lấy quyền thống trị chính trị.
Ông chỉ rõ: “Mỗi giai cấp muốn vươn lên giành lấy quyền thống trị thậm chí sự
thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và thống trị nói
chung, như điều xẩy ra ở giai cấp vô sản thì giai cấp đó trước hết phải giành
được quyền về tay mình”3.
3

C.Mác- Ph.Ăngghen toàn tập, tập3, NxbCTQG, H1995,tr1


5
Tháng 2/1848, với việc công bố “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, chủ
nghĩa Mác, chủ nghĩa khoa học chính thức ra đời. Trong tác phẩm, tư tưởng về
chuyên chính vô sản đã có bước phát riển mới trên cơ sở phân tích sự hình thành,
phát triển của hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản là giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản cũng như vạch ra sự tất yếu sự đấu tranh giữa chúng, C.MácPh.Ăngghen đã chỉ rõ đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy sẽ là sự bùng nổ của một
cuộc cách mạng vô sản, và tất yếu giai cấp vô sản sẽ giành được thắng lợi, giành

lấy chính quyền, giành lấy dân chủ và trở thành giai cấp thống trị xã hội. Các
ông vạch rõ: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn
không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”4
Tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” chỉ ra cho giai cấp vô sản “phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc”, điều đó có nghĩa là giai cấp vô sản phải thiết
lập một nền chuyên chính của mình, trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp
đại diện cho quốc gia dân tộc mình. Hoàn thành nhiệm vụ của cuộc cách mạng
vô sản trước hết ở trong nước mình, tất nhiên giai cấp dân tộc ở đây không phải
là theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ích kỷ, biệt lập như là cách mà giai cấp tư sản
thường hiểu, mà giành chính quyền trong một quốc gia dân tộc chỉ là mục tiêu
trước mắt, và là tiền đề cho công cuộc giải phóng nhân loại của giai cấp vô sản.
Sau cách mạng 1848-1849 thông qua tổng kết cuộc đấu tranh giai cấp ở
Pháp, đặc biệt diễn biến cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng hai và cách mạng
tháng 6 năm 1848, C. Mác đã khẳng định: việc giai câp vô sản trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù của mình nhất thiết phẩi thành lập nền chuyên chính cách
mạng. C.Mác gọi đó là “nền chuyên chính của giai cấp công nhân”, “chuyên
chính của những người bạn đồng minh của giai cấp nông dân”, hay đó là
“chuyên chính của giai câp vô sản”. Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở
Pháp”, C.Mác gắn tư tưởng chuyên chính vô sản với khái niệm cách mạng không
4

C.Mác- Ph.Ăngghen toàn tập, tập 4, NxbCTQG, H1995, tr.624


6
ngừng, cách mạng vô sản. Ông chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội nay là lời tuyên bố cách
mạng không ngừng, là chuyên chính của giai cấp vô sản, coi đó là quá độ tất yếu
đi đến xoá bỏ tất cả các quan hệ sản xuất…” 5. Rõ ràng, C.Mác đã chỉ ra rằng, để
thực hiện thắng lợi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, giai câp vô sản phải tiến hành

cuộc cách mạng không ngừng và bước tiếp theo của nó là phải thiết lập được nền
chuyên chính vô sản, dùng nền chuyên chính này để xoá bỏ quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa - cơ sở kinh tế để sinh ra chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
C.Mác- Ph.Ăngghen mới nêu ra sự cần thiết và tất yếu phải giành được chính
quyền trong quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản, còn thái độ của giai cấp vô
sản đối với bộ máy của giai cấp tư sản như thế nào thì hai ông chưa đề cập đến.
Vấn đề này được các ông đề cập đến trong tác phẩm “ngày 18 tháng sương mù
của Lui-Bônapactơ” C.Mác viết năm 1851. Đó là thái độ dứt khoát là phải đập
tan bộ máy nhà nước áp bức, C.Mác viết: “Tất cả các cuộc cách mạng đều hoàn
bị bộ máy nhà nước đó chứ không phải đập tan nó, các chính Đảng nối gót đấu
tranh giành chính quyền đều coi việc đoạt lấy toà lâu đài nhà nước đồ sộ ấy là
chiến lợi phẩm chủ yếu của thắng lợi của mình”6.
Có thể nói, tư tưởng về chuyên chính vô sản của C.Mác- Ph.Ăngghen đã
tiến thêm một bước là làm rõ, giai câp vô sản không chỉ giành lấy chính quyền
nhà nước mà nó phải phá huỷ, đập tan bộ máy nhà nước cũ. Tuy nhiên lấy gì để
thay thế cho bộ máy nhà nước vừa bị đập tan thì lúc đó C.Mác chưa có kinh
ngiệm thực tiễn lịch sử để giải đáp vấn đề đó.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản được cụ thể hơn trong thư gửi cho một
người bạn trong “Đồng minh những người cộng sản” ở Mỹ, ngày 05/03/1852 là
Vâyđơmâye. Trong đó C.Mác khẳng định: Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến
chuyên chính vô sản và bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ để tiến
tới xoá bỏ giai cấp, đi tới một xã hội không còn giai cấp. C.Mác khẳng định: Về
C.Mác- ph.Ăngghen toàn tập, tập 17, Nxb CTQG, H.1995, tr.126
C.Mác- Ph. Ăngghen toàn tập, tập 18, NxbCTQG, H.1995, tr236

