VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HUY
QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGỌC TOẢN
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN HUY
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ........................................................................... 12
1.1. Lý luận về khuyết tật và người khuyết tật ......................................................... 12
1.2. Lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật ............................. 17
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý công tác xã hội .............................................. 37
1.4. Cơ sở pháp lý về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật.................. 39
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH QUẢNG NAM .......................................................... . 41
2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam ............. 41
2.2. Thực trạng về người khuyết tật tỉnh Quảng Nam ............................................ 42
2.3. Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật tại tỉnh Quảng
Nam ......................................................................................................................... 43
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng quản lý công tác xã hội đối với khuyết tật tại
tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................ 55
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................. 59
3.1. Nhóm giải pháp chung .................................................................................... 59
3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả các hoạt động quản lý CTXH với Người
khuyết tật .................................................................................................................. 62
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 70
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Lao động - TBXH
Lao động - Thương binh và Xã hội
NKT
Người khuyết tật
CTXH
Công tác xã hội
Nxb
Nhà xuất bản
UBND
Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt do hậu quả chiến tranh, thảm hoạ
thiên tai nên số người bị khuyết tật chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số, mặc dù cho
đến nay chưa có cuộc điều tra trên phạm vi cả nước về người khuyết tật nhưng căn
cứ vào báo cáo của các tỉnh, thành phố, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đưa
ra con số ước tính có khoảng 6,7 triệu người khuyết tật. Đây là bộ phận dân cư chịu
thiệt thòi, ít có điều kiện tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, do vậy đời sống vật chất
tình thần luôn gặp khó khăn. Để bảo đảm quyền của người khuyết tật, Quốc hội đã
ban hành Luật người khuyết tật và hệ thống luật pháp chính sách quy định về quyền
của người khuyết tật và trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan tổ chức và gia đình
trong việc bảm đảm quyền của người khuyết tật. Cụ thể hóa luật pháp, Chính phủ đã
ban hành và thực hiện hệ thống chính sách chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật trên
các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, việc làm, văn hóa
thể thao, đời sống và hỗ trợ hòa nhập. Đồng thời đã huy động được nguồn lực để
triển khai thực hiện các chế độ chính sách và các giải pháp trợ giúp người khuyết
tật. Cho đến nay, có trên 1 triệu người khuyết tật nặng , đặc biệt nặng được hưởng
trợ cấp thường xuyên tại cộng đồng; hơn 60 ngàn người khuyết tật đang được chăm
sóc và phục hồi chức năng tại 250 cơ sở bảo trợ xã hội chuyên biệt và các cơ sở bảo
trợ xã hội tổng hợp. Như vậy có thể thấy Đảng và chính phủ đang rất quan tâm đến
việc giải quyết, can thiệp và hỗ trợ cho người khuyết tật.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách, bên cạnh những mặt tích cực
đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn: nhiều cơ quan ban ngành, điạ
phương chưa quan tâm đúng mức đến người khuyết tật, công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức và chăm lo đời sống người khuyết tật chưa đi vào chiều sâu; một số
chính sách, quy định được hướng dẫn thi hành chậm nên việc thực hiện trợ giúp
không đồng bộ, có những qui định vẫn chưa được thi hành, tổ chức thực hiện. Bên
cạnh đó là những khó khăn về nguồn lực hỗ trợ, mặc dù ngân sách nhà nước đầu tư
ngày càng cao nhưng vẫn thiếu nguồn kinh phí thực hiện, đội ngũ cán bộ là làm
công tác trợ giúp người khuyết tật còn thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn
nghiệp vụ, cơ sở vật chất của các Hội, hiệp hội, tổ chưc tự lực, cơ sở sản xuất kinh
doanh của người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn chưa được trợ giúp.
1
Quảng Nam có hơn 60 ngàn người khuyết tật, trong đó, người khuyết tật
đang hưởng trợ cấp hàng tháng tại cộng đồng là hơn 37.000 người và đối tượng
được hỗ trợ kinh phí chăm sóc nuôi dưỡng 10.000 người; có 8 cơ sở bảo trợ xã hội
đang chăm sóc nuôi dưỡng trên 500 người. Công tác xã hội (CTXH) với người
khuyết tật đang phát huy rất hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ can thiệp và
hỗ trợ vì các hoạt động CTXH hướng tới không chỉ kết nối họ tới các dịch vụ về y
học, thể chất mà còn can thiệp và chăm sóc các yếu tố tinh thần, xã hội để họ có thể
phục hồi chức năng và hòa nhập vào cộng đồng. CTXH với người khuyết tật nói
riêng đã có những hiệu quả nhất định. Trung tâm Công tác xã hội của tỉnh, đội ngũ
cán bộ làm công tác xã hội ở cơ sở đã kết nối người khuyết tật tới các dịch vụ về y
học, thể chất, can thiệp và chăm sóc các yếu tố tinh thần, xã hội để họ có thể phục
hồi chức năng và hòa nhập vào cộng đồng, nhưng CTXH với người khuyết tật trên
địa bàn tỉnh chỉ mới được triển khai, bước đầu đã bộc lộ những hạn chế tồn tại,
trong đó quản lý CTXH đối với người khuyết tật đang là một khâu rất quan trọng
cần có những giải pháp cụ thể để dần từng bước đưa CTXH đối với người khuyết
tật trên địa bàn tỉnh mang tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên để các mô hình, hoạt động
CTXH đạt hiệu quả cao nhất thì yếu tố quản lý rất quan trọng. Đầu tàu tốt, chạy
đúng hướng thì các toa tàu sau sẽ vận hành theo sau được ổn định và ngược lại. Như
vậy muốn “con tàu” CTXH được vận hành tốt và có hiệu quả thì yếu tố quản lý
trong công tác xã hội đóng vai trò then chốt, đặc biệt trong bối cảnh ở Việt Nam
hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn trên, đề tài nghiên cứu “Quản lý công tác xã hội đối
với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao đóng góp vào sự phát
triển chung, nâng cao hiệu quả về CTXH đối với người khuyết tật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những năm gần đây, người khuyết tật và các vấn đề của họ nhận được sự
quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả
2
trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa chọn và
phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu.
