Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm CHỦ NGHĨA mác lê NIN, tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NGUYÊN tắc tập TRUNG dân CHỦ ý NGHĨA TRONG xây DỰNG CHỈNH đốn ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.04 KB, 18 trang )

1

QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ. Ý NGHĨA VẤN ĐỀ
ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam,
do Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và dân tộc
Việt Nam sáng lập, giáo dục và rèn luyện.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành
đối với những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam để xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám năm 1945 thủ tiêu chế độ phong kiến và thuộc địa,
giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ cộng hoà dân chủ, mở ra một kỷ nguyên
mới của lịch sử dân tộc, nhân dân làm chủ đất nước, tạo tiền đề đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là chiến thắng oanh liệt của cuộc kháng chiến chống đế quốc
và thực dân giành độc lập thống nhất đất nước tiến hành công cuộc đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Những thắng lợi đó có ý nghĩa quốc tế và mang tính chất thời đại của
cách mạng Việt Nam. Chứng tỏ Đảng ta thật sự là một Đảng mác xít Lênin nít
chân chính, là lãnh tụ chính trị, Bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân và dân tộc Việt Nam, đồng thời là một đội ngũ kiên cường của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng
ta trong quá trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn luôn kiên định vận
dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng



2

Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới đặt ra và giành thắng lợi.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những nội dung
được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm tập trung nghiên cứu tổng kết lý
luận cũng như tổ chức thực hiện trên thực tế là nguyên tắc tập trung dân chủ,
một vấn đề mà Đảng ta khẳng định nếu xem nhẹ hay từ bỏ nó sẽ dẫn đến nguy
cơ làm tan rã Đảng về mặt tổ chức. Do vậy, chúng ta cần nghiên cứu cả cơ sở
lý luận và thực tiễn của nguyên tắc này, từ đó quán triệt và thống nhất cao với
những chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn, vị trí, vai trò, bản chất và nội dung
của nguyên tắc tập trung dân chủ
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Tập trung dân chủ là nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới về mặt tổ chức của giai
cấp công nhân, do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng, được V.I.Lênin khái quát,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, kế thừa, vận dụng. Đảng ta xây dựng và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện thành công trong xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam trở thành một Đảng mácxít. Mặc dù tư tưởng về tập trung dân chủ chưa
được nêu thành nguyên tắc, nhưng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập trong Điều
lệ Liên đoàn đồng minh những người cộng sản cũng như trong nhiều tác phẩm khác.
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mỗi hội viên của Liên đoàn phải liên lạc ít nhất là ba
tháng một lần, còn mỗi chi bộ phải liên lạc mỗi tháng một lần với Ban chấp hành khu
bộ của mình. Ít nhất cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ phải báo cáo tình tình công tác
của địa phương mình với tổng khu bộ, ít nhất ba tháng một lần mỗi tổng khu bộ phải
báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với Ban chấp hành Trung ương”1
V.I.Lênin kế thừa những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục
1


. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, H 1970, tr.493


3

phát triển và làm sâu sắc thêm tư tưởng về tập trung dân chủ. Nâng tư tưởng
tập trung dân chủ lên thành nguyên tắc trong xây dựng Đảng kiểu mới về mặt
tổ chức. V.I. Lênin chỉ ra rằng: Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung
dân chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một đảng vô sản
kiểu mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng
thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; củng cố và tăng cường sức mạnh
của Đảng, làm cho đường lối của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực.
Mặt khác, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự
phá hoại của các phần tử không kiên định, vô chính phủ, cơ hội chủ nghĩa
trong Đảng. Trong tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi”, V.I.Lênin viết:
“Trước kia Đảng ta chưa phải là một khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là
một tổng số những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy không thể có
những quan hệ nào khác; ngoài sự tác động về mặt tư tưởng. Hiện nay, chúng
ta đã trở thành một Đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra
một quyền lực, khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng”2.
V.I.Lênin cho rằng, Đảng muốn có sức mạnh để lãnh đạo giai cấp vô
sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, Đảng
phải có sự thống nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự thống nhất của
Đảng: trước hết Đảng phải có cương lĩnh chính trị và sau đó phải có tổ chức
chặt chẽ. Làm được điều đó tức là tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở
trong Đảng. Tổ chức là cái bảo đảm cho sự thống nhất về chính trị, tư tưởng
và hành động. Ngoài ra Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một cơ quan chỉ
đạo thống nhất do Đại hội Đảng bầu ra, Đảng phải có một kỷ luật sắt, tự giác
nhưng nghiêm minh. V.I.Lênin khẳng định: “Từ chối không chịu phục tùng
sự lãnh đạo của các cơ quan Trung ương, tức là từ chối không muốn làm

người đảng viên, tức là phá hoại Đảng”3.
2
3

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.429
V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 8, 1979, tr.424


