VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN DŨNG
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI CHÁNH
PHÚ HÒA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN THỊ VÂN HẠNH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành đến: Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Học viện Khoa học Xã hội, Tổ chức
UNICEF, Học viện Xã hội Châu Á, cơ sở học viện tại thành phố Hồ Chí Minh,
trường Đại học Lao động Xã hội cơ sở 2 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các thầy, cô
giáo: PGS.TS. Bùi Thị Xuân Mai, TS. Hà Thị Thư… các thầy, cô giáo của trường
Đại học Asi( Philippin ). Đặc biệt là Cô giáo: PGS. TS. Nguyễn Thị Vân Hạnh đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn trong thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở Lao động Thương binh Xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh, Ban lãnh đạo Trung tâm Bảo trợ xã hội Chánh Phú hòa,
các đồng nghiệp trong đơn vị đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được
tham gia lớp học thạc sĩ ngành Công tác xã hội và giúp đỡ tôi trong quá trình thu
thập thông tin, số liệu liên quan và các hình ảnh cần thiết về thân chủ.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các bác, các bà, các cô, các chú tại Trung tâm bảo
trợ xã hội Chánh Phú Hòa đã hợp tác, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh/chị là cán bộ Phòng Lao động-Thương
binh và Xã hội, Cán bộ nhân viên Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa đã tạo
điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên, nhiệt
tình hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót.Tôi
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa
học để luận văn của tôi được hoàn chỉnh.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội về “Dịch vụ Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn
Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hoà Thành phố Hồ Chí Minh” là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI CAO TUỔI ............................................................................................ 133
1.1. Các khái niệm ....................................................................................................... 133
1.2. Cơ sở lý luận dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại Trung tâm
Bảo Trợ Xã Hội Chánh phú Hòa ................................................................................... 222
1.3. Cở sở pháp lý về Công tác xã hội trong dịch vụ đối với người cao tuổi………….
329
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ Công tác xã hội đối với người cao tuổi 292
Chương 2:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG VIỆC CUNG CẤP
CÁC DỊCH VỤ CHO NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ
HỘI CHÁNH PHÚ HÒA ............................................................................................. 377
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế, xã hội thành phố Hồ Chí Minh và tình hình
Trung tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa ............................................................... 377
2.2. Thực trạng người cao tuổi và dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi
tại Trung tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa .......................................................... 455
Chương 3: BẢO ĐẢM DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI CHÁNH PHÚ HÒA ....... 70
3.1. Định hướng………………………………………………………………………..70
3.2. Giải
pháp
………………………………………………………………………….704
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 799
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 822
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTXH
Bảo trợ xã hội
CTXH
Công tác xã hội
DVCTXH
Dịch vụ công tác xã hội
ĐTXH
Đối tượng xã hội
HĐND
Hội đồng nhân dân
LĐTBXH
Lao động - Thương binh và Xã hội
NCT
Người cao tuổi
NĐ – CP
Nghị định - Chính phủ
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
NXB
Nhà xuất bản
TC
Thân chủ
TPHCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Những khó khăn của NCT ...................................................................... 488
Bảng 2.2: Mức độ hiệu quả của sự hỗ trợ ................................................................. 52
Bảng 2.3: Đánh giá cung cấp thức ăn tại Trung tâm............................................... 554
Bảng 2.4: Sức khỏe của NCT .................................................................................. 575
Bảng 2.5: Nguyện vọng của NCT ........................................................................... 607
Bảng 2.6: Mức độ đánh giá về hoạt động tuyên truyền ......................................................60
Bảng 2.7: Thái độ của nhân viên làm việc với NCT ................................................. 513
Biểu đồ 2.1: Độ tuổi của NCT ....................................................................................... 466
Biểu đồ 2.2: Người cung cấp nguồn lực ................................................................... 51
Biểu đồ 2.3: Nhu cầu của NCT ............................................................................... 596
Biểu đồ 2.4: Mức độ tham gia hoạt động nhóm về văn hóa-tinh thần ...................... 59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế của đất nước, Nhà nước đặc biệt quan tâm
đến đối tượng người cao tuổi thông qua các chính sách, luật pháp nhằm hỗ trợ như
trong Bộ Luật lao động, Pháp lệnh Người cao tuổi cùng hệ thống văn bản pháp quy
liên quan, gần đây là việc dự thảo, thu thập ý kiến đóng góp xây dựng Bộ Luật lao
động sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật Người cao tuổi vào ngày 23 tháng 11 năm
2009 trong đó đề cập đến những quyền cơ bản, bảo đảm cho người cao tuổi về mọi
mặt trong xã hội, được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, trợ giúp pháp lý,
tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ
văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác.
Việt Nam là một nước đang phát triển, số người cao tuổi đang có xu hướng
tăng nhanh. Theo dự báo, Việt Nam sẽ chính thức trở thành một quốc gia có dân số
già vào năm 2014 (tỉ lệ người trên 60 tuổi lớn hơn 10% dân số). Như vậy, chỉ trong
vòng một vài năm nữa nước ta sẽ phải đối mặt với các khó khăn do việc “già hóa
dân số” mang lại. Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng và mặt bằng kinh tế chưa cao.
Nếu ta không chuẩn bị tốt ngay từ bây giờ thì trong những năm tới đây áp lực của
việc “già hóa dân số” sẽ ngày càng đè nặng lên xã hội. Hậu quả là việc chăm sóc
mang tính toàn diện đối với người cao tuổi ở nước ta khó có thể thực hiện tốt được.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người cao tuổi để họ tự vượt qua những
thiệt thòi về thể chất, tinh thần, tích cực hòa nhập cộng đồng là những hoạt động có
tính nhân văn sâu sắc, biểu hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc là trách nhiệm của
mỗi người, mỗi gia đình, tổ chức kinh tế, xã hội và các cấp chính quyền. Nhà nước
đã kịp thời tổ chức nghiên cứu, ban hành các chính sách, chế độ, đồng thời đề ra
nhiều chủ trương, biện pháp, đặc biệt đã tổ chức nhiều phong trào hoạt động sâu
rộng trong nhân dân nhằm chăm sóc và giúp đỡ người cao tuổi.