5
6


7

phần tôi, tôi không hề có công phát hiện sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội
hiện đại và sự đấu tranh của những giai cấp đó. Trước tôi từ lâu các nhà sử học
đã trình bày sự phát triển của lịch sử, của cuộc đấu tranh giai cấp đó và các nhà
kinh tế tư sản đã mổ sẻ các giai cấp đó về mặt kinh tế. Điều mới mẻ mà tôi đã
làm là đã chứng minh rằng:
1-Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển
nhất định của sản xuất.
2- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
3- Bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ để tiến tới xoá bỏ giai
cấp và tiến tới một xã hội không có giai cấp.
Như vậy, đến năm 1852, tư tưởng về chuyên chính vô sản đã có một
bước tiến dài so với “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”. Chuyên chính vô sản là một
tất yếu lịch sử, là bước quá độ để đi tới một xã hội không có giai cấp. Trong giai
đoạn này, C.Mác- Ph.Ăngghen đã nêu rõ nhiệm vụ của chuyên chính vô sản là:
Xoá bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung, xoá bỏ tất cả những quan hệ sản
xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xoá bỏ tất cả các quan hệ xã hội thích
ứng với những quan hệ sản xuất đó, đồng thời cũng cải biến tất cả những tư
tưởng nảy sinh từ những quan hệ sản xuất đó. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản
đã thể hiện rõ tính chất triệt để của cách mạng vô sản. Tuy nhiên, do điều kiện
lịch sử, tư tưởng về “đập tan” chưa được C.Mác- Ph.Ăngghen cụ thể hoá, chưa
chỉ rõ yếu tố nào của bộ máy nhà nước phải phá huỷ, đập tan và những yếu tố
nào, bộ phận nào có thể được sử dụng tiếp. Lời giải đáp đó chỉ có thể đến công
xã Pari mới được lí giải.
Công xã Pari năm 1871 là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, nổ
ra ngày 28/3 ở Pari và giành được thắng lợi, thiết lập được chính quyền của giai
cấp công nhân. Tuy công xã chỉ tồn tại 72 ngày đêm nhưng đó là mốc son chói
lọi trong trang sử hào hùng của giai cấp công nhân Pháp và giai cấp công nhân
thế giới. Trong quá trình diễn biến của công xã Pari, C.Mác- Ph.Ăngghen đã có



8
những chỉ đạo cần thiết đối với cách mạng. Sau công xã Pari, C.MácPh.Ăngghen đã bắt tay ngay vào việc tổng kết hoạt động của công xã. Những
vấn đề đó được thể hiện trong tác phẩm “nội chiến ở Pháp”; C.Mác cũng chỉ ra
vai trò, nhiệm vụ, con đường hình thành, chức năng, hình thức tổ chức và bản
chất của chuyên chính vô sản. C.Mác- Ph.Ăngghen chỉ rõ, giai cấp công nhân
phải thủ tiêu toàn bộ bộ máy nhà nước tư sản và thiết lập bộ máy nhà nước
chuyên chính của giai cấp công nhân. Trong bộ máy nhà nước tư sản, C.Mác cho
rằng cần phải đập tan các “công cụ quyền lực vật chất” như quân đội thường
trực, cảnh sát, bộ máy quan liêu, quan toà, đồng thời phải xoá bỏ “các công cụ áp
bức tinh thần” như các thế lực tăng lữ, tách nhà thờ ra khỏi trường học, tách giáo
hội ra khỏi nhà nước. Về bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản, C.Mác cho
rằng chuyên chính vô sản mang bản chất của một nhà nước dân chủ, trong đó
quyền lực thực tế thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ông khẳng
định: “về thực chất, công xã là một Chính phủ của giai cấp công nhân, là kết quả
của cuộc đấu tranh giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp chiếm đoạt,
là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực hiện việc giải
phóng lao động về mặt kinh tế”7, qua đó C.Mác cũng chỉ ra con đường hình
thành chuyên chính vô sản đó là con đường bạo lực vũ trang cách mạng của quần
chúng nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chuyên chính vô sản có chức
năng là trấn áp giai cấp tư sản, các thế lực phản động và tổ chức xây dựng một
xã hội mới. Nhiêm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản gồm cả nhiệm vụ đối
nội và đối ngoại, thông qua hoạt động của công xã Pari, C.Mác cho rằng: Muốn
hiểu về chuyên chính vô sản là gì, hãy nhìn vào công xã Pari, chuyên chính vô
sản là như thế đấy.
Tư tưởng về chuyên chính vô sản được C.Mác trình bày một cách rõ ràng
hơn trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”. Cùng với sự phê phán chủ
nghĩa Latxan về nhà nước chuyên chính vô sản, C.Mác đã chỉ rõ vai trò của nhà
7