4

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng
Đảng, nhưng thực hiện nguyên tắc như thế nào cho đúng là một vấn đề không
đơn giản, nó hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể nhận thức. Nếu chủ thể nhận
thức có bản lĩnh chính trị và một động cơ trong sáng thì nguyên tắc tập trung
dân chủ sẽ phát huy tác dụng tốt và ngược lại, nếu như chủ thể nhận thức
không có bản lĩnh chính trị và động cơ trong sáng thì nguyên tắc tập trung dân
chủ sẽ phản tác dụng gây nguy hại cho Đảng. Theo V.I.Lênin, tập trung đi
liền với dân chủ. Tập trung càng cao thì dân chủ càng cao. Không thể có dân
chủ mà thiếu tập trung và ngược lại không thể có tập trung mà thiếu dân chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
giáo dục và rèn luyện. Người đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ vào điều kiện cụ thể
ở Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề về xây dựng Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng. Đồng thời Người chỉ ra thế nào là tập trung, thế nào là dân chủ và mối
quan hệ giữa tập trung và dân chủ. Người chỉ rõ:
“... Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung. Nghĩa là:
A. Tập trung trên nền tảng dân chủ.
Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những
phương châm, phương sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định

phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập
trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính, nó là xây
dựng trên nền tảng dân chủ. Nghĩa là:
1. Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử lên.
2. Phương châm, phương sách, Nghị quyết của Đảng đều do quần
chúng đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Rồi lại do các
cuộc hội nghị của Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai tự ý độc đoán.


5

3. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó
cho, chứ không phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người lãnh đạo phải gần
gũi và học hỏi quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ. Nếu lên mặt
với quần chúng, lạm dụng quyền lực - thế là sai lầm.
4. Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục
tùng số nhiều; cấp dưới phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng
Trung ương.
B. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia
giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của
Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng, quyết chống: không xét thời
gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn.
1. Chỉ có cơ quan lãnh đạo có quyền khai các cuộc hội nghị.
2. Tất cả các Nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị
kỹ càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không được làm qua loa, sơ sài.
3. Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đảng, phải xem xét kỹ lưỡng
để lập danh sách những đảng viên ứng cử.
4. Toàn thể đảng viên phải theo đúng Đảng chương thống nhất, kỷ luật
thống nhất của Đảng. Toàn thể đảng viên phải theo sự lãnh đạo thống nhất

của Trung ương.
Nói tóm lại: Để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ (thật thà
tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức
và tính kỷ luật”4.
Thực tiễn xây dựng, hoạt động của Đảng ta, của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nguyên tắc
tập trung dân chủ: Đối với Đảng ta, trải qua 77 năm xây dựng và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng của nguyên tắc tập
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2000, tr.240, 241


6

trung dân chủ. Đảng đã kiên trì, vận dụng sáng tạo nguyên tắc này trong mọi
điều kiện hoàn cảnh, mọi giai đoạn cách mạng. Vì vậy, Đảng luôn luôn là một
khối thống nhất về ý chí và hành động, Đảng thực sự là một chỉnh thể thống
nhất, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng đang đặt ra cho công tác lãnh đạo, tổ chức bộ máy, phương thức lãnh đạo
của Đảng cần được đổi mới, chỉnh đốn, để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng mới đặt ra. Điều đó càng đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng coi trọng, cụ
thể hoá và vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, việc Đảng Bônsêvích Nga ra đời, lãnh đạo Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, lập nên
Nhà nước công nông đầu tiên và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa thu
được những thắng lợi vĩ đại đã làm cho hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ về quy mô,
từng bước đẩy lùi, thu hẹp chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản.
Chính nguyên tắc tập trung dân chủ đã góp phần làm cho các Đảng

Cộng sản thực sự là tổ chức chặt chẽ, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng .
Tuy nhiên, trong những năm 90 của thế kỷ XX ở Liên xô và Đông âu
quá trình tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới, một số Đảng Cộng sản cầm
quyền do sai lầm về đường lối cả sự phản bội của một số nhà lãnh đạo cấp
cao của Đảng Cộng sản làm cho đất nước đi vào khủng hoảng trầm trọng về
chính trị, kinh tế - xã hội, bên cạnh đó lại bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch ra sức tiến công trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, trong đó chúng tìm
mọi cách xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ; cho việc thực
hiện nguyên tắc này là nguyên nhân làm cho các Đảng Cộng sản cầm quyền
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, kìm hãm sự phát triển...đã làm cho một số


