Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quản lý trường hợp đối với người cao tuổi từ thực tiễn trung tâm bảo trợ xã hội bình định, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.17 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ HIẾU

QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP
ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM
BẢO TRỢ XÃ HỘI BÌNH ĐỊNH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành : Công tác xã hội
Mã số : 60. 90. 01. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM HỮU NGHỊ

Hà Nội - 2016


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành đến: Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Học viện Khoa học Xã hội, Tổ chức
UNICEF, Học viện Xã hội Châu Á, cơ sở học viện tại thành phố Hồ Chí Minh,
trường Đại học Lao động Xã hội cơ sở 2 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các thầy, cô
giáo: cô Bùi Thị Xuân Mai, cô Hà Thị Thư…các thầy, cô giáo của trường Đại học
Asi (Philippin). Đặc biệt là thầy giáo: PGS. TS. Phạm Hữu Nghị đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn trong thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở Lao động Thương binh Xã hội
tỉnh Bình Định, Ban lãnh đạo Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định, các đồng nghiệp


trong đơn vị đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được tham gia lớp học thạc
sĩ nghành Công tác xã hội và giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập thông tin, số liệu
liên quan và các hình ảnh cần thiết về thân chủ.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các đối tượng trong trung tâm đã chia sẻ, giúp
đỡ tôi và đặc biệt là chân thành cảm ơn nhóm đối tượng người cao tuổi đã nhiệt tình
hợp tác với tôi trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
Chân thành cảm ơn những người thân, bạn bè, gia đình, hai người mẹ, chồng
và hai đứa con thân yêu của tôi đã luôn động viên, khích lệ tinh thần, chia sẻ, gánh
vác công việc gia đình để tôi an tâm học tập và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được
phân công đến ngày hôm nay.
Chân thành cảm ơn ban cán sự và tập thể lớp thạc sĩ Công tác xã hội khóa 1,
chương trình liên kết với Philippin đã luôn đồng hành, đoàn kết, chia sẻ cùng nhau
những kỉ niệm vui, buồn, những khó khăn vất vả trong suốt quá trình hai năm học.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn của mình mặc dù bản thân
rất cố gắng nhưng vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo và học viện để bài luận văn
được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội “Quản lý trường hợp đối với người cao tuổi từ thực tiễn Trung tâm
Bảo trợ xã hội Bình Định, tỉnh Bình Định” là hoàn toàn trung thực và không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Hà Thị Hiếu



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI ..................................................................................................6
1.1. Các khái niệm ................................................................................................ 6
1.2. Các vấn đề lý luận về quản lý trường hợp đối với người cao tuổi ................ 8
1.3. Các yếu tố chi phối quá trình quản lý trường hợp đối với người cao tuổi .. 18
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP ĐỐI VỚI NGƯỜI
CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI BÌNH ĐỊNH ..................29
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Bình Định và tình hình Trung
tâm Bảo trợ xã hội Bình Định ảnh hưởng đến quản lý trường hợp đối với người
cao tuổi ............................................................................................................... 29
2.2. Thực trạng người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định .......... 38
2.3. Thực trạng quản lý trường hợp đối với người cao tuổi tại Trung tâm Bảo
trợ xã hội Bình Định........................................................................................... 43
2.4. Đánh giá quản lý trường hợp đối với người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ
xã hội Bình Định ................................................................................................ 60
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP
ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI BÌNH
ĐỊNH ........................................................................................................................66
3.1. Giải pháp đối với Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định ............................. 66
3.2. Giải pháp đối với nhân viên Công tác xã hội .............................................. 68
3.3. Giải pháp đối với người cao tuổi tại Trung tâm .......................................... 70
3.4. Giải pháp đối với người cao tuổi tại cộng đồng .......................................... 71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTXH

Bảo trợ xã hội

CTXH

Công tác xã hội

ĐTXH

Đối tượng xã hội

LĐTBXH

Lao động Thương binh Xã hội

NCT

Người cao tuổi

NVXH

Nhân viên xã hội

NVQLTH

Nhân viên quản lý trường hợp


QLTH

Quản lý trường hợp

TC

Thân chủ


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng đối tượng xã hội. .......................................................................... 32
Bảng 2.2: Trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên. ............................................... 33
Bảng 2.3: Giới tính của đối tượng NCT. ...................................................................... 39
Bảng 2.4: Độ tuổi của đối tượng NCT. ........................................................................ 39
Bảng 2.5: Trình độ văn hóa của đối tượng NCT.......................................................... 40
Bảng 2.6: Tình trạng sức khỏe của đối tượng NCT. .................................................... 42
Bảng 2.7: Tình trạng mắc các loại bệnh của đối tượng NCT tại trung tâm. ................ 42
Bảng 2.8: Mức độ hài lòng về cuộc sống của đối tượng NCT..................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Kính trên, nhường dưới”, “Kính lão, đắc thọ” là một trong những truyền
thống lâu đời, nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trong xã hội ta, NCT luôn
giữ một vị trí rất quan trọng. Với gia đình, NCT luôn là tấm gương về phẩm chất
đạo đức và nhân cách để con cháu noi theo. Trong xã hội NCT với kinh nghiệm
sống của mình sẽ giúp cho thế hệ trẻ hiểu rõ, giữ vững và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Hiện nay, với xu hướng già hóa dân số trên thế giới. Theo Ủy ban dân số
Liên Hiệp Quốc tổng số người già từ 60 tuổi trở lên sẽ tăng nhanh từ 214 triệu