Thứ nhất, Các nghiên cứu về pháp luật, chính sách xã hội đối với người
khuyết tật
Việc đảm bảo quyền của người khuyết tật đã trở thành một trong những yêu
cầu quan trọng để đảm bảo công bằng, vì con người và phát triển bền vững của
quốc gia. Chính vì thế, có nhiều công trình nghiên cứu về khung pháp lý nhằm đảm
bảo quyền của người khuyết tật, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
TS. Trần Thị Thúy Lâm đã có bài viết phân tích và đánh giá thực trạng pháp
luật Việt Nam hiện hành về dạy nghề cho người khuyết tật trên các phương diện:
Chính sách đối với cơ sở dạy nghề, người khuyết tật học nghề và giáo viên dạy
nghề cho người khuyết tật; đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả việc học nghề đối với người khuyết tật cả ở phương diện hoàn thiện pháp
luật và biện pháp tổ chức thực hiện.
TS. Trần Thái Dương (Trường Đại học Luật Hà Nội) đã nghiên cứu về
những điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, đặc biệt là
những quy định của Công ước về quyền của người khuyết tật trong việc bảo đảm
quyền tiếp cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật, từ đó đề
xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật, thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ quốc gia
khi Việt Nam phê chuẩn và trở thành thành viên chính thức của Công ước.
Ngoài ra, còn có các đề tài luận văn, luận án ngành luật học nghiên cứu về vấn
đề lý luận và thực tiễn để đảm bảo cho quyền của người khuyết tật được thực hiện
như “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008 [5]; “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động
dưới góc độ pháp luật lao động” của Đỗ Minh Nghĩa năm 2012 [14]; …
Thứ hai, các nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo công tác xã hội đối với
người khuyết tật
Về vấn đề nghiên cứu lý luận phục vụ đào tạo công tác xã hội đối với người
khuyết tật, chúng ta có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
3
Công trình nghiên cứu của TS. Hà Thị Thư đã trình bày một cách tổng quát
nhất về công tác xã hội với người khuyết tật, các mô hình hỗ trợ, các phương pháp
tiếp cận, các chương trình chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật, vai trò
của nhân viên công tác xã hội đối với người khuyết tật, các kỹ năng làm việc với
người khuyết tật. Đây là giáo trình đào tạo Công tác xã hội ở hệ trung cấp nghề. [23]
Hay, PGS. TS Nguyễn Thị Kim Hoa (chủ biên) cũng đã nghiên cứu và xây
dựng giáo trình đào tạo Công tác xã hội với người khuyết tật ở bậc Đại học và Sau
đại học với ba nội dung chính. Đó là tổng quan về về người khuyết tật; Trải nghiệm
khuyết tật; và Các kỹ năng thực hành công tác xã hội. [9]
Để hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ làm việc với người khuyết tật một cách chuyên
nghiệp, Cục Bảo trợ xã hội phối hợp cùng Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ
(USAID) và Tổ chức hỗ trợ người khuyết tật xây dựng tài liệu về quản lý trường
hợp với người khuyết tật đề cập tới những quan điểm về cung cấp dịch vụ cho
người khuyết tật và các giai đoạn của quản lý trường hợp với người khuyết tật. [3]
Ngoài ra, Cục Bảo trợ xã hội còn xây dựng tài liệu hướng đến cung cấp cho
cán bộ xã hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong công tác trợ giúp cho
người khuyết tật, tăng cường các chức năng xã hội của người khuyết tật để họ có thể
hòa nhập cộng đồng một cách bền vững. [4]
Thứ ba, các nghiên cứu về các hoạt động thực hành công tác xã hội đối
với người khuyết tật
Các đề tài luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội trong những năm gần đây
có xu hướng chuyên sâu nghiên cứu về thực trạng của công tác xã hội đối với người
khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ, tại cộng đồng. Từ đó, vận dụng các phương
pháp công tác xã hội với cá nhân, phương pháp công tác xã hội với nhóm để thúc
đẩy hoạt động trợ giúp cho người khuyết tật mang tính chuyên nghiệp hơn như đề
tài “Công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người khuyết tật từ thực tiễn Trung
tâm dạy nghề từ thiện Quỳnh Hoa, huyện Thanh Trì, Hà Nội” của Nguyễn Ngọc
Tùng [21]; Lê Thanh Thủy với đề tài “Công tác xã hội đối với người khiếm thị từ
thực tiễn huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” [22]; …
4
Th.S Nguyễn Thụy Diễm Hương và Th.S Tạ Thị Thanh Thủy (trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh) cũng có bài viết nhấn mạnh đến
việc thực hành công tác xã hội đối với người khuyết tật có thể sử dụng các phương
pháp “Tăng quyền lực”, “Dựa trên quyền” và “Điểm mạnh” để có thể làm tăng năng
lực cho người khuyết tật, giúp cho họ tham gia vào xã hội, đồng thời chống lại những
rào cản do phân biệt đối xử và thành kiến gây nên [8].
