Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.37 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ BÍCH TRÂM

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT
TẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƢỚC
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HỮU MINH

HÀ NỘI, 2016

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài nghiên cứu “Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh
Bình Phước” là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng tìm tòi và nghiên cứu của bản thân
tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS
Nguyễn Hữu Minh. Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của đề tài hoàn toàn là
kết quả điều tra, khảo sát mà tôi đã tiến hành tại tỉnh Bình Phước.

Hà Nội, tháng 6/2016
Học viên



Vũ Thị Bích Trâm


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU: ...................................................................................................................... 1
Chƣơng1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .................................................................... 12
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của Trẻ khuyết tật ................................................ 12
1.2. Cơ sở lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật: .......................... 17
1.3. Cơ sở pháp lý của dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ........................... 25
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ............ 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT .............................................. 34
2.1. Đặc điểm địa bàn và khách thể nghiên cứu.............................................................. 34
2.2. Thực trạng về Trẻ khuyết tật tỉnh Bình Phước......................................................... 36
2.3 Thực trạng hoạt động cung cấp Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật
từ thực tiễn tỉnh Bình Phước ........................................................................................... 42
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ............. 52
2.5. Đánh giá Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình
Phước............................................................................................................................... 59
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU
QUẢ CÁC DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI .............................................................. 62
3.1. Các định hướng cho việc đảm bảo dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật .. 62
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật
từ thực tiễn tỉnh Bình Phước ........................................................................................... 65
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 67
KIẾN NGHỊ ................................................................................................................... 68



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVCSTE: bảo vệ chăm sóc TE
CTXH: công tác xã hội
CTV: CTV
DV: dịch vụ
DVCTXH: dịch vụ công tác xã hội
GDHN: giáo dục hòa nhập
NKT: người khuyết tật
NTT: người tàn tật
TE: TE
TKT: trẻ khuyết tật


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Quy mô về độ tuổi Trẻ khuyết tật và các dạng khuyết tật ..................... .39
Bảng 2.2: Cơ cấu về độ tuổi khuyết tật và các dạng khuyết tật. ............................ .40
Bảng 2.3: Mức độ khuyết tật. ................................................................................... 40
Bảng 2.4: Nhận thức của cộng đồng đối với Trẻ khuyết tật. ................................... 60
Biểu đồ 2.1: Thực trạng hoàn cảnh sống của Trẻ khuyết tật ................................... 41
Biểu đồ 2.2: Thực trạng sức khỏe của Trẻ khuyết tật. .......................................... . 43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em nói chung và Trẻ khuyết tật nói riêng là những đối tượng cần được quan
tâm của Đảng, nhà nước, gia đình và của toàn xã hội do các em chưa phát triển hoàn
thiện về mặt thể chất và tinh thần. Trẻ khuyết tật có nhiều thiệt thòi hơn so với các
bạn cùng độ tuổi vì các em bị khiếm khuyết về thể chất và tinh thần. Vì khuyết tật

nên các em gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và
tham gia vào các hoạt động xã hội vì thế các em cần được sự quan tâm đặc biệt của
gia đình, cộng đồng và của toàn xã hội. Nhưng cũng giống như những Trẻ em khác,
Trẻ khuyết tật vẫn có thể học tập, phát huy tiềm năng để phát triển, giảm bớt gánh
nặng cho gia đình và xã hội nếu các em được quan tâm và hỗ trợ các dịch vụ phù
hợp. Do đó việc chăm lo, hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật là nghĩa vụ của mỗi gia đình,
cộng đồng xã hội và nhà nước.
Pháp luật Việt Nam hiện hành có nhiều quy định để để bảo vệ, chăm sóc
nhằm đáp ứng các nhu cầu của Trẻ em nói chung và Trẻ khuyết tật nói riêng như
Hiến pháp năm 2013, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật
Người khuyết tật năm 2012, Quyết định số 1019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020, Chương trình
quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định 267/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Sau 03 năm thực hiện pháp luật về Người khuyết tật và các
chương trình về bảo vệ, chăm sóc trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhà nước
đã tạo được hành lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho Trẻ
khuyết tật hoà nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống của Người khuyết tật,
đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ
giúp Trẻ khuyết tật có hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện pháp
luật về Người khuyết tật và các chương trình hỗ trợ Trẻ khuyết tật thực tế còn nảy
sinh nhiều vấn đề bất cập. Vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa các quy định và thực
tế, nguồn lực đầu tư cho công tác chăm sóc, hỗ trợ cho trẻ em và trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt tương đối lớn nhưng hầu như chưa tương xứng với nhu cầu thực tế.

1


Vì vậy, vẫn còn tình trạng Trẻ khuyết tật chưa được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của
mình để phát triển và hòa nhập cộng đồng vì đối với Trẻ khuyết tật ngoài những
nhu cầu chung của Trẻ em thì các em còn có những nhu cầu đặc thù khác cần được