C.Mác- Ph.Ăng ghen toàn tập, tâp.17,NxbCTQG, H.1994,tr454



9
nước vô sản sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, chuyên chính
vô sản phải tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
C.Mác chỉ rõ: giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ cải biến cách
mạng, tương ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà
nước không thể khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai câp vô sản.
Như vậy, tư tưởng về chuyên chính vô sản của C.Mác- Ph.Ăngghen từ lúc
còn manh nha cho đến 1895 đã không ngừng được bổ sung và phát triển, hoàn
thiện. Đặc biệt đến công xã Pari 1871, nó không đơn thuần chỉ là một tư tưởng
mà đã trở thành hiện thực vật chất dưới hình thức chính quyền công xã. Tuy
nhiên chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung cũng như tư tưởng về chuyên chính
vô sản nói riêng không phải là cái gì đó bất biến mà nó phải không ngừng được
bổ sung và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, vấn đề mang tính
quy luật đó được chứng minh rõ nét nhất trong giai đoạn VI.Lênin tiếp tục bảo
vệ và phát triển lý luận về chuyên chính vô sản trong điều kiện lịch sử mới.
1.2. VI.Lênin bảo vệ và phát triển lí luận về chuyên chính vô sản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc, chấm dứt thời kỳ phát triển tương đối hoà bình của thế giới những
năm 70-80 của thế kỷ thứ XIX.
Chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc làm cho mâu thuẫn
vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản trở nên găy gắt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Ngoài ra còn xuất hiện những mâu thuẫn mới,
đó là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động ở các nước thuộc địa với chủ nghĩa đế
quốc. Giai cấp tư sản tăng cường bóc lột giai cấp vô sản, dùng siêu lợi nhuận
mua chuộc một số công nhân lành nghề, biến họ thành bộ phận công nhân quý
tộc. Hơn nữa ở khắp nơi, giai cấp tư sản còn tìm cách cấu kết với bọn địa chủ,
phong kiến phản động bóc lột nhân dân lao động, làm cho đời sống của họ khổ
cực nặng nề hơn. Sự cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản không những làm xuất hiện



10
mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản với nhau mà còn làm xuất hiện ngày càng
trầm trọng mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau. Từ sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn này ta có thể khẳng định: giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản đã lỗi thời lạc hậu không còn đóng vai trò trung tâm trong sự phát
triển của lịch sử nữa. Thời đại đã chuyển sang một thời đại mới thời đại của
“cách mạng vô sản”, thời đại của “chuyên chính vô sản”, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sắp bắt đầu.
Cũng trong giai đoạn này phong trào cách mạng chuyển từ Đức sang Nga,
phong trào công sản và công nhân quốc tế có bước phát triển mới cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên trong phong trào công nhân cũng xuất hiện các
trào lưu cơ hội xét lại chia làm ba phái: phái hữu cầm đầu là Becxanh; muốn
khuôn phong trào công nhân vào đấu tranh kinh tế, đưa ra khẩu hiệu phản động
“phong trào là tất cả, mục đích cuối cùng chỉ là con số không” đòi xét lại chủ
nghĩa Mác trên tất cả các nguyên lý, trong đó trọng tâm là về cách mạng vô sản
và vấn đề chuyên chính vô sản. Phái giữa do Causky đứng đầu “ luồn lách như
con rắn nước” khoác áo chủ nghĩa Mác chống lại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác.
Chúng cho rằng vấn đề chuyên chính vô sản là vấn đề mà Mác “lỡ miệng nói ở
đâu đó có một lần”. Đứng trước tình hình đó, VI.Lênin đã đấu tranh không
khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, bảo vệ và phát triển học thuyết
Mác, trong đó vấn đề chuyên chính vô sản là vấn được VI.Lênin quan tâm đặc
biệt. Ông cho rằng, chuyên chính vô sản là vấn đề cốt lõi xuyên suốt toàn bộ học
thuyết Mác, là “hòn đá thử vàng” với lập trường của những người Mác-xít và
còn nhấn mạnh rằng “chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp
đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người Mác-xít”8
Thông qua các tác phẩm như : “Nhà nước và cách mạng” (1917); “cách
mạng vô sản và tên phản bội Causky” (1918) và nhiều tác phẩm khác, tư tưởng
về chuyên chính vô sản đã được phát triển hoàn thiện. Trong đó VI.Lênin chỉ ra

8

VI.Lênin toàn tập, tập33, NxbTB,M.1976, tr42.


