Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ TÍN NGUỠNG, TÔN GIÁO CỦA NGUỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.21 KB, 45 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
─────────────

PHÙNG THỊ SINH
PHÙNG THỊ SINH
TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ TÍN NGUỠNG, TÔN GIÁO
CỦA NGUỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC
TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ TÍN NGUỠNG, TÔN GIÁO

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

CỦA NGUỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM THỊ UYÊN

Thái Nguyên - năm 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Thái Nguyên - năm 2010




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG........... 6
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ......................................................... 6
1.2. Đồng Văn qua các thời kì lịch sử ......................................................... 8
1.3. Khái quát về dân tộc Mông .................................................................. 9
Chương 2: TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƯỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN (HÀ
GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ........................ 17
2.1. Tổ chức gia đình và dòng họ. ............................................................. 17
2.1.1. Tổ chức gia đình ............................................................................. 17
2.1.2.Tổ chức dòng họ .............................................................................. 21
2.2. Tổ chức làng bản ............................................................................... 31
2.2.1. Sự hình thành bản của người Mông ................................................ 31
2.2.2. Bộ máy tự quản của bản ................................................................. 33
2.2.3. Những luật tục về đất đai, nguồn nước, chăn nuôi và các thể thức xử
phạt vi phạm. ............................................................................................ 34
2.2.4. Bản (giao) với quan hệ cộng đồng về tín ngưỡng và đời sống sinh
hoạt: ......................................................................................................... 37
2.3. Chế độ thổ ty ..................................................................................... 39
2.3.1. Ruộng đất và quan hệ giai cấp ........................................................ 39
2.3.2. Sự thay đổi trong thời kỳ Pháp thuộc .............................................. 45
Chương 3: TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI MÔNG Ở ĐỒNG

VĂN (HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945. ...... 53
3.1. Tín ngưỡng dân gian .......................................................................... 53
3.1.1. Luận thuyết “vạn vật hữu linh” ....................................................... 53
3.1.2. Thờ cúng tổ tiên và các thần che chở cho gia đình .......................... 56
3.1.3. Thờ cúng thần của cộng đồng giao ................................................. 62
3.1.4. Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp ............................. 62
3.1.5. Tàn dư ma thuật .............................................................................. 63
3.1.6. Sa man giáo .................................................................................... 64
3.2. Tôn giáo ............................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................. 73

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Huyện Đồng Văn là địa bàn xung yếu, phên dậu của cửa ngõ Việt Nam
ở phía Bắc và cũng là một trong những nơi tiếp nhận di dân người Mông từ
bên kia biên giới sang Việt Nam sinh sống sớm nhất. Đến nay, người Mông là
cư dân có số lượng đông đảo nhất ở Đồng Văn nói riêng và tỉnh Hà Giang nói
chung. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình dân tộc Mông cùng các
dân tộc thiểu số anh em khác đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử
xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang.
Tuy cư trú trên vùng đất ít thuận lợi, nhiều khó khăn nhưng dân tộc
Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trong lịch sử lại có một tổ chức xã hội, chính
trị đáng lưu ý bên cạnh một kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể vô cùng
phong phú độc đáo và giàu bản sắc. Vì lẽ đó mà tình hình chính trị, kinh tế,
văn hoá - xã hội của đồng bào Mông đã trở thành đối tượng nghiên cứu về
dân tộc học, lịch sử, khoa học xã hội nhân văn nói chung của nhiều cơ quan
và nhà khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau song cho đến nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu về tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo của
người Mông ở Đồng Văn trước cách mạng tháng Tám một cách thấu đáo và
toàn diện.

Cùng với thực tế hiện nay, các dân tộc ít người trong đó có dân tộc
Mông ở Đồng Văn trình độ dân trí còn thấp, trình độ phát triển kinh tế còn
nhiều hạn chế. Trong khi đó kẻ thù và các thế lực thù địch lợi dụng phong tục,
tập quán, tín ngưỡng kết hợp sửa đổi giáo lý đạo Tin Lành để mê hoặc, lôi
kéo, xúi giục đồng bào người Mông chống phá đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" của chúng. Do
đó, đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đồng bào người Mông cũng như

1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




các dân tộc anh em trên địa bàn và gây mất ổn định trong nước cũng như khu

điểm kinh tế, quan hệ giai cấp xã hội… của các dân tộc ít người ở phía Bắc

vực. Thực trạng đó đặt ra thách thức mới trong việc hoạch định chính sách

Việt Nam trong đó có dân tộc Mông.

dân tộc, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông để tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định trật tự an ninh quốc gia.

- Cuốn sách “Văn hoá dân tộc Mông Hà Giang ” do Trường Lưu và
Hùng Đình Quý chủ biên, viện văn hoá - bộ văn hoá thông tin, sở văn hoá

Tìm hiểu về tổ chức xã hội và tín ngưỡng tôn giáo của người Mông ở


thông tin tỉnh Hà Giang năm 1996. Chuyên đề này đã đề cập một cách khá

Đồng Văn trước cách mạng tháng Tám của người Mông là cần thiết để thấy

toàn diện, trong một hệ thống nhằm khẳng định những đặc điểm của văn hoá

rằng lịch sử phát triển của người Mông gắn liền với lịch sử dân tộc, vai trò vị

Mông từ truyền thống đến hiện đại.

trí của người Mông Hà Giang cũng là một bộ phận hữu cơ trong cơ thể Việt

- Cuốn “Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891-

Nam, góp phần bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống thực hiện mục tiêu

2001)” của Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang,

“phát huy mạnh mẽ tính đa dạng bản sắc độc đáo của các dân tộc anh em làm

nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội năm 2001. Đây là một cuốn thông sử

phong phú thêm nền văn hoá chung của cả nước” như Nghị quyết Trung ương

được biên soạn, trình bày toàn diện và có hệ thống về các lĩnh vực trọng yếu:

V khoá VIII của Đảng đã đề ra trong thời kì đổi mới đất nước, đồng thời vận

tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử, văn hoá, dân tộc… của tỉnh Hà


dụng làm cơ sở cho việc thực hiện đường lối chính sách đại đoàn kết dân tộc

Giang từ khi thành lập đến nay.

của Đảng.

- “Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn (1944 – 1975)” tập I Ban chấp

Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn: “Tổ chức xã hội và

hành Đảng bộ huyện Đồng Văn xuất bản năm 2004 cũng là một công trình

tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trước cách

nghiên cứu khoa học công phu, tái hiện lại lịch sử truyền thống hào hùng của

mạng tháng Tám năm 1945” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, mong muốn

nhân dân các dân tộc Đồng Văn trong đó có đồng bào Mông trong cuộc đấu

góp một phần nhỏ bé vào công tác nghiên cứu khoa học về cư dân miền núi

tranh chống thổ ty phong kiến, đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục kinh tế,

mà lâu nay chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo.

văn hoá xã hội, phát triển sản xuất, xây dựng đời sống mới.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề


- Luận văn thạc sĩ “Cuộc vận động định canh, định cư đối với đồng bào

Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã được thừa hưởng kết quả

Mông huyện Đồng Văn – Hà Giang trong thời kì đổi mới (1986 – 2005)”

nghiên cứu của những người đi trước đề cập đến vấn đề nghiên cứu một cách

chuyên ngành lịch sử Việt Nam của thạc sĩ Lâm Thị Thu Hằng là một đề tài

trực tiếp hay gián tiếp ở những khía cạnh khác nhau:

nghiên cứu cụ thể và có hệ thống về tình hình kinh tế của đồng bào Mông

- “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)” của Uỷ ban
khoa học xã hội Việt Nam, Viện dân tộc học, Nhà xuất bản khoa học xã hội
Hà Nội năm 1978. Đây là công trình biên soạn về nguồn gốc lịch sử, đặc

2

trong cuộc vận động định canh định cư của Đảng và Nhà Nước ta.
Đây là tổng quát kết quả nghiên cứu của giới học thuật, là những gợi
mở quý báu, tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện đề tài của mình.

3


3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm tìm hiểu
về lịch sử địa phương mình đồng thời góp phần phản ánh một cách khoa học,

chân thực về lịch sử hình thành, tổ chức xã hội, chính trị, văn hoá tín ngưỡng
tôn giáo của dân tộc Mông và bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử địa
phương cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài đi sâu giải quyết các vấn đề về tổ chức
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn ( Hà Giang) trước

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp phân tích nguồn tài liệu thư tịch.
- Phương pháp điền dã dân tộc học.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu.
- Phương pháp hệ thống hoá bằng bảng biểu, sơ đồ.
6. Đóng góp của luận văn

cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn gốc dân tộc, tổ chức xã hội, quan hệ

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và toàn

giai cấp, quan hệ xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn

diện về tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở huyện Đồng

( Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám.

Văn tỉnh Hà Giang trước cách mạng tháng Tám.

- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu trong thời gian trước cách


Luận văn là một tài liệu tham khảo cho quá trình học tập bộ môn lịch

mạng tháng Tám 1945 với không gian nghiên cứu là huyện Đồng Văn, tỉnh

sử địa phương, cơ sở văn hoá cũng như giảng dạy lịch sử địa phương ở trường

Hà Giang.

phổ thông sau này. Đồng thời làm cơ sở cho các nhà khoa học hoạch định

4. Nguồn tư liệu

chính sách dân tộc, góp phần thực hiện mục tiêu bảo tồn và phát huy bản sắc

- Nguồn tư liệu chung: Kiến văn tiểu lục; Các dân tộc ít người ở Việt

văn hoá truyền thống của dân tộc Mông nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Hà

Nam (các tỉnh phía Bắc); Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Giang nói chung.

trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

7. Cấu trúc của luận văn

- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn, Hà
Giang 110 năm đấu tranh xây dựng và phát triển (1891 – 2001); Văn hoá
Mông Hà Giang; Văn hoá truyền thống các dân tộc Hà Giang; Cuộc vận
động định canh định cư đối với đồng bào Mông huyện Đồng Văn - Hà Giang


Luận văn gồm 80 trang, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được
chia làm 3 chương sau:
Chương 1: Khái quát về huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang.
Chương 2: Tổ chức xã hội của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang)
trước cách mạng tháng Tám năm 1945.

trong thời kì đổi mới ( 1986- 2005).
Ngoài ra còn một số tư liệu bổ sung: Các chính sách nghị quyết của
Đảng về dân tộc miền núi, báo cáo phát triển kinh tế xã hội huyện Đồng Văn.
Nguồn tư liệu chủ yếu là điền dã dân tộc học.
4

Chương 3: Tín ngưỡng và tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn (Hà
Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
Luận văn còn có các phần: Bản đồ hành chính và phụ lục .

5


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH HÀ GIANG

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG


Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG

mùa mưa mới có nước. Quá trình tạo sơn tự nhiên lâu đời trên địa hình núi đá
vôi đã để lại cho Đồng Văn những thắng cảnh đẹp.


1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên

Khí hậu mang tính chất ôn đới là điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho

Đồng Văn là một huyện miền núi cao của tỉnh Hà Giang, điểm cực Bắc
của Tổ quốc Việt Nam. Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý trong toạ độ từ 230 -

việc trồng các loại cây ăn quả như lê, mận, đào, táo …và các cây dược liệu
quý như thảo quả, đỗ trọng, ý dĩ...

06’- 06” đến 23o-21’- 17” vĩ bắc, từ 1050 07’-35” đến 1050 24’- 4” kinh đông.

Rừng Đồng Văn vốn là một thảm thực vật đa dạng, phong phú, thích

Phía bắc và phía tây giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa với chiều dài

hợp cho sự phát triển nhiều loại cây gỗ quý. Tuy nhiên do khai thác bừa bãi

đường biên giới quốc gia 52,5 km, phía đông giáp với huyện Mèo Vạc, phía

nên đã rơi vào tình trạng cạn kiệt, theo đó mà những loại thú như sóc, trăn, tê

nam giáp với huyện Yên Minh.

tê…vì không còn rừng cư trú nên gần như đã tiệt chủng.

Huyện Đồng Văn có diện tích tự nhiên là 44.666 ha trong đó 11.837 ha

Cây trồng trong nông nghiệp chủ yếu là ngô, một số vùng trồng lúa và


là đất sản xuất nông nghiệp, diện tích núi đá chiếm 73,49% địa hình phức tạp,

các loại cây họ đậu như: Đậu hà lan, kê, lúa mì, tam giác mạch…do diện tích

có nhiều núi cao, vực sâu chia cắt làm cho việc đi lại, giao lưu giữa các vùng

đất sản xuất nông nghiệp ít và kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ, đồng bào

gặp nhiều khó khăn.

đã biết trồng xen canh, gối vụ để tăng sản lượng và thu nhập, đa dạng các loại

Do địa hình núi cao, chia cắt nên tính chất khí hậu khắc nghiệt. Nhiệt

cây trên đơn vị diện tích nhất định. Vì thiếu đất canh tác nên người Mông

độ trung bình hàng năm từ 170-190C, lượng mưa trung bình hàng năm từ

phải làm nương ruộng trên đá, gùi đất đổ lên hốc đá để trồng. Điều kiện khí

1600mm-2000mm, chế độ thuỷ văn mỗi năm chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa

hậu điều Đồng Văn rất thích hợp trồng cây anh túc. Đồng bào có thói quen

mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Vào mùa này, mưa lớn gây ra xói lở mạnh, giao

trồng cây anh túc từ lâu đời nay để sử dụng làm thuốc. Dưới chế độ cũ, cây

thông gặp nhiều khó khăn. Mùa khô từ tháng 11đến tháng 4 năm sau, thường


anh túc được khuyến khích trồng, sử dụng. Đây là một loại hàng hoá đặc biệt,

có sương muối, sương mù, nhiệt độ có lúc xuống tới 4-50c như ở Phố Bảng,

có nhiều thời điểm buôn bán thuốc phiện tự do, các cửa khẩu tiểu ngạch là nơi

Lán Xì…thời tiết khí hậu khắc nghiệt vào mùa đông (tháng 11, 12) ít mưa nên

giao lưu mua bán thuốc phiện của thương gia nhiều nước, thị trấn Phó Bảng là

nguồn nước sinh hoạt và sản xuất rất khan hiếm gây rất nhiều khó khăn cho

nơi tấp nập, đây cũng là nơi nảy sinh các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cướp

cuộc sống của con người.

bóc, cờ bạc…Sau ngày giải phóng, sản phẩm từ cây anh túc được Nhà nước

Đồng Văn có con sông lớn nhất là sông Nho Quế, bắt nguồn từ các dãy

thu mua và quản lý.

núi phía tây bắc của huyện chảy qua Ma Lé, Đồng Văn sang Mèo Vạc và Bắc

Chăn nuôi của Đồng Văn phát triển. Người dân nuôi các gia súc như

Mê rồi đổ vào sông Gâm. Sông Nho Quế là nguồn thuỷ sinh quan trọng trong

bò, dê, ngựa, để lấy thịt, dùng sức kéo và vận chuyển …ngoài ra các gia đình


sự phát triển thuỷ điện và tưới tiêu cũng như nước sinh hoạt hằng ngày và

còn chăn thả các loại gia cầm như lợn, gà, vịt và nuôi ong mật là một ngành

điều hoà khí hậu, mùa đông dòng sông đầy ắp sương mù. Ngoài ra, còn có các

kinh tế phụ của gia đình.

con suối nhỏ khác như Lũng Táo, suối Đồng Văn, suối Phó Bảng nhưng đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7




Thủ công nghiệp Đồng Văn nhìn chung chưa phát triển, có các nghề
truyền thống thường thấy như dệt thổ cẩm, dệt vải lanh, rèn đúc, nung ngói,
máng…

Sơn, Na Khê, Ngam La, Phú Lũng, Sủng Máng, Sơn Vĩ, Phố Cáo, Sủng Là,
Sủng Thài, Vần Chải, Yên Minh.
Cuối năm 1975, hai tỉnh Hà Giang – Tuyên Quang được sáp nhập thành


Tài nguyên khoáng sản đến nay chưa phát hiện ra loại nào có trữ lượng
lớn và giá trị cao.

tỉnh Hà Tuyên và tới tháng 10 năm 1991 lại được tách thành Tuyên Quang và
Hà Giang. Đồng Văn là một trong 7 huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang. Theo

Như vậy, khi nói đến điều kiện tự nhiên Đồng Văn, người ta hình dung
ra một vùng biên cương núi non hiểm trở, địa hình phức tạp khí hậu khắc
nghiệt…những điều kiện sẵn có đó đã chi phối đặc điểm đời sống kinh tế, xã

nghị quyết của Hội đồng chính phủ, quyết định số 211/CP tách Đồng Văn ngày
15/12/1962 đã tách Đồng Văn làm 3 huyện: Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc.
Huyện Đồng Văn ngày nay bao gồm 2 thị trấn và 18 xã: thị trấn Phó

hội của người dân trên vùng cao nguyên đá này.

Bảng, thị trấn Đồng Văn và các xã: Tả Lủng, Thắng Mố, Sảng Tủng, Sính Lủng,

1.2. Đồng Văn qua các thời kì lịch sử

Lũng Táo, Phố Là, Sủng Máng, Phú Lũng, Lũng Cú, Sà Phìn, Sủng Thài, Ma

Huyện Đồng Văn trước đây là tổng Đông Quang thuộc Châu Bình

Lé, Sủng Là, Lũng Thầu, Thài Phìn Tủng, Phố Cáo, Vần Chải, Tù Phìn.

Nguyên, phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang sau đó thuộc về Châu Bảo Lạc

Có thể nói, theo bước đi của lịch sử, Đồng Văn cũng là một mảnh đất


do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản như một lãnh địa.

có nhiều thay đổi về tên gọi và diên cách. Những thay đổi này có ảnh hưởng

Khi thực dân Pháp xâm lược, chúng tách khu vực vùng cao của tỉnh Tuyên

đến nhiếu vấn đề sự có mặt của các tộc người, về chính trị, về kinh tế, xã hội

Quang, thành lập tỉnh Hà Giang vào năm 1891, Đồng Văn được tách ra khỏi

và văn hóa của địa bàn xung yếu nơi địa đầu của Tổ quốc.

Bảo Lạc [1,tr.9].