đáp ứng, hỗ trợ để phù hợp với điều kiện về thể chất và tinh thần. Việc bảo đảm cho
Trẻ khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn hoá, học nghề, tìm kiếm việc làm,
tham gia giao thông công cộng thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại, phần
lớn Trẻ khuyết tật chưa tiếp cận được với các dịch vụ giáo dục, dịch vụ giải trí, y tế.
. . nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bình Phước là một tỉnh nghèo, chịu ảnh hưởng nặng nề sau chiến tranh, cùng
với hậu quả chiến tranh để lại, sự tác động của ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch
bệnh vì vậy số Trẻ khuyết tật của tỉnh được dự báo là sẽ không giảm trong những
năm tới. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt các dịch vụ công tác xã hội đối với
Trẻ khuyết tật nhằm giúp các em tiếp cận được các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa,
thể thao và các dịch vụ khác phù hợp để các em được hạn chế những khó khăn do
khuyết tật gây ra, có cơ hội phát triển, giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Xuất phát từ những cơ sở nêu trên, việc cung cấp các dịch vụ xã hội để đáp
ứng nhu cầu của Trẻ khuyết tật là cấp thiết để đảm bảo việc thực hiện các quyền của
Trẻ em theo pháp luật và phát huy hiệu quả của các hoạt động công tác xã hội.
Trước bối cảnh đó, tôi đã chọn đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết
tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” làm đề tài nghiên cứu nhằm đưa những khuyến
nghị, giải pháp cụ thể để cung ứng các dịch vụ công tác xã hội cho Trẻ khuyết tật
đáp ứng nhu cầu và đạt hiệu quả hơn
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề trẻ Trẻ khuyết tật, công tác xã hội với Người khuyết tật đã có nhiều
nghiên cứu, văn bản của các Bộ, ngành, các cấp chính quyền và các nhà nghiên cứu.
Cụ thể:
“ Báo cáo Quyền của Trẻ khuyết tật tại Việt Nam” của tác giả Eric Rosenthal
và Viện Quốc tế bảo vệ quyền Người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu

2


UNICEP Việt Nam năm 2009. Báo cáo đã nhận định tại Việt Nam cũng như nhiều

nơi trên thế giới, Trẻ khuyết tật phải đương đầu với nhiều khó khăn khi tiếp cận với
môi trường vật chất cũng như tiếp cận những dịch vụ dựa vào cộng đồng, dịch vụ y
tế giáo dục và hệ thống bảo vệ trẻ em. Vấn đề thiếu khả năng tiếp cận đối với Người
khuyết tật tại Việt Nam đặc biệt trầm trọng đối với Trẻ khuyết tật, nó tạo ra những
rào cản đến các dịch vụ y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, văn hóa thể thao và những
hoạt động khác rất thiết yếu cho sự phát triển của một đứa trẻ. Bên cạnh đó, báo
cáo cũng đã nêu rõ những quyền của Trẻ khuyết tật đó là quyền được bảo vệ không
bị phân biệt đối xử chỉ vì khuyết tật, quyền tiếp cận những khu vực công và dịch vụ
công, quyền sống trong cộng đồng, quyền được gia đình bảo vệ, quyền được dịch
vụ và đủ tiêu chuẩn cuộc sống, quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí và đặc biệt,
quyền được giáo dục, quyền về danh tính, khai sinh và năng lực pháp lý.
“Báo cáo phân tích tình hình Trẻ em ở Việt Nam” do UNICEF thực hiện
năm 2010 đã nêu rõ bên cạnh những thành công về kinh tế, Việt Nam cũng đã đạt
những tiến bộ lớn cho trẻ em trong thời gian khá ngắn. Báo cáo cũng chỉ ra những
lĩnh vực cần nhiều tiến bộ hơn nữa và cả tính cấp bách của nó như vẫn còn một bộ
phận trẻ em và trẻ vị thành niên ở Việt Nam vẫn sống trong điều kiện chưa được
hưởng quyền và chưa được hòa nhập với xã hội như chăm sóc y tế có chất lượng,
giáo dục trung học và nước sạch vẫn chưa tiếp cận được một cách bình đẳng với
mọi trẻ em; tình trạng không hòa nhập xã hội do một vài nhân tố gây ra bao gồm sự
chênh lệch về kinh tế, bất bình đẳng giới, sự khác biệt đáng kể giữa nông thôn,
thành thị cũng như giữa các vùng địa lý; Trẻ khuyết tật cho dù sống với gia đình
hay ở các trung tâm, việc giáo dục các em trở thành những thành viên hòa nhập xã
hội và độc lập về tài chính đều có cùng một thách thức.
“Báo cáo tình hình Trẻ em thế giới 2013 với chủ đề Trẻ khuyết tật” do
UNICEF thực hiện đã khuyến cáo Trẻ khuyết tật và cộng đồng sẽ cùng được lợi
nhiều hơn nếu xã hội quan tâm tới những gì Trẻ khuyết tật có thể làm được thay vì
tập trung chú ý vào khiếm khuyết của các em. Báo cáo nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc cần có sự tham gia của Trẻ em và người chưa thành niên có khuyết tật thông