người vào năm 1950 lên 400 triệu người vào năm 1982, khoảng 600 triệu người
vào năm 2001 và khoảng 1,2 tỉ người vào năm 2025. Số người 80 tuổi trở lên sẽ
tăng từ 13 triệu người năm 1950 lên 50 triệu người vào 1995 và sẽ tăng lên 137
triệu người vào năm 2025. Tỉ lệ NCT trên thế giới sẽ tăng liên tục từ 8% dân số
năm 1950 lên 10% vào năm 2000 và gần 20% vào năm 2050.
NCT Việt Nam cũng không ngừng tăng lên theo dự báo dến năm 2020 Việt
Nam sẽ có trên 10 triệu NCT chiếm tỉ lệ 16% dân số trên cả nước. Trong bối cảnh
của nền kinh tế thị trường, sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Nhóm NCT đang phải
đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn. NCT ai cũng mong có được một mái ấm
gia đình, ai cũng mong muốn có con, có cháu chăm sóc, phụng dưỡng lúc tuổi già.
Nhưng không phải ai cũng có được những may mắn ấy. Do hoàn cảnh đặc biệt
nhiều cụ sau nhiều năm vất vả ở tuổi thanh xuân, lúc xế chiều lại không còn ai thân
thích để nương tựa. Các cụ phải sống trong sự cưu mang, trợ giúp của Đảng và Nhà
nước trong một mái ấm gia đình thứ hai tại trung tâm BTXH.
Và để bù đắp làm nguôi ngoai phần nào những bất hạnh ấy thì các trung tâm
BTXH trên khắp cả nước đã ra đời. Trong đó, Trung tâm BTXH tỉnh Bình Định là
một trong những đơn vị điển hình thực hiện tốt vai trò đó. Trung tâm thực hiện
nhiệm vụ: tiếp nhận, quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng ĐTXH gồm: NCT cô đơn

1


không nơi nương tựa, người khuyết tật và trẻ mồ côi có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn ....
Là một nhân viên CTXH có thời gian gắn bó với trung tâm hơn hai mươi
năm tôi mong muốn được đóng góp thật nhiều tâm huyết của mình vào việc đưa chủ
trương chính sách của Đảng và nhà nước đến với cuộc sống của đối tượng BTXH
nói chung và đối tượng NCT cô đơn không nơi nương tựa nói riêng. Đảm bảo chất
lượng cuộc sống của họ ngày càng tốt hơn, giúp họ an tâm gắn bó những ngày còn
lại của cuộc đời với trung tâm. Góp phần vào việc phát triển nghề CTXH, đảm bảo

an sinh xã hội, xây dựng đất nước ngày giàu mạnh.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Quản lý trường hợp
đối với người cao tuổi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định, tỉnh
Bình Định” để làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực tế việc quản lý, chăm sóc, các chính sách trợ giúp đối với đối tượng
NCT đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm BTXH tỉnh Bình Định.
Thực hiện chính sách xã hội đối với NCT trong nhiều thập niên qua, Đảng
và Nhà nước luôn quan tâm, có nhiều chủ trương chính sách và tăng cường công
tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm từng bước nâng cao chất lượng đời
sống NCT. Các nghành các cấp, luôn xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng,
thường xuyên trong việc xây dựng triển khai các chiến lược trung hạn, dài hạn và
các giải pháp có tính lâu dài cũng như trước mắt.
Từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu, đề tài viết về nhóm đối tượng này
nhưng chỉ tiếp cận ở khía cạnh ảnh hưởng và tác động của chính sách an sinh xã hội
tại địa phương ảnh hưởng đến đời sống của gia đình NCT; tìm hiểu về vấn đề chăm
sóc sức khỏe, về thực trạng đời sống NCT, hay đánh giá hiệu quả của việc thực hiện
chính sách trợ giúp đối với NCT dưới góc nhìn của người làm chính sách và đối
tượng là NCT nói chung chứ không có đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu sâu sắc
về thực trạng QLTH đối với NCT nói chung và NCT cô đơn không nơi nương tựa
nói riêng, bên cạnh đó cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu để có thể đưa ra các giải

2


pháp nâng hiệu quả QLTH đối với NCT… vì thế với đề tài này tác giả không chỉ
muốn tìm hiểu thực trạng về QLTH đối với NCT tại trung tâm mà còn muốn góp
phần tìm ra một số giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả tiến trình QLTH đối với
NCT
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn của QLTH đối
với NCT (thông qua nghiên cứu thực tiễn của Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định,
tỉnh Bình Định). Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn
QLTH đối với NCT nói chung và NCT đang sống tại trung tâm nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về QLTH đối với NCT.
- Tìm hiểu thực trạng thực hiện quy trình QLTH đối với NCT tại Trung tâm
BTXH tỉnh Bình Định.
- Tìm hiểu tác động của QLTH đối với NCT tại trung tâm.
- Tìm hiểu những khó khăn mà NCT gặp phải khi sống tại trung tâm.
- Đưa ra những giải pháp để việc thực hiện quy trình QLTH đối với NCT tại
trung tâm được tốt hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là QLTH đối với NCT.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu đối với các đối tượng NCT đang được nuôi
dưỡng tại trung tâm BTXH tỉnh Bình Định.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Thời gian khảo sát từ năm 2011 đến tháng 06/2016.
Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại Trung tâm BTXH tỉnh Bình Định (số 78
Ngô Đức Đệ, phường Bình Định, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) .

3


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu phải dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

nghĩa duy vật lịch sử và nghiên cứu chính sách xã hội tác động tới đời sống NCT
neo đơn phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với các chính sách xã hội đối
với các giai cấp, các tầng lớp các nhóm xã hội khác nhau.
NCT là đối tượng cần được xã hội quan tâm nên khi đi vào nghiên cứu chính
sách xã hội về các đối tượng này chúng ta phải xác định trước hết vì nhân tố phát
triển con người, đảm bảo các nhu cầu chính đáng của đối tượng, từ đó góp phần vào
phát triển xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập và phân tích thông tin tư liệu
Tiến hành thu thập và phân tích các thông tin tư liệu từ các nguồn như: văn
bản pháp luật, thông tư, nghị định, sách, báo, tài liệu trong báo cáo tổng kết cuối
năm 2015 của Trung tâm BTXH Bình Định, báo cáo của Sở LĐTBXH tỉnh Bình
Định...
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu các đối tượng: NCT, Ban Giám đốc, cán
bộ phụ trách và nhân viên CTXH đang công tác tại Ttrung tâm BTXH Bình Định.
5.2.3. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát kèm với phương pháp phỏng vấn với mục
đích tìm hiểu và đảm bảo tính khách quan và độ chính xác của những thông tin thu
được.
5.2.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp để tìm hiểu sâu sắc hơn về đặc
điểm tâm sinh lý, nhu cầu... đặc trưng của nhóm đối tượng NCT và những nét riêng
của nhóm NCT neo đơn không nơi nương tựa từ đó dễ dàng đưa ra hướng trợ giúp
phù hợp đối với đối tượng.