Các nghiên cứu đã dần mở ra nhiều hướng tiếp cận mới trong vấn đề thực
hành công tác xã hội đối với người khuyết tật, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận
về công tác xã hội đối với người khuyết tật.
Thứ tư, các báo cáo khoa học về người khuyết tật và các hoạt động trợ
giúp đối với người khuyết tật
Nghiên cứu về người khuyết tật luôn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế
nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì thế, trong những năm qua, có nhiều báo cáo
khoa học nghiên cứu về người khuyết tật và các hoạt động trợ giúp họ trong đời
sống xã hội, tiêu biểu như:
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện một cuộc nghiên cứu vấn đề việc
làm của người khuyết tật dựa trên cơ sở giới vào năm 2010 và đã đưa ra “Báo cáo
khảo sát về Đào tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam”. Báo
cáo này cung cấp một cách nhìn tổng thể về các tổ chức của người khuyết tật, các tổ
chức đại diện cho người khuyết tật và các dịch vụ đào tạo nghề, việc làm và phát
triển doanh nghiệp cho người khuyết tật, đặc biệt tập trung vào các tổ chức của phụ
nữ khuyết tật và các dịch vụ dành riêng cho phụ nữ khuyết tật. [11]
“Báo cáo thường niên năm 2013 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt
Nam” của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (NCCD).
Báo cáo đã tổng kết những hoạt động và kết quả chủ yếu về hỗ trợ người khuyết tật
đã triển khai trong năm của các Bộ, ngành, cơ quan chức năng, tổ chức xã hội với
sự điều phối của NCCD, đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, nguyên
nhân, bài học kinh nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật
trong năm 2014 của các cơ quan, tổ chức thành viên NCCD. [2]
5
Thứ năm, các hội thảo, dự án liên quan đến việc hỗ trợ cho người khuyết tật
Trong những năm qua có nhiều hội thảo, dự án nghiên cứu các hoạt động hỗ
trợ cho người khuyết tật được tổ chức. Tiêu biểu một số hội thảo, dự án như sau:
“Hội thảo Quốc tế về Công ước quyền người khuyết tật và vai trò của các
Hội Người khuyết tật” do Bộ Ngoại giao chủ trì vào ngày 10/12/2013. Đây là hoạt
động trong khuôn khổ Dự án về “Tăng cường năng lực đảm bảo các quyền con
người của Việt Nam” do Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ.
Qua quá trình trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm từ thực tiễn của các Hiệp hội người
khuyết tật trong toàn quốc đã cho thấy Công ước về quyền người khuyết tật đã mở
ra một cách nhìn nhận, tiếp cận mới của thế giới nói chung và của Việt Nam nói
riêng đối với người khuyết tật. Công ước thúc đẩy việc bảo đảm người khuyết tật
được thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản như tất cả mọi người.
Hội thảo “Thúc đẩy cộng đồng: Tăng quyền cho người khuyết tật” được diễn
ra vào ngày 26/3/2015 tại Hà Nội. Hội thảo nhằm giới thiệu dự án Rights Now!,
đánh giá thực trạng thực thi quyền của người khuyết tật sau khi Công ước quốc tế
về quyền của người khuyết tật được phê chuẩn tại Việt Nam, đồng thời cũng là cơ
hội để chia sẻ kỹ năng, công cụ, kinh nghiệm và tài liệu hỗ trợ nâng cao năng lực
cho Hội/nhóm/tổ chức của hoặc vì người khuyết tật Việt Nam trong tương lai.
Chương trình do MIUSA (tổ chức vận động quốc tế Hoa Kỳ), DREDF (Quỹ Bảo vệ
và Giáo dục Quyền của người khuyết tật), IFES (Quỹ quốc tế về hệ thống bầu cử
Hoa Kỳ), USICD (Hội đồng Quốc tế về người khuyết tật) và Trung tâm ACDC
đồng tổ chức.
Hội thảo khoa học với chủ đề: “Quản lý trường hợp với người khuyết tật tại
Việt Nam” do Khoa Công tác xã hội của Học viện khoa học xã hội Việt Nam tổ
chức vào ngày 22/10/2015. Đây là hội thảo khoa học mang nhiều ý nghĩa khi nội
dung nghiên cứu, thảo luận hướng đến vấn đề “Quản lý trường hợp với người
khuyết tật” – đây là hướng đi mới hỗ trợ người khuyết tật đang được triển khai ở
nhiều địa phương theo Thông tư 01/TT-Bộ LĐTB &XH về công tác Quản lý trường
hợp với người khuyết tật nhưng còn nhiều khó khăn như khó khăn về kinh phí,
6
nguồn nhân lực, nhận thức của chính quyền địa phương các cấp về công tác này.
Đồng thời, thông qua các bài báo cáo của các chuyên gia và phần hỏi - đáp, thảo
luận đã gợi mở những định hướng nghiên cứu cho học viên cao học, nghiên cứu
sinh lựa chọn để làm chủ đề, phát triển nghiên cứu của đề tài luận văn cao học.
Dự án “Chương trình trợ giúp người khuyết tật” do tổ chức DAI và Hội trợ
giúp người khuyết tật Việt Nam (VNAH) thực hiện với tài trợ của USAID. Dự án
được thực hiện trong ba năm nhằm hướng đến việc xây dựng hệ thống quản lý trường
hợp, tăng cường các dịch vụ y tế, giáo dục và việc làm cho người khuyết tật, đồng
thời nâng cao các chương trình y tế công cộng nhằm ngăn ngừa khuyết tật.