3



qua việc khảo sát lấy ý kiến của chính các em trong quá trình xây dựng và đánh giá các
chương trình và dịch vụ dành cho Trẻ khuyết tật.
Bài viết “Dịch vụ xã hội cho người khuyết tật thách thức và triển vọng” của
tác giả Tạ Hải Giang – Trung tâm phát triển sức khỏe bền vững – Viethealth. Bài
viết nêu rõ ở nước ta, những dịch vụ xã hội cơ bản dành cho Người khuyết tật như
y tế, giáo dục, sinh kế và việc làm đã được triển khai, tuy nhiên với rất nhiều Người
khuyết tật thì việc tiếp cận các dịch vụ này gặp rất nhiều rào cản đó là thiếu thông
tin, sự kỳ thị, thiếu những dịch vụ ở cấp độ cá nhân. Mặc dù nhà nước và các tổ
chức cá nhân trong và ngoài nước đã nổ lực cải thiện tình trạng này nhưng việc
cung cấp các dịch vụ xã hội cho Người khuyết tật vẫn còn nhiều vướng mắc về kinh
phí, nguồn nhân lực, nhận thức về Người khuyết tật còn hạn chế. Bên cạnh đó, bài
viết cũng nêu quan điểm, các dịch vụ xã hội nên và cần có sự góp sức của nhân viên
xã hội. Trong tương lai gần, nhân viên xã hội hoàn toàn có thể tham gia vào quá
trình cung cấp dịch vụ cho Người khuyết tật như giáo dục hòa nhập, hướng nghiệp
việc làm.
Báo cáo “Trẻ em ngoài nhà trường” do Bộ giáo dục và Đào tạo chủ trì thực
hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của UNICEP Việt Nam đã nêu rõ trẻ em
chưa từng đi học, bỏ học hoặc có nguy cơ bỏ học gồm nhiều đối tượng trong đó có
Trẻ khuyết tật. Nghiên cứu cũng nhận định Trẻ khuyết tật có bất lợi rõ rệt về giáo
dục, với tỷ lệ đi học rất thấp và ngược lại tỷ lệ Trẻ em ngoài nhà trường rất cao. Tỷ
lệ Trẻ em ngoài nhà trường ở bậc tiểu học và Trung học cơ sở là khoảng 25% đối
với Trẻ khuyết tật một phần và lên đến trên 90% đối với Trẻ khuyết tật; tỷ lệ Trẻ
khuyết tật chưa từng đi học hoặc thôi học, Trẻ em ngoài nhà trường, luôn có tỉ lệ
cao hơn 80% ở mọi độ tuổi. Đặc biệt, tỷ lệ này lên tới 91,4% ở Trẻ khuyết tật từ 11
- 14 tuổi. Báo cáo nghiên cứu cũng phân tích một số các rào cản và vướng mắc, đến
từ phía cầu tức bản thân Trẻ em và cha mẹ và phía cung cấp dịch vụ giáo dục, bao
gồm hệ thống giáo dục đồng thời có liên quan đến các bên khác như các cơ quan
quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp. Nổi bật về rào cản liên quan

đến phía cầu là gia đình nghèo, chi phí đắt đỏ cho các khoản liên quan đến học tập

4


của trẻ. Rào cản về phía cung gồm sự tác động từ cơ sở vật chất, giáo viên, quản lý
giáo dục và một số vấn đề mang tính hệ thống như chương trình, hệ thống thông tin
số liệu, quản trị xã hội, năng lực và cơ chế tài chính.
Đề tài “công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Thanh
Hóa” của tác giả Đỗ Thị Liên, tác giả nhận định cùng với sự phát triển của đời sống
xã hội thời kỳ đổi mới, sự quan tâm của xã hội trên góc độ hệ thống chính sách xã
hội và các hoạt động bảo trợ, các hoạt động xã hội ngày càng được quan tâm và đầu
tư nhằm nâng cao khả năng hòa nhập cho Người khuyết tật. Mặc dù có sự thay đổi
rõ nét về hệ thống chính sách xã hội, hệ thống Dịch vụ xã hội hướng đến trợ giúp
kinh tế, đời sống của Người khuyết tật vẫn gặp nhiều hạn chế và rào cản từ góc độ
nhận thức xã hội đến rào cản về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội chuyên nghiệp
cũng như cơ hội phát triển và vấn đề việc làm. Từ những khó khăn chung về cơ sở
hạ tầng, khả năng tiếp cận và điều kiện xã hội, Người khuyết tật vẫn chưa được
hưởng các mô hình trợ giúp xã hội và Dịch vụ xã hội mang tính chuyên môn, vì
vậy nó tác động không tích cực trở lại đến quá trình hòa nhập xã hội của Người
khuyết tật.
Bài viết “Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc
phát triển các Dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của Tiến sỹ
Đỗ Thị Ngọc Phương nêu rõ sự cần thiết của việc phát triển dịch vụ đối với công tác
bảo vệ trẻ em.

một số quốc gia như Anh, Mĩ,

c, Philippines, Thái Lan,


Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, việc cung cấp Dịch vụ xã hội chủ yếu là trách
nhiệm của các bộ và cơ quan nhà nước.

một số quốc gia, dịch vụ công tác xã hội

thường tập trung vào trị liệu tâm lý xã hội và tham vấn, ở một số quốc gia khác,
dịch vụ công tác xã hội có vai trò cụ thể và ảnh hưởng nhiều hơn đến việc quản lý
các dịch vụ xã hội của chính phủ.

Anh, các cách tiếp cận dịch vụ có thể là do thân

chủ tự tìm đến dịch vụ, hoặc được cán bộ chuyên môn giới thiệu như bác sỹ hoặc
giáo viên , hoặc thông qua lệnh của tòa án dựa trên đánh giá của cán bộ xã hội cấp
quận/huyện;

Mĩ Cũng giống như mô hình ở Vương quốc Anh, những người cần

dịch vụ có thể tự tìm đến dịch vụ hoặc do cán bộ chuyên môn hoặc tòa án giới thiệu
đến. Công tác xã hội tại Philippines ngày càng nhấn mạnh hơn vào vấn đề chính
5


sách và phát triển cộng đồng trong đó các cán bộ hoạt động trực tiếp kết hợp vai trò
cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội cho nhu cầu của các cá nhân và gia đình với
các hoạt động tổ chức cộng đồng. Các dịch vụ chuyên biệt được cung cấp tại các
trung tâm dành cho người có nhu cầu hoặc ở cấp vùng, cấp quốc gia. Liên quan đến
tính thể chế của các dịch vụ công tác xã hội, kinh nghiệm ở một số nước cũng cho
thấy tính pháp lý có ý nghĩa rất lớn giúp tạo điều kiện cho người hành nghề các dịch
vụ công tác xã hội được thuận lợi và thực sự được coi đó là một nghề.
“Nghiên cứu định tính về Trẻ khuyết tật tại An Giang và Đồng Nai, kiến