1.3. Khái quát về dân tộc Mông

Châu Đồng Văn bao gồm hai tổng: Tổng Quang Mậu và Tổng Đông

1.3.1. Nguồn gốc lịch sử của dân tộc Mông

Minh. Trong đó, tổng Quang Mậu bao gồm các xã: Lũng Cô, Mìa Ré, Mai Li

Dân tộc Mông được xếp vào nhóm ngôn ngữ Mông - Dao. Trước đây

Ăng, Đồng Văn, Sủng Máng, Sơn Vi, Chung Phùng, Sả Phung, Niêm Sơn.

người Hán gọi người Mông là Miêu Tử hay Miêu Tộc, rồi sau đó Miêu trở

Tổng Đông Minh bao gồm các xã: Yên Minh, Mậu Duệ, Bạch Đích, Na Khê,


thành tên của tộc người. Từ đó các cộng đồng ở phía Bắc Việt Nam gọi họ là

Ngam La, Sà Phìn, Mèo Vạc, Lũng Chín, Lũng Tỉnh, Phú Cao, Sủng Là, Vần

người Mèo [46, tr.5]. Lê Quý Đôn có nhắc đến dân tộc Mông với tên gọi là

Chải, Đường Thượng, Lũng Phìn [17, tr.274-290].

“Sơn Miêu”, họ ở nơi “đại sơn lâm cày cấy thì đốt nương, đào hố, bỏ thóc,

Theo Ngô Vi Liễn công bố trong địa dư các tỉnh Bắc Kỳ. Xuất bản năm

chỗ ở nay đây mai đó không nhất định” [11, tr. 335]. Đồng Khánh dư địa chí

1928 thì Đồng Văn là một trong hai đại lý của tỉnh Hà Giang gồm các tổng

cũng có viết: “Người Mèo ở đỉnh núi, áo quần đơn giản, không trang sức hoa

xã: Tổng Quang Mậu và tổng Đông Minh gồm 19 xã: Đồng Văn, Bạch Đích,

văn…người Mèo, Mán thì tìm chỗ hơi bằng phẳng trên đỉnh núi, sườn núi

Sà Phìn, Lũng Phìn, Đường Thượng, Lũng Chinh, Mậu Duệ, Mèo Vạc, Niêm

phát cây trồng khoai, lúa mạch, rải rác cũng trồng được lúa nương (lúa dẻo)”
[38, tr.871]. Hiện nay trong các văn bản tộc danh Mông trở thành chính thức.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9




Về mặt lịch sử, theo các nguồn tài liệu đều cho biết dân tộc Mông có
nguồn gốc từ Trung Quốc. Tổ tiên của họ là người sớm biết nghề trồng lúa

gian người Mông nhiệt tình hưởng ứng phong trào “Thái Bình Thiên Quốc”
đấu tranh chống nhà Thanh, cuộc đấu tranh kéo dài từ 1840-1868.

vùng giữa hồ Động Đình và Bành Lãi và về sau cùng với quá trình lịch sử họ

Những năm về sau, người Mông vẫn rải rác di cư sang Việt Nam. Với

đã thiên cư mở rộng địa bàn cu trú tới Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam,

vị trí là mảnh đất địa đầu của Tổ quốc, huyện Đồng Văn (Hà Giang) là khu

Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) [28, tr.27-28]. Trong quá trình lịch sử

vực người Mông từ Trung Quốc sang nước ta sớm hơn các địa phương khác,

do nhiều nguyên nhân trong đó do phải chống lại ách áp bức bóc lột của “ng-


cách đây 300 năm vào cuối thời nhà Minh đầu thời nhà Thanh. Ban đầu họ

ười phía trên” (cách gọi của người Mông đối với những người áp bức họ ở

sống trên các triền núi dọc hai bên bờ sông Nho Quế dần dần mới mở rộng địa

phương Bắc) nên người Mông đã di cư vào Việt Nam và các nước Đông Nam

bàn cư trú ra các vùng thấp hơn.

Á. Do đó có thể nói quá trình thiên di này là cuộc hành trình gian khổ đi tìm
cuộc sống tự do và công bằng.

Hiện nay, Mông là dân tộc đông nhất ở Hà Giang và cũng là dân tộc
đông nhất ở Đồng Văn chiếm trên 87% dân số toàn huyện. Người Mông ở

Dân tộc Mông di cư vào Việt Nam chia làm nhiều đợt trong đó ba thời
kì đông nhất:

đây chủ yếu thuộc hai nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng) và Mông Súa (Mông
Hoa). Sở dĩ có sự phân chia như vậy là do dựa trên cơ sở phân biệt qua trang

Thời kì đầu tiên cách đây hơn 300 năm, người Mông từ Quý Châu

phục của người phụ nữ Mông. Trang phục của nữ Mông Trắng là may bằng

(Trung Quốc) di cư sang Đồng Văn. Thời kì này người Mông ở Quý Châu

lụa màu sáng, áo cổ tròn, hai mảnh, có xẻ trước ngực, vải đáp tà áo là vải hoa


đang nổi lên phong trào đấu tranh chống chính sách “cải tù quy lưu” của nhà

đỏ hoặc vàng, tay áo nhỏ có vải viền màu hoa hoặc thêu hoa ở cánh tay và

Thanh (chính sách bãi bỏ tù trưởng người Mông, triều đình đưa bọn quan lại

yếm ở sau lưng. Còn người phụ nữ Mông Hoa, áo không có xẻ ngực mà cài

người Hán trực tiếp đến cai trị từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII) song

khuy từ nách lên, váy được nhuộm chàm. Trang phục của nam giới thì khá

phong trào bị thất bại.

thống nhất là quần ống rộng, cạp vấn, áo ngắn, thắt lưng và có khăn đội đầu .

Thời kì thứ hai, cách đây 300 năm, lần này người Mông vào Việt Nam

Thời phong kiến, người Mông sinh sống trên những vị trí chiến lược

qua hai con đường: Một là vào Đồng Văn - Hà Giang, hai là vào theo đường

quan trọng của đường biên giới quốc gia vì vậy các chính quyền phong kiến

Ximakai - Bắc Hà - Lào Cai. Những người Mông di cư vào Việt Nam đợt này

trung ương đã rất chú ý tới vùng biên ải này. Qua Lý - Trần- hậu Lê tới thời

phần lớn ở Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc). Với sử sách


Quang Trung và triều Nguyễn đều cử các đoàn lên thanh tra thị sát vùng biên.

Trung Quốc thì thời kì này phù hợp với phong trào khởi nghĩa của người
Mông ở Quý Châu thất bại (1776-1820) [13, tr.14].

Quan tướng Nhà Trần (Trần Nhật Duật) đã tới Hà Giang, sứ thần của thời
Quang Trung đã lên tới Động Long (Lũng Cú) [28, tr. 213]. Như vậy vùng

Thời kì thứ ba, cách đây trên 200 năm. Đây cũng là thời kì người Mông

dân tộc Mông ở vùng cực Bắc Hà Giang từ các thời phong kiến độc lập tự chủ

ở Trung Quốc di cư sang Việt Nam đông hơn cả và nó tương đương với thời

đã nằm trong một thể thống nhất của quốc gia Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10



11




Dưới chế độ cũ, người Mông đã cùng các dân tộc thiểu số anh em nhiều


Mông có thể điều khiển trâu bò cày hết phần đất đó. Cùng với những dụng cụ

lần đứng dậy đấu tranh chống áp bức bóc lột, nổi bật là cuộc nổi dậy ở cao

trên thì cuốc, dao, liềm, quẩy tấu cũng là những dụng cụ gắn bó với cuộc sống

nguyên Đồng Văn của Sùng Mí Chảng (1911 - 1912); khởi nghĩa của Vàng

lao động của người Mông.

Chỉn Pao (1913 - 1914); hình thành các tổ chức cách mạng ở Hà Giang (

Dụng cụ sinh hoạt hằng ngày của người Mông khá đơn giản, phương

những năm 1942 - 1945) chống bọn thực dân Pháp, chống bọn cầm đầu các tổ

tiện nấu nướng thường dùng là bếp lò, chảo, chậu gỗ… trên bếp lò thường

chức phản động Việt Quốc, Việt Cách, Quốc Dân Đảng, chống phỉ, chống Mĩ

bắc một chiếc chảo lớn, chảo đó vừa để nấu canh, vừa dùng để nấu mèn

và chống các thế lực phản động khác bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc.

mén, nấu rượu hoặc dùng để nấu cám lợn. Trong mỗi gia đình người Mông

Đó là những chiến công, là niềm tự hào của đồng bào người Mông cùng các

thường có chiếc cối xay lớn để xay ngô, xay thóc, cối giã gạo, khung dệt


dân tộc thiểu số anh em khác ở Hà Giang.

vải lanh, đồ nghề một số nghề thủ công như rèn, mộc, tiện…

Nối tiếp truyền thống ấy, trong quá trình xây dựng và phát triển người

Về ăn uống, từ cây lương thực chính là ngô, người Mông chế biến

Mông còn gìn giữ và bảo lưu được nhiều giá trị văn hoá truyền thống phong

thành hai loại, trong bữa ăn hằng ngày thường thấy của người Mông gồm rau

phú, tốt đẹp của dân tộc mình.

cải, đậu, bí đỏ. Ngày mùa, ngày tết có thêm thịt gà, dê, lợn, bò, gia vị chủ yếu

1.3.2.Vài nét về văn hóa truyền thống

là ớt và gừng. Món ăn phổ biến nhất và đã trở thành một nét đặc sắc của ng-

- Văn hoá vật chất:

ười Mông là “ thắng cố” làm từ thịt dê, thịt bò và xương hầm. Đồ uống chủ

Nguồn sống chính của người Mông là dựa vào canh tác nương rẫy.

yếu là rượu ngô.