Qua quá trình tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài, có thể thấy rằng người khuyết tật luôn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế
và của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy vậy, tiếp cận từ góc nhìn công tác xã hội đối
với người khuyết tật còn hạn chế về số lượng và chất lượng, đặc biệt tại tỉnh Quảng
Nam – một địa phương có tỷ lệ khuyết tật tương đối cao thì cũng chưa có công trình
nghiên cứu chính thức về công tác xã hội đối với người khuyết tật được đề cập đến.
Đó cũng là một trong những lý do chính để tôi thực hiện nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý công tác xã hội đối với người khuyết
tật tại tỉnh Quảng Nam.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý CTXH với NKT.
- Đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
công tác xã hội với người khuyết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào các nội dung trong lĩnh vực Quản lý
công tác xã hội đối với người khuyết tật
4.2. Phạm vi nghiên cứu
7
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu tập trung vào nội dung thực trạng Quản
lý công tác xã hội với nhóm đối tượng người khuyết tật trên địa bàn thỉnh Quảng
Nam.
- Phạm vi khách thể: Đề tài nghiên cứu trên 2 nhóm khách thể chính đó là:
Cán bộ lãnh đạo Sở, cán bộ quản lý, lãnh đạo trực tiếp trong các cơ sở chăm sóc
người khuyết tật và Trung tâm Công tác xã hội tỉnh (một đơn vị 01 người); (2) nhân
viên trong các trung tâm chăm sóc khuyết tật.
- Phạm vi về không gian, thời gian: Từ tháng 1/1/2012 đến hết tháng 6/2016
tại Tỉnh Quảng Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích, đánh giá
các hoạt động quản lý công tác xã hội nói chung và trong lĩnh vực chăm sóc người
khuyết tật nói riêng.
Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận, khoa học
cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên cứu về các vấn
đề liên quan như CTXH, quản lý công tác xã hội và một số vấn đề lý luận về người
khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu: Là phương pháp thu thập thông
tin từ các công trình nghiên cứu và các tài liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài
nước. Phương pháp này được áp dụng phân tích các tài liệu như: Các văn bản pháp
luật liên quan đến công tác xã hội và người khuyết tật của cả nước và của tỉnh
Quảng Nam; Các quy định, chính sách của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý
công tác xã hội…
Ngoài ra luận văn còn phân tích một số báo cáo khoa học, khoá luận tốt
nghiệp có liên quan;
8
Đọc và Phân tích số liệu báo cáo từ các đơn vị như báo cáo tổng kết của Sở
Lao động - TBXH, báo cáo các cơ sở bảo trợ xã hội, báo cáo tổng kết của phòng
Lao động - TBXH một số huyện, thành phố cung cấp.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được
lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu thực
trạng, những mong muốn nguyện vọng, kinh nghiệm và nhận thức của người cung
cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ, thái độ của người ấy. Trong luận văn này,
phương pháp phỏng vấn sâu là phương pháp chính nhằm thu thập những thông tin
cần thiết để từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp về nội dung quản lý
CTXH với người tâm thần.
+ Nghiên cứu đã tập trung phỏng vấn 24 cán bộ là lãnh đạo, quản lý với
NKT để đánh giá về:
- Các hoạt động quản lý công tác xã hội với người khuyết tật đang được triển
khai như thế nào?
- Những khó khăn nào mà cán bộ quản lý đang phải đối mặt trong việc thực
hiện công tác quản lý CTXH với người khuyết tật?
- Những yếu tố nào tác động, ảnh hưởng tới hoạt động này và hiệu quả của
những hoạt động này?
- Những đề xuất và giải pháp nào để nâng cao hiệu quả trong công tác quản
lý CTXH với người khuyết tật?
+ Nghiên cứu cũng đã điều tra với 12 cán bộ, nhân viên/6 đơn vị chăm sóc,
can thiệp với NKT để tìm hiểu về:
- Tác động, hiệu quả của hoạt động quản lý tới công việc của họ
- Những bất cập, thuận lợi ở khía cạnh quản lý ảnh hưởng tới công việc của
họ
- Những đề xuất khuyến nghị của họ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý từ đó
giúp cho công việc của họ được thực hiện tốt hơn
Phương pháp thảo luận nhóm:
9
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp huy động một số người có kiến
thức và sự hiểu biết về một lĩnh vực nhất định. Mục đích của phương pháp này là để
thu thập thông tin từ đa dạng từ nhiều chiều khác nhau. Hơn nữa trong quá trình
thảo luận nhóm, các quan điểm trái chiều sẽ được đưa ra trao đổi để đi đến thống
nhất. Như vậy nghiên cứu viên sẽ có được những ý kiến sâu sắc và thống nhất về
các vấn đề cần quan tâm
Trong đề tài này đã thực hiện 2 cuộc thảo luận nhóm
- Thảo luận nhóm 1: Có 11 cán bộ làm việc trực tiếp với NKT; qua buổi thảo
luận các thành viên đã đã đánh giá về hiệu quả về công tác xã hội đối với NKT, của
hoạt động quản lý CTXH đối với NKT và những mong đợi của họ trong các hoạt
động quản lý này.