Và để bù đắp phần nào trong đời sống người cao tuổi gặp khó khăn, các dịch
vụ chăm sóc còn hạn chế trong chăm sóc sức khỏe, tinh thần cho người cao tuổi và
các nhóm yếu thế, trong đó có những người cao tuổi không nơi nương tựa, các trung
1
tâm bảo trợ xã hội trên khắp cả nước đã ra đời. Trong đó, Trung Tâm Bảo trợ xã hội
Chánh Phú Hòa là một trong những đơn vị điển hình thực hiện tốt vai trò đó. Trung
tâm thực hiện nhiệm vụ: tiếp nhận, quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục dạy
nghề, hòa nhập cộng đồng cho đối tượng xã hội gồm: người cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa, người khuyết tật và trẻ mồ côi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, lao
động nam và nữ..
Là một người quản lý công tác xã hội có thời gian gắn bó với Trung tâm hơn
hai mươi mốt năm tôi mong muốn được đóng góp thật nhiều tâm huyết của mình
vào việc đưa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với cuộc sống của
đối tượng bảo trợ xã hội nói chung và đối tượng người cao tuổi cô đơn không nơi
nương tựa nói riêng, đảm bảo chất lượng cuộc sống của họ ngày càng tốt hơn, giúp
họ an tâm gắn bó những ngày còn lại của cuộc đời với trung tâm, góp phần vào việc
phát triển nghề Công tác xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng đất nước ngày
càng giàu mạnh.
Xuất phát từ những lý do trên, trước tình hình đặc thù của TP.HCM đã đề
cập, tác giả mong muốn đóng góp thông qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá,
so sánh các hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội của các cấp, các ngành và địa
phương so với thực tiễn ứng dụng hoạt động công tác xã hội nhằm đưa ra những
giải pháp hiệu quả hơn, khả thi hơn, chuyên nghiệp hơn trong việc thực hiện hoạt
động cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho các nhóm yếu thế trong xã hội, đặc biệt
là người cao tuổi, từng bước hội nhập công tác xã hội chuyên nghiệp thế giới. Với
những lý do đó, tôi chọn đề tài: “Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi từ
thực tiễn Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa thành phố Hồ Chí Minh” để
nghiên cứu, làm luận văn và trao đổi, chia sẻ với các cá nhân, các cấp, các ngành và
địa phương, Trung tâm bảo trợ xã hội, tổ chức có liên quan trong việc xây dựng và
nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội đối với NCT.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề người cao tuổi đã được quan tâm đề cập đến nhiều, có
thể kể tới một số công trình đáng chú ý sau:
2
Bài viết của Tiến sĩ Hoàng Mộc Lan (Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân Văn) “Đời sống tinh thần của người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay” đứng
trên góc độ phân tích của một nhà tâm lí học. Theo tác giả, đối với NCT ở Việt Nam
hiện nay vấn đề được cho là đáng quan tâm ở khía cạnh đời sống tinh thần là: việc
làm, thu nhập và nhu cầu lao động, sức khỏe và nhu cầu được chăm sóc sức khỏe,
quan hệ xã hội và nhu cầu được quan tâm, tôn trọng. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu
cũng phân tích về thu nhập của NCT neo đơn không nơi nương tựa. Tác giả cho
biết, những nguồn thu nhập của đối tượng này thường từ việc buôn bán hàng rong,
hưởng các chế độ chính sách, trợ cấp dành cho người già hoặc từ chính quyền địa
phương, các cơ sở, tổ chức xã hội. Phân bố người cao tuổi không đồng đều, và
nguyện vọng lớn nhất của NCT là được quan tâm, chăm sóc. Bên cạnh đó, bài viết
còn phân tích về mặt sức khỏe của NCT, những chứng bệnh NCT hay mắc phải. Đề
cập đến mối quan hệ xã hội và nhu cầu quan tâm, tôn trọng. Tác giả đã làm những
khảo sát tại các vùng thuộc các tỉnh phía Bắc và rút ra kết luận: “Hoạt động xã hội
của người cao tuổi hiện nay co lại trong phạm vi gia đình, thân tộc nhiều hơn. Các
hoạt động xã hội rộng lớn, mang tính cộng đồng làng, xã còn rất nghèo nàn. Nếu
tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến lạc hậu về thời cuộc và cô đơn trong cuộc sống
của người cao tuổi.”
Công trình nghiên cứu “Một số vấn để cơ bản về người cao tuổi ở Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020” của Ts. Lê Ngọc Lân - Viện nghiên cứu Gia đình và
giới - Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã đề cập tới một số nội dung như: khái
niệm, các cách tiếp cận nghiên cứu về người cao tuổi, kinh nghiệm nghiên cứu
người cao tuổi ở các nước và quan điểm của Đảng về người cao tuổi, một số vấn đề
cơ bản về đời sống của người cao tuổi hiện nay, một số vấn đề trong chăm sóc
người cao tuổi trong các gia đình, cộng đồng và xã hội. Đồng thời, đề tài cũng là cơ
sở thực tiễn để điều chỉnh chính sách nhằm phát huy hơn nữa vai trò của người cao
tuổi và chăm sóc người cao tuổi tốt hơn trong giai đoạn 2011 – 2015.