Nương có hai loại là nương định canh và nương du canh, nương định canh gọi


Do đã định cư nên nhà ở của người Mông làm khá khang trang. Người

là nương thổ canh hay thổ canh hốc đá. Nương du canh phụ thuộc vào thiên

Mông ở nhà đất trình tường, lợp ngói hoặc nhà gỗ lợp cỏ tranh, phên vách,

nhiên, năng suất không ổn định. Ngày nay, người Mông làm nương theo chế

nhà chỉ có một cửa chính ở gian giữa và một cửa phụ ở gian bên đầu hồi hoặc

độ luân canh kết hợp với trồng, bảo vệ rừng và làm ruộng bậc thang .

trái nhà. Nhà ở đồng thời cũng là nơi làm bếp sưởi và bếp nấu. Gian giữa thờ

Lương thực chính của người Mông là cây ngô, một số nơi có nước,

tổ tiên, mỗi gian được phân làm hai phần, một phần hẹp hơn ngăn làm các

người Mông làm ruộng bậc thang trồng lúa trên sườn núi. Ngoài ra người

phòng ngủ, một phần rộng hơn dùng làm bếp nấu hoặc bếp sưởi. Các cánh

Mông còn trồng thêm các loại cây khác như sắn, khoai, thực phẩm, rau xanh

cửa đều mở vào trong nhà, quanh nhà thường được rào hoặc xếp đá. Ngoài

(đậu, rau rền, vừng…), cây dược liệu (đỗ trọng, tam thất, ý dĩ..), cây ăn quả

ngôi nhà chính người Mông còn có ngôi nhà phụ ở nương, thường là kiểu nhà


(mận, mơ, lê, đào, chuối…), đặc biệt chú trọng trồng cây lanh để dệt vải, nuôi

đất hoặc nửa sàn, nửa đất.

gia súc (bò, ngựa) để làm phương tiện canh tác và vận chuyển.
Người Mông đã đạt đến trình độ cao trong kĩ thuật rèn công cụ lao

Chuồng trại chăn nuôi được xây dựng rất cẩn thận, chuồng gia súc
thường được làm trước nhà lệch qua bên cửa chính, chuồng được làm sàn ván

động bằng sắt và kĩ thuật cày nương hốc đá, chỉ cần đủ lọt lỡi cày là người

bưng và có máng cho bò, dê, ngựa….

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12



13




Một số điểm trên đây có thể cho thấy rằng về mặt sinh hoạt vật chất,


chức hội vui, đánh yến, ném còn, đu quay, chơi đánh cù, hát giao duyên. Đặc

người Mông có nhiều quan niệm đơn giản, không cầu kỳ. Do nhiều yếu tố tác

sắc nhất là chợ tình, mỗi năm chỉ có một phiên được tổ chức vào tháng 2 hoặc

động nên kinh tế của người Mông là tự túc, tự cấp, tự tiêu. Trước đây cây

tháng 3 âm lịch hàng năm.

thuốc phiện là nguồn kinh tế chủ yếu, cây lương thực chính là ngô nhưng

Hôn nhân của người Mông theo chế độ một vợ một chồng được tiến

hàng năm đều không đủ, chăn nuôi chủ yếu để làm thực phẩm, lấy sức kéo,

hành qua 3 giai đoạn chính: Dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Một cổ tục đặc sắc

các loại cây có giá trị thì chưa được đầu tư, giao thông đi lại khó khăn, không

trong tình yêu - hôn nhân của người Mông là tục cướp vợ (kéo vợ), về hình

có thị trường tiêu thụ nên chưa phát huy được vai trò kinh tế. Do vậy mà đời

thái hôn nhân là tàn dư của hôn nhân thời kỳ quá độ từ chế độ mẫu quyền

sống sinh hoạt vật chất của người Mông còn nghèo nàn kép kín.

sang chế độ phụ quyền. Đây có thể là hình thức phát sinh để chống lại quyền


Nhưng trái ngược hẳn với cái vỏ vật chất nghèo nàn đó, người Mông lại
có một đời sống tinh thần phong phú và chính điều đó đã khiến cho diện mạo
văn hoá truyền thống Mông mang những dáng vẻ đặc sắc.

áp đặt của cha mẹ và dòng họ về hôn nhân.
Làm giàu thêm văn hoá truyền thống Mông là kho tàng văn hoá nghệ
thuật dân gian phong phú: truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, dân ca,

Người Mông thường sống rải rác thành từng bản nhỏ theo dòng họ.

thần thoại…Nền văn hoá dân gian của dân tộc Mông phản ánh chính cuộc sống

Đây được coi như là một đơn vị tự quản, các thành viên trong đó đều phải

của họ và phản ánh năng lực sáng tạo của con người trước thiên nhiên khắc

chấp hành những luật tục và những quy định cụ thể.

nghiệt, “truyện dân gian Mông còn tập trung đề cập đến mặt trái xã hội, bênh
vực lẽ phải, tràn đầy tính giáo dục và đạo đức nhân văn cao cả ”. [28, tr.61]

- Văn hoá tinh thần:
Về tín ngưỡng tôn giáo: Ngoài thờ tổ tiên, người Mông sùng bái nhiều
thần linh nên “ vạn vật hữu linh ” là tín ngưỡng bao trùm của họ.
Trong nghi thức thờ cúng tổ tiên, các gia đình người Mông đều có bàn

Dân ca Mông chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống hàng ngày của
người Mông nhất là những dịp hội hè, cưới xin, ma chay, hát giao duyên tỏ
tình, tình yêu trai gái hầu hết bắt nguồn từ lời ca tiếng hát mà nảy sinh.


thờ tổ tiên ở gian giữa. Bàn thờ rất đơn giản, bát hương chỉ có một ống vầu

Nhạc cụ cũng là đặc trưng văn hoá của người Mông, tiêu biểu là khèn

hoặc nứa gắn vào vách hoặc đặt trên một tấm ván. Trên bàn thờ có quét dính

trúc, khèn lá, nhị, đàn tròn, đàn môi, sáo, trống. Ngoài ra, khi nói đến văn học

tiết gà, lông gà. Người Mông không thờ thổ công trong nhà. Trong tang ma,

dân gian Mông người ta không thể bỏ sót phần tục ngữ và câu đố với những

người Mông tổ chức rất chu đáo dù người mất là trẻ hay già đều có phong tục

nội dung phong phú, thể hiện mối quan hệ xã hội của người với người và giữa

làm đám “ ma tươi ” và “ ma khô ”.

con người với thiên nhiên.

Lễ hội của người Mông cũng được chuẩn bị rất chu đáo vì đây không

Người Mông còn có hình thức múa phổ biến nhất là múa khèn.

chỉ là dịp được nghỉ ngơi, ăn uống thoả thích mà còn là dịp gặp gỡ, làm tròn

Trước đây, chỉ có người đàn ông vừa thổi khèn vừa múa, sau này múa khèn

nghĩa vụ với gia đình, tổ tiên, đồng tộc. Vào dịp lễ tết bà con người Mông tổ


biến tấu thành một thể loại biểu diễn văn nghệ thì có thêm người nữ vào cầm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14



15




ô để múa với người nam giới, múa khèn được dùng trong mọi hoàn cảnh (lễ
cưới, hội hè, đám ma…)

Chương 2: TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA NGƯỜI MÔNG Ở ĐỒNG VĂN
(HÀ GIANG) TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Nghệ thuật kiến trúc còn rất đơn giản, nhà cửa không gọt đẽo cầu kỳ

Mỗi dân tộc đều có cấu trúc xã hội truyền thống mang những nét đặc

mà chỉ tạo những hình đơn giản cho bớt sự đơn điệu. Biểu hiện rõ nét nhất

thù riêng, sự hoạt động của nó tồn tại qua nhiều đời đến nay vẫn tiếp diễn.

cho hội hoạ và nghệ thuật trang trí là những mảng thêu trên váy, áo của người


Bên cạnh những yếu tố lạc hậu, tiêu cực cần loại bỏ thì trong nó chứa đựng

phụ nữ Mông. Những hoạ tiết sống động, uyển chuyển trên đường viền, dây

không ít những yếu tố tích cực ảnh hưởng đến sự phát triển của nông thôn

lưng, miếng sau váy được thêu rất công phu, tỉ mỉ. Qua bàn tay khéo léo của

hiện nay, sự vận hành của nó cũng chính là nơi gìn giữ bảo lưu các giá trị văn

mình, người phụ nữ Mông đã làm ra những y phục lộng lẫy và có thể nói y

hóa của mỗi tộc người. Tổ chức xã hội của người Mông ở Đồng Văn là một

phục của người phụ nữ Mông là một trong những y phục của các dân tộc vừa

điển hình về tổ chức xã hội của tộc người cư trú ở địa bàn miền núi.

đẹp, vừa độc đáo, đã góp phần tăng thêm chất thẩm mĩ vốn đa dạng trên nền

2.1. Tổ chức gia đình và dòng họ.

y phục cổ truyền Việt Nam. Nghệ thuật tạo hình độc đáo của người Mông còn

2.1.1. Tổ chức gia đình

được thể hiện qua các đường nét chạm khắc hoặc đúc hoá trên đồ trang sức
hay những hình ảnh sống động trên tranh cắt giấy.