- Thảo luận nhóm 2: Có 08 cán bộ quản lý, gồm: 01 Lãnh đạo Sở, 02 Lãnh
đạo phòng Bảo trợ xã hội, 04 Lãnh đạo cơ sở bảo trợ xã hội và 01 Lãnh đạo phòng
Lao động - TBXH cấp huyện. Tại Hội thảo các thành viên đã đánh giá sâu về thực
trạng quản lý, những khó khăn họ đang gặp phải và những đề xuất nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý CTXH đối với NKT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của đề tài sẽ đóng góp một phần vào hệ thống kiến thức hiện đại về
một số lý luận về quản lý nói chung và quản lý CTXH nói riêng. Hơn nữa các kết
quả cũng góp phần bổ sung thêm vào hệ thống những giải pháp trong việc nâng cao
hiệu quả quản lý CTXH với NKT, một khía cạnh còn được ít nhà nghiên cứu,
chuyên gia trong nước quan tâm.
Đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đóng góp cho những nghiên
cứu, phát triển ý tưởng khoa học cho những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên
gia và các bạn học viên quan tâm đến lĩnh vực CTXH nói chung và quản lý CTXH
với người khuyết tật nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với đội ngũ quản lý
10
Trên thực tế, hoạt động CTXH là một hoạt động còn mới phát triển nên các
công việc trong lĩnh vực này sẽ gặp nhiều khó khăn trong đó bao gồm cả hoạt động
quản lý. Do đó với những phát hiện cũng như đề xuất của nghiên cứu sẽ tạo ra
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTXH với người khuyết
tật.
- Đối với nhân viên
Là những người làm việc trong lĩnh vực này nên hiệu quả của hoạt động quản
lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả công việc của họ. Do đó với những đề xuất
nâng cao hiệu quả công tác quản lý thì sẽ mang lại những lợi ích tích cực cho đội
ngũ nhân viên.
- Đối với người khuyết tật
Mặc dù trong nghiên cứu này không nghiên cứu trực tiếp về người khuyết tật,
tuy nhiên về bản chất, các hoạt động quản lý CTXH sẽ có tác động gián tiếp tới
người khuyết tật. Cụ thể là các hoạt động quản lý sẽ nâng cao hiệu quả trong các
hoạt động trợ giúp người khuyết tật. Nếu quản lý tốt Nhân viên làm việc tốt
Hiệu quả công việc tốt Người khuyết tật được nhận nhiều dịch vụ hiệu quả với
chất lượng cao.
7. Cơ cấu của luận văn
Lời nói đầu.
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật.
- Chương 2: Thực trạng về người khuyết tật và quản lý công tác xã hội đối
với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã hội đối với
người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
Kết luận và Khuyến nghị
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Lý luận về khuyết tật và người khuyết tật
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm khuyết tật
Có nhiều cách hiểu cũng như nhiều định nghĩa khác nhau về khuyết tật, tuy
nhiên mỗi cách hiểu đều xét trên những mục đích và quan điểm khác nhau.
Từ “khuyết tật” có nguồn gốc từ “disability” trong tiếng Anh. Theo nguyên
ngữ từ này có nghĩa là sự hàm ý hạn chế hoặc thiếu khả năng thực hiện một hoạt
động gì đó do có khiếm khuyết [9, tr.23]
Từ “khuyết” có nghĩa là không đầy đủ, thiếu mất một bộ phận, một phần; từ
“tật” có nghĩa là “điều gì đó không được bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu,
dụng cụ, máy móc. Còn ở người là sự bất thường, nói chung không thể chữa được,
của một cơ quan trong cơ thể do bẩm sinh mà có, hoặc do tai nạn hay bệnh gây ra”
trong từ điển Tiếng việt. Như vậy, có thể hiểu khuyết tật là khiếm khuyết thực thể ở
một bộ phận nào đó hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ
chức của cơ thể và khiếm khuyết đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.
[23, tr. 7]
Trong hệ thống “Phân loại Quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe”
(ICF) (năm 2001) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa khuyết tật
như sau: “Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận
động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác giữa cá
nhân một người (về mặt tình trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của người đó
(bao gồm yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)” [9, tr.26]. Như vậy, với
khái niệm này có thể hiểu “khuyết tật” chỉ đơn giản là bị khiếm khuyết mà không
phải xác định nguyên nhân của một dạng khuyết tật.
Như vậy, định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận khái niệm mới có thể hiểu
là: “Tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý
12
bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui chơi
giải trí và sinh hoạt”. [23, tr 8]
* Người khuyết tật
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về người khuyết tật ở các quốc gia khác
như Úc, Anh hay Trung Quốc, song tựu chung lại đều xoay quanh hai vấn đề đó
chính là các khiếm khuyết hay sự suy giảm các chức năng khác nhau và những điều
đó cản trở cá nhân tham gia một cách bình thường vào cuộc sống xã hội. [4, tr. 9]
Trong phạm vi đề tài, tác giả sử dụng định nghĩa về người khuyết tật theo
Luật Người khuyết tật Việt Nam ban hành vào năm 2010. Đây là định nghĩa khá
đầy đủ, tổng hợp được các cách hiểu khác nhau về khuyết tật và phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh Việt Nam, đó là: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một
hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. [4, tr. 10]
1.1.2. Phân loại người khuyết tật
Trên thế giới có rất nhiều cách phân loại về khuyết tật, tuy nhiên việc phân loại
khuyết tật ở Việt Nam đã được cụ thể hóa trong Luật Người khuyết tật năm 2010.
Việc phân loại mức độ khuyết tật thường được dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau: dựa vào các dạng tật và dựa vào các mức độ khuyết tật. [9, tr. 34]
Tiêu chí thứ nhất, Về các dạng khuyết tật
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 2, Chương 1, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày
10/4/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật người khuyết tật, đã quy định 6 dạng khuyết tật cơ bản như sau:
Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ,
chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc
cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp,
trao đổi thông tin bằng lời nói.
Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
13
Khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy
biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng,
giải quyết sự việc.
Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến
cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường
hợp được quy định tại các dạng trên.
Tiêu chí thứ hai, Về các mức độ khuyết tật
Tại Điều 3 của Nghị định số: 28/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật chia thành 3 mức độ khuyết tật như
sau:
Người khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất
hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh
hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
Người khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần
hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số
hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu
sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
Người khuyết tật nhẹ: là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định
tại hai mức độ trên.
1.1.3. Nguyên nhân gây nên khuyết tật
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên khuyết tật như bẩm sinh, di truyền, bệnh
tật, tai nạn hay chiến tranh hoặc ô nhiễm môi trường… dưới đây khái quát các
nguyên nhân gây nên khuyết tật theo thời điểm tác động của các yếu tố gây khuyêt
tật. Đó là thời điểm trước khi sinh, trong khi sinh và sau khi sinh, ngoài ra, còn có
một số khuyết tật không rõ nguyên nhân. [4, tr. 14]
* Trước khi sinh
14
Do di truyền; Phụ nữ sử dụng thuốc kháng sinh trong quá trình mang thai;
Lỗi nhiễm sắc thể: hội chứng Đao; Lỗi gen: Rett, Prader Willy; Rối loạn do nhiều
yếu tố: nứt đốt sống, tràn dịch màng não, tật đầu nhỏ, não úng thủy; Do lây nhiễm: sởi
rubella hay còn gọi là sởi Đức, nhiễm toxoplasma, vi rút cự bào, giang mai, nhiễm
HIV; Do nhiễm độc: một số loại y dược mà bà mẹ dùng chẳng hạn như thuốc chống
động kinh, chất rượu cồn, chụp tia X - quang, chất độc màu da cam (thế hệ thứ hai),
kháng thể RH; Suy dinh dưỡng ở người mẹ hoặc thiếu i ốt trong thức ăn hoặc nước
uống.
* Trong khi sinh
Thiếu ô-xy ở trẻ: Những vấn đề do nhau thai, sinh quá lâu, trẻ không thở
hoặc không khóc ngay sau khi sinh; Tổn thương trong lúc sinh: Tổn thương não do
mẹ đẻ khó hoặc do dùng phóc-sép (một dụng cụ y tế dùng để kéo đầu trẻ); Viêm
nhiễm: Vi rút Herpes, giang mai; Đẻ non hoặc thiếu trọng lượng: Đẻ non hoặc thiếu
trọng lượng
* Sau khi sinh
Viêm nhiễm: Viêm màng não gây ra do bệnh sởi, ho gà, quai bị, thuỷ đậu, và
viêm phổi (có thể gây ra bệnh tràn dịch màng não sau này). Trong số những loại
bệnh này, có thể ngăn chặn bằng vắc xin. Đôi khi, việc dùng vắc xin có thể gây
viêm màng não.
Tổn thương: Tổn thương não do chấn thương đầu nặng, hoặc do ngạt; U não:
Tổn thương do khối u; hoặc do các hoạt động chỉnh trị như: phẫu thuật, chỉnh trị
bằng tia phóng xạ…; Suy dinh dưỡng, bị lạm dụng, kích thích dưới ngưỡng hoặc bị
bỏ rơi.
* Các nguyên nhân khác
Không được chăm sóc đầy đủ về y tế và thể chất; thiếu thốn về tâm lý xã hội;
Sử dụng ngôn ngữ một cách rất hạn chế trong gia đình; Ít có cơ hội đến trường.
Hiện nay, các nguyên nhân gây nên khuyết tật có sự biến động và khác hơn
so với giai đoạn trước đây; các nguyên nhân do bệnh tật, bẩm sinh và chiến tranh sẽ
giảm, đặc biệt là các tác động dẫn đến khuyết tật trong giai đoạn trước sinh và trong
15
khi sinh được hạn chế rất nhiều do sự phát triển của y học, nhất là vấn đề sàng lọc
trước sinh và sự tuyên truyền tốt về việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em cũng như
vấn đề sinh đẻ. Tuy nhiên, các nguyên nhân như do tai nạn lao động, giao thông, ô
nhiễm môi trường, môi trường xã hội không phù hợp như thiếu thốn về tâm lý xã
hội và không rõ nguyên nhân có chiều hướng gia tăng do sự phát triển mạnh mẽ của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Chính vì vậy, sự tham gia của công tác xã hội đối với vấn đề khuyết tật, nhất
là đẩy mạnh vai trò tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân trong việc hạn
chế các yếu tố gây nên khuyết tật của người nhân viên công tác xã hội là vô cùng
quan trọng và cần thiết.
1.1.4. Đặc điểm/đặc trưng cơ bản của người khuyết tật
Người khuyết tật đương nhiên là đối tượng thuộc nhóm yếu thế cần sự giúp đỡ
của toàn xã hội, đây cũng là nhóm đối tượng đặc thù trong hoạt động Công tác xã
hội. Họ gặp khó khăn về nhiều mặt trong cuộc sống, trong đó có khó khăn về học
tập, việc làm, hôn nhân, bị kỳ thị... Những đặc điểm tâm lý cũng như thể chất của
người khuyết tật luôn ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp họ. Sự khiếm khuyết về thể
chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của người khuyết tật có thể bị giảm sút,
vì vậy họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học tập… Chẳng
hạn, do bị bệnh tật, khó khăn đi lại hoặc giao tiếp nên hoạt động học tập, lao động,
giao lưu của người khuyết tật hạn chế hơn nhiều so với người không khuyết tật. Bên
cạnh đó, sự thiếu hụt về thể chất dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động
nên người khuyết tật thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt,
nóng nảy…Vì thế, người khuyết tật có đời sống nội tâm rất nhạy cảm và tế nhị.