7

Đảng Cộng sản dần dần mất phương hướng, xa rời, đi tới từ bỏ nguyên tắc tập
trung dân chủ, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chủ nghĩa xã hội tan rã
1.2. Vị trí, vai trò, bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các
Đảng Cộng sản, nguyên tắc này chỉ đạo toàn bộ và xuyên suốt quá trình xây
dựng tổ chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trước hết,
nguyên tắc này quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng,
như vấn đề chế độ sinh hoạt, tổ chức đại hội, chế độ thủ tục bầu cử, các cơ
quan lãnh đạo của Đảng; nguyên tắc quy định các chế độ để giải quyết các
mối quan hệ trong nội bộ Đảng, như giữa cấp trên với cấp dưới, giữa tập thể
với cá nhân, giữa đa số với thiểu số...; nguyên tắc quy định các nguyên tắc,
chế độ sinh hoạt Đảng, phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm
cho các cấp uỷ, tổ chức Đảng và mỗi đảng viên vừa phát huy trách nhiệm
sáng tạo, tích cực, chủ động, vừa tập trung được sức mạnh trí tuệ và sức mạnh
của toàn Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở bảo đảm cho sự đoàn

kết thống nhất trong Đảng về mặt tổ chức, đồng thời sự thống nhất về mặt tổ
chức là điều kiện vật chất để đảm bảo cho sự thống nhất về mặt chính trị, tư
tưởng được giữ vững và biến thành hiện thực. Nguyên tắc này còn là cơ sở để
xây dựng và giữ nghiêm kỷ luật Đảng, là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt Đảng
cộng sản chân chính với các Đảng cơ hội, cải lương về mặt tổ chức.
Nguyên tắc tập trung dân chủ mang bản chất tổ chức của giai cấp công
nhân. Nó là sự thống nhất, tác động biện chứng giữa hai thành tố tập trung và
dân chủ. Hai thành tố này là thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân trong
lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp. Thuộc tính bản chất giai cấp công nhân
của Đảng được xác định từ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, từ sự ra đời
của giai cấp công nhân, từ yêu cầu khách quan của sản xuất công nghiệp. Qua
đó đã từng bước tôi luyện làm cho giai cấp công nhân có những thuộc tính cơ


8

bản như tính tập trung hoá cao độ, ý thức và trình độ tổ chức chặt chẽ, tính kỷ
luật nghiêm minh, tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ, dân chủ tập thể.
Tập trung là điều kiện, là tiền đề cho sự vận động, phát triển của dân chủ
và ngược lại. Hai thành tố này không mâu thuẫn nhau, mà luôn thống nhất, tác
động bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự bảo đảm
của tập trung, dân chủ có lãnh đạo. Thực hiện và phát triển dân chủ trong Đảng
phải luôn gắn liền với giữ vững tập trung và tăng cường tập trung trong Đảng
phải luôn giữ vững, phát huy dân chủ. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng
vững chắc, do vậy những hiện tượng tập trung quan liêu, chuyên quyền độc
đoán, dân chủ hình thức, dân chủ vô tổ chức kỷ luật, phân tán, bè phái, cục bộ là
sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, trái với bản chất của nguyên tắc này.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về tập trung dân chủ. Qua hoạt động thực tiễn của Đảng ta và từ bài học
“xương máu” của các đảng anh em, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ:

“Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc
tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
minh. Đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình đoàn kết
trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với
nhân dân hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”5.
Trong điều 9, chương II về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của
Đảng (Điều lệ Đảng khoá X) đã cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ thành 6
nội dung chính như sau:
“1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.
5

Điều lệ ĐCSVN, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 5


9

Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa
hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở
mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và
Ban Chấp hành Trung ương.