4


6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần làm phong phú thêm hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân
tích lý luận về quy trình QLTH đối với NCT đang được nuôi dưỡng tại các trung
tâm BTXH nói riêng và lý luận về chính sách an sinh xã hội, BTXH nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với vấn đề NCT hiện nay.
Giải quyết thực trạng việc áp dụng quy trình QLTH đối với NCT nói chung
và NCT neo đơn đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH nói riêng.
Kiến nghị về những bất cập của cơ chế chính sách đối với NCT.
Xã hội hóa ngành CTXH, thực hiện tốt chính sách BTXH và an sinh xã hội.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý trường hợp đối với người cao tuổi;
Chương 2: Thực trạng quản lý trường hợp đối với người cao tuổi từ thực
tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định;
Chương 3: Giải pháp bảo đảm thực hiện quản lý trường hợp đối với người
cao tuổi từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Định.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRƯỜNG HỢP ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Người cao tuổi
Già là một giai đoạn trong cuộc đời của mỗi con người. Để đi đến cách hiểu
thống nhất về khái niệm, trước tiên cần có sự thống nhất về cách gọi lớp người
nhiều tuổi trong xã hội. Trong tiếng Việt và trong đời sống thực tế, để gọi lớp NCT,

người Việt Nam sử dụng nhiều tên gọi khác nhau như “lão”, “cụ”. [25, tr. 9].
Từ trước đến nay không ít người coi sự già nua như một thời kỳ suy thoái: cơ
thể yếu dần, mất khả năng thích nghi…Cách nhìn nhận này rất phiến diện, vì khái
niệm “tuổi già” là một khái niệm động, mang tính phát triển, tính xã hội và tính lịch
sử [10, tr. 92].
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới và một số tổ chức quốc tế, cũng như ở
Việt nam đã dùng danh từ “Người cao tuổi” thay cho “Người già”. Cụm từ “Người
cao tuổi” bao hàm sự kính trọng, sự động viên hơn so với cụm từ “Người già”. Tuy
nhiên, về mặt khoa học thì thuật ngữ “Người già” hay “Người cao tuổi” đều được
dùng với ý nghĩa tương tự như nhau.
Theo qui ước của Liên Hiệp Quốc “những người từ 60 tuổi trở lên không
phân biệt giới tính là người già” và chia làm hai nhóm tuổi:
Tuổi từ 60-74 là NCT.
Tuổi từ 75 trở lên là người già.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phân chia các lứa tuổi người già như sau:
Từ 60-74 tuổi: NCT.
Từ 75-90 tuổi: người già.
Ngoài 90 tuổi: người già sống lâu.
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau về mốc tuổi để công nhận là
NCT, song xét trên các góc độ: tâm lý, sinh lý, luật pháp, truyền thống dân tộc, tuổi

6


thọ trung bình của một quốc gia…có thể đi đến thống nhất khái niệm “người cao
tuổi là người 60 tuổi trở lên đối với nam và 55 tuổi đối trở lên với nữ”. [25, tr.10]
Theo luật NCT được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua tại kỳ họp thứ 6, quốc hội khóa XII thì: “Người cao tuổi là công dân Việt
Nam từ đủ 60 tuổi trở lên” [22, tr.18].
Theo quan điểm của CTXH: Với đặc thù là một nghề trợ giúp xã hội, CTXH

nhìn nhận về NCT như sau: NCT với những thay đổi về tâm sinh lý, lao động, thu
nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó, NCT là
một đối tượng yếu thế, đối tượng cần sự trợ giúp của cộng đồng [13, tr.82].
1.1.2. Quản lý trường hợp
QLTH là một trong các phương pháp can thiệp của CTXH được NVXH thực
hiện để trợ giúp cá nhân và gia đình khi họ gặp những khó khăn không thể tự vượt
qua được [7, tr.7].
QLTH là quá trình điều phối các dịch vụ, trong đó NVXH làm việc với TC
để xác định dịch vụ cần thiết, tìm kiếm và kết nối các nguồn lực, tổ chức thực hiện
và theo dõi sự chuyển giao các dịch vụ đó tới TC một cách hiệu quả [7, tr.9].
QLTH của TC: bao gồm việc điều phối mọi hoạt động giúp đỡ, nhân danh
lợi ích của một TC hay một nhóm TC. [1, tr. 78].
QLTH là một quá trình tổ chức dịch vụ giúp đỡ TC giải quyết vấn đề khó
khăn của họ một cách hiệu quả. Trong quá trình này, NVXH làm nhiệm vụ kết nối
và điều phối các dịch vụ tâm lý xã hội để chăm sóc, giúp đỡ TC có thể tiếp cận các
dịch vụ và sử dụng chúng để vượt qua những khó khăn về thể chất tâm thần, tâm lý
và giúp họ phục hồi, phòng chống các vấn đề khó khăn có thể xảy ra. [25, tr. 87]
QLTH là một quá trình đánh giá tổng thể tình hình của TC để xây dựng kế
hoạch giải quyết vấn đề, đáp ứng nhu cầu của TC được xác định sau khi có đánh
giá. Trong quá trình này, điểm mạnh và mối quan tâm của TC thường được sử dụng
như yếu tố quan trọng định hướng cho tiến trình giúp đỡ. [23, tr. 25].