Trong quá trình tương tác xã hội, khi người khuyết tật tiếp xúc và nhận biết được
thái độ kỳ thị hay những hành vi phân biệt đối xử của những người xung quanh xuất
phát từ sự khác biệt bên ngoài của họ, người khuyết tật có thể đánh mất ý thức về con
người thực sự của mình, khiến cho họ hoài nghi về giá trị bản thân, tự nhìn nhận bản
thân thông qua hình thể bên ngoài thay vì nhân cách bên trong, điều đó có thể dẫn tới
sự xói mòn lòng tự trọng bản thân và có thái độ tiêu cực trong gặp gỡ, giao tiếp với mọi
16
người, chính điều này còn khiến cho việc chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật bị
hạn chế, ảnh hưởng tới sức khỏe của họ.
Đồng thời, người khuyết tật với những suy nghĩ cho rằng bản thân là người
khuyết tật, là đối tượng được bảo trợ, thậm chí họ đổ lỗi những khiếm khuyết của
bản thân là do xã hội không quan tâm. Vì vậy, một số người khuyết tật có thái độ ỷ
lại, trông chờ vào người khác hỗ trợ, điều này làm cho việc hỗ trợ người khuyết tật
khắc phục khó khăn, vượn lên hòa nhập xã hội hết sức khó khăn. Trong xã hội hiện
nay, có nhiều người khuyết tật có ý chí vươn lên khỏi hoàn cảnh, số phận của mình,
họ có thể tự chủ được trong công việc và cuộc sống. Bên cạnh những khó khăn người
khuyết tật phải trải qua, họ là người rất giàu về nghị lực để vượt qua khó khăn của tật
nguyền. Với sự hỗ trợ thích hợp của gia đình và xã hội, một số người khuyết tật đã
đạt được nhiều thành tích cao trong lao động và học tập, nhiều người khuyết tật trở
thành tấm gương sáng, thành nguồn động lực cho nhiều người noi theo.
1.2. Lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật
1.2.1. Khái niệm về quản lý công tác xã hội và các khái niệm liên quan
- Công tác xã hội
Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011) thống
nhất một định nghĩa về CTXH như sau: Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia
vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay
đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất
lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và
lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với với môi
trường sống.
Công tác xã hội ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh
khác nhau điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: Công tác xã hội là hoạt
động thực tiễn, mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc,
phương pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. Công tác xã hội
theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội’’. [12, tr. 11]
17
Công tác xã hội tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý
thuyết khoa học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các
chức năng xã hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng
người yếu thế hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các
dịch vụ chuyên môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con
người để thỏa mãn những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận
thức về vị trí, vai trò xã hội của mình.
Như vậy có thể hiểu Công tác xã hội có thể hiểu là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực
đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã
hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng
giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội..
- Công tác xã hội đối với người khuyết tật
Từ định nghĩa về công tác xã hội như trên thì có thể hiểu: Công tác xã hội
đối với người khuyết tật là hoạt động chuyên nghiệp của nhân viên công tác xã hội
giúp đỡ những người khuyết tật tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức
năng xã hội của họ, huy động nguồn lực, xác định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợ
người khuyết tật, gia đình và cộng đồng triển khai hoạt động chăm sóc trợ giúp họ
một cách hiệu quả, vượt qua những rào cản, đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các
hoạt động xã hội trên nền tảng sự công bằng như những người khác trong xã hội.
* Mục đích và vai trò của công tác xã hội đối với người khuyết tật
Từ cách hiểu về công tác xã hội với người khuyết tật cũng như xem xét mục
đích của công tác xã hội nhận thấy mục đích và vai trò của công tác xã hội với
người khuyết tật là nhằm: Hỗ trợ cá nhân và gia đình người khuyết tật; Quản lý ca
với người khuyết tật; Hỗ trợ xây dựng tổ chức của người khuyết tật; Tham gia vào
việc xây dựng, phản biện chính sách, luật pháp đối với người khuyết tật; Biện hộ
cho quyền và lợi ích của người khuyết tật. Như vậy, có thể nhìn nhận mục đích của
công tác xã hội đối với người khuyết tật bao gồm những hoạt động cụ thể như sau:
18
- Trợ giúp, khuyến khích, thúc đẩy và tăng cường việc thực hiện chức năng
xã hội của cá nhân, nhóm, các tổ chức và các cộng đồng người khuyết tật bằng cách
giúp họ, phòng ngừa, chữa trị và giảm nhẹ những đau buồn thống khổ do khuyết tật
mang lại và biết cách sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả.
- Tham gia vào việc hoạch định, xây dựng và thực thi các chính sách xã hội,
các dịch vụ xã hội, các nguồn tài nguyên và các chương trình để đáp ứng những nhu
cầu của người khuyết tật và hỗ trợ cho sự phát triển của họ.
- Theo đuổi những chính sách, dịch vụ, tài nguyên và chương trình thông qua
công tác biện hộ trong phạm vi cơ sở hay trong phạm vi quản trị cơ sở hoặc hành
động chính trị để tăng quyền lực cho người khuyết tật nhằm đảm bảo sự công bằng
và sự tham gia đầy đủ của họ vào các hoạt động xã hội.