Theo công trình“Tiếp cận văn hóa người cao tuổi” của Tiến sĩ Nguyễn
Phương Lan: “Người cao tuổi chuyển đổi từ môi trường hoạt động tích cực sang
3
môi trường nghĩ ngơi hoàn toàn. Với thời gian rỗi qua nhiều trong khi sức khỏe
ngày càng kém đi đã khiến cho họ rơi vào trạng thái tâm lý cô lập với thế giới xung
quanh, đòi hỏi cần có nhu cầu giao tiếp mãnh liệt. Do kinh nghiệm sống của các cụ
nhiều khi hơn lớp trẻ, được tiếp xúc với nhiều nên văn hóa mang tính truyền thống.
Tác giả đã nhận định đối với các cụ trong đời sống hiện nay thì nhu cầu giao tiếp
xã hội, với con người ta là quan trọng nhất. Vì khi về tuổi già họ luôn có xu hướng
mặc cảm bản thân, chán nản, hay giận dỗi không kiềm nén được cảm xúc bản
thân… do đó ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ giữa mọi người xung quanh.
Dựa trên đặc điểm này ta có thề tìm ra các biện pháp can thiệp để cải thiện tình
trạng giao tiếp theo chiều hướng tốt nhất.
Đề tài nghiên cứu khoa học: “Nhu cầu quan hệ của người già cô đơn,
không nơi nương tựa tại trung tâm bảo trợ xã hội và vai trò can thiệp của nhân
viên công tác xã hội” của Khoa Xã hội học Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội đã đề cập đến người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung
tâm bảo trợ xã hội IV, Ba Vì – Hà Nội được thu nhận và nuôi dưỡng, sống cách
biệt về địa lý với gia đình, người thân và thế giới bên ngoài. Do đó, người già ở các
trung tâm thường hạn chế về các mối quan hệ xã hội bên ngoài. Kèm theo đó là
thiếu thốn về nhu cầu quan hệ tình cảm khi sống trong môi trường nuôi dưỡng của
trung tâm. Nhu cầu tình cảm và các mối quan hệ của người già cô đơn đã được đề
tài thể hiện rõ ràng. Đề tài nghiên cứu đưa ra thực trạng, nguyên nhân, hậu quả, giải
pháp về vấn đề hạn chế các mối quan hệ ở người cao tuổi ở trung tâm bảo trợ xã hội
và đi vào đưa ra hướng giải quyết. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu các mối quan hệ
giữa những người già cô đơn, không nơi nương tựa với gia đình, người thân, bạn bè
và các tổ chức xã hội, cùng với mối quan hệ với cán bộ, nhân viên cơ sở, người nuôi
dưỡng và môi trường sống tại trung tâm. Bên cạnh đó còn nêu lên mối quan hệ khác
giới giữa người già với nhau trong trung tâm. Nhóm nghiên cứu đã khai thác tất cả
rõ tất cả các mối quan hệ của những người cao tuổi tại trung tâm, chỉ ra cho chúng
ta thấy nhiều mặt của các mối quan hệ này đồng thời cũng là để hiểu rõ thêm về tâm
lý người cao tuổi. Đồng thời đề tài cũng đi vào tìm hiểu về nhu cầu quan hệ của
4
người già cô đơn, đặc biệt là nhu cầu quan hệ về mặt tình cảm, tìm ra những trở
ngại và khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu quan hệ của người già. Từ đó đưa ra
giải pháp can thiệp hỗ trợ cho nhân viên cơ sở và đội ngũ nhân viên công tác xã hội.
Cẩm nang “Sức khỏe người cao tuổi” của Ban công tác Câu lạc bộ Hội
người cao tuổi Việt Nam - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cung cấp những kiến
thức cần thiết về việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe thể chất cho người
cao tuổi. Người cao tuổi thường có thói quen ít đi lại. Sự giảm hoạt động này là một
trong những nguyên nhân dẫn đến các rối loạn chức năng và bệnh lý của cơ thể mà
chủ yếu là các bệnh về xương khớp. Ngoài ra, ở người cao tuổi thường xuất hiện
các bệnh như: Huyết áp cao, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến.Tuy
nhiên, trong cuốn sách cẩm nang vẫn chưa nói đến các bệnh mà người cao tuổi
thường gặp. Bên cạnh đó, chưa nói tới vấn đề dinh dưỡng cho người cao tuổi. Sách
chưa đề cập đến một số phương pháp để người cao tuổi ở tại các cơ sở mái ấm
không thể vận động được có cách chăm sóc sức khỏe mình tốt hơn. Cuối cùng cuốn
sách đã nhắc đến vấn đề tinh thần nhưng chưa đi sâu vào cách chăm sóc đời sống
tinh thần như thế nào phù hợp. Từ đó công trình đã đưa ra được một số giải pháp
như: tăng cường các hoạt động phục vụ đời sống tinh thần cho Người cao tuổi;
Thường xuyên tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ; xây dựng cơ sở phù hợp
chăm sóc người cao tuổi; Nâng cao trình độ nhân viên công tác xã hội và đội ngũ y,
bác sĩ tại các cơ sở.
Theo kết quả khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, năm 2012 có trên
58% số người từ 60-69 tuổi cho rằng, sức khỏe của họ là yếu. Tỷ lệ này tăng nhanh
theo tuổi tác. Ở nhóm tuổi từ 70-79, con số này tăng lên 68,4% và từ 80 trở lên, con
số này tăng lên gần 75%. Chỉ 6,3% người từ 60-69 tuổi tự đánh giá sức khỏe của họ
là tốt; tỷ lệ này ở nhóm người từ 70 tuổi trở lên còn thấp hơn nhiều, chỉ là 3,7%.