Gia đình là loại hình chung sống mang tính chất giới tính được liên kết
lại nhờ hôn nhân nhằm để tái sản xuất cả về phương diện sinh học, lẫn

Có thể thấy rằng đồng bào dân tộc Mông ở Đồng Văn có đời sống văn
hoá vật chất và tinh thần khá phong phú, đa dạng cùng tồn tại và phát triển

phương diện kinh tế và văn hóa [50, tr.167]. Gia đình người Mông phản ánh
khá rõ quan hệ xã hội và đặc trưng tộc người.

trong nền văn hoá truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam [1, tr.10].

Người Mông gọi gia đình là Chế ninh hoặc “dỉ”(hộ). Lúc đầu, các gia

Chính trên nền tảng của sinh hoạt vật chất tinh thần đó mà trong quá trình đấu

đình thường sống quần tụ khi cha mẹ còn sống, có khi cả bốn thế hệ cùng

tranh sinh tồn và phát triển người Mông đã làm nên một bề dày truyền thống

chung sống trong một gia đình vì họ cho rằng có nhiều thế hệ cùng sống dưới

anh hùng. Đó là tinh thần cần cù, chịu khó, kiên cường, sáng tạo vượt qua mọi

một mái nhà, cùng ăn một bếp mới là có phúc nên con cái chỉ ra ở riêng khi cha

thách thức, khó khăn để sinh tồn. Đó là tinh thần quật khởi trước các thế lực

hoặc mẹ đã mất. Đây có thể là hình thái đại gia đình trong lịch sử dân tộc, về

phong kiến cường quyền áp bức bóc lột và thực dân phát xít xâm lược để bám


sau cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội thì gia đình nhỏ phụ hệ đã xuất

đất giữ làng, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Truyền thống tốt đẹp

hiện và trở nên phổ biến cho đến nay. Các hình thái gia đình thường thấy:

đó đã trở thành điểm tựa cho các thế hệ tiếp theo phát huy, xây dựng sức sống
mãnh liệt của nhân dân các dân tộc nơi đây nhất là từ khi có sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.

+ Gia đình hai thế hệ gồm một cặp vợ chồng cùng con cái chưa xây
dựng gia đình.
+ Gia đình gồm một cặp vợ chồng cùng con cái chưa xây dựng gia đình
và bố mẹ của chồng (hoặc bố hoặc mẹ chồng).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17




+ Gia đình gồm một cặp vợ chồng cùng con cái còn nhỏ, bố mẹ chồng

và em chồng.

công việc của làng bản, tiếp đón khách nhất là người thuộc dân tộc khác, giải
quyết những vấn đề nảy sinh liên quan đến lợi ích của gia đình và các thành

+ Gia đình không trọn vẹn gồm chồng (vợ) cùng con cái chưa xây dựng
gia đình.

viên trong đó, giữ gìn quan hệ đoàn kết giữa gia đình với dân bản nói chung.
Tính chất phụ quyền còn biểu hiện trong quan hệ tài sản, chỉ con trai

Trong đó hình thái một vợ một chồng cùng con cái chưa xây dựng gia
đình là chủ yếu. Về quy mô, mỗi gia đình thường có từ 5- 7 người.

mới có quyền thừa kế tài sản. Khi chủ gia đình còn sống, toàn bộ tài sản thuộc
quyền quản lý và phân phối của ông ta. Trường hợp chủ gia đình chết thì

Mỗi gia đình người Mông là một đơn vị kinh tế độc lập. Tài sản của gia

người anh trai cả sẽ thay mặt cha mẹ quản lý số tài sản chung đó. Khi chia tài

đình gồm nhà ở, nương rẫy, công cụ sản xuất, các loại gia cầm, gia súc, khung

sản, anh em trai được chia phần bằng nhau nhưng nếu ai trực tiếp phụng

cửi, một số gia đình khá giả hơn có bạc trắng, đồ dùng bằng gỗ. Nhìn chung

dưỡng bố mẹ thì nhiều hơn một chút so với các anh em còn lại. Trong trường

cơ sở kinh tế của gia đình người Mông còn nghèo, đủ trang trải cho cuộc sống


hợp vợ chồng con cái muốn ra ở riêng khi cha mẹ còn sống thì chỉ được chia

hằng ngày bên cạnh đó một số ít gia đình có tài sản tích lũy để làm giàu.

một phần tối thiểu tài sản theo ý của người cha. Người con gái không được

Việc tổ chức sản xuất phân công lao động trong gia đình thực hiện theo
nguyên tắc tuổi - giới khá rõ rệt. Con trai, đàn ông thường làm những việc

chia tài sản nhưng khi đến tuổi trưởng thành có thể tự đi làm thuê, phát nương
để tích lũy một số đồ dùng của cải sau này mang đến nhà chồng.

nặng như làm nhà, chọn đất làm nương, cày bừa, mang vác, lên núi hái củi,

Trong gia đình, vợ chồng bình đẳng trong việc nuôi dạy con cái song

săn bắn, chế tác công cụ lao động hoặc lần kiếm con đường làm ăn. Đàn bà

khi con lớn thì quyền quyết định dựng vợ gả chồng hay làm ăn, học hành

con gái ngoài làm nương rẫy còn đảm nhận hoàn toàn việc nhà và xe lanh dệt

phần lớn là do người chồng. Có nhiều con trai là điều mong ước của mọi gia

vải. Người già, trẻ em trong nhà phụ giúp chăn thả trâu bò, cắt cỏ ngựa.

đình người Mông, việc giáo dục con cái được chú trọng nhiều mặt, người con

Cũng như các dân tộc khác ở Hà Giang, gia đình người Mông ở Đồng


trai không những cần có khả năng lao động, có đạo đức tốt mà còn phải biết

Văn thể hiện ý thức phụ quyền đậm nét. Điều này phản ánh rõ qua mối quan

khấn tổ tiên, 13 - 14 tuổi đã có thể làm nương thạo, 17- 18 tuổi đã lao động

hệ giữa các thành viên trong gia đình, dù đó là tiểu gia đình hay đại gia đình

giỏi, nắm được nghề thủ công gia truyền của gia đình.

thì vai trò quyết định thuộc về chủ gia đình (chi plo) là người cha (người
chồng hoặc anh cả).

Tính chất phụ quyền còn biểu hiện rõ nét trong các sinh hoạt hằng
ngày. Khi ăn cơm cả nhà cùng chung một mâm, nhưng khi con trai đàn ông

Trong lĩnh vực sản xuất, chủ gia đình là người chỉ đạo tổ chức và phân

tiếp khách thì đàn bà ăn riêng nếu có đông người thì ăn sau. Khi đi làm, đi

công lao động cho các thành viên phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và khả năng

chợ, đi thăm hỏi bạn bè người thân thì hai vợ chồng cùng đi với nhau, người

của mỗi người. Chủ gia đình là người đảm nhận việc khấn tổ tiên, đón thầy

con dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải xin phép bố mẹ chồng và có chồng

cúng và nhiều công việc khác mà theo phong tục người phụ nữ không được


cùng đi chứ không được đi một mình.

làm. Trong quan hệ với bên ngoài, chủ gia đình thay mặt gia đình trong các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19




Trước đây, tục trọng nam khinh nữ còn mạnh, theo quan niệm của

duyên …Vì vậy, mỗi gia đình người Mông chính là cái nôi hình thành, trao

người Mông thì con trai mới là con mình, con gái là con người khác do mình

truyền, phát triển văn hóa truyền thống và là hạt nhân cơ bản trong sự phát

mua về nên trong xã hội cũ người con dâu phải chịu rất nhiều khổ cực, phải

triển của cộng đồng tộc người.

làm lụng vất vả và hầu như không có tiếng nói trong gia đình. Người Mông ở


2.1.2.Tổ chức dòng họ

Đồng Văn vẫn nhớ những đoạn thơ như lời tâm sự của người con gái khi đi

Cấu trúc của dòng họ

làm dâu:

Người Mông ở Đồng Văn gọi dòng họ là “xểnh” hoặc “xông”. Qua

“ Em đi làm dâu không có mùa nghỉ chỉ có mùa làm”
“ Chị muốn vùng thoát khỏi người chị đau ê ẩm

nghiên cứu cho thấy dòng họ người Mông cần được xem xét ở hai phạm vi:
- Ở phạm vi rộng: Dòng họ của người Mông gồm tất cả những người

Chị muốn vùng thoát khỏi, người chị đau như dần” [28, tr.20].

cùng mang một họ dù người đó cư trú ở đâu. Người Mông quan niệm những

Theo phong tục, con dâu không được ngồi gần bố chồng, khi lấy vật

người chung một họ là những người “cùng ma”, đều được sinh ra từ một ông

gì trên gác cũng không được trèo hẳn lên mà chỉ được đứng ở bậc thang lấy

tổ nên đều nhận nhau là anh em, khi đã nhận ra nhau là người cùng họ thì dù

que mà khều, bát nước hoặc ống điếu của con dâu khi đưa cho bố mẹ chồng


ở xa đến mấy nhưng đến nhà nhau thì đều được coi như người nhà và những

phải tráng rồi mới đưa. Vì quan niệm lấy vợ là lấy người nên có tục chẳng

người Mông có cùng một họ dù ở những địa vực khác nhau, dù ở xa hay gần

may có chồng chết sớm thì chị dâu phải lấy em chồng để nhà chồng khỏi

đều chịu sự chi phối của tổ chức dòng họ. Có thể thấy rằng tính cố kết của

mất người, nếu không chấp nhận lấy em chồng mà muốn lấy người khác thì

cộng đồng người Mông là rất rộng lớn.

phải đền cho nhà chồng tất cả của cải, vật phẩm dùng cho hôn lễ trước kia
gọi là lễ “thành phà” lúc đó mới được tự do.