5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có
ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”6.
Như vậy, tập trung dân chủ theo quan điểm của Đảng ta có nghĩa là tất
cả các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử lập ra và hoạt động theo nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện chế độ thông báo tình hình hoạt
động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ
6

Điều lệ Đảng CSVN, Nxb chính trị quốc gia, HN, 2006, tr.16 - 19


10

tự phê bình và phê bình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số có quyền bảo
lưu. Mặt khác, tập trung dân chủ đặt ra yêu cầu kỷ luật nghiêm ngặt và thống
nhất đối với toàn thể đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là
việc các cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ
quan có thẩm quyền cấp trên. Điều đó sẽ bảo đảm cho công tác và sự lãnh đạo
của Đảng luôn được tập trung, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành
động, tạo nên sức mạnh của toàn Đảng trong lãnh đạo và hoạt động của Đảng.
2. Ý nghĩa của vấn đề đối với công tác xây dựng và hoạt động của

Đảng ta hiện nay
2.1. Thực trạng của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng ta hiện nay
Gần 8 thập kỷ qua xây dựng và hoạt động lãnh đạo, Đảng ta đã quán triệt,
vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, nhất là vận dụng các nguyên lý về xây
dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện đảng cầm
quyền. Vì vậy, mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đoàn kết thống nhất, ý chí
và hành động, phát huy cao độ trí tuệ tập thể trong hoạch định đường lối đúng
đắn, sáng tạo đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đất
nước hoàn toàn thống nhất cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và
hiện nay đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới thu được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đảng ta nhận định: “Hai mươi năm qua,
với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở
nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng


11

cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ
vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng
hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp
tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”7.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động lãnh đạo của Đảng còn nhiều vấn
đề cần phải tiếp tục được chấn chỉnh, khắc phục. Trước hết, việc nhận
thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn còn nhiều thiếu sót,

khuyết điểm. Nhận thức của nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên chưa thật sâu sắc, đầy đủ, thống nhất về vị trí, vai trò, bản chất của
nguyên tắc; chưa thấu suốt và thực hiện tốt các nội dung nguyên tắc đã
được xác định trong Điều lệ Đảng, thậm chí có biểu hiện thiếu tôn trọng
nguyên tắc. Chế độ sinh hoạt Đảng, chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách vừa thiếu quy định cụ thể, vừa chấp hành nguyên tắc không nghiêm
túc, chặt chẽ cho nên không ít nơi vừa có tình trạng quan liêu, vi phạm
dân chủ, vừa có biểu hiện dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan, kỷ
luật lỏng lẻo, cục bộ bản vị, gây mất đoàn kết nội bộ, có nơi rất nghiêm
trọng và kéo dài. Vẫn còn hiện tượng coi thường kỷ cương phép nước, vô
tổ chức, vô kỷ luật, cố tình không chấp hành nghị quyết, chỉ thị, làm suy
yếu khối đoàn kết thống nhất tư tưởng và tổ chức, chất lượng sinh hoạt
Đảng giảm sút, nhất là tổ chức đảng ở cơ sở. Việc nghiên cứu, tổng kết,
cụ thể hoá, hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo nguyên tắc này cho phù hợp
với từng thời gian, từng lĩnh vực, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ, phạm
vi của từng cấp uỷ, tổ chức đảng còn nhiều yếu kém. Việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Thậm chí có
người lợi dụng việc sử dụng nguyên tắc này nhằm thực hiện những động
cơ, lợi ích cá nhân hoặc phe nhóm đi ngược lại lợi ích toàn Đảng. Một số
7

Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 17.


12

cán bộ có chức, có quyền, quan liêu, độc đoán chuyên quyền, gia trưởng
bảo thủ cơ hội, ngại nghiên cứu học tập, công thần, thiếu tu dưỡng phẩm
chất đạo đức lối sống...Đảng ta chỉ rõ: Đảng “còn thiếu những quy chế cụ
thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung

dân chủ. Một số cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng
và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến của cấp dưới; cán
bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân
chủ hoặc dân chủ hình thức...”8.
Những khuyết điểm trên nếu Đảng ta không kịp thời phát hiện và kiên
quyết khắc phục sẽ trở thành vấn đề hết sức nguy hiểm, nó kết hợp với các
yếu tố khác, nhất là sự chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng của kẻ thù
dần dần làm mất vai trò, tác dụng, tính cách mạng, khoa học của nguyên tắc
tập trung dân chủ, từng bước làm cho Đảng suy yếu, tan rã về tổ chức.
Những khuyết điểm, yếu kém nêu trên, ngoài nguyên nhân chủ quan
về nhận thức, về quy chế, về kinh nghiệm lãnh đạo,...thì có một nguyên
nhân không kém phần quan trọng mà Đảng ta chỉ ra là: “Việc tổ chức thực
hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm,... Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp
thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức và năng lực, chạy
theo chủ nghĩa cá nhân, không hoàn thành nhiệm vụ nhưng chưa được xử
lý kịp thời, kiên quyết”9.
Cùng với những biểu hiện không đúng, vi phạm khi thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong nội bộ Đảng nói trên, các thế lực thù địch, chống
cộng cũng tập trung đánh vào nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc biệt là
nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng xuyên tạc, cho rằng nguyên tắc tập trung
dân chủ đến nay đã lỗi thời, thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn đến mất dân
8
9

Sđd, tr. 270
Sđd, tr. 275, 276.