7


QLTH là một dịch vụ phục vụ con người mới nảy sinh được thiết kế để cung
cấp các dịch vụ cho cá nhân và gia đình họ khi có những vấn đề phức tạp gặp phải
cùng lúc (nghèo đói, khuyết tật, dính líu tệ nạn xã hội…). [1, tr. 111]
QLTH (tiếng Anh là Case Management) còn được gọi là quản lý ca. Ở một
số nước, QLTH được sử dụng trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ an sinh cho con

người (QLTH trong y tế nhằm chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân; QLTH với người
nghiện ma túy, người nhiễm HIV, v.v.) và cả trong lĩnh vực luật pháp (luật sư tư
vấn luật cho các TC…). [7, tr. 9]
QLTH là một phương pháp CTXH hiệu quả và đang được sử dụng để can
thiệp trợ giúp các nhóm TC đặc thù như: nhóm người khuyết tật, NCT, trẻ em có
nguy cơ vi phạm pháp luật và người nhiễm HIV/AIDS. [18, tr. 5]
Có nhiều định nghĩa khác nhau về QLTH. Về cơ bản có thể hiểu QLTH như
sau: QLTH là một quá trình trợ giúp của CTXH, bao gồm các hoạt động đánh giá
nhu cầu TC (cá nhân, gia đình), xác định, kết nối và điều phối các nguồn lực, dịch
vụ nhằm giúp TC tiếp cận với các nguồn lực để giải quyết vấn đề của TC một cách
hiệu quả.
1.1.3. Quản lý trường hợp với người cao tuổi
QLTH với NCT là một quá trình tổ chức dịch vụ giúp đỡ TC (là cá nhân và
gia đình NCT) giải quyết khó khăn của họ một cách hiệu quả. Trong quá trình này,
NVXH làm nhiệm vụ kết nối và điều phối các dịch vụ tâm lý xã hội để chăm sóc,
giúp đỡ TC có thể tiếp cận các dịch vụ và sử dụng chúng để vượt qua những khó
khăn về thể chất, tâm lý, sức khỏe, các bệnh tật tuổi già và giúp họ phục hồi, phòng
chống các vấn đề khó khăn có thể xảy ra.
1.2. Các vấn đề lý luận về quản lý trường hợp đối với người cao tuổi
1.2.1. Nhu cầu của quản lý trường hợp đối với người cao tuổi
Già hóa dân số tạo ra những thách thức về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa cho
các cá nhân, gia đình, xã hội và cộng đồng trên toàn cầu.
Theo điều tra dân số, năm 2011, tỷ lệ NCT, trên 60 tuổi của Việt Nam đã hơn
8,6 triệu người, chiếm gần 10% dân số, tỷ lệ NCT trên 65 tuổi chiếm 7% dân số.

8


Theo dự báo đến năm 2025 sẽ có 18.8% dân số là người già, đến năm 2050 sẽ có
khoảng gần 30% dân số Việt Nam trên 60 tuổi.

Trước tình hình già hóa dân số, với truyền thống tôn kính NCT của dân tộc
Việt Nam từ trước đến nay. Đảng và nhà nước luôn luôn quan tâm đối với NCT,
đảm bảo cho NCT có một cuộc sống ổn định. Chính sách về NCT là bộ phận của
chính sách an sinh xã hội của Đảng và nhà nước.
Việt Nam là nước phát triển ở trình độ thấp, dân số phần đông là nông dân.
Hậu quả khá nặng nề của chiến tranh vẫn chưa thể giải quyết dứt điểm. Là đất nước
thường xuyên phải chịu hậu quả của thiên tai, bão lụt, hạn hán với tần suất xuất hiện
trong một năm ngày càng lớn và diễn biến phức tạp, khó lường. Do ảnh hưởng của
ô nhiễm và sự tàn phá môi trường, biến đổi khí hậu…Đã tác động rất lớn đến đời
sống của người dân mà nhất là đến các đối tượng BTXH, những con người yếu thế
trong xã hội. [21, tr. 9]
Cũng như người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người khuyết
tật…NCT là một trong những đối tượng quan trọng cần trợ giúp của CTXH nói
chung và quá trình QLTH nói riêng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay
[13, tr. 83]. NCT cần đến những hỗ trợ liên quan đến những vấn đề sau:
- Vấn đề sức khỏe: giảm sút sức khỏe, bệnh tật, ốm đau, khám chữa bệnh...
- Vấn đề sức khỏe tâm thần: tình cảm, giao tiếp, quan hệ gia đình và xã hội.
- Vấn đề đời sống vật chất: đói nghèo, không bảo hiểm, không nơi nương
tựa.
- Vấn đề tham gia giao thông.
- Vấn đề việc làm, tự đảm bảo cuộc sống hoặc trợ giúp con cháu.
- Vấn đề góa bụa, cô đơn, buồn chán...
Mặc khác hoàn cảnh của từng con người trong xã hội luôn khác nhau. Ở
NCT cũng vậy, có nhiều người sau thời gian cống hiến cho xã hội khi về già họ
được hưởng các chế độ ưu đãi của nhà nước. Con cái thành đạt họ có một cuộc sống
hạnh phúc vui vẻ, an nhàn bên con cháu. Nhưng cũng có rất nhiều người khi tuổi
già lại phải sống trong cảnh cô đơn, hiu quạnh không người thân thích, không đủ

9



khả năng tự lo cho bản thân. Có những người có con cháu, nhưng do mặt trái của
nền kinh tế thị trường, tệ nạn xã hội, sự băng hoại, biến thái nhân cách, đạo đức...
con cháu đã vô tình, không quan tâm, không làm tròn trách nhiệm, bỏ mặc ông bà,
cha mẹ. Kèm theo đó là cơ chế chính sách, sự thiếu quan tâm sâu xác của các cấp
chính quyền địa phương, của các tổ chức, hội, đoàn thể, của cộng đồng...
Như vậy về mặt số lượng sẽ có hàng triệu NCT cần đến sự hỗ trợ, trợ giúp
của xã hội. Trong khi đó về lĩnh vực và nhu cầu trợ giúp lại rất đa dạng và hình như
lĩnh vực nào cũng rất quan trọng.
Ngày nay, rất cần các NVXH làm việc ở các viện dưỡng lão, các trung tâm
nuôi dưỡng NCT neo đơn cũng như NVXH chăm sóc NCT tại cộng đồng. Tại
những nơi này, NVXH sẽ đánh giá nhu cầu vật chất và tinh thần của NCT để có kế
hoạch giúp đỡ họ. [1, tr. 94]
Rõ ràng cần phải có một đội ngũ cán bộ CTXH đông đảo, được đào tạo bài
bản và đặc biệt đội ngũ này cần được đào tạo cả về y tế, tâm sinh lý của NCT thì
mới có thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc, hỗ trợ chuyên môn dành cho NCT. Từ
đó có thể giúp:
- Tìm kiếm, kết nối và điều phối các hoạt động hỗ trợ NCT.
- Tìm kiếm các chương trình, chính sách, dự án hỗ trợ NCT.
- Tổ chức, liên hệ với tổ chức, cơ quan quản lý chính sách, chương trình, dự
án để kết nối với NCT có nhu cầu phù hợp.
- Hỗ trợ NCT làm các thủ tục cần thiết để nhận được sự hỗ trợ.[25, tr. 88]
Nếu nhân viên CTXH làm tốt nhiệm vụ của mình, đưa NCT đến với quy
trình QLTH và thực hiện tốt, kết thúc hiệu quả quy trình thì đời sống, nhu cầu của
NCT sẽ được đảm bảo. Giúp NCT có được một cuộc sống lúc tuổi già đầy ý nghĩa.
Giúp khắc phục được vấn đề hiện nay vẫn còn một bộ phận NCT còn gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống, khó tiếp cận với các nguồn lực, dịch vụ, chính sách.
Vậy có thể thấy CTXH nói chung và QLTH đối với NCT nói riêng đang trở
thành một nhu cầu cấp thiết hiện nay.
1.2.2. Nguyên tắc của quản lý trường hợp đối với người cao tuổi