Những thành viên cùng dòng họ, cùng tổ tiên còn nhận nhau qua các
điều kiêng kỵ về ăn uống, qua nghi thức cúng ma khô(cho đán) để đền ơn bố

Xét một cách tổng thể, trong quan hệ gia đình của người Mông, sự bình

mẹ đã chết, qua cách cúng “đá trùng”(ma buồng), qua cách đặt người chết,

đẳng chỉ là tương đối vì ý thức phụ quyền mạnh, uy quyền thuộc về người đàn

cách đặt hướng mộ, cách làm ma tươi. Chẳng hạn như ở bản Ma Lé, họ Hầu

ông cho thấy chế độ gia trưởng xuất hiện, điều hành toàn thể các thành viên


kiêng ăn thịt khỉ, họ Giàng không ăn tim động vật, họ Thào không được bẻ

và công việc trong gia đình. Ý thức “trọng nam khinh nữ ” tồn tại rất đậm nét

chặt cây đào, họ Ly không được bẻ chặt cây mận. Hoặc như họ Thào ở Đồng

trong xã hội truyền thống của người Mông, ngày nay những tập tục quá hà

Văn có hai ngành là Thào chó và Thào lợn, sở dĩ như vậy là họ quy định nhận

khắc đã bị đẩy lùi song những dấu vết còn lại mang tính quy định trong đời

nhau là anh em họ hàng qua cách thức cúng gia súc, ngành Thào chó hay còn

sống xã hội vẫn còn tồn tại. Thông qua gia đình mỗi thành viên đều hình

gọi là Thào anh chỉ mổ một con chó để cúng còn ngành Thào lợn hay còn gọi

thành và tự học được các nếp ứng xử, từ gia đình, người con trai Mông biết

là Thào em thì mổ một con lợn và một con chó để cúng.

thổi khèn, thổi sáo, người con gái Mông biết thêu thùa, biết múa, biết hát giao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21




Những điều kiêng kỵ này đều gắn với một câu chuyện của từng dòng

họ gây được ảnh hưởng tốt đối với các thành viên trong họ, được mọi người

họ được truyền từ đời này sang đời khác, mỗi thành viên đều phải có trách

kính trọng. Ông cũng là người chịu trách nhiệm trước dòng họ truyền đạt lại

nhiệm ghi nhớ và tuân thủ vì người Mông quan niệm nếu không tuân thủ các

những tục lệ, kinh nghiệm của dòng họ mình cho con cháu, vận động các

điều kiêng kỵ của dòng họ mà xúc phạm đến tổ tiên sẽ bị tổ tiên trách cứ và

thành viên giữ gìn đoàn kết và giúp lẫn nhau. Với uy tín và sự hiểu biết của

trừng phạt.

mình, trưởng họ được các thành viên tin cậy, chia sẻ ý kiến do đó tiếng nói

- Ở phạm vi hẹp: Dòng họ người Mông là một đơn vị cố kết cộng đồng

của trưởng họ có vai trò rất quan trọng thậm chí là quyết định.


huyết thống theo dòng họ cha. Cũng như các dân tộc khác, các thành viên

Nhiệm vụ của trưởng họ: Trực tiếp duy trì mọi sinh hoạt trong dòng họ

trong một dòng họ người Mông gắn bó với nhau bởi một phả hệ cùng có một

mình như tổ chức khai hoang, hướng dẫn các gia đình thành viên khi có việc

ông tổ. Ông tổ là người đã chết mà người già ở thế hệ cao nhất còn nhớ, thông

ma chay, cưới xin, làm nhà mới. Thay mặt dòng họ giao tiếp với dòng họ

thường là 4 thế hệ: con (tua nhủa), cha (nỉa), ông (pò cúng), cụ (pò xua).

khác, với chính quyền. Trưởng họ cũng là người đứng ra dàn xếp những xích

Các dòng họ phổ biến trong đồng bào Mông ở Đồng Văn là: Vương,

mích, tranh chấp trong họ về tài sản, đất đai, xử lý các vi phạm về quy ước

Giàng, Sùng, Thào, Vù, Hầu, Ly, Vàng, Tráng, Mua. Trong đó có những tên

của dòng họ. Là người đứng ra tổ chức lễ cúng cho họ đầu năm. Mặc dù là

của các dòng họ lấy tên con vật như Hầu (khỉ), Giàng (dê), Sùng (gấu) hoặc

người có tiếng nói quan trọng nhưng khi giải quyết công việc trong họ, trưởng

lấy tên cây cối như Thào (đào), Ly (mận), họ Vàng, họ Vương có nghĩa là


họ không được độc đoán mà có sự bàn bạc với những người già, người có

vườn rào.

kinh nghiệm trong dòng họ. Ngày nay, trưởng họ là người đóng vai trò quan

Các dòng họ trên phân bố ở nhiều bản khác nhau nhưng ở mỗi bản đều

trọng và tích cực trong việc tổ chức vận động các thành viên trong dòng họ

có một hay hai dòng họ chiếm số đông và đã cư trú lâu đời ở đó. Ở bản Tả

mình thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

Gia Khâu xã Lũng Cú có tới hơn một nửa dòng họ Thào, ở khu vực xã Sà

các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đồng thời góp phần

Phìn các hộ gia đình đều thuộc họ Vương.

tích cực trong việc phối hợp với trưởng bản và chính quyền địa phương để tìm

Mỗi dòng họ đều có trưởng họ được gọi là ôu thờư. Trưởng họ là người
có vị trí hết sức quan trọng, được coi là linh hồn của dòng họ.
Trưởng họ có thể do các thành viên trong họ bầu ra hoặc do trưởng họ
cũ tìm chọn và bồi dưỡng. Đó phải là người có đạo đức, công tâm, hiểu biết
về lịch sử dòng họ, thành thục phong tục tập quán, biết các bài cúng của dòng
họ, có tài ứng xử. Trưởng họ cũng là người có khả năng tổ chức, có kinh


ra những giải pháp nâng cao quản lý xã hội trong cộng đồng người Mông.
Bên cạnh vai trò của trưởng họ trong tổ chức dòng họ còn có vai trò của
bà cô (phâux) và người cầm quyền ma quyền khách (cho đáng khô)
Bà cô là người có thể quyết định thay thế một tập quán dù đã lâu đời
nhưng xét thấy không còn phù hợp thì được mời bà cô đến làm lễ thay đổi.
Người cầm quyền ma quyền khách là người có thể đảm nhiệm những

nghiệm trong sản xuất, biết quan tâm đến đời sống và bảo vệ lợi ích cho dòng

việc liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng và các công việc đối ngoại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22



23




Tổ chức dòng họ bao gồm trưởng họ, bà cô, người cầm quyền ma

Những người cùng dòng họ đùm bọc, giúp đỡ nhau bằng sức lao động

quyền khách được coi là bộ máy tự quản rất hữu hiệu và quan trọng trong xã


và tiền của khi một gia đình trong họ có việc ma chay, cuới xin, dựng nhà,

hội truyền thống và cả hiện đại của người Mông. Đây là những người làm

hay những lúc khó khăn hoạn nạn, có khi cả dòng họ góp tiền cho một người

nhiệm vụ theo dõi, đề xướng giải quyết những công việc liên quan đến đời

theo đuổi một vụ kiện hay tranh chức.

sống vật chất, tinh thần, tâm linh của các thành viên trong dòng họ cũng như

Làm nhà là công việc của một gia đình nhưng anh em cùng một họ đều

các công việc liên quan đến cộng đồng xã hội nói chung. Qua cách tổ chức và

giúp đỡ. Người chủ gia đình bàn bạc với trưởng họ xem nên làm nhà vào năm

làm việc của bộ máy tự quản dòng họ có thể thấy ở đây toát lên sự bình đẳng

nào, trưởng họ giúp kiểm tra xem xét kỹ số nguyên vật liệu đã chuẩn bị đầy

tương đối, nhờ sự thống nhất của ba người có vai vế, nhờ sự nghiêm ngặt của

đủ chưa, nếu còn thiếu thì sẽ phân công cho các thành viên khác trong họ giúp

các luật tục với những quy định về quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi người một

đỡ. Khi chọn và dựng cột cái thì phải đích thân ông trưởng họ chọn giúp, nếu


cách rành mạch.

trưởng họ vì một lí do nào đó không đến được thì phải nhờ một người ngoài

Các đặc trưng của dòng họ

giúp, người này phải có gia đình vợ chồng hòa thuận, con cái khỏe mạnh đầy

Trước hết ngoại hôn tuyệt đối là đặc trưng nổi bật trong dòng họ của

đủ đến chọn cột cái giúp.