thức – thái độ- thực hành” do tác giả Trịnh Thắng và các cộng sự thực hiện năm
2010. Nghiên cứu đã phân tích tình hình chung về kiến thức, thái độ và hành vi của
cộng đồng đối với Trẻ khuyết tật tại 2 tỉnh An Giang và Đồng Nai. Về kiến thức, tác
giả đưa ra nhận định sự hiểu biết các khái niệm, các nguyên nhân và phân loại Trẻ
khuyết tật không đồng đều giữa các nhóm đối tượng khác nhau, hầu như dựa vào
kinh nghiệm về Trẻ khuyết tật chứ họ không thật sự có hiểu biết đúng đắn về về vấn
đề này. Đồng thời, kiến thức về phòng ngừa khuyết tật, phát hiện và can thiệp sớm
của các bậc phụ huynh tham gia nghiên cứu cũng bị hạn chế về thái độ, nhìn chung
các bậc phụ huynh thường chấp nhận Trẻ khuyết tật như là những thành viên gia
đình bị thiệt thòi, vì thế thường có xu hướng dành nhiều hỗ trợ và sự quan tâm về
mặt tình cảm cho con họ, nhưng các trường hợp này hầu như là ở các gia đình có đủ
điều kiện kinh tế.
Bài viết kinh nghiệm triển khai dịch vụ công tác xã hội tại một số nước trên
thế giới trên Website của Bộ Lao động TB&XH năm 2014 nêu rõ ở các nước trên
thế giới, công tác xã hội thường phát triển theo hướng trở thành dịch vụ tại cộng
đồng và góp phần cải thiện tính hiệu quả của dịch vụ phúc lợi xã hội. Cơ cấu các
dịch vụ công tác xã hội có sự kết hợp của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ.
Mối quan hệ này khác nhau giữa các nước do lịch sử phát triển của hệ thống phúc
lợi xã hội, yếu tố văn hóa, xã hội và kinh tế chính trị của mỗi nước.

một số nước

như Anh, c, nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội
cho người dân. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, sự tham gia của khu vực phi
Chính phủ chủ yếu dựa trên các hợp đồng với Chính phủ, hoạt động với tư cách là
6


đại diện cho chính phủ và được chính phủ trả tiền. Còn tại nước Mỹ, công tác xã hội
thu phí cao đối với những người giàu.Tại Philippines, công tác xã hội được tập

trung vào vấn đề chính sách và phát triển cộng đồng, trong đó, các cán bộ hoạt động
trực tiếp đóng vai trò là người cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội, đáp ứng nhu
cầu của cá nhân và gia đình. Các cán bộ xã hội làm việc tại cơ quan trung ương là
Bộ hoặc tại các dự án của tổ chức phi Chính phủ, văn phòng trung ương và cấp tỉnh.
Các dịch vụ chuyên biệt được cung cấp tại các trung tâm dành cho người có nhu cầu
hợc ở cấp vùng, cấp quốc gia.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đều nghiên cứu về Trẻ khuyết tật,
Người khuyết tật và Dịch vụ công tác xã hội. Tuy nhiên các nghiên cứu đó chỉ dừng
lại ở mức đánh giá thực trạng hay nêu lên các quyền của Trẻ khuyết tật, chưa có đề
tài nào nghiên cứu sâu về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật. Từ năm
2011 đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Phước chưa có những chương trình cũng như
đề tài nghiên cứu về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật nhằm đưa ra
những khuyến nghị hợp lý và xác thực để có hướng giúp đỡ các em vì vậy đề tài mà
tôi lựa chọn là hoàn toàn không bị trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng của Dịch vụ công
tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp, khuyến nghị về giải pháp hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật phù hợp với
nhu cầu và hiệu quả hơn góp phần phát triển Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về Trẻ em, Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,
khuyết tật, Trẻ khuyết tật, công tác xã hội, Dịch vụ công tác xã hội, Dịch vụ công
tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật.

7


Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng Dịch vụ công tác xã hội với Trẻ

khuyết tật trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Đề xuất những định hướng, giải pháp về những Dịch vụ công tác xã hội dành
cho Trẻ khuyết tật tỉnh Bình Phước trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loại hình Dịch vụ công tác xã hội đối
với Trẻ khuyết tật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu các loại hình Dịch vụ
công tác xã hội với Trẻ khuyết tật tại tỉnh Bình Phước gồm có dịch vụ hỗ trợ giáo
dục; dịch vụ hỗ trợ y tế và phục hồi chức năng; dịch vụ hỗ trợ tâm lý- xã hội; dịch
vụ hỗ trợ pháp lý; dịch vụ hỗ trợ các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, giải trí
cho Trẻ khuyết tật.
Về không gian và thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu Dịch vụ CTXH đối
với trẻ khuyết tật từ năm 2010 – 2014.
Thời gian thực hiện nghiên cứu: Từ tháng 02/2016 đến 06/2016.
Khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu 120 Trẻ khuyết tật trong độ tuổi từ
10-16 tuổi hoặc cha mẹ của các em trong trường hợp Trẻ khuyết tật không tự trả lời
câu hỏi được , 50 người dân trong cộng đồng, 11 cán bộ phụ trách công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em của các huyện, thị xã, 4 cán bộ của Sở Lao động Thương binh và
Xã hội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài áp dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích,
tổng hợp nhằm xem xét việc cung cấp các Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ
khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Bình Phước trong mối quan hệ với các yếu tố như chính