10


Chấp nhận thân chủ
Thân chủ trong QLTH với NCT là những người lớn tuổi có hoàn cảnh và nhu
cầu cơ bản chưa được đáp ứng. Ở họ vẫn có nhân phẩm, có giá trị riêng và có quyền
được tôn trọng bình đẳng. Chính vì vậy trong các hoạt động trợ giúp, NVQLTH cần
có thái độ tôn trọng phẩm giá con người và chấp nhận họ. Việc chấp nhận những
hành vi, quan điểm hay giá trị của TC không có nghĩa là đồng tình với những hành
vi, suy nghĩ của họ. Sự tôn trọng hay chấp nhận ở đây ám chỉ sự ghi nhận sự tồn tại
và không phán xét những hành vi hay suy nghĩ của họ.
NVQLTH cần tôn trọng những cảm xúc, suy nghĩ của TC. Khi được chúng
ta giúp đỡ, TC có thể phê phán, đỗ lỗi, quy gán và có những nhận định không hợp
lý. NVQLTH hãy xem đó là những điều bình thường bởi TC đang bức xúc, họ đang
khủng hoảng với tình trạng của chính bản thân họ. Thực hiện nguyên tắc này giúp
cho NVQLTH tạo được lòng tin từ TC, qua đó thúc đẩy sự hợp tác và chia sẽ của
họ, đó là nền tảng cho việc thiết lập mối quan hệ nghề nghiệp.
Tính cá thể hóa
Nguyên tắc này tin rằng mỗi người có những tính cách khác nhau và những
mong muốn, nguyện vọng cũng không giống nhau. Mỗi gia đình cũng có những đặc
điểm riêng với nếp sống, truyền thống gia đình.
Việc đảm bảo tính khác biệt trong trợ giúp TC thể hiện ở việc tìm hiểu và
phát hiện những nét đặc thù của trường hợp đó, linh hoạt trong giải quyết vấn đề,
không áp dụng cách giải quyết giống nhau cho các trường hợp. Giải pháp cho mỗi
trường hợp cần được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu, đặc điểm, khả năng và nguồn lực
mà họ có.
Tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ
NVQLTH không quyết định thay TC, không áp đặt mà chỉ đóng vai trò là
người xúc tác và giúp đỡ họ đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh của

họ. Nếu TC không tự quyết định được như trường hợp trẻ còn quá nhỏ, người có rối
loạn tâm thần NVQLTH cần lấy ý kiến từ người bảo hộ của họ. Thực hiện nguyên

11


tắc này cũng là cách mà NVQLTH giúp cho TC trở nên tự tin, nâng cao khả năng
đưa ra quyết định đúng đắn trong cuộc sống.
Dịch vụ toàn diện
Nguyên tắc dịch vụ toàn diện đảm bảo rằng TC sẽ nhận được đầy đủ các dịch
vụ để đáp ứng nhu cầu của mình. Mỗi TC trong QLTH thường gặp nhiều vấn đề.
Để giải quyết triệt để các khó khăn, hỗ trợ TC phục hồi và phát triển toàn diện, họ
cần được đáp ứng nhiều nhu cầu. Ví dụ, khi quản lý một NCT, các dịch vụ cần cung
cấp cho NCT thường là: khám điều trị bệnh tật, chăm sóc sinh hoạt hằng ngày, hỗ
trợ phương tiện đi lại hoặc người chăm sóc, hỗ trợ tâm lý…
Ngoài ra, các dịch vụ hỗ trợ gia đình để tạo ra môi trường an toàn cho NCT
cũng được quan tâm. Bỏ qua việc đáp ứng một nhu cầu bất kì trong kế hoạch trợ
giúp này sẽ có thể tác động tới kết quả trợ giúp của các dịch vụ khác. Chẳng hạn,
nếu dịch vụ hỗ trợ tâm lý không được quan tâm, tâm lý khủng hoảng sẽ vẫn ảnh
hưởng tới sức khỏe thể chất, thậm chí có thể dẫn đến các hành vi khiến gây tổn hại
bản thân của TC.
Dịch vụ chất lượng
Nguyên tắc này nhấn mạnh tới sự cam kết của NVQLTH đối với việc tôn
trọng quyền của TC và trách nhiệm của họ khi cung cấp dịch vụ. Để làm tốt nguyên
tắc này, NVQLTH phải tuân thủ tốt các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, tăng
cường trau dồi chuyên môn và phát triển năng lực tự nhận thức của bản thân để có
khả năng kết nối, điều hành, giám sát và trực tiếp cung cấp các dịch vụ thực sự chất
lượng nhất cho TC.
Trao quyền
Trao quyền trong QLTH là việc tôn trọng sự khác biệt của mỗi TC, dành

quyền tự quyết định cho TC, xây dựng kế hoạch dựa trên tiềm năng và lợi ích của
TC, tạo cơ hội tham gia và tăng khả năng tự đáp ứng của TC. Để làm tốt nguyên tắc
này, NVQLTH cần đảm bảo sự tham gia của TC trong cả tiến trình từ thu thập
thông tin, đánh giá, xác định nhu cầu, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện kế
hoạch cũng như đánh giá dịch vụ” [7, tr. 14].