Điều này cũng cho thấy, việc chăm sóc sức khỏe đối với nhóm NCT là rất cần thiết
và chi phí cho việc chăm sóc sức khỏe của họ cũng tăng cao so với nhóm các nhóm
tuổi khác. Sức khỏe yếu cũng là lý do chính để NCT không thể làm việc được,
không tự tạo được thu nhập đảm bảo cuộc sống của bản thân. Do vậy, cần thiết
5
nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác trợ giúp xã hội đối với NCT, đặc biệt đối
với NCT thuộc nhóm tuổi 75-80 chưa được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Qua
đó, thấy được những tác động tích cực, những tồn tại và nguyên nhân để đưa ra
được những khuyến nghị nhằm tăng cường công tác trợ giúp xã hội đối với NCT.
“Tìm hiểu đời sống người cao tuổi ở Mái ấm tình thương Chùa Diệu pháp”,
đăng trên website chuadieuphap.com.vn là một đề tài gần gũi nhất với đề tài mà chúng tôi
đang nói đến. Đề tài đã cho chúng ta thấy được thực trạng đời sống của người cao tuổi tại
Mái ấm tình thương Chùa Diệu Pháp trên tất cả các mặt: chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh
hoạt, điều kiện chăm sóc sức khỏe, sự quan tâm của cán bộ quản lý, của nhân viên phục vụ.
Ngoài ra đề tài còn đề cập đến một số đặc điểm tâm lý điển hình của những người cao tuổi
đang sống tại Mái ấm. Từ đó, đề tài đưa ra những giải pháp thiết thực để cải thiện đời sống
tinh thần cho các cụ.
Qua các đề tài nghiên cứu trên chúng tôi thấy phần lớn các đề tài đều chú trọng đến
nghiên cứu những đặc trưng xoay quanh tâm lý của người cao tuổi cũng như đánh giá các
mô hình áp dụng đối với đối tượng người cao tuổi. Đề tài “Tìm hiểu đời sống người cao
tuổi ở Mái ấm tình thương Chùa Diệu Pháp” đã có đề cập đến vấn đề đời sống tinh thần
nhưng mức độ tiếp cận còn ít. Chính vì vậy nhóm chúng tôi rất muốn đi sâu tìm hiểu đời
sống tinh thần của những người già tại các mái ấm tình thương, cái mà rất ít đề tài đề cập
đến.
Có thể nhận thấy, chưa có số liệu thống kê cụ thể về thực trạng cung cấp dịch
vụ công tác xã hội của NCT tại TPHCM về dịchvụ tư vấn- tham vấn,chăm sóc sức
khỏe ban đầu, phục hồi chức năng, tham gia câu lạc bộ, tiếp cận công trình công
cộng, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao…Từ thực tế việc quản lý,
chăm sóc, các chính sách trợ giúp đối với đối tượng người cao tuổi đang được nuôi
dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa, tôi quyết định chọn đề tài:
“Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn Trung tâm bảo trợ
xã hội Chánh Phú Hòa Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu, làm luận văn
thạc sĩ công tác xã hội, đóng góp thêm một góc nhìn và những số liệu thực tế về
6
hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại một địa bàn
cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát, tìm hiểu thực trạng hoạt động dịch vụ công tác xã hội trong việc
trợ giúp những đối tượng người cao tuổi không nơi nương tựa đang được nuôi
dưỡng tập trung tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa, trên cơ sở đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này tại Trung tâm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung
giải quyết những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về NCT và CTXH, dịch vụ CTXH, chính sách.
pháp luật của Việt Nam đối với NCT tại Trung tâm bảo trợ xã hội.
Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý và những khó khăn trong việc đáp
ứng nhu cầu đối với đối tượng người cao tuổi tại Trung tâm.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội trợ
giúp đối với NCT nhằm nâng cao năng lực cho NCT trong việc tham gia, khám
chữa bệnh ban đầu, phục hồi chức năng, giáo dục – dạy nghề, hòa nhập cộng đồng
tham gia các hoạt động xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại Trung tâm bảo trợ xã hội
Chánh Phú Hòa Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu đối với các khách thể là người cao tuổi
đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa, các nhân viên
bảo trợ và lãnh đạo Trung tâm.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
7
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Trung tâm Bảo trợ xã hội Chánh Phú
Hòa số Km 16, đường ĐT 741 – khu phố 1b, phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến
Cát, tỉnh Bình Dương,trực thuộc Sở LĐTB&XH TP.HCM. Thực trạng hoạt động
cung cấp dịch vụ CTXH đối với người cao tuổi tại TTBTXH Chánh Phú Hòa được
nghiên cứu từ những góc độ sau: Việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ cho
người cao tuổi tại Trung tâm từ giai đoạn năm 2011-2015
- Phạm vi nghiên cứu về khách thể: Đề tài nghiên cứu trên 70 đối tượng
người cao tuổi, 01 cán bộ quản lý, 10 nhân viên làm việc tại Trung tâm.
- Vấn đề nghiên cứu được giới hạn bao gồm:
+ Mô tả về cuộc sống của Người cao tuổi tại Trung tâm.
+ Việc triển khai thực hiện chính sách và nguồn lực cho người cao tuổi tại
Trung tâm.
+ Các dịch vụ xã hội hỗ trợ Người cao tuổi tại Trung tâm.
+ Nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội tại Trung tâm
+ Đội ngũ, cán bộ, nhân viên làm việc với NCT
+ Kết quả công tác xã hội đối với Người cao tuổi tại Trung tâm
+ Những khó khăn, hạn chế trong quản lý đối với Người cao tuổi tại Trung
tâm
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ tháng 01/01/2016 đến tháng 30/06 năm
2016.