8



sách, môi trường xã hội, gia đình, cộng đồng. Các đối tượng được nghiên cứu trong
đề tài sẽ được đánh giá theo mốc thời gian, mang tính lịch sử rõ ràng. Qua đó các
vấn đề và các yếu tố quan trọng trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu,
đảm bảo tính chính xác trong trình bày kết quả nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu thực trạng của Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật
trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã tương xứng với nhu cầu thực tế hay chưa, nhu cầu
của Trẻ khuyết tật gồm những gì, luận văn sử dụng các phương pháp sau đây:
5.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi
Điều tra bằng bảng hỏi tiến hành phỏng vấn trực tiếp với khách thể nghiên
cứu nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng nhu cầu hỗ trợ từ các chính sách,
dịch vụ đối với Trẻ khuyết tật.
Điều tra và lấy thông tin từ người được hỏi, tác giả tiến hành chọn 170 mẫu,
trong đó có 120 Trẻ khuyết tật hoặc cha mẹ, người chăm sóc Trẻ khuyết tật) từ 1016 tuổi của 03 huyện Hớn Quản, Lộc Ninh và Đồng Phú để thu thập thông tin, số
liệu về những loại hình Dịch vụ công tác xã hội mà các em đang được hưởng có đủ
và phù hợp với các em hay không, những mong muốn của các em; 50 người dân
trong cộng đồng nhằm thu thập thông tin về nhận thức của cộng đồng đối với nhằm
thu thập thông tin, số liệu về thực trạng đời sống của Trẻ khuyết tật, sự hiểu biết về
vấn đề khuyết tật và nhận thức của cộng đồng với vấn đề Trẻ khuyết tật. Những
thông tin thu thập từ bảng hỏi sẽ làm cơ sở cho tác giả đề xuất những giải pháp thiết
thực để cung cấp các Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật đạt hiệu quả hơn.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Trong thời gian thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành quan sát thực trạng đời
sống, kinh tế, xã hội tại địa phương và đời sống tâm lý của Trẻ khuyết tật thông qua
qua các hoạt động thường ngày. Phương pháp quan sát thực tế góp phần làm rõ
thêm những kết quả của nghiên cứu định lượng.
5.2.3. Phỏng vấn sâu
9



Sử dụng phương pháp này để có nhận định về nghiên cứu một cách đầy đủ,
có cơ sở khoa học và hiểu rõ hơn vấn đề đang nghiên cứu.
Với phương pháp phỏng vấn sâu, những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên
cứu sẽ được cụ thể hóa thành một bảng hướng dẫn được chuẩn bị trước để người
phỏng vấn sử dụng trong quá trình phỏng vấn. Phương pháp này sẽ khai thác được
các thông tin như những nguồn lực, dịch vụ xã hội hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật đã đáp
ứng nhu cầu của các em hay chưa; những chính sách, pháp luật về Trẻ khuyết tật đã
được triển khai ở địa phương như thế nào.
Phỏng vấn sâu được tiến hành với 15 người gồm có 11 người là cán bộ phụ
trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại 11 huyện, thị xã, 4 cán bộ lãnh đạo của
Sở Lao động Thương binh và Xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt
động đào tạo tại các cơ sở đào tạo nói chung và công tác xã hội nói riêng. Đồng thời
là tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho những ai quan tâm về lĩnh vực Dịch vụ công tác
xã hội, vai trò của lý thuyết Dịch vụ công tác xã hội đối với hoạt động và hiệu quả
của các Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cái nhìn tổng quan hơn về dịch vụ công tác
xã hội đối với Trẻ khuyết tật, qua đó có thể bổ sung vào việc đóng góp ý kiến, tham
vấn chính sách pháp luật trong hoàn thiện cơ chế, chính sách cho Trẻ khuyết tật đối
với cơ quan nhà nước cũng như công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho cộng
đồng về các chính sách, dịch vụ hỗ trợ cho Trẻ khuyết tật.
Kết quả nghiên cứu giúp có cái nhìn đúng đắn, xác thực về Dịch vụ công tác
xã hội tại tỉnh Bình Phước hiện nay đang ở mức như thế nào, đã đáp ứng với nhu
cầu thực tế của Trẻ khuyết tật hay chưa qua đó có cái nhìn tích cực hơn khi xem xét
thực trạng này.

10



Nghiên cứu cũng góp phần cung cấp thông tin với địa phương và các tổ
chức xã hội, đề xuất các phương án cũng như khuyến nghị để có các chính sách hỗ
trợ kịp thời và phù hợp giúp Trẻ khuyết tật có cuộc sống tốt hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật ở tỉnh
Bình Phước.
Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các Dịch vụ
công tác xã hội.

11


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ
KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của Trẻ khuyết tật
1.1.1. Một số khái niệm
Khái niệm Trẻ em
Điều 1 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “trẻ em có
nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó
quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Khái niệm Trẻ em theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số
25/2004/QH11 của Việt Nam: “trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi”.
Trong Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 sử dụng khái niệm “người
chưa thành niên” là người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Trong quá trình thực hiện một số chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt ở nước ta vẫn vận dụng cho những người trong độ tuổi vị thành niên từ 16

tuổi đến dưới 18 tuổi như chính sách trợ cấp xã hội, chính sách trợ giúp về giáo dục,
y tế khi các đối tượng này vẫn trong hoàn cảnh khó khăn và hiện tại vẫn theo học
các trường phổ thông hoặc các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp. Đối với
trẻ em là người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam thì chúng ta vẫn tôn trọng thực
hiện theo quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, nhưng số
lượng trẻ em này không có nhiều và cũng không thuộc nhóm trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt.
Như vậy có rất nhiều định nghĩa về trẻ em và tất cả định nghĩa đều thừa nhận
rằng trẻ em dùng để chỉ một giai đoạn phát triển của con người từ lúc sinh ra đến
dưới 16 tuổi.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