12


Ngoài ra, NVQLTH cần trang bị cho TC các kỹ năng điều phối dịch vụ và
các kỹ năng phát triển khác trong CTXH như: khuyến khích TC tham gia giải quyết
vấn đề, xây dựng mối quan hệ nghề nghiệp giữa NVXH và TC [1, tr. 65].
1.2.3. Nội dung quản lý trường hợp đối với người cao tuổi
Thu thập thông tin và đánh giá nhu cầu của đối tượng
Trước khi thu thập thông tin và đánh giá nhu cầu của đối tượng. NVQLTH
cần phải thiết lập mối quan hệ với NCT, gặp trực tiếp NCT để tìm hiểu và hỗ trợ,
thiết lập mối quan hệ ban đầu. Thu thập thông tin toàn diện về NCT:
- Thông tin về bản thân NCT.
- Thông tin về gia đình NCT.
- Thông tin về nguồn lực cộng đồng.
Các thông tin có liên quan về các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng, sự cam
kết hỗ trợ cho TC.
Nguồn lực về vật chất và con người có liên quan đến kế hoạch hỗ trợ NCT
giải quyết vấn đề.
Các chương trình, chính sách hay mô hình đặc biệt dành cho nhóm đối tượng
NCT.
- Phương pháp thu thập thông tin: phỏng vấn, quan sát, trò chuyện tâm sự…
Qua việc thu thập thông tin của NCT nhân viên QLTH sẽ đánh giá được nhu
cầu của NCT trên các lĩnh vực sau: hoàn cảnh sinh kế, chăm sóc sức khỏe và y tế.
Giáo dục, học nghề, việc làm. Mối quan hệ gia đình và xã hội. Các kỹ năng sống.

Khả năng tham gia và hòa nhập cộng đồng. Tâm lý, tình cảm và các nhu cầu khác…
Với trường hợp NCT già lẫn, khuyết tật… không có khả năng cung cấp
thông tin thì NVQLTH có trách nhiệm phối hợp với các cá nhân, gia đình, tổ chức
liên quan để xác định nhu cầu của đối tượng để tổng hợp và đánh giá.
Xây dựng kế hoạch trợ giúp đối tượng
Từ những thông tin đã thu thập được của đối tượng NVQLTH cần xác định
vấn đề ưu tiên của TC để dựa vào đó có thể xây dựng kế hoạch trợ giúp: tình trạng
sức khỏe yếu, đang ốm đau, hoặc đã bị bệnh lâu ngày, không thể tự chăm sóc sức

13


khỏe của bản thân, không có người chăm sóc, không đảm bảo về kinh tế, thu nhập,
thiếu thốn tình cảm, thiếu các mối quan hệ, tâm lý bị tổn thương, san chấn tâm lý
tuổi già, mất trí nhớ, lẫn, rối nhiễu tâm trí tuổi già…
Dựa vào các vấn đề đã được xác định và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên
NVQLTH tiếp tục xác định nhu cầu ưu tiên của TC để từ đó dễ dàng đưa ra giải
pháp can thiệp phù hợp. Thường với NCT những nhu cầu ưu tiên liên quan tới các
lĩnh vực cơ bản sau: được hỗ trợ người chăm sóc (gia đình, người thân, các trung
tâm nuôi dưỡng tập trung); được chăm sóc y tế trước mắt và lâu dài; trang cấp các
thiết bị hỗ trợ phục vụ sinh hoạt hằng ngày: xe lăn, nạn, chân tay giả; được tập vật
lý trị liệu, phục hồi chức năng; được đảm bảo chế độ dinh dưỡng; được hỗ trợ tâm
lý; được cung cấp thông tin, trang bị kiến thức về cách tự chăm sóc sức khỏe cho
bản thân; được hỗ trợ về pháp lý; được quan tâm theo dõi để duy trì những thay đổi
tích cực; được hỗ trợ tham gia các hoạt động sinh hoạt thể dục dưỡng sinh, văn
nghệ, kết bạn già, sinh hoạt câu lạc bộ NCT…
Mỗi NCT thường gặp nhiều khó khăn một lúc, ví dụ: sức khỏe yếu, không có
con cháu trông nom… Với những khó khăn gặp phải sẽ tương đương với những nhu
cầu cần được đáp ứng của họ. Vì vậy việc chỉ ra các nhu cầu ưu tiên của TC một
cách đầy đủ và cụ thể là hết sức cần thiết để xây dựng các mục tiêu, kế hoạch trợ

giúp phù hợp và kịp thời. Ví dụ: với một trường hợp NCT cô đơn không nơi nương
tựa được chính quyền địa phương đưa đến sống tại trung tâm BTXH thì vấn đề ưu
tiên là tiếp nhận, bố trí chỗ ở ban đầu, ổn định tâm lý tình cảm, bố trí người chăm
sóc, trợ giúp. Sau đó qua khám sàng lọc sức khỏe sẽ tiến đến chữa bệnh, điều trị
bệnh kịp thời (nếu có), chăm sóc sức khỏe…
Xây dựng các hoạt động can thiệp: từ những thông tin thu thập được và đánh
giá vấn đề cũng như các mục tiêu đã được xác định ở trên, NVQLTH cùng với TC
và người có trách nhiệm hoặc liên quan sẽ tham gia thảo luận và đưa ra những công
việc cụ thể để đạt được mục tiêu đề ra.
Trong kế hoạch QLTH, NVQLTH luôn cần lưu ý tới việc tổ chức huy động
nguồn lực từ các thành viên gia đình, họ hàng, bà con hàng xóm, các tổ chức xã hội