11
khái niệm về chuyên chính vô sản, người cho rằng: chuyên chính vô sản là “việc
tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn
áp bọn áp bức”. Như vậy, trong khái niệm này, nội dung cốt lõi của chuyên
chính vô sản được thể hiện, đó là giai cấp công nhân phải tổ chức thành giai cấp
cầm quyền. Tính chất của chuyên chính vô sản: là công cụ của cách mạng vô
sản, là sự thống trị của giai câp vô sản đối với giai cấp tư sản. Khối công nông
dưới sự lãnh đạo của giai câp vô sản là chính quyền mà nó không chia sẻ cho ai
hết và trực tiếp dựa vào vũ trang của quần chúng. Trong đó Đảng của giai câp vô
sản là lực lượng lãnh đạo của chuyên chính vô sản, sự lãnh dạo đó để đảm bảo
cho nền chuyên chính vô sản vững mạnh, hoàn thành được chức năng nhiêm vụ
của mình. VI.Lênin chỉ rằng: trong cuộc đấu tranh cho chuyên chính vô sản và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần cho Đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn
đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột.
Nếu không có Đảng lãnh đạo, thì giai cấp vô sản và nhân dân lao động không thể
lật đổ giai cấp tư sản, không thể giành được thắng lợi và không thể xây dựng
được chủ nghĩa xã hội
Mặt khác, VI.Lênin cũng chỉ rõ nội dung của chuyên chính vô sản, nó bao
gồm hai mặt: chuyên chính và dân chủ. Đây là hai mặt đối lập gắn bó với nhau
cùng tồn tại, chuyên chính là để thực hiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử, nhưng
không phải dân chủ hoàn toàn mà phải thực hiện chuyên chính với thiểu số bọn
bóc lột, chống đối. Sự chuyên chính này không thể nương nhẹ mà phải tiến hành
cương quyết, chừng nào còn những kẻ bóc lột, còn sự khác biệt giai cấp thì còn
phải thực hành chuyên chính. Theo VI.Lênin : “Thiết lập nền chuyên chính của

giai câp vô sản một nền chuyên chính sẽ bẻ gẫy được sự phản kháng quyết liệt
của các giai cấp bóc lột bị gạt ra khỏi chính quyền”9.

9

VI.Lênin toàn tập, tập33,NxbTB, M.1976, tr42.


12
Tuy nhiên, trong chuyên chính vô sản cái bản chất nhất của nó chính là ở
mặt dân chủ, tất nhiên là dân chủ với nhân dân và sẽ tước bỏ dân chủ với bọn
bóc lột. Người khẳng định: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và chấn áp
bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghiã là tước bỏ dân chủ đối với
bọn chúng”10. Thêm nữa VI.Lênin còn vạch rõ chuyên chính vô sản là một nhà
nước kiểu mới, “nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ với những người vô sản và
nói chung với những người không có của) và chuyên chính kiểu mới chống lại
giai cấp tư sản”11.
Nói về hình thức chuyên chính vô sản, qua đúc kết thực tiễn lịch sử, kinh
nghiệm từ công xã Pari 1871 và cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất 1905,
VI.Lênin đã nêu lên tính muôn hình muôn vẻ của các hình thức chính trị của
chuyên chính vô sản. Người khẳng định: sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội sẽ tạo ra tính muôn hình, muôn vẻ của hình thức chính quyền nhà
nước của giai cấp vô sản, song thực chất chúng chỉ là một, đó là “chuyên chính
vô sản” của giai cấp công nhân. Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi,
nhà nước Xô Viết ra đời, VI.Lênin cho rằng, về hình thức của chuyên chính vô
sản thì tiếp theo sau công xã Pari là chính quyền Xô Viết Nga - thành quả từ
cách mạng tháng Mười. Từ thực tế ở một số nước, VI.Lênin còn chỉ ra một hình
thức chuyên chính vô sản mới là chính quyền dân chủ nhân dân, chế độ này phản
ánh tính chất độc đáo của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đặc điểm lịch sử dân
tộc ở những nước đó.

Để chuyên chính vô sản tồn tại và phát triển VI.Lênin luận giải cơ sở của
nó: Theo VI.Lênin đó là sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, với toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Cơ
sở khách quan của khối liên minh ấy là sự thống nhất của các quyền lực cơ bản
về kinh tế, chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao
10
11

(sách đã dẫn; trang109)
(sách đã dẫn; trang43)


13
động, Người chỉ rõ: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân chủ
vững bền, không thể cải tạo xã hội chủ nghĩa được”12.
Về nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, theo VI.Lênin đó là phải thủ tiêu
mọi chế độ người bóc lột người, là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để
thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có một chế độ quản lý mới thực sự có tính
nhân dân và được xây dựng theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Khi phê phán
quan điểm của kẻ thù cho rằng chuyên chính vô sản là sự kích động bạo lực của
quần chúng chống chính quyền, VI.Lênin đã chỉ rõ, chuyên chính vô sản không
chỉ là bạo lực với bọn bóc lột, mà còn có chức năng chủ yếu là việc tổ chức xây
dựng thành công xã hội mới. Đây mới là thực chất của chuyên chính vô sản.
Sự phát triển của VI.Lênin về chuyên chính vô sản gắn liền với học thuyết
về đấu tranh giai cấp, nếu như từ những năm 1852, C.Mác đã khẳng định rằng
đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản thì đến khi giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính vô sản của mình, VI.Lênin tiếp tục khẳng định: Cuộc đấu tranh giai cấp
chưa chấm dứt mà diễn ra dưới thức mới, nội dung mới và điều kiện mới. Trong
đó tất yếu phải tăng cường sức mạnh của nhà nước chuyên chính vô sản để trấn

áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột tuy bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt
hẳn; để tiến hành cải tạo xã hội cũ và tổ chức được một kiểu sản xuất xã hội mới,
tăng nhanh năng xuất lao động, tạo cơ sở chiến thắng hoàn toàn xã hội tư bản
chủ nghĩa.
Đến đây, chúng ta thấy sự trung thành và kế thừa sáng tạo tư tưởng về
chuyên chính vô sản của C.Mác- Ph.Ăngghen, tư tưởng đó tiếp tục được
VI.Lênin bảo vệ và phát triển một cách toàn diện, từ tính chất, chức năng, nhiệm
vụ, hình thức và cả những yêu cầu cần thiết để duy trì và tăng cường nền chuyên
chính vô sản của giai cấp công nhân trong giai đoạn giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cầm quyền, tiến hành xây dựng một xã hội mới. VI.Lênin còn chỉ rõ, sự
12

VI.Lênin toàn tập, Tập33, NxbTB, M.1976, tr49.