13


chủ trong Đảng, làm cho Đảng rơi vào quân phiệt, độc đoán, độc tài. Họ ra
sức tán dương và khuyến khích thực hiện dân chủ tự do, dân chủ cực đoan,
trong Đảng nên có nhiều phe nhóm đối lập để đấu tranh, bàn cãi, tranh luận;
chúng sử dụng triệt để những chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên”, cổ vũ sự bất
đồng ý kiến về quan điểm trong Đảng, rồi lợi dụng sự bất đồng đó để chia rẽ
Đảng thành những phe phái đối lập, chúng mưu toan gây mâu thuẫn trong nội
bộ. Mục đích các thế lực thù địch đánh vào nguyên tắc tập trung dân chủ là
nhằm phá vỡ sự thống nhất nội bộ Đảng, đi tới phân liệt và làm tan rã Đảng
về tổ chức.
Từ thực trạng tình hình nội bộ Đảng và những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, chống cộng nhằm phủ nhận nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu trên. Đòi
hỏi Đảng ta phải có những chủ trương, giải pháp đồng bộ, phù hợp nhằm
giữ vững, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho Đảng có đủ năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay.
2.2. Một số vấn đề về giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập trung
dân chủ trong công cuộc đổi mới , chỉnh đốn Đảng hiện nay
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
theo Cương lĩnh và Nghị quyết các nhiệm kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng đã
xác định. Đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi hơn bao giờ
hết, phải phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng khối đoàn kết toàn dân
gắn với việc thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
động viên và tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước



14

và lòng tự hào dân tộc, ra sức thi đua khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu thực
hiện có kết quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Đồng thời phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Đồng thời
Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao bản lĩnh, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Là Đảng cầm quyền, lại hoạt động trong
điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta đã ý thức rất sâu sắc về vai trò, ý
nghĩa của công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Từ Đại hội VI đến Đại hội X,
qua từng Đại hội Đảng ta đều đã nghiêm khắc chỉ ra: bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, còn chỉ ra những yếu kém trong công tác xây dựng
Đảng; trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X Đảng ta thừa
nhận công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức cán bộ có
nhiều yếu kém, bất cập; “Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
còn chậm và lúng túng...Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện
đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng ”10.
Đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục thực hiện các nghị
quyết, chủ trương về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung
ương sáu (lần 2) - khoá VIII và kết luận của Hội nghị Trung ương bốn khoá IX , đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nhằm không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực và
sức chiến đấu của Đảng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Đặc biệt Đảng ta nhấn mạnh trong thời gian tới phải tập trung
làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực dụng. Đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, làm trong
sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất cả về ý chí và
10

Sđd, tr. 272, 273.



15

hành động trong toàn Đảng.
Việc giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề
sống còn của Đảng Văn kiện Đại hội X Đảng ta đã xác định: Phải “ tiếp tục
hoàn thiện, cụ thể hoá, quy chế hoá nguyên tắc tập trung dân chủ và các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Hoàn thiện quy chế, quy trình về
công tác bảo đảm mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng”11. và “Vấn đề
quyết định trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành và mở rộng dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của Đảng” 12.
Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện xuyên suốt trong
toàn bộ mọi hoạt động, mọi lĩnh vực, mọi giai đoạn phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nó biểu hiện thành các nội dung trong chức năng, quyền hạn,
mối quan hệ, chế độ công tác của tổ chức đảng, các cấp uỷ; trong hoạt động
của từng cán bộ, đảng viên từ trung ương đến cơ sở đảng có giữ vững và tăng
cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, củng cố khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn,
tránh được sự sai lầm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng chính là sự
vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung
dân chủ phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng.
Đối với các tổ chức đảng, cấp uỷ và mọi cán bộ, đảng viên, trước hết
phải thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, bản chất và
nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tăng cường, giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, chống mọi biểu hiện vi
phạm quyền dân chủ, dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu
lợi ích riêng, cục bộ làm suy yếu sức mạnh của tổ chức đảng. Hết sức cảnh
giác với những âm mưu, thủ đoạn nhằm xuyên tạc, bóp méo bản chất của