14


trong và ngoài cộng đồng, đặc biệt là các chương trình dự án hiện đang triển khai tại
địa bàn để có thể cung cấp dịch vụ cho TC một cách tốt nhất.
Tổ chức thực hiện: khi tổ chức thực hiện các hoạt động nói trên, NVQLTH
có thể trả lời những câu hỏi sau: Ai sẽ là người thực hiện hoạt động này? Cần có
những nguồn lực nào, nguồn lực nào đang có và cần huy động thêm để thực hiện
hoạt động này? Hoạt động này cần thực hiện trong bao lâu? Ví dụ: kế hoạch hỗ trợ
trong trường hợp đối tượng NCT B với các hoạt động, người thực hiện, ngân sách
và khung thời gian: mục tiêu là xác định được bệnh và điều trị khỏi bệnh; hoạt động
là khám bệnh, liên hệ với bệnh viện để chữa trị bệnh; người thực hiện: cán bộ y tế
của trung tâm; ngân sách: nguồn lực từ trung tâm, các chương trình chính sách dành
cho NCT hiện có; thời gian: tùy theo mức độ bệnh tật và thời gian nằm viện của đối
tượng B.
Lên khung kế hoạch để thực hiện hoạt động trợ giúp TC hoặc gia đình TC.
Thực hiện kế hoạch trợ giúp đối tượng
Đây là giai đoạn đưa kế hoạch đã được xây dựng thành hành động và đây

cũng là giai đoạn cần nhiều thời gian nhất trong toàn bộ tiến trình QLTH. Một số
hoạt động triển khai thực hiện kế hoạch trợ giúp. NVQLTH nhận trách nhiệm chính
trong việc triển khai và giám sát mọi hoạt động của kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch.
Cụ thể: kết nối, vận động nguồn lực; cung cấp dịch vụ; làm việc với các thành viên
trong gia đình; làm việc với cộng đồng, làm việc với các ban, ngành, các tổ chức có
liên quan…Nhằm tìm kiếm nguồn hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần và tình cảm
của TC. Phản hồi và nghe phản hồi về việc cung cấp dịch vụ cho TC.
Trong quá trình thực hiện NVQLTH cần có thái độ quan tâm, sẵn lòng giúp
đỡ, tôn trọng, nhiệt tình, chấp nhận, chân thành và bảo mật thông tin. Bên cạnh đó
NVQLTH cần sử dụng một số kỹ năng: lắng nghe, tóm lược, thấu cảm, huy động
nguồn lực, vãng gia với TC để có thể tạo mối quan hệ tốt nhất và hỗ trợ phù hợp
nhu cầu thực tế của TC.
Qua quá trình kết nối, vận động nguồn lực, hỗ trợ NCT tiếp cận, thụ hưởng
các chính sách và chương trình trợ giúp xã hội. NVQLTH có trách nhiệm theo dõi,

15


ghi chép tiến độ và báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch trợ giúp NCT theo định kỳ.
Rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung kế hoạch trợ giúp phù hợp
với nhu cầu của NCT. Ghi chép tiến độ và tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch trợ giúp.
Theo dõi, rà soát việc thực hiện kế hoạch trợ giúp đối tượng
Theo dõi chỉ ra tính hiệu quả và sự phù hợp của mục đích được xây dựng, tập
trung vào thời gian thực hiện và phương pháp được sử dụng để đạt được mục tiêu.
Rà soát: đảm bảo kết quả thu được phù hợp với nhu cầu của NCT và thu hút
sự tham gia của cả cộng đồng trong quá trình trợ giúp NCT. NVQLTH cần hợp tác
với NCT để xem thử các mục tiêu đã đạt được hay chưa, nhu cầu đã được đáp ứng
phù hợp chưa so với kế hoạch ban đầu, đánh giá lại và xây dựng kế hoạch tương lai.
Đánh giá và kết thúc quản lý trường hợp với đối tượng

Đây là phần quan trọng để chỉ ra mức độ thay đổi của TC sau khi được tiếp
nhận các dịch vụ can thiệp. Sau đó đưa ra kết luận cuối cùng là kết thúc trường hợp
hay tiếp tục kế hoạch trợ giúp. Một số đánh giá thường gặp: đánh giá sự thay đổi
của TC. Đánh giá sự thay đổi từ môi trường gia đình và cộng đồng. Đánh giá về sự
phát triển chuyên môn của NVQLTH.
Nói tóm lại, NVQLTH đánh giá quá trình thực hiện trợ giúp NCT: kết quả
thực hiện kế hoạch trợ giúp. Mức độ đáp ứng nhu cầu của NCT. Khả năng sống tốt,
tự chăm sóc sức khỏe và hòa nhập cộng đồng của NCT. Mức độ phù hợp của các
dịch vụ được cung cấp cho NCT. Khả năng kết nối dịch vụ và các nguồn lực trợ
giúp và các nội dung khác có liên quan.
Căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch trợ giúp NCT mà
NVQLTH đề xuất kết thúc trường hợp với NCT và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã hoặc người đứng đầu cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH quyết định khi TC đã
đạt được mục tiêu, TC có thể sống tốt, tiếp cận được với các chính sách, chế độ, các
dịch vụ trợ giúp dành cho NCT… Với những trường hợp các nhu cầu của NCT
chưa được đáp ứng, các yếu tố nguy hại với NCT vẫn còn… thì trường hợp không
kết thúc mà phải được đánh giá lại, phải thực lại tiến trình trợ giúp.

16


Khi đã kết thúc trường hợp với NVQLTH làm việc có trách nhiệm sẽ thường
xuyên liên lạc với TC để xem thử TC có cần hỗ trợ thêm gì không, họ đã và đang sử
dụng các dịch vụ, chính sách, nguồn hỗ trợ như thế nào? Và có thể cùng TC vạch ra
kế hoạch cho tương lai [7, tr. 56].
NVQLTH thực hiện đầy đủ và có hiệu quả 5 bước của tiến trình QLTH thì
kết quả mang lại: nối kết TC đến với các nguồn lực của những cá nhân và cộng
đồng để họ có thể giải quyết vấn đề của mình. Tăng cường khả năng tự giải quyết
và đối phó vấn đề của TC. Thiết lập và thúc đẩy hệ thống cung cấp dịch vụ hoạt
động hiệu quả, huy động nguồn lực xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của TC, góp phần