12


Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về
thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập
với gia đình, cộng đồng.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa;
trẻ khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;
trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ
em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật [ 9].
Như vậy TKT là một trong 10 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã được
luật pháp quy định.
Khuyết tật
Có rất nhiều cách hiểu và giảng giải khác nhau về khuyết tật, xuất phát từ sự
đa dạng của khuyết tật, sự phức tạp về mức độ khuyết tật, công cụ đo lường và đánh
giá, cũng như sự khác biệt về văn hóa xã hội của mỗi quốc gia. Sự khác biệt này
cho thấy khái niệm khuyết tật rất khó đo được và khó định nghĩa. Chúng ta có thể

hiểu từ khuyết nghĩa là không đầy đủ, thiếu mất một bộ phận hoặc một phần. Từ tật
có nghĩa là có điều gì đó không được bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu,
dụng cụ, máy móc. Còn ở người là sự bất thường, nói chung không thể chữa được
của một cơ quan trong cơ thể do bẩm sinh mà có, hoặc do tai nạn hay bệnh gây ra
theo Từ điển tiếng Việt Nxb Khoa học – xã hội, Hà Nội, 1988 .
Khuyết tật có thể được hiểu là khiếm khuyết thực thể ở một bộ phận nào đó
hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức của cơ thể và
khiếm khuyết đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.
Như vậy, định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận mới được hiểu là tình trạng
thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý bình thường làm
cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi giải trí và sinh
hoạt [43,tr.8].

13


Khái niệm Trẻ khuyết tật
Theo Luật NKT 2010 : NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
Theo Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em: TKT là TE dưới 16 tuổi không phân
biệt nguồn gốc gây ra tàn tật, bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt
động, khiến cho lao động sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [2; tr.252 ].
1.1.2. Biểu hiện tâm lý và nhu cầu của Trẻ khuyết tật
1.1.2.1.Biểu hiện tâm lý của Trẻ khuyết tật:
Do sự thiếu hụt về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của TKT
bị suy giảm vì vậy ở TKT sẽ có những đặc điểm chung như sau:
Về tính cách
Các em thường bi quan, chán nản, mặc cảm, tự ti, tủi phận, cho mình là

người bỏ đi, là gánh nặng của gia đình, người thân, ngại giao tiếp với mọi người.
Tuy nhiên, đại đa số các em là những người giàu nghị lực để vượt qua khó khăn, tật
nguyền đạt thành tích cao trong học tập, lao động nếu được sự hỗ trợ thích hợp của
gia đình và xã hội.
Về trí tuệ
Nhìn chung là trí tuệ có giảm sút tùy thuộc vào từng dạng tật khiếm thị,
khiếm thính. . . do đó số lượng cảm giác, tri giác giảm và ảnh hưởng tới độ chính
xác. Khái niệm hình thành không trọn vẹn, thiếu chính xác ở trẻ khiếm thị ; trí tuệ
kém phát triển, tư duy trừu tượng kém, nghèo nàn do thiếu ngôn ngữ ở trẻ điếc
bẩm sinh; trẻ bị thiểu năng trí tuệ .
Về đời sống tình cảm
Nhìn chung các em rất cởi mở và muốn được giao tiếp. Mặt khác, do mặc
cảm tàn tật nên các em hay tự ái, dễ bị kích động, hay nghi ngờ những người xung
14


quanh. Bi quan, hay lo lắng. Đời sống nội tâm của các em rất nhạy cảm, tế nhị, dễ
thông cảm với những khó khăn của khác và cũng dễ bị tổn thương hơn so với những
trẻ em khác [ 2, tr. 252].
1.1.2.2. Nhu cầu của Trẻ khuyết tật
Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng những nhu cầu cơ bản, thiết
yếu của cuộc sống như ăn, mặc, nhà ở, đi lại, chăm sóc y tế. . để phát triển, con
người cũng cần được đáp ứng những nhu cầu cao hơn như nhu cầu học hành, được
an toàn, được yêu thương, tôn trọng và khẳng định. . .việc đáp ứng những nhu cầu
ngày càng cao của con người cũng chính là động lực phát triển, thúc đẩy con người
tham gia vào hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội [8, tr.163].
Theo quan điểm của nhà tâm lý học người Mỹ AbrahamMaslow, con người
có 5 loại nhu cầu cơ bản được xắp xếp theo bậc thang từ thấp tới cao. Các nhu cầu
có liên quan chặt chẽ với nhau. Trước tiên cần được đáp ứng là những nhu cầu ở
mức độ thấp. Sau đó mới đến các nhu cầu ở bậc thang cao hơn. Các nhu cầu không

tồn tại độc lập mà luôn nằm trong mối quan hệ gắn kết, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn
nhau.
Maslow đã xắp xếp các nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc:
- Nhu cầu cơ bản: ăn, uống, hít thở, không khí, khi các nhu cầu này được
thỏa mãn thì con người có xu hướng tìm kiếm cách đáp ứng nhu cầu bậc cao hơn.
- Nhu cầu an toàn: có cảm giác an toàn về thân thể, tình yêu thương, nhà ở,
việc làm, sức khỏe, gia đình đây là những nhu cầu giúp con người có cuộc sống an
toàn, bình yên, ổn định.
- Nhu cầu xã hội: nhu cầu được hòa nhập, giao lưu tình cảm, muốn có gia
đình yên ấm, bạn bè.
- Nhu cầu được tôn trọng, kính mến: được chấp nhận có một vị trí trong
nhóm người, cộng đồng, xã hội, cần có cảm giác được tôn trọng, kính mến, được tin
tưởng.