người Mông. Người cùng họ, cùng thờ một ông tổ dù xa đến mấy đời cũng

Trong việc cưới xin, mọi quyền quyết định thuộc về người già đặc biệt

không được kết hôn với nhau, trước đây còn có quy định người Mông không

là bà cô và ông cậu, ngoài ra có hai ông mối, cả hai ông mối đều cùng một họ

được lấy người dân tộc khác. Người trong một họ kết hôn với nhau sẽ bị coi

thì càng tốt, nếu không thì một người nhất thiết phải là người trong họ. Hôn

là phạm tội loạn luân, bị phạt vạ rất nặng.

nhân có thành công hay không bao giờ cũng phụ thuộc vào việc dòng họ có

Sự thống nhất về mặt xã hội của dòng họ của người Mông thể hiện rõ


tán thành hay không, yêu nhau mà không được họ hàng gia đình đồng ý thì

nét trong cư trú. Trước đây các gia đình thường di cư theo dòng họ nên có

không tiến tới hôn nhân được, ngược lại có khi không hề biết mặt nhau mà

hiện tượng một bản chỉ có một dòng họ nhưng hình thức cư trú xen kẽ giữa

được gia tộc đồng ý, ép buộc thì vẫn phải lấy nhau. Người Mông còn có lệ

các dòng họ trong một bản vẫn là phổ biến. Dòng họ nào có công khai phá,

“tảo hôn” và cho phép con cô con cậu lấy nhau vì họ quan niệm rằng phải

lập bản thường có nhiều quyền lợi hơn các họ khác đến sau như được giữ

khác họ khác dòng máu mới được lấy nhau, con cô, con cậu mang họ khác

chức trưởng bản, được chủ trì lễ cúng đuổi ma, cúng thổ thần… Mặt khác các

nhau nên lấy nhau được, lại được buộc thêm tình nghĩa họ hàng nên dễ thân

gia đình trong cùng một dòng họ có thể cư trú ở nhiều vùng, nhiều nơi khác

thiết hơn, hơn nữa họ khác (chồng của cô) đã lấy người của họ này thì phải trả

nhưng họ luôn có quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau, thậm chí có thể chết

lại người. Trong trường hợp này có khi 1-2 tuổi đã làm lễ hỏi và đến 5-7 tuổi


trong nhà người cùng họ với mình. Ví dụ họ Hầu ở Đồng Văn có thành viên

đã làm lễ cưới. Người con gái khi đã làm dâu họ khác nhưng vẫn nhận được

cư trú Bắc Quang hay ở tận Yên Bái, Cao Bằng.

sự quan tâm của dòng họ mình. Điều này cho thấy sự ý thức và sự bảo lưu
dòng họ rất mạnh trong xã hội của người Mông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

24



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

25




Mối liên hệ của các thành viên từng dòng họ còn được biểu hiện trong

cho người nhà đã mất. Theo phong tục, dù hoàn cảnh khó khăn như thế nào

các chi tiết, nghi lễ liên quan đến vòng đời con người như lễ đặt tên, lễ trưởng

nhưng trong đời người con trai cũng phải làm đám ma khô một lần để đền ơn


thành tới việc họp hành trong dòng họ, đến những quan niệm và quy định của

công lao cho bố mẹ, người đã khuất. Đám ma khô thường được tiến hành sau

nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thờ các thần vườn, thần thuốc, thần nương, thần trông

khi bố (mẹ) qua đời từ 3 đến 5 năm, nếu gia đình nào có điều kiện thì sau 15

coi mọi việc. Trong dịp tết, tùy từng họ mà chọn ngày ăn tết trước hoặc sau

ngày là có thể làm. Lễ làm ma khô không nhất thiết phải có bò, nếu đám ma

ngày 30, khi cúng có họ không mổ gà để cúng mà bắt lấy một con chim rừng

tươi đã mổ bò cúng rồi thì ở đám ma khô tùy từng họ có thể dùng lợn, dê hoặc

để cúng 30 tết, không giống như một số dân tộc khác sau khi làm lễ cúng “hóa

chó, còn nếu đám ma tươi chưa mổ bò thì đám ma khô bắt buộc phải có một

vàng” có thể dỡ bỏ cây đào, hạ những đồ lễ trên bàn thờ tổ tiên xuống thì ở

con bò. Con vật đó phải đẹp, không có khuyết tật gì, lông đồng màu, không

từng dòng họ của người Mông lại có những quy định riêng, ví dụ như họ V-

được chọn con vật đã chết hoặc đã làm thịt. Mọi thành phần làm ma khô phải

ương phải sau ngày 15 tháng giêng mới được đưa cây đào ra khỏi nhà và hạ


đông đủ từ thầy cúng, khèn, trống, chủ nhà, chủ bếp, trưởng bản đến tất cả

các đồ lễ vật để chia cho con cháu.

anh em trong dòng họ. Mọi người được báo trước ít nhất 10 ngày.

Cùng với sự thống nhất về mặt kinh tế xã hội thì sự thống nhất về tư

Đến ngày làm ma, khi mọi thành phần tới đông đủ, tang chủ thông báo

tưởng của dòng họ cũng biểu hiện rõ nét. Chẳng hạn thông qua việc tổ chức lễ

với trưởng họ về ý định và khả năng tổ chức của gia đình, thời gian tiến hành

đuổi ma cho dòng họ hàng năm. Cứ 3 năm một lần, vào ngày 29 Tết, các

bao lâu, thực phẩm thế nào để trưởng họ và mọi người cùng góp sức giúp đỡ.

thành viên trong họ lại tập trung ở nhà trưởng họ để làm lễ “Tusu”. Đây là lễ

Để chuẩn bị cho lễ, người ta làm “cầu vá” là hình nộm mà đám ma khô

cúng để trừ ma tà, cầu mong ông tổ phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn

nào cũng phải có. Đó là một vòng tròn to bằng cái nong được làm từ tre hoặc

tốt lành. Lễ vật cúng là một con dê do từng gia đình trong họ luân phiên đóng

nứa. Một thanh tre vót tròn và uốn cong, đầu trên được quấn vào mảnh vải


góp. Trong lễ cúng, thầy cúng sẽ gọi tên từng hộ gia đình, đọc đến nhà ai nhà

lanh, biểu thị là đầu người. Con trai mang áo của người quá cố là cha hoặc mẹ

đó sẽ mang các hình nhân được cắt bằng giấy bản và vũ khí giả bằng gỗ đến

khoác lên vòng uốn, nhìn xa hình nộm như một người đang ngồi đầu hơi cúi

bỏ vào chiếc gùi trên lưng con dê. Thầy cúng một tay cầm bó hương, một tay

xuống. Trong vòng tre cầu vá người ta đặt 12 cái bánh làm bằng ngô nếp gọi

cầm dao đọc thần chú đuổi các hồn ma không được quấy nhiễu người sống

là nù cầu vá, cúng dâng hồn người chết 12 cái bát, tượng trưng cho 12 tháng

đồng thời cầu mong cho các gia đình trong họ không gặp tai nạn.Tiếp đó, họ

và 12 con vật theo cách tính lịch của người Mông.

mổ con dê, thịt dê để mọi người cùng ăn, đầu dê treo lên cành cây hoặc đặt

Thầy cúng và người nhà đem “cầu vá” ra bãi. Đứng trước vòng nia có

trên tảng đá, còn các hình nhân được chôn kỹ để ngăn không cho các hồn ma

thầy cúng, chủ nhà, thầy khèn, kèn, trống. Thầy cúng dâng vòng cầu vá đi

về gây tai họa cho dòng họ. Đây là một nghi lễ nhằm tăng cường sự cố kết


trước, thầy khèn, kèn ngắn, kèn dài đi sau. Họ đi vòng quanh xuống bếp rồi

cộng đồng dòng họ.

lại lên nhà 5 vòng và đặt “cầu vá” lên chiếc bàn vuông ở giữa nhà, lúc này

Một đặc trưng khác của dòng họ người Mông được biểu hiện qua cách

mọi người trong nhà khóc tỏ lòng xót thương và tưởng nhớ.

thức tổ chức lễ ma khô (ma bò). Đây là lễ để con cái đền ơn cha mẹ hoặc làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

26



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

27




Ở bước một, mổ thịt một con vật (có thể là dê, lợn hoặc chó). Thầy

Dòng họ Giàng bày 33 bát, chia 3 hàng:

cúng cầm một bát hạt kê hay đậu tương đã rang chín, vừa cúng vừa quay đi


Hàng 1

●●●●●●●●●●●

thanh tre đem ra ngoài cổng xa khoảng 70 đến 100 mét, cắm vào hai bên

Hàng 2

●●●●●●●●●●●

đường, lấy 7 cành đào non cùng với hai gỗ cây đùm đũm cắm ngược lên trời ở

Hàng 3

●●●●●●●●●●●

quay lại trong nhà. Sau đó lấy xương hàm của con vật vừa mổ cắm vào hai

hai bên đường đi. Thầy cúng vừa cúng vừa vãi những hạt kê hạt đậu đã rang

Hàng 1 cúng cho bố hoặc mẹ.

chín để biểu thị rằng khi nào những hạt này sống lại nảy mầm mọc thành cây

Hàng 2 cúng cho những người trong dòng họ đã mất.

thì người chết mới quay về làm hại người sống. Bảy cành đào non cắm xuống
đất sống lại ra hoa kết quả thì người chết được sống lại. Hai gốc cây đùm đũm
cắm ngược lên trời ý là người chết đã thành ma, thấy hai gốc cây này khô lại