4.4.Giả thuyết nghiên cứu
Căn cứ vào quá trình khảo sát và nghiên cứu bước đầu ở Trung tâm Bảo trợ
xã hội Chánh Phú Hòa, trong đề tài này, tôi đưa ra một số giả thuyết nghiên cứu như
sau:
Đối tượng NCT tại Trung tâm Bảo trợ xã hội đều được hưởng các chính sách
bảo trợ xã hội mà Nhà nước dành cho họ. Trung tâm đã dần triển khai việc áp dụng
công tác xã hội vào phục vụ đối tượng. Những nhu cầu cơ bản của NCT đã được
đáp ứng.
8
Việc thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với NCT tại Trung tâm còn nhiều
khó khăn, hạn chế.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu dựa trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác-Lê nin, cụ thể
là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nghĩa là nghiên cứu chính sách xã hội tác động tới
đời sống NCT neo đơn phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với các chính
sách xã hội đối với các giai cấp, các tầng lớp các nhóm xã hội khác nhau. Đồng
thời, nghiên cứu phải dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, nghĩa là vấn đề nghiên
cứu phải đặt ra được những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Quá trình nghiên
cứu phải đảm bảo căn cứ trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng giai
đoạn.
Nghiên cứu phải giữ vững lập trường quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh,
được cụ thể hóa bằng các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước Việt Nam trong các chính sách xã hội nói chung, chính sách
an sinh xã hội, bảo trợ xã hội nói riêng. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước ta
đều nhằm mục đích phát triển kinh tế, ổn định, tạo sự công bằng xã hội mà nhất là
với những đối tượng người yếu thế trong xã hội. Phải dựa trên lập trường của giai
cấp công nhân, đó là lập trường cách mạng triệt để, là lập trường kiên quyết đấu
tranh, lập trường cách mạng thể hiện được yêu cầu, nguyện vọng cơ bản của quần
chúng nhân dân.
Người cao tuổi là đối tượng cần được xã hội quan tâm nên khi đi vào nghiên
cứu chính sách xã hội về các đối tượng này chúng ta phải xác định trước hết vì nhân
tố phát triển con người, đảm bảo các nhu cầu chính đáng của đối tượng từ đó góp
phần vào phát triển xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Mẫu điều tra được tiến hành trên nhóm đối tượng là Người cao tuổi và được
điều tra tại các khu nhà ở dành cho đối tượng cao tuổi tại Trung tâm.
9
Số lượng mẫu nghiên cứu là 70 đối tượng, theo phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên thuận tiện.
5.2.2 Phương pháp phân tích tài liệu
Tiến hành thu thập các thông tin tư liệu từ các nguồn như: văn bản pháp luật,
thông tư, nghị định, sách, báo, tài liệu trong báo cáo tổng kết cuối năm 2015 của
Trung tâm Bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa, báo cáo của sở Lao động thương binh và
xã hội Thành phố Hồ Chí Minh...
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để:
+ Đọc và tìm hiểu các giáo trình, tài liệu có liên quan đến CTXH như: Nhập
môn CTXH, Phát triển cộng đồng, Lý thuyết CTXH…
+ Phân tích những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề
CTXH đối với NCT như: đề tài ‘‘cẩm nang chăm sóc sức khỏe người già”
+ Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính sách
hỗ trợ, ưu đãi đối với NCT và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ họ.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp điều tra bảng hỏi: là phương pháp dựa trên hình thức hỏi đáp
trực tiếp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn thảo trước. Điều tra viên phát bảng
hỏi và trực tiếp phỏng vấn, ghi lại câu trả lời đối với 70 NCT tại Trung tâm để tìm
hiểu, thu thập thông tin chung về thực trạng cuộc sống của NCT Như điều kiện về
nhà ở, kinh tế gia đình, các nhu cầu của người cao tuổi…, tìm hiểu về thực trạng
hoạt động CTXH đối với NCT trên địa bàn như các hoạt động hỗ trợ xã hội, hỗ trợ
các nguồn lực, hoạt động tuyên truyền… của nhân viên CTXH đối với NCT.
Phương pháp phỏng vấn sâu: là một phương pháp thu thập thông tin xã hội
học thông qua việc tác động tâm lý học xã hội trực tiếp giữa người đi phỏng vấn và
người được phỏng vấn trên cơ sở mục tiêu của đề tài nghiên cứu.
Tác giả sử dụng phương pháp này với mục đích nhằm tìm hiểu, thu thập
thông tin chuyên sâu về thực trạng đời sống của NCT, thực trạng hoạt động CTXH
đối với NCT tại trung tâm như việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ, chế độ
đối với NCT của cán bộ nhân viên, đề tài tiến hành phỏng vấn sâu 10 nhân viên
10
CTXH tại Trung tâm, một lãnh đạo tại Trung tâm, người đảm nhiệm công tác quản
lý NCT tại Trung tâm và các ban ngành có liên quan.