11,
12

Sđd, tr. 289.
Sđd, tr. 306


16

nguyên tắc; các luận điệu phủ định nguyên tắc, hay đối lập giữa tập trung và
dân chủ. Đồng thời, cần quan tâm phát hiện, ngăn chặn những động cơ với
mục đích xấu của tư tưởng cơ hội, cá nhân chủ nghĩa.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định trong Điều lệ
Đảng khoá X cần được cụ thể hoá và có những quy định, chế độ công tác rõ
ràng đối với cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, mới bảo đảm cho nguyên tắc tập
trung dân chủ được thực hiện đúng đắn, phù hợp, phát huy dân chủ trong sinh
hoạt đảng.
Các cấp uỷ và tổ chức đảng phải thực hiện đúng chế độ tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách. Từng đảng bộ phải chủ động ngăn chặn và khắc phục tình
trạng kém đoàn kết, thiếu thống nhất. Còn những cấp uỷ, tổ chức đảng nào vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ độc đoán, chuyên quyền, kéo bè,
kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ thì cấp uỷ cấp trên phải kiên quyết chỉ đạo
kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý kịp thời nghiêm minh những người có
khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ. Chủ động xây dựng cấp uỷ các cấp
luôn là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết, mẫu mực trong thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Giữ vững nền nếp, chế độ và nâng cao chất lượng sinh hoạt, chế độ tự
phê bình và phê bình của các cấp uỷ, tổ chức đảng đặc biệt là ở cấp chi bộ.
Trong phê bình và tự phê bình nghiêm cấm việc trấn áp, trù dập người phê
bình, cũng như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Cần mở

rộng dân chủ phát huy trí tuệ tập thể để có những quyết định đúng đắn, phát
huy năng lực, trình độ, kinh nghiệm, trách nhiệm của cá nhân trong việc triển
khai, tổ chức thực hiện các mặt, các nhiệm vụ.
Cùng với, việc nâng cao nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, ở các cấp uỷ và tổ chức đảng cần tăng cường công tác kiểm tra việc
chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Trước hết phải kiểm tra việc chấp


17

hành đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ
chính trị, chức trách được giao và thái độ trong sinh hoạt đảng. Những cán bộ,
đảng viên vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành nghị quyết, Điều lệ Đảng
phải được xử lý kịp thời, không bao che nhân nhượng, kể cả cán bộ cấp cao
của Đảng. Đấu tranh kiên quyết loại bỏ những tư tưởng, hành động hữu
khuynh, nể nang trong xử lý kỷ luật. Đối với đảng viên là cán bộ chủ chốt ở
các cấp uỷ phải gương mẫu chấp hành và có trách nhiệm tuyên truyền, kiểm
tra phát hiện những đảng viên, tổ chức đảng không chấp hành nguyên tắc sinh
hoạt Đảng.
Như vậy, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là một quá trình, phải
giải quyết nhiều khâu, nhiều mặt gắn liền với kết quả của công cuộc đổi mới,
chống mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức, cũng
như mọi biểu hiện phân tán cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, tự do vô tổ
chức, vô kỷ luật, bè phái.
Tóm lại, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như các nguyên tắc, chế
độ khác là chính do con người hoặc tổ chức đặt ra trên cơ sở nhận thức đúng
quy luật khách quan. Cho nên việc thực hiện như thế nào, chất lượng hiệu
quả đến đâu tuỳ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực nói chung, ý thức
giác ngộ, trách nhiệm chính trị, đạo đức lối sống, năng lực nhận thức nói
riêng của người lãnh đạo.

Qua nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và thực tiễn vận dụng thực hiện của Đảng ta về nguyên tắc tập trung
dân chủ có thể khẳng định rằng: Nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay không
lỗi thời, vẫn còn nguyên giá trị các Đảng Cộng sản và mỗi đảng viên cộng sản
không được phép từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là vấn đề sống còn
của Đảng. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh mới hiện nay, chúng ta phải
hiểu và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ một cách đúng đắn, sáng tạo,


18

theo đúng quan điểm của Đảng; chống các biểu hiện tập trung quan liêu, dân
chủ hình hoặc giáo điều, dập khuôn máy móc khi thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ. Có như vậy mới làm cho Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu đưa sự nghiệp đổi
mới đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh thành công tốt đẹp.
*********************



×