cho sự phát triển và hình thành chính sách xã hội.
1.2.4. Kỹ năng quản lý trường hợp đối với người cao tuổi
Trong quá trình thực hiện QLTH, NVQLTH cần có nhiều kỹ năng khác
nhau, đặc biệt là các kỹ năng của CTXH, song có một số kỹ năng đặc thù trong
QLTH mà họ cần phải biết, đó là một số kỹ năng:
Kỹ năng làm việc hiệu quả: đây là nhóm kỹ năng giao tiếp, thiết lập mối
quan hệ và đặc biệt là các kỹ năng thúc đẩy năng lực xây dựng và phát triển khả
năng tự giúp đỡ của chính bản thân TC.
Kỹ năng làm việc với đa lĩnh vực: đây là nhóm các kỹ năng như: thương
thuyết, vận động nguồn lực, biện hộ.
Kỹ năng xác định nhu cầu của TC: đây là kỹ năng quan trọng có tính quyết
định cho sự thành công của một hồ sơ QLTH. Khi xác định được nhu cầu của TC
một cách chính xác, bàn kế hoạch, theo đó sẽ phù hợp và hiệu quả khi đưa vào can
thiệp.
Kỹ năng ghi chép và lưu giữ hồ sơ một cách khoa học: đây là một kỹ năng
được cho là yêu cầu bắt buộc của phương pháp QLTH. Việc ghi chép và lưu trữ hồ
sơ đảm bảo sự rõ ràng, cụ thể và an toàn bộc lộ được tính chuyên nghiệp của một
người quản lý.
Kỹ năng huy động tài nguyên cộng đồng: kỹ năng này hỗ trợ tăng cường các
cơ hội lựa chọn để giải quyết vấn đề cho TC. Kỹ năng dành quyền chủ động trong

17


lập kế hoạch các dịch vụ. Phát hiện và triển khai một cách sáng tạo các nguồn lực
trong cộng đồng để đáp ứng nhu cầu cho thân chủ [17, tr. 22].
QLTH với NCT ngoài các kỹ năng đã nêu trên cần có thêm các kỹ năng: kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng lượng giá các dịch vụ và chính sách dành cho NCT, kỹ năng
sử lý khủng hoảng và các sang chấn đối với NCT, kỹ năng thu thập thông tin: thu
thập thông tin từ các nguồn khác nhau, gợi mở, tiếp cận, kỹ năng quan sát, lắng

nghe tích cực, kỹ năng thấu cảm, kỹ năng phản hồi, kỹ năng biện hộ.[13, tr.54]
1.3. Các yếu tố chi phối quá trình quản lý trường hợp đối với người cao
tuổi
1.3.1. Yếu tố thuộc về chính sách
NCT có công sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con cháu về nhân cách và giữ
vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Việc chăm sóc đời sống vật chất, tinh
thần và tiếp tục phát huy vai trò của NCT là trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và
toàn xã hội, là thể hiện bản chất tốt đẹp, đạo lý, truyền thống của dân tộc ta.[22, tr.
5]
Việc thực hiện chính sách đối với NCT là một việc quan trọng trong hệ
thống chính sách trợ giúp xã hội vì nó thể hiện, phản ánh sự quan tâm, ý thức xã hội
của Nhà nước, của cộng đồng, của thế hệ đi sau đối với thế hệ đi trước. Của con
cháu đối với các bậc ông bà, cha mẹ.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống “trọng lão”, điều đó không chỉ biểu hiện
trong tư duy, tình cảm, phản ánh qua thơ ca, phương ngôn, tục ngữ, mà còn được
ghi nhận trong cả luật nước và lệ làng.
Như vậy, kính trọng, yêu quý NCT là một đặc điểm lớn trong đời sống tinh
thần của người Việt Nam xưa. Đó là một di sản nhân văn quý giá mà ngày nay
chúng ta cần khai thác, kế thừa.” [25, tr. 11].
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về NCT:
Một nét đặc trưng nổi trội, cao quý và hiếm có trong nhân cách văn hóa Hồ
Chí Minh là lòng yêu quý, thương yêu vô bờ bến với con người, tạo điều kiện và
khuyến khích để mỗi người phát huy hết “khả năng của mình”. Trong đó Bác đặc

18


biệt dành lòng ưu ái cho hai đối tượng đáng được yêu thương của xã hội là người
già và trẻ thơ. Không chỉ kính trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhìn nhận và đánh
giá cao vị trí xã hội của NCT.

Trên cơ sở một nhận thức và quan điểm ở tầm văn hóa, Hồ Chí Minh yêu cầu
các cấp chính quyền phải hết sức chú ý đến NCT, đáp ứng những yêu cầu và tạo
cho họ những điều kiện để cống hiến tốt. Với cương vị là Chủ tịch nước, Bác đề
nghị các địa phương phải lập danh sách các cụ từ 80 tuổi trở lên, gửi trực tiếp cho
Chính phủ. Hàng năm vào dịp 1/10, Bác thường có thư, quà gửi các cụ phụ lão
trong cả nước.[25, tr. 14]
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về NCT:
Bắt nguồn từ nền văn hóa phương đông nói chung, nền văn hóa Việt Nam
nói riêng, NCT ở Việt Nam luôn được gia đình, xã hội tôn vinh, kính trọng. Chính
những điều này đã giữ gìn đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đối với NCT.
Đến cách mạng tháng tám, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kế thừa và phát huy truyền thống trọng lão của ông cha. Đảng và Nhà nước Việt
Nam có quan điểm nhất quán về việc chăm sóc NCT và coi đây là một chính sách
quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Như vậy quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước đối với NCT trước hết
xuất phát từ vị trí, vai trò của người cao tuổi hiện nay, sự đóng góp của họ trước đây
cho đất nước, đồng thời cũng là kế thừa truyền thống “kính lão, trọng thọ” tốt đẹp
vốn có từ hàng nghìn năm qua của dân tộc ta. [25, tr. 16]
Thực hiện tốt chính sách đối với NCT sẽ góp phần đảm bảo an sinh xã hội,
tạo ra một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
1.3.2. Yếu tố thuộc về nhân viên công tác xã hội
Nghề CTXH là một nghề còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Trước đây chủ yếu
biểu hiện ở truyền thống vốn có của dân tộc: cưu mang giúp đỡ lẫn nhau với tinh
thần “lá lành đùm lá rách”, hoặc “bầu ơi thương lấy bí cùng”. Ở đây mang tính chất
giúp đỡ đơn thuần.[13, tr.37]

19



×