Phương pháp quan sát: là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu
xã hội học thực nghiệm thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập các thông
tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong đề tài này tác giả sử dụng phương pháp này nhằm thu thập, bổ sung
thông tin còn thiếu và kiểm tra đối chiếu, so sánh các thông tin từ việc quan sát để
đánh giá độ tin cậy của các thông tin thông qua việc quan sát bối cảnh sống, thái độ,
thể trạng... của người được điều tra. Cũng thông qua đó hình thành được câu trả lời
đầy đủ và có được những thông tin chính xác cho bảng hỏi cũng như bảng phỏng
vấn sâu. Cụ thể đề tài tập trung quan sát các hoạt động công tác xã hội hoặc các
hoạt động mang tính chất CTXH. Quan sát về môi trường, không gian sống của
NCT. Quan sát về thể chất, thái độ giao tiếp và trạng thái tâm lý của đối tượng khảo
sát với người điều tra, nhằm xác định xem họ có gặp phải những vấn đề khó khăn
về sức khỏe, tâm lý hay không…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài luận văn làm phong phú thêm hệ thống lý thuyết nghiên cứu dịch vụ
CTXH đối với NCT. Trong đó gồm các khái niệm NCT; NCT cô đơn; CTXH;
CTXH đối với NCT; dịch vụ; dịch vụ CTXH. Luận văn chỉ ra những vấn đề lý luận
chính về dịch vụ CTXH đối với NCT cũng như vai trò nhiệm vụ của nhân viên
CTXH. Kết quả nghiên cứu lý luận góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về dịch
vụ CTXH đối với NCT đang được nuôi dưỡng tại TTBTXH Chánh Phú Hòa vào
trong nội dung lý luận của CTXH ở khía cạnh hỗ trợ các dịch vụ xã hội cho NCT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu hoạt động dịch vụ CTXH tại trung tâm bảo trợ xã hội là một việc
làm vô cùng cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện tinh thần nhân văn
sâu sắc. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức, thực hiện, công tác này gặp rất nhiều
khó khăn. Với luận văn này tôi mong muốn sẽ cung cấp những thông tin cụ thể về
11
thực trạng dịch vụ CTXH đối với NCT tại Trung tâm; gợi mở một số giải pháp để
nâng cao hiệu quả hơn nữa dịch vụ CTXH đối với NCT. Đồng thời, góp phần nâng
cao nhận thức của cộng đồng đối với vấn đề NCT hiện nay, cũng như là một thông
điệp hướng sự quan tâm và chung tay góp sức của cộng đồng cùng thực hiện có
hiệu quả hơn công tác cung cấp dịch vụ CTXH.
Giúp cho nhân viên CTXH. Cán bộ quản lý CTXH và NCT thấy được vai trò
và ý nghĩa quan trọng của dịch vụ CTXH đối với NCT những tồn tại hạn chế trong
hoạt động dịch vụ CTXH chuyên nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
TTBTXH Chánh Phú Hòa.
7.Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội trong việc cung cấp các dịch vụ đối
với người cao tuổi tại Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa.
Chương 3: Bảo đảm dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại Trung
tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa
12
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI
1.1.
Các khái niệm
1.1.1 Người cao tuổi, Người cao tuổi cô đơn
Già là một giai đoạn trong cuộc đời của mỗi con người. Để đi đến cách hiểu
thống nhất về khái niệm, trước tiên cần có sự thống nhất về cách gọi lớp người
nhiều tuổi trong xã hội. Trong tiếng Việt và trong đời sống thực tế, để gọi lớp NCT,
người Việt Nam sử dụng nhiều tên gọi khác nhau như “ Lão”, “Cụ”. Ngoài những
từ phổ biến đó ra, ở Việt Nam còn có nhiều từ khác dùng để gọi người già bao gồm
cả từ thuần Việt và từ Hán Việt như “Bà”, “Bủ”…Mỗi từ này đều mang một sắc
thái, ngữ nghĩa khác nhau và đề hàm chứa tinh thần kính trọng đối với người già .
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới và một số tổ chức quốc tế, cũng như ở
Việt nam đã dùng danh từ “Người cao tuổi” thay cho “Người già”. Cụm từ “Người
cao tuổi” bao hàm sự kính trọng, sự động viên hơn so với cụm từ “Người già”.Tuy
nhiên, về mặt khoa học thì thuật ngữ “Người già” hay “ Người cao tuổi” đều được
dùng với ý nghĩa tương tự như nhau.
Trên cơ sở thống nhất về tên gọi, để đánh giá đúng thực trạng NCT cần
thống nhất hiểu thế nào là NCT? Theo quan điểm y học, sự già hóa có đặc điểm vừa
chung mọi người, vừa riêng mỗi người không có một ngưỡng tuổi già duy nhất như
nhau. Nhưng nhìn chung xét theo y học thì “Đã lão hóa thực thể sống”. Xét theo
tâm lý học là “Cảm nhận về tri giác sáng tạo đã cạn nguồn”. Còn xét theo vận động
cơ học thì “đã vào thời kỳ di chuyển chậm, kém thích ứng xã hội”.
Quan niệm về tuổi già cũng phụ thuộc vào tập quán và mang tính địa
phương. Việc xác định độ tuổi để quan niệm rõ thế nào là NCT có ý nghĩa rất quan
trọng vì nó phụ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Hội NCT Việt Nam qui
định hội viên nam 55 tuổi trở lên, nữ 50 tuổi trở lên. Bộ luật lao động lại qui định
lao động nam 60 tuổi trở lên và nữ 55 tuổi trở lên được nghỉ hưởng chế độ hưu trí.
Theo qui ước của Liên Hiệp Quốc “Những người từ 60 tuổi trở lên không
phân biệt giới tính là người già” và chia làm hai nhóm tuổi:
13
- Tuổi từ 60- 74 là NCT.
- Tuổi từ 75 trở lên là người già.
Tổ chức y tế thế giới “WHO” phân chia các lứa tuổi người già như sau:
- Từ 60-74 tuổi: NCT.
- Từ 75-90 tuổi: người già.
- Ngoài 90 tuổi: người già sống lâu.
Theo luật người cao tuổi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 6, quốc hội khóa XII thì : “Người cao tuổi là
công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.Tuy nhiên quan điểm này có thể thay đổi
theo thời gian.
Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định NCT là những
người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về
lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những
nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân
cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì
vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
Một số khái niệm liên quan
Tuổi già sinh học: là độ tuổi mà đến khi đó con người đã xuất hiện những
biểu hiện suy giảm các chức năng tâm sinh lý và các chức năng lao động và sinh
hoạt trong cuộc sống. Già sinh học là khi các hoạt động sống của con người bị ảnh
hưởng bởi chính các quá trình diễn biến tâm lý tự nhiên trong cơ thể con người. Đó
là khi quá trình đồng hóa giảm đi và quá trình dị hóa tăng lên theo tuổi tác, các quá
trình trao đổi chất trong cơ thể bắt đầu suy giảm.