- Nhân viên xã hội
Nhân viên xã hội là những người được đào tạo các kiến thức, kỹ năng
chuyên môn về Công tác xã hội để giúp đối tượng tăng năng lực trong việc giải
quyết vấn đề của họ. Đây có thể coi là quá trình nhân viên xã hội giúp đối tượng
phát hiện được những khả năng tiềm tàng, những điểm mạnh và những nguồn lực
sẵn có của bản thân (cá nhân, gia đình, cộng đồng) và nối kết với các nguồn lực xã
hội trong việc tự lực giải quyết vấn đề của chính mình.
- Quản lý
Theo Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì
và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .
Theo Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều
chỉnh và kiểm soát ấy”.
Theo Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự logic
mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
19
Theo Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi môi
trường bên ngoài nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý
doanh nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
Trên thực tế tồn tại nhiều cách tiếp cận khái niệm “quản lý”. Thông thường,
quản lý đồng nhất với các hoạt động tổ chức chỉ huy, điều khiển, động viên, kiểm
tra, điều chỉnh… theo lý thuyết hệ thống: “Quản lý là sự tác động có hướng đích
của chủ thể quản lý đến một hệ thống nào đó nhằm biến đổi nó từ trạng thái này
sang trạng thái khác theo nguyên lý phá vỡ hệ thống cũ để tạo lập hệ thống mới và
điều khiển hệ thống” (Giáo trình Khoa học quản lý- Tập 2- NXB KHKT, 2001)
Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm Quản lý và Quản
lý. Có quan điểm cho rằng quản lý rộng hơn và bao trùm quản lý. Tuy nhiên cũng
có quan điểm cho rằng quản lý là công việc ai cũng phải làm mà quản lý thì chỉ tập
trung vào các nhà lãnh đạo. Do đó quản lý mang tính phổ quát hơn. Một quan điểm
trung lập khác cho rằng về bản chất Quản lý và Quản lý là như nhau (QTCTXH,
giáo trình trường LĐXH). Tiếp cận theo hướng này, quản lý và quản lý được hiểu
trong luận văn này là có ý nghĩa tương đương
- Quản lý công tác xã hội
Theo Kidneigh: "Quản lý công tác xã hội là một tiến trình chuyển đổi chính
sách xã hội thành các dịch vụ xã hội... trong một tiến trình hai chiều: (1) chuyển đổi
chính sách thành các dịch vụ xã hội cụ thể và (2) dùng kinh nghiệm để khuyến nghị
sửa đổi điểu chỉnh chính sách". (Skidmore, 1990).
Vậy quản lý CTXH có thể hiểu là một tiến trình hành động liên tục của nhân
viên xã hội trong việc sử dụng các kiến thức, kỹ năng quản lý để chuyển đổi các
chính sách xã hội thành các dịch vụ xã hội. Nó bao gồm hoạt động của những người
lãnh đạo tổ chức và tất cả những nhân viên trong tổ chức để hoàn thành mục đích
chung của tổ chức. Tiến trình căn bản bao gồm các yếu tố: quản lý, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra.
20
1.2.2. Mục đích quản lý công tác xã hội
- Quản lý công tác xã hội nhằm nâng cao trách nhiệm của người nhân viên
trong một tổ chức
Mục đích của quản lý CTXH là khai thác và phát huy cao tinh thần, thái độ
làm việc tự giác, nỗ lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên để mang lại ích và chất lượng
phục vụ tốt nhất. đồng thời, nâng cao uy tín, đạo đức nghề nghiệp của nhà quản lý
công tác xã hội
- Quản lý công tác xã hội nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tổ chức
các hoạt động xã hội.
Mỗi cá nhân cần làm việc trong một nhóm, một tổ chức nhất định. Họ cần
được hướng dẫn, tạo điều kiện, nhận được sự giúp đỡ của người lãnh đạo và tổ chức
của họ…
Tóm lại mục đích của quản lý công tác xã hội nhằm:
Gắn trách nhiệm của cá nhân với tổ chức và ngược lại.
Làm cho các bên tham gia vào các hoạt động dịch vụ xã hội thực hiện đúng
cam kết của mình trong việc sử dụng đúng các nguồn lực của cơ quan, tổ chức hạy
của các nhà từ thiện một cách hiệu quả
Đảm bảo khả năng giải trình ở cả cấp độ tổ chức và cá nhân các thành viên
trong tổ chức của họ.
1.2.3. Tầm quan trọng của quản lý công tác xã hội
Quản lý công tác xã hội là một tiến trình làm việc với con người bằng cách
phát huy và liên kết năng lực của họ để họ sử dụng tài nguyên sẵn có thực hiện mục
đích cung cấp cho cộng đồng những chương trình và dịch vụ cần thiết.
- Tầm quan trọng thứ nhất: Quản lý CTXH là công cụ giúp cho nhân viên xã
hội thực hành chức năng quản lý tại cơ sở dịch vụ hỗ trợ con người một cách hiệu
quả hơn. Rất nhiều các nhân viên xã hội muốn lựa chọn công việc của nhà quản lý
vì có thể giúp được nhiều người gặp rủi ro hơn và có cơ hội thăng tiến cao hơn. Các
tổ chức công tác xã hội vẫn còn hoạt động mang nặng tính kinh nghiệm, không có
sự đồng bộ, thống nhất về các lí thuyết tiếp cận, kiến thức, kĩ năng cũng như tiêu
21