14
lãnh đạo của Đảng là điều cốt yếu trong nền chuyên chính vô sản. Không có sự
lãnh đạo của Đảng thì không giữ vững được bản chất của nền chuyên chính vô
sản, không thực hiện được thắng lợi của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Sau khi VI.Lênin qua đời, tư tưởng về chuyên chính vô sản tiếp tục được
các Đảng cộng sản bảo vệ và phát triển. Việc các Đảng cộng sản làm rõ khái
niệm chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính
Đảng của nó là Đảng cộng sản đối với toàn xã hội, cũng như việc mở rộng các
hình thức chuyên chính vô sản như: chuyên chính công nông, nhà nước dân chủ
nhân dân, đưa ra các bước quá độ để chuyển từ chuyên chính công nông lên
chuyên chính vô sản, đã nói lên sự đóng góp của các Đảng cộng sản để phát triển
về tư tưởng chuyên chính vô sản trong thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
2. Sự vận dụng lí luận chuyên chính vô sản của Đảng ta trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội thời gian qua.

2.1. Quan điểm của Đảng ta về thực hiện chuyên chính vô sản trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã trung
thành và vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng chuyên chính vô sản trong sự
nghiệp cách mạng. Ngay từ những năm 1930, trong “Chánh cương sách lược vắn
tắt” và “Luận cương chính trị” tháng 10 năm 1930, Hồ chí Minh và Đảng ta chỉ
rõ: Con đường cách mạng Việt Nam là phải tiến hành cách mạng tư sản dân
quyền đánh đuổi đế quốc phong kiến, giành độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, sau tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, ngay trong đường lối này đã
thể hiện rõ vấn đề chuyên chính vô sản. Bởi vì, thực chất của giai đoạn thứ nhất
là giai đoạn mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải đập tan chính
quyền thuộc địa, đánh đuổi thực dân, loại trừ phong kiến, giành lấy chính quyền
và dùng chính quyền đó chuyển sang giai đoạn hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội.


15
Và thực tế, với thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta
đánh đổ ách thống trị của phát xít, thực dân phong kiến giành chính quyền lập ra
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Sau năm 1954, đế quốc Mỹ can thiệp vào nước ta gây ra sự chia
cắt giữa hai miền Nam - Bắc, Đảng ta quyết định chuyển nền chuyên chính công
nông sang làm nhiêm vụ chuyên chính vô sản, thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành đấu tranh giải phóng
dân tộc ở miền nam. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Nam - Bắc xum họp
một nhà, Đảng ta tuyên bố đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội
Đảng toàn quốc ần thứ IV của Đảng (1976), Đảng ta quan niệm: chuyên chính
vô sản là quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh
công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, thông qua nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta vẫn giữ được bản chất của nền chuyên
chính vô sản, mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế, tạo điều kiện cho nhân dân

tham gia ngày càng đông đảo vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước yêu cầu hội
nhập quốc tế và công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình đổi mới hệ thống chính
trị, chúng ta không dùng cụm từ “chuyên chính vô sản” để tránh hiểu lầm về sự
xuyên tạc của kẻ thù, nhưng thực chất “chuyên chính vô sản” và “Hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa” ở nước ta chỉ là một. Đó là sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng
với xã hội, là quyền làm chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, là vai trò
quản lý, xây dựng đất nước của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là sự chuyên chính
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động với các thế lực thù địch, chống đối,
cản trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Thực chất quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là thực
hiện chuyên chính của giai cấp công nhân nhằm giữ vững độc lập dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ở nước ta, chuyên chính không đối lập với
dân chủ mà gắn bó hữu cơ với dân chủ, chuyên chính không chỉ là bạo lực trấn


16
áp kẻ thù chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà chủ yếu và quyết
định là xây dựng thành công chế độ mới - xã hội chủ nghĩa. Qua thực tế trong
quá trình đổi mới nền chuyên chính ở nước ta đã phát huy được tính ưu việt của
nó, luôn làm tròn chức năng, nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi của cách mạng
Việt Nam hịên nay. Đại hội đảng X khẳng định: “việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành háp và tư
pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc được phát huy.” 13Đại hội Đảng XI
cũng khẳng định “việc xây dựng Nhà nước pháp quyễn xã hội chủ nghĩa được
đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên” 14 , Báo cáo tổng kết quả 30 năm
tiến hành đổi mới Đảng ta khẳng định “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc; xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng văn minh” 15
Tiếp cận với lý luận về chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin,