Tuổi già pháp định: là tuổi già mà pháp luật quy định đối với người lao động
ở từng quốc gia. Theo các qui định này, những người đạt đến một độ tuổi nào đó
phải chấm dứt các hoạt động lao động, được quyền nghỉ ngơi. Tổ chức hoặc cá nhân
nào vi phạm qui định này đối với NCT thì bị coi là vi phạm pháp luật.
Tuổi già lao động: là tuổi khi mà người lao động đã có những suy giảm về
thể chất và các chức năng lao động, các phản xạ nghề nghiệp đã kém đi. Như vậy
14
tuổi già lao động của mỗi người có thể khác nhau tùy theo tính chất công việc và
điều kiện lao động của họ.
Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa:
Với NCT cô đơn, không nơi nương tựa, thành viên từ gia đình của họ hầu
như không hợp tác. Do vậy, thay thế vào đó là đại diện từ những tổ chức, ban ngành
chức năng hay các tổ chức xã hội. Các đại diện từ cơ quan y tế, giáo dục, tư pháp,
ngành lao động… sẽ tham gia khi TC có những nhu cầu liên quan tới ngành của
mình.
Là những người từ đủ 60 tuổi trở lên, sống độc thân, NCT còn vợ hoặc
chồng nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để nương tựa.(BTXH
theo số 136/2013/NĐ-CP, ngày 21 tháng 10 năm 2013 Nghị định Chính phủ).
1.1.2. Công tác xã hội, công tác xã hội đối với người cao tuổi
Có nhiều khái niệm về CTXH được đưa ra ở các góc độ khác nhau:
Theo từ điển Bách khoa ngành CTXH (1995) có ghi “CTXH là một khoa học
ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển
biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”.
CTXH ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh khác
nhau điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: CTXH là hoạt động thực tiễn,
mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc, phương pháp hỗ
trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. CTXH theo đuổi mục tiêu vì
phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội’’
Và như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của
PGS.TS. Bùi Thị Xuân Mai: “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp
nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu
cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính
sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và
phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.
Khái niệm CTXH đối với người cao tuổi
15
Người cao tuổi cũng giống như những thành viên khác của xã hội, cần được
có cơ hội để sống hữu ích. Cần có các dịch vụ xã hội cho những NCT vì họ không
có khả năng tự chăm sóc, họ cần sự giúp đỡ về kinh tế, các vấn đề vế sức khỏe và y
tế, các nhu cầu và vấn đề về tình cảm, các vấn đề xã hội như mối quan hệ gia đình,
cộng đồng, chăm sóc cá nhân, các yêu cầu giải trí sắp đặt cuộc sống.
CTXH đối với NCT là một quá trình trợ giúp của nhân viên CTXH vận dụng
những kiến thức, kỹ năng và thái độ để giúp họ đến với các dịch vụ nhằm đáp ứng
các nhu cầu tâm sinh lý xã hội của họ.
Hiện nay, CTXH trên thế giới chủ yếu hướng đến các đối tượng như người
nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nhiễm
HIV/AIDS, mại dâm… những đối tượng chủ yếu là nhóm đối tượng cũng luôn cần
sự trợ giúp của CTXH. Với đối tượng này CTXH không chỉ can thiệp giải quyết
vấn đề cá nhân do những hạn chế về sức khoẻ thể chất, tinh thần mà còn có thể cung
cấp, kết nối họ tiếp cận những nguồn lực nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn
trong cuộc sống. Những trợ giúp của NVCTXH được thực hiện bằng các phương
pháp chuyên môn như CTXH cá nhân, CTXH nhóm hay CTXH với cộng đồng
cùng với các kỹ năng như:giao tiếp, tham vấn, vãng gia, đánh giá vấn đề, biện hộ,
can thiệp khủng hoảng, kết nối, truyền thông…
Và như vậy chúng ta có thể hiểu môt cách ngắn gọn nhất thì CTXH đối với
NCT là một hoạt động chuyên nghiệp của CTXH nhằm trợ giúp giải quyết các vấn
đề khó khăn mà họ đang gặp phải từ đó giúp họ phục hồi sức khỏe, phòng ngừa
bệnh, tạo ra những thay đổi về vai trò, vị trí của họ để giúp họ hòa nhập xã hội,
đồng thời thúc đẩy các điều kiện xã hội để họ tiếp cận được với chính sách, nguồn
lực và dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản và quyền của họ để góp
phần đảm bảo an sinh xã hội.
1.1.3. Dịch vụ, dịch vụ công tác xã hội
Khái niệm dịch vụ
Dịch vụ được hiểu theo nhiều cách khác nhau và gắn liền với quá trình phát
triển xã hội. Theo Đại từ điển tiếng Việt: dịch vụ là công việc phục vụ cho đông đảo
16
dân chúng (Nguyễn Như Ý, 1999, , NXB Văn hóa, Đại từ điển tiếng Việt). Tác giả
Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) cho rằng dịch vụ là những hoạt động lao động
mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại dưới hình thái vô hình nhằm
thỏa mãn các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người.
Khái niệm dịch vụ xã hội
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) cũng xem DVXH là những dịch
vụ đáp ứng nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm
bảo hạnh phúc, phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao tính nhân văn, vì con người, là
hoạt động mang bản chất kinh tế-xã hội, do Nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự
cung ứng tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng lĩnh vực
dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa,
thông tin, thể dục thể thao và các trợ giúp xã hội khác. Theo các tác giả, DVXH có
đặc điểm sau:
Là loại dịch vụ nhằm mục tiêu phát triển xã hội có tính chất xã hội. DVXH
tồn tại nhằm đảm bảo giá trị chuẩn mực xã hội, hỗ trợ cho các thành viên trong xã
hội phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro.