15


- Nhu cầu được khẳng định, tự thể hiện mình: nhu cầu được hoàn thiện, phát
triển trí tuệ, sáng tạo, được thể hiện khả năng, năng lực của mình và được công
nhận.
Từ những nhu cầu chung của con người theo quan điểm của A.Masslow,
TKT cũng có tất cả những nhu cầu như người bình thường nhưng việc đáp ứng các
nhu cầu này cho các em thường gặp những khó khăn nhất định. Một số nhu cầu bậc
cao của TKT ít có cơ hội được đáp ứng như học văn hóa, học nghề, tìm kiếm việc
làm, tiếp cận dịch vụ xã hội. Chính vì vậy, TKT rất cần sự hỗ trợ phù hợp từ phía
gia đình và cộng đồng để các em có thêm cơ hội được đáp ứng các nhu cầu. Vận
dụng lý thuyết này vào trợ giúp TKT đòi hỏi phải nắm được nhu cầu của các em,
trên cơ sở đó giải quyết những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần và tạo niềm tin
cho các em vào bản thân, vào cuộc sống, vào cộng đồng để hướng các em đến
những điều tốt đẹp nhất, tránh những suy nghỉ tiêu cực. Từ chính những đặc điểm

về thể chất và tâm lý, TKT sẽ có những nhu cầu đặc trưng sau đây:
- Nhu cầu được chữa trị, chăm sóc y tế, phục hồi chức năng.
- Nhu cầu học văn hóa, học nghề phù hợp với bản thân.
- Nhu cầu được hỗ trợ tâm lý- xã hội.
- Nhu cầu được hỗ trợ pháp lý.
- Nhu cầu được tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hoạt động vui
chơi giải trí.
Việc vận dụng thuyết nhu cầu vào trợ giúp TKT sẽ giải quyết được các nhu
cầu từ thấp đến cao của TKT để các em được hưởng đầy đủ các dịch vụ mà không
bị thừa hoặc bị thiếu khi cung cấp các DVCTXH cho các em. Qua đó, có thể thấy
được TKT đã tiếp cận được với những dịch vụ hỗ trợ từ nhà nước, cộng đồng, xã
hội như thế nào và những hỗ trợ có đáp ứng được nhu cầu của các em hay chưa. Từ
đó có những đề xuất thiết thực từ tình hình thực tế của địa phương với các cấp chính
quyền, các nhà quản lý và cả cộng đồng về những giải pháp thích hợp.

16


1.2. Cơ sở Lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật
1.2.1. Một số khái niệm
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con
người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể hữu hình
như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội [ 18].
Một số quan điểm cho rằng Dịch vụ xã hội là những hình thức cụ thể hoá của
các chính sách xã hội.
Dịch vụ xã hội được Liên hiệp quốc định nghĩa như sau: Dịch vụ xã hội cơ
bản là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp
ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống.
Khái niệm Công tác xã hội
Hiệp hội công tác xã hội quốc tế và các trường đào tạo công tác xã hội quốc tế

2011 thống nhất một định nghĩa về công tác xã hội như sau: CTXH là nghề nghiệp
tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy
sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao đổi quyền và giải phóng quyền lực nhằm
nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi
con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người
với môi trường sống.
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai 2010 : CTXH là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực và
đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường
xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng
đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã
hội.[ 5; tr.19 ]
Khái niệm Dịch vụ công tác xã hội
Được hiểu là các dịch vụ cụ thể hóa các luật pháp, chính sách của nhà nước
về các lĩnh vực phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, pháp lý nhằm trợ giúp các cá nhân,

17


nhóm, cộng đồng, trong đó có trẻ em có nhu cầu giải quyết các vấn đề khó khăn và
mang tính chuyên nghiệp của CTXH.
Từ những khái niệm, quan điểm về CTXH và DVXH, có thể hiểu dịch vụ
công tác xã hội DVCTXH ở Việt Nam như sau: DVCTXH là hoạt động CTXH
chuyên nghiệp nhằm cung cấp các hoạt động hỗ trợ về tinh thần hay vật chất cho
những người gặp hoàn cảnh khó khăn như người nghèo, NKT, TE có hoàn cảnh đặc
biệt, người già. . . nhằm nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống, giảm thiểu
những rào cản để những đối tượng này được tiếp cận với những hỗ trợ của chính
phủ, cộng đồng, khôi phục các chức năng xã hội của mình.
Từ những khái niệm trên, theo tôi DVCTXH là một hoạt động chuyên nghiệp
của Công tác xã hội gồm hoạt động của các nhân viên công tác xã hội hoặc những

nhà hoạt động xã hội nhằm hỗ trợ, kết nối các cho các đối tượng yếu thế trong xã
hội được tiếp cận các dịch vụ xã hội phù hợp để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các
đối tượng này với mục tiêu khắc phục rủi ro, giúp cho người phát triển mà không bị
phụ thuộc.
Khái niệm Dịch vụ công tác xã hội đối với Trẻ khuyết tật
DVCTXH đối với TKT là hoạt động chuyên nghiệp của công tác xã hội nhằm
cung cấp các DVCTXH đầy đủ, phù hợp và đặc thù để đáp ứng, hỗ trợ các nhu cầu
của TKT với mục tiêu giúp các em khắc phục những khiếm khuyết về thể chất, tinh
thần, nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân để phát huy khả năng, giúp cho các em
có cuộc sống bình thường, được phát triển bình đẳng như những trẻ em khác và hòa
nhập với cộng đồng xã hội.
Từ khái niệm trên cho thấy DVCTXH đối với TKT với 3 chức năng chính:
phòng ngừa, ngăn chặn những tổn hại xảy ra với TKT; giảm thiểu hoặc loại trừ
những nguy cơ làm các em bị tổn hại; trợ giúp, phục hồi cho các em.
Như vậy, DVCTXH là rất cần thiết và có vai trò rất lớn đối với đời sống của
TKT. Một mặt DVCTXH là cầu nối giúp cho TKT được tiếp cận nguồn lực xã hội
để các em được đáp ứng nhu cầu, giảm bớt những khác biệt để có cơ hội phát triển