chúng ta càng tấy rõ tính cách mạng khoa học của nó. Vấn đề cấp bách hiện nay
là phải đấu tranh với những quan điểm sai trái để bảo vệ lý luận chuyên chính vô
sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi vì vấn đề này đang là tâm điểm chống phá
của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội, xét lại cũng lợi dụng sự khủng
hoảng sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa để công kích, xuyên tạc, vu khống
các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phủ nhận bản chất chuyên chính vô sản. Do đó,
vấn đề đặt ra là phải đập tan các quan điểm sai trái của kẻ thù, đề ra một số giải
pháp nhằm giữ vững và tăng cường bản chất của chuyên chính vô sản.
Nắm chắc và vận dụng lý luận chuyên chính vô sản, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường và
mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta theo đuổi có những đặc trưng cơ bản:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; Xóa
bỏ sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu vơi hai hình thức: toàn dân và tập
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG, H2006, tr.60
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG-ST, H.2011, tr.159
15
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lí luận thực tiễn qua 30 năm đổi mới, NxbCTQG,H.2015, tr.56
13
14


17
thể; Nhanh chóng xóa bỏ thị trường tự do, thiết lập nền kinh tế hiện vật và thực
hiện phương thức theo kiểu cấp phát và giao nộp; Nhà nước trực tiếp điều hành
nền kinh tế – xã hội, Đảng trực tiếp điều hành Nhà nước.
Mô hình ấy trong một thời gian dài đã có những giá trị nhất định và đến
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu
kinh tế, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặn đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ, thừa nhận sự tồn tại khác quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, từ bỏ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và khẳng định cần phải chuyển sang hạch

toán kinh doanh. Đại hội VI chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với
những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người. Có thể nói Đại hội VI đã đánh
dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về con đường và mô
hình chủ nghĩa xã hội .
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi
tắt là Cương lĩnh 1991), và ở trong Cương lĩnh này Đảng ta đã xác định mô hình
chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động
làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Các dân tộc trong nước bình đẳng,
đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Có thể thấy đây là một bước tiến quan
trọng trong quá trình nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Tiếp tục nắm vững chuyên chính vô sản trong chức năng cải tạo xã hội,
qua các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), IX (năm 2000),


18
đặc biệt lần thứ X (năm 2006) và XI (năm 2011), Đảng ta tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện nhận thức về con đường và mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phòng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống

ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến bộ; có nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới"16. Và Tại Đại hội XI, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), gọi tắt là Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta xác định xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới”17.
Như vậy Đảng ta khẳng định: "Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên xây
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2006, tr.68.
16

17

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.70.


19
dựng chủ nghĩa xã hội đã được hình thành trên những nét cơ bản" 18. Qua 30 năm

đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử vầ
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng
được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của ta là
đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
2.2. Một số giải pháp nhằm giữ vững và tăng cường bản chất của
chuyên chính vô sản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Một là, phải tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm xác định
rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, những tiêu chí phân biệt chủ nghĩa xã hội với
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay chủ nghĩa xã hội là chế độ vẫn còn non trẻ, chúng ta đang từng
bước hình thành và xây dựng chế độ đó chứ chưa có một mô hình định sẵn. Vì
vậy, việc có một mô hình với những đặc trưng đúng mức và vừa phải để trả lời
những câu hỏi băn khoăn lúc này là cần thiết như: Thời kỳ quá độ ta sẽ làm được
gì? Kéo dài bao lâu? Chúng ta chấp nhận phân hóa giàu nghèo ở mức độ nào?
Khả năng Nhà nước điều tiết được những lĩnh vực nào? Lĩnh vực nào còn phải
phụ thuộc vào thị trường và sự biến đổi của thế giới? Chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu là như thế nào? Kinh tế tư nhân phát triển đến mức độ nào
để không chệch hướng xã hội chủ nghĩa?..... Mặt khác cần phải quán triệt rõ
cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 là cơ sở khoa học để xây dựng niềm tin
vào con đường vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ đã lựa
chọn và sự lựa chọn đó là hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng chính đáng của
18

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr.68.



20
nhân dân ta. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học viên cần quán triệt, nhận thức
sâu sắc bản chất, nội dung các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, qua đó thấy được
sự phát triển sáng tạo đặc sắc trong tư duy lý luận của Đảng, góp phần từng bước
hiện thực hóa mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luôn phát huy tư
duy sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm trước đòi hỏi của thực
tiễn, góp phần xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh toàn diện. Kiên quyết đấu
tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái xa rời, từ bỏ mô hình, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hai là, đấu tranh chống mọi âm mưu của kẻ thù nhằm phủ nhận con
đường cách mạng Việt Nam, phủ nhận quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và lý
luận chủ nghĩa khoa học nói chung.
Vấn đề chuyên chính vô sản nói riêng từ khi ra đời đến nay luôn là tâm
điểm chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Những
kẻ cơ hội, xét lại lại luôn cho rằng chuyên chính vô sản đối lập với dân chủ và
thực chất bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản là một bộ máy quan liêu, trà đạp
quyền dân chủ của của nhân dân. Đây là quan điểm cực kỳ phản động về chính
trị, âm mưu xuyên tạc, bôi nhọ bản chất của chuyên chính vô sản và nhà nước
chuyên chính vô sản. Chúng ta biết rằng, chuyên chính vô sản luôn bao gồm hai
mặt: Chuyên chính và dân chủ, dân chủ giành cho nhân dân và chuyên chính với
giai cấp bóc lột. Khi trong xã hội vẫn còn sự khác biệt giai cấp, vẫn còn những
cơ sở sinh ra áp bức bóc lột thì giai cấp vô sản vẫn còn cần thiết duy trì nền
chuyên chính vô sản của mình, và càng phải phát huy sức mạnh của chuyên
chính, tất nhiên chuyên chính với những kẻ đi ngược lại lợi ích quảng đại quần
chúng nhân dân. Ăngghen đã chỉ ra rằng: “chừng nào giai cấp vô sản còn cần
đến nhà nước thì nó cần đến nhà nước không phải là vì tự do mà để chấn áp kẻ
thù của mình, vì khi nào có thể nói đến tự do thì nhà nước không còn tồn tại với
tư cách là nhà nước nữa”