Do cơ quan nhà nước, thị trường hoặc xã hội thực hiện.
Luôn bị điều tiết bởi giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, nhân sinh, trách nhiệm
xã hội của Nhà nước, doanh nghiệp hoặc tư nhân.
Mọi người dân đều có quyền hưởng dịch vụ không tính việc đóng thuế bao
nhiêu.
Là dịch vụ thiết yếu với người dân.
Dịch vụ xã hội có loại dịch vụ công hay dịch vụ tư nhân. Nếu là dịch vụ công
thì tất cả mọi người đều có quyền được hưởng. Nếu là loại dịch vụ không thuần
công (dịch vụ tư) thì tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng chi trả của cá nhân.
Khái niệm dịch vụ CTXH
Dich vụ CTXH và sự chuyên nghiệp trong cung cấp DVCTXH đang là vấn
đề được quan tâm trong hoạt động nghề CTXH. Việc nghiên cứu lý luận về vấn đề
này như khái niệm, vai trò, đặc điểm của nó có thể là cơ sở cho việc nghiên cứu
17
thực trạng về tính chuyên nghiệp trong cung cấp DVCTXH cho người yếu thế trong
thực tiễn, DVCTXH, sự chuyên nghiệp trong cung cấp DVCTXH cho nhóm đối
tượng yếu thế.
Công tác xã hội hiện đang là một ngành nghề được chính phủ Việt Nam
không chỉ quan tâm trong đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, mà còn
thúc đẩy các hoạt động cung cấp dịch vụ, xây dựng cơ cở vật chất.
Công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong cung cấp DVXH. DVXH nói
chung và dịch vụ công tác xã hội nói riêng đang ngày càng trở nên phổ biến, thiết
yếu nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển và công bằng xã hội. Ở các nước phát triển,
CTXH đã trở thành một nghề chuyên nghiệp và DVCTXH đã được quan tâm phát
triển sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao đời sống cho các nhóm đối
tượng yếu thế nói riêng và người dân nói chung.
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo và phân hóa sâu sắc.
Trong khi đó, nghề công tác xã hội mới được hình thành, chưa phát triển theo đúng
tầm và ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh. Cán bộ làm CTXH còn thiếu và
chưa được đào tạo chính quy, các tổ chức cung cấp DVXH ở cộng đồng còn yếu cả
về số lượng và chất lượng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của các chính
sách xã hội và trợ giúp các đối tượng yếu thế. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, nhu cầu
về DVXH hiện nay khá lớn, trong tương lai sẽ ngày càng lớn hơn và đòi hỏi việc
cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hơn, nhu cầu về dịch vụ đa dạng hơn, chuyên sâu
hơn… Trong đó việc cung cấp dịch vụ một cách chuyên nghiệp bởi những nhà
chuyên môn là một vấn đề cần đặt ra.
Do vậy, việc đào tạo CTXH tại các trường đại học gắn với/hướng đến việc
chuyên nghiệp hóa các dịch vụ CTXH trong thực tiễn là một định hướng mang tầm
vóc thời đại, chuyên môn hóa và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực CTXH tại Việt
Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đào tạo gắn với chuyên nghiệp DVCTXH, sự
chuyên nghiệp các DVCTXH cho các nhóm đối tượng yếu thế ở Việt nam có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn.
18
DVCTXH đối với các nhóm đối tượng yếu thế chính là việc cung cấp các
hoạt động là việc cung cấp các hoạt động mang tính chất phòng ngừa – khắc phục
rủi ro và hòa nhập cộng đồng cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu
cơ bản của họ nhằm đảm bảo các giá trị và chuẩn mực xã hội
DVCTXH góp phần thực hiện nhiều vai trò như: nâng cao chất lượng cuộc
sồng cho người yếu thế; đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội; tạo nhiều cơ hội tiếp
cận dịch vụ cho người yếu thế; phát triển cơ hội cho nhà chuyên môn; tạo môi
trường gần gũi giữa các nhà hoạt động trong lĩnh vực xã hội; giữ gìn và phát huy
bản sắc tốt đẹp đồng thời xóa đi những hủ tục, thói quen thiếu lành mạnh của công
đồng
Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn đáp ứng của DVCTXH, chúng ta có
thể nhận thấy DVCTXH thực hiện các vai trò sau:
Thứ nhất, với tính chất là phục vụ con người thì DVCTXH đã góp khá lớn
vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, nhất là người yếu thế, giúp
họ thay đổi cuộc sống, vượt qua khó khăn về thể chất, tinh thần và xã hội để hòa
nhập cuộc sống;
Thứ hai, DVCTXH góp phần ổn định xã hội và tạo ra nhiều cơ hội giáo dục,
việc làm… cho các đối tượng yếu thế/ khó khăn, góp phần giảm đi các vấn đề để lại
do nghiện ma túy, bán dâm, buôn bán, bạo lực, giảm đi tỉ lệ nghèo đói, thất nghiệp,
vô gia cư,… gây ra/tạo ra;
Thứ ba, DVCTXH góp phần lớn thực hiện, triển khai các chính sách xã hội
về trợ giúp xã hội, chính sách CTXH, đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội như: bình
đẳng giới, chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo… Việc
thúc đẩy các dịch vụ công và tư nhân trong lĩnh vực công tác xã hội đóng vai trò tạo
nhiều cơ hội cho người yếu thế được tiếp cận các dịch vụ xã hội khác;
Thứ tư, sự phát triển của DVCTXH được cung cấp bởi hệ thống các trung
tâm CTXH đã tạo ra một cơ hội nghề nghiệp khá lớn cho các nhân viên CTXH,
người có chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo tại các cơ sở giáo dục;
19