18


bình đẳng, mặt khác nó giúp đỡ các em vượt qua những khó khăn, khiếm khuyết để
các em vươn lên trong cuộc sống. Cũng giống như những trẻ em bình thường khác,
TKT cũng có tiềm năng, thế mạnh để phát triển nhưng do bị khiếm khuyết về thể
chất, tinh thần nên các em không thể tự mình phát huy hay sử dụng được. Chính vì
vậy, các em rất cần được nhà nước, gia đình, xã hội, cộng đồng có những hỗ trợ
thích hợp về y tế, giáo dục . . . để vượt qua những khó khăn, giảm bớt sự thiệt thòi,
khắc phục những hạn chế về thể chất, tinh thần đến mức thấp nhất để có thể tự phục
vụ bản thân, tham gia học văn hóa, học nghề, các hoạt động vui chơi, giải trí phù
hợp với sức khỏe và dạng tật để phát triển, không làm gánh nặng cho gia đình, xã

hội. Đảng, nhà nước ta đã có sự quan tâm, đầu tư cho các em thể hiện qua hệ thống
văn bản chỉ đạo, điều hành và sự đầu tư nguồn lực. Vấn đề ở đây là làm thế nào
giúp các em tiếp cận được với các DVCTXH phù hợp với nhu cầu bản thân và dạng
tật. Con đường hòa nhập cộng đồng của các em sẽ vô cùng khó khăn nếu chỉ có sự
nỗ lực của bản thân, gia đình mà không có sự đồng hành, hỗ trợ thích hợp từ phía
chính quyền, cộng đồng, xã hội. DVCTXH đối với TKT như chiếc cầu nối các em
với xã hội, hỗ trợ các em về vật chất, tinh thần, tâm lý xã hội để khắc phục những
khó khăn, tạo thuận lợi để các em được hòa nhập, phát triển. KT là điều không ai
mong muốn nhưng việc giúp các em đón nhận và khắc phục những KT này với tâm
thế chủ động là điều mà gia đình, xã hội, cộng đồng nên làm để hỗ trợ cho các em.
1.2.2.Cách tiếp cận và yêu cầu đối với Nhân viên công tác xã hội khi cung
cấp Dịch vụ công tác xã hội cho Trẻ khuyết tật
1.2.2.1. Tiếp cận theo nhu cầu
Tiếp cận theo nhu cầu của TKT là cách tiếp cận dựa trên việc đáp ứng tốt
nhất các dịch vụ công tác xã hội đối với các nhu cầu của TKT. Theo cách tiếp cận
này TKT và nhu cầu của TKT được đặt vào vị trí trung tâm. Đây là cách tiếp cận
mang tính nhân văn vì coi trọng TKT và nhu cầu của các em. Tiếp cận theo nhu cầu
của các em sẽ giúp cho việc hỗ trợ hợp lý, đạt hiệu quả, không thừa, không thiếu,
tránh việc quyết định thay, làm thay hoặc không cung cấp đúng nhu cầu sẽ làm cho
các em chán nản, thiếu tin tưởng. Việc tiếp cận theo nhu cầu phải theo hai hướng là

19


nhu cầu cần và nhu cầu cảm. Nhu cầu cần là những nhu cầu cơ bản của TKT, còn
nhu cầu cảm là nhu cầu mà nhân viên xã hội thấy là cần cho các em. Nghĩa là ngoài
những nhu cầu tự thân của các em, nhân viên xã hội phải nhìn thấy, cảm thấy được
cái gì là hợp lý để tư vấn, hướng dẫn cho các em. Việc đáp ứng các nhu cầu cho trẻ
cũng là động cơ thúc đẩy để trẻ cảm thấy tự tin hơn và hòa nhập xã hội. Bên cạnh
đó, việc tiếp cận theo nhu cầu sẽ giúp các hỗ trợ xã hội giảm bớt kinh phí và tăng

hiệu quả, tránh được sự dư thừa, lãng phí hay không đầy đủ khi hỗ trợ cho các em
[3; tr.19].
1.2.2.2. Tiếp cận vì lợi ích tốt nhất
Tiếp cận theo tôn chỉ đem lại lợi ích tốt nhất cho TKT là cách tiếp cận với
việc cung cấp các dịch vụ bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Tiếp cận theo nguyên
tắc vì lợi ích tốt nhất có ý nghĩa ở việc dù ở bất cứ tình huống nào, lợi ích của TKT
luôn được đặt lên hàng đầu [3; tr.19].
1.2.2.3.Tiếp cận dựa trên quyền con người
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa đựng các
nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình
lập kế hoạch và tiến trình thực hiện các hoạt động công tác xã hội.
Cách tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền
con người đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Với cách tiếp cận theo quyền, NVXH
cần dựa trên hệ thống quyền con người để xây dựng các phương pháp và hoạt động
của những mô hình phát triển xã hội. Cách tiếp cận dựa trên quyền con người luôn
đưa ra những đối tượng tác động cụ thể, đó chính là con người với các quyền cơ bản
của mình. Theo đó, NVXH thực hiện trao quyền cho con người thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình [8,tr.168].
Tiếp cận dựa trên bảo đảm các quyền của trẻ em là cách tiếp cận các dịch vụ
đảm bảo TKT được thực hiện đầy đủ các nhóm quyền của trẻ em theo Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định gồm 10 nhóm quyền cơ bản gồm
có quyền được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền

20


×