21
Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những năm đổi mới vừa qua đẵ chứng
minh cho bản chất ưu việt của nền dân chủ của nhà nước ta. Tuy nhiên để tiến tới
một nền dân chủ thực sự bên cạnh việc thực hành dân chủ rộng dãi đối với quảng
đại quần chúng nhân dân lao động chúng ta phải không ngừng đấu tranh chống
lại các quan điểm sai trái và các âm mưu luận điệu chống phá của kẻ thù nhằm
xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để vu cáo Việt Nam không có
dân chủ, các thế lực thù địch thường nêu ra những luận điệu: ở Việt nam thực
hiện “chế độ độc Đảng”. Các phần tử cơ hội chính lại hung hăng đòi bỏ điều 4
của hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước và xã hội, chúng lặp
đi lặp lại luận điệu: một Đảng lãnh đạo dẫn tới chế độ “Đảng trị”, gây ra tai hoạ
cho xã hội. Chúng bôi nhọ Đảng ta có “một bộ máy đã tạo nên một xã hội không
có tự do dân chủ”, “bộ máy độc đoán, độc tài toàn trị” đầy tham nhũng phản dân
chủ. Độc đoán thì kéo theo “độc tài, độc quyền”. Những luận điệu trên đây đã
được các nghị sỹ bên kia đại dương đưa vào bản dự thảo “đạo luật về nhân
quyền Việt Nam” trình bày thông qua Hạ viện Hoa Kỳ ngày 6/9/2001 và 2004 đã
ghi trong điều 1: “Việt Nam là một quốc gia độc Đảng, do Đảng cộng sản Việt
Nam cai trị và kiểm soát”. Chính vì vậy, đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu
thủ đoạn của kẻ thù chống phá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay là nhiệm
vụ thường xuyên cấp bách đối với toàn xã hội.
Ba là, đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng
chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam để "Diễn biến hoà bình".
Thực tiễn hội nhập quốc tế của nước ta những năm qua đã cho thấy, các thế lực
đế quốc và thù địch đã không từ một âm mưu và thủ đoạn nào nhằm thực hiện
“Diễn biến hoà bình” chống phá công cuộc đổi mới. Âm mưu, thủ đoạn chống
phá ngày càng trở nên đa dạng, tinh vi và hiểm độc hơn. Trong đó, việc lợi dụng
chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta, để thâm
nhập, can thiệp nhằm gây mất ổn định an ninh, chính trị, kinh tế - xã hội là hiện



22
tượng phổ biến. Do đó, phải đề luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng làm thất bại
chiến lược “Diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ trật tự, an toàn
xã hội, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập, chủ quyền, an
ninh quốc gia.
Bốn là, làm tốt công tác giáo dục về bản chất cách mạng, khoa học của lý
luận chủ nghĩa xã hội nói chung và lý luận về chuyên chính vô sản nói riêng.
Chuyên chính vô sản không phải là mục đích cuối cùng của giai cấp công
nhân và của những người cộng sản, nó cũng không phải là một bộ máy áp bức,
đàn áp, khủng bố con người nói chung như nền chuyên chính của các chế độ bóc
lột trước nó, mà chuyên chính vô sản là công cụ để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân loại và tiến tới giải phóng con người. Vì vậy,
chuyên chính vô sản mang tính cách mạng, tính nhân dân và tính nhân đạo cao
cả. Nắm vững thực chất cách mạng, khoa học của học thuyết mácxít về chuyên
chính vô sản, chúng ta sẽ vững vàng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực cường quyền, bảo vệ và tăng cường nền chuyên chính cách
mạng, đưa sự nghiệp cách mạng mau đi đến thắng lợi.
Chính vì vậy, chúng ta phải thường xuyên giáo dục cho các tầng lớp nhân
dân hiểu được bản chất của chuyên chính vô sản, bản chất của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng hịên nay và tính
ưu việt của nó, đó là nhà nước: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. công cuộc đổi mới
đều là trách nhiệm của dân. quyền hành lực lượng đều ở nơi dân”. Giáo dục bản
chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ “gấp triệu lần” dân chủ tư sản.
Nền dân chủ mà trong hơn 80 năm qua Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
toàn dân đấu tranh, phấn đấu, để cho dân chủ thực sự của nhân dân, gắn liền với
công bằng xã hội, xoá bỏ áp bức bất công. Cũng cần phải khẳng định dứt khoát
rằng, trong khi phấn đấu để có dân chủ thực sự đối với nhân dân, chúng ta không
chấp nhận cái gọi là “dân chủ đa nguyên”, dân chủ với cả những thế lực chống

lại nhân dân. Không thể có chuyện các cá nhân, tổ chức chống đối, phản cách


23
mạng, có hành vi chống lại Đảng, Nhà nước, vi phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
đất nước…lại đòi được hưởng quyền dân chủ như mọi người.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, tích cực chống tham
nhũng, lãng phí, đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và các tổ chức
chính trị xã hội.
Đổi mới chỉnh đốn Đảng trước hết phải nâng cao bản lĩnh chính trị và
trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn bổ sung, phát
triển lý luận, giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Nâng cao trình
độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng, tiếp tục làm sáng tỏ những
vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Kiện toàn đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên. Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Xác định vị thế pháp
lý, thể chế hoá về mặt nhà nước, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình
cơ sở. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu vùng
xa. Xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất,
đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tăng cường gắn bó giữa
Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát. Đổi mới
công tác cán bộ theo hướng tinh gọn hiệu quả thiết thực, khắc phục tình trạng
chồng chéo, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người
đứng đầu. Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành
với tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có
bản lĩnh chính trị vững vàng, không giao động trước những khó khăn, thử thách;
có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao.

Tóm lại, tư tưởng về chuyên chính vô sản là một trong những nội dung
quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học, nó chỉ ra cho


24
giai cấp công nhân nhất thiết phải giành lấy chính quyền để thực hiện cải tạo xã
hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới. Trong bối cảnh tình hình thế giới
hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, sự áp đặt cường quyền của
các thế lực hiếu chiến, phản động đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn đang đe doạ nền
hoà bình và an ninh thế giới, đe doạ sự ổn định về chính trị và xu hướng phát
triển của mỗi nước, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Nước ta trong
sự nghiệp đổi mới, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kẻ thù trong và ngoài nước cấu kết
chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng,
phi chính trị hoá quân đội, đưa nước ta đi chệch khỏi định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, chúng ta phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đẩy
mạnh công cuộc xây dựng đất nước đi lên một bước, giữ vững và phát huy bản
chất chuyên chính vô sản, bản chất ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quân đội ta là công cụ bạo lực của chuyên chính vô sản, là nòng cốt trong
công cuộc bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong giai đoạn
hiện nay đứng trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, nhằm “phi chính trị hoá quân
đội”, làm cho quân đội mất mục tiêu phương hướng chiến đấu, từ đó dùng “chiến
lược diễn biến hoà” bình lật đổ sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước, làm cho nhà
nước mất đi bản chất giai cấp của mình. Chính vì vậy, phải luôn giữ vững sự
lãnh đạo của Đảng tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt đối với quân đội. Xây dựng
tổ chức Đảng trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm
nền tảng để xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Giữ
vững tăng cường bản chất bản chất giai cấp công nhân vừa là yêu cầu thường
xuyên và vừa mang tính cấp thiết hiện nay làm cho quân đội luôn trung thành với
Đảng, nhà nước và nhân dân; thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình góp

phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
KẾT LUẬN


25
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đổi mới tư duy lý luận là một yêu cầu
quan trọng. Với bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, với những nguyên lý về chuyên chính vô sản, về quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được cuộc sống kiểm nghiệm và đã trở thành chân
lý. Chúng ta không chỉ giữ vững nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, giữ vững quan điểm về chuyên chính vô sản mà còn phải tiếp tục vận
dụng và phát triển nó trong điều kiện lịch sử mới.
Mặt khác phải tăng cường đấu tranh đẩy lùi khắc phục tư tưởng cơ hội với
mọi biểu hiện của nó là vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết. Cuộc đấu
tranh chống tư tưởng cơ hội phải gắn liền với cuộc đấu tranh đập tan các luận
điệu thù địch xuyên tạc mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, xuyên tạc chủ nghã xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, cổ vũ cho “dân
chủ, nhân quyền” tư sản. Trong cuộc đấu tranh này, không lúc nào được phép
buông lỏng, vạch trần bản chất sai trái, nguy hại của chủ nghĩa cơ hội, xét lại,
chủ nghĩa giáo điều cũ và mới, mọi biểu hiện mơ hồ, giao động về chính trị cũng
như lối sống cơ hội và thực dụng.
Bên cạnh đó, phải xây dựng xã hội chủ nghĩa vững mạnh, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, Nhà nước của dân, do dân, vì dân và chuyên chính với bọn phản động,
thù địch. Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và
năng lực thực tiễn. Chuyên chính và dân chủ phải đi liền với nhau thể hiện rõ
bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa.Trong tình hình hiện nay, vấn đề
chuyên chính cần được mềm hóa và cần bổ sung, phát triển phù hợp với thực
tiễn, không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất

nước, đưa nước ta từng bước vững chắc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


×