Hàng 3 từ phần 1 đến phần 8 cho con dâu đã chết về dắt bò cho bố
chồng, 3 phần còn lại cho ma bản, ma nhà, ma rừng.
Họ Hầu thì sau khi mổ bò thì chỉ lấy hai dẻ sườn đặt vào mâm kèn, hai

có gai thì không đi được nữa, không tìm thấy hồn của người sống mà bắt. Hai
đoạn tre cắm hai mảnh xương hàm dê hoặc lợn là dấu hiệu cho hồn ma chỉ
được về tới đây, không được vào nhà bắt hồn người sống.

dẻ nữa đặt vào mâm khèn, còn mâm trống lấy màng mỡ bò úp lên mặt trống,
khi cúng chỉ lấy một ít gan bò.
Trong khi đó họ Vừ chia 13 bát từ trái qua phải:

Ở lần thứ hai, dâng gà, cúng cháo. Giết đôi gà luộc chín thái để vào một
bát, luộc hai quả trứng gà không bóc vỏ nhưng phải bẻ làm đôi. Múc thìa cháo




























to úp vào hai bát với quả trứng và tim gan gà. Ở gian bếp, cạnh cột chủ, lấy

1

2

3

4

5

6

7

8

9


10

11

12

13

một chiếc ghế nhỏ để bát cháo trứng tim vàng, thầy cúng ngồi phía dưới cúng.
Lần này cúng ngoài gọi hồn người chết còn gọi hồn ma tổ tiên từng người

1 là phần của ông bà đã mất.
2 là phần của bố, mẹ hoặc người nhà đã khuất.

một sau đó đem đi úp ở ngã ba đường.
Ở lần dâng lễ thứ ba là công việc hệ trọng và có đầy đủ lễ nghi nhất.

3 là phần cho người đuổi bò cho bố mẹ.

Công việc được tiến hành vào lúc gà gáy lần thứ nhất. Ông thầy cúng vừa nói

4 đến 9 là phần của chú bác đã chết.

vừa cầm một sợi dây lanh buộc cổ con bò nối với tay hình nhân ngụ ý là để

10 đến 13 là phần cúng ma rừng, ma bản, ma nhà.

người quá cố nhận được bò. Sau đó là mổ bò luộc chín chia thành các phần.


Làm ma khô rất tốn kém nhưng là dịp nhằm tăng cường sự cố kết dòng

Theo từng dòng họ, thịt bò được pha và chia thành từng phần để trên mâm

họ và đây cũng là dịp con cháu trong họ được nghe trưởng họ kể về sự tích,

cúng khác nhau, mỗi phần như thế phải có những miếng to nhỏ sao cho đủ các

tục lệ của dòng họ.

bộ phận trên cơ thể con bò. Điều đáng chú ý là mỗi dòng họ có những nghi lễ

Sự phân biệt dòng họ còn thể hiện trong đám “ma tươi”, có dòng họ

cúng bái khác nhau về số lượng bát cúng, cách bày bát, cách chia thịt.

không đưa người chết vào quan tài mà trước hôm đem chôn, người ta mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

28



29





người chết ra ngoài bãi gọi là cho người đi “tàu sáng”, có họ thì khiêng cáng

2.2. Tổ chức làng bản

người chết chạy đến huyệt mới đặt người chết vào quan tài. Chẳng hạn như họ

2.2.1. Sự hình thành bản của người Mông

Ly không cho người chết vào quan tài mà khiêng bằng cáng chạy đến huyệt
mới cho vào quan tài, nhưng họ Hầu lại cho người chết vào quan tài từ lúc ở
nhà. Trong đám ma chỉ có những người cùng họ mới khiêng quan tài, cách đặt
xác lên cáng, cách treo cáng, cách đặt mả cũng khác nhau. Nếu dòng họ nào
không tổ chức đám tang theo đúng nghi lễ của dòng họ mình sẽ bị dân bản

Do nguồn gốc lịch sử và sự chi phối của điều kiện tự nhiên, người
Mông di cư vào và tự phát sống cụm thành bản.
Người Mông ở Đồng Văn gọi bản là giao (Jaol). Đây là đơn vị cư trú
cơ bản của cộng đồng dân tộc Mông. Mỗi bản có tên gọi riêng gắn bó lâu đời
với dân bản và ít có thay đổi. Trong cách đặt tên bản của người Mông ở Đồng

chê cười vì người Mông quan niệm: “Làm ăn làm uống ta có thể học người

Văn chủ yếu là dùng tiếng Hán như Tả Gia Khâu (cái cổng lớn), người Mông

khác, nhưng làm ma thì không học theo người ta”.

gọi người Lô Lô và người Giấy là Mã nên ở những khu vực sống xen kẽ với

Qua đây có thể thấy rằng dòng họ của người Mông có tính cố kết bền


người Lô Lô và người Giấy tên bản thường có từ Mã đứng trước như Mã

vững, các thành viên trong dòng họ có sự liên kết ràng buộc với nhau rất chặt

Lủng, Mã Lầu, Mã Xí…Tên gọi trước hết về đối ngoại là để phân biệt giữa

chẽ thông qua quan hệ huyết thống và qua những mối liên hệ nhất định về tư

làng này với làng khác, về đối nội là để gắn kết các thành viên trong bản cùng

tưởng, tín ngưỡng. Trong sinh hoạt nói chung và trong những hình thức hội

gánh vác những công việc chung.

họp nói riêng, mỗi người vừa đóng vai trò là thành viên của xã hội, vừa là

Mật độ cư trú trong bản tùy thuộc vào địa hình nhưng trung bình mỗi

thành viên của cộng đồng, vừa là thành viên của dòng họ trước các dòng họ

bản thường có từ 10 đến 30 nóc nhà, ngoài nhà cửa trong bản còn có bãi chăn

khác và trong dòng họ mình, vừa là thành viên trong gia đình. Trong tất cả

thả chung. Cũng do sự chi phối của địa hình và điều kiện tự nhiên nhà của

những vai trò có thể phải hoàn thiện thì vai trò quan trọng nhất và có sức níu

người Mông ở Đồng Văn thường làm ở khu vực từ lưng chừng quả núi thấp


kéo nhất là vai trò của thành viên trong dòng họ. Người thuộc dòng họ cư trú

lên đến đỉnh núi hoặc lẻ tẻ vài ba nhà ở một quả đồi, còn ở những khu vực

ở đâu thì lề luật của dòng họ phổ biến tới đó, những luật tục đó có từ bao giờ,

tương đối bằng phẳng thì các nóc nhà tập trung nhiều hơn và tương đối gần

có hoàn thiện không thì đến nay không xác định được và cũng không ai biết

nhau.Nhà trong bản không làm theo một hướng nhất định, nhưng rất kiêng

mà đó là lý lẽ các thế hệ cứ tiếp nối nhau thực hiện, ít có người làm trái. Vì

làm nhà quay lưng ra suối, ra khe và vực sâu, thông thường nhà dựa lưng vào

người Mông tin rằng đó là những điều giúp họ tồn tại, nếu họ làm trái những

núi. Các gia đình đều xếp hàng rào bằng đá xung quanh nhà mình hoặc một

luật tục đó sẽ bị tổ tiên trách cứ và bị các vị thần trừng phạt, do vậy mọi sinh

hai nhà có quan hệ anh em nội tộc với nhau làm thành một khu vực riêng biệt

hoạt vật chất hay tinh thần của người Mông đều mang những vết hằn của

để che chắn và phòng thú dữ.
Mỗi bản đều có địa giới riêng, sự phân chia địa giới giữa các bản rất rõ


dòng họ, có tính bền vững và rất ít khi có sự thay đổi.
Do vậy, cần phải quan tâm nhìn nhận đúng về tổ chức dòng họ của
người Mông đặc biệt là vai trò của trưởng họ để có thể vân dụng và phát huy
vào công cuộc xây dựng xã hội mới một cách hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

30



ràng, địa giới đó được quy định khi khai phá lập bản, dần dần hình thành
trong ý thức của các thành viên trong bản về chủ quyền lãnh thổ của mình.
Ranh giới giữa các bản có thể là một bìa rừng, một ngọn núi, một cây cổ thụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

31




hay một con suối…ban đầu những ranh giới này chỉ mang tính ước lệ nhưng

Có thể hình thức tập hợp dân cư theo hai quan hệ là quan hệ huyết

nó được mọi người tôn trọng và duy trì. Để phân biệt bản này với bản khác

thống và quan hệ láng giềng. Điều này giống với các bản làng của đồng bào

dân bản thường chọn một cây to hoặc một hòn đá dị dạng ở đầu hoặc cuối bản


các dân tộc ít người ở Hà Giang nhưng lại “khác hẳn so với làng của người

làm thần cai quản chung cho cả bản. Mỗi bản có quyền sở hữu, quản lý, bảo
vệ và sử dụng đất, rừng, nuộng nương, nguồn nước cũng như muông thú, tài
nguyên trong phạm vi của mình. Các bản còn có khu vực công như bãi chăn

Việt ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ” [50, tr.225].
2.2.2. Bộ máy tự quản của bản
Đứng đầu mỗi bản có trưởng bản. Tiếng Mông gọi là chư dò hay chư

thả, bãi đất rộng để tổ chức các hoạt động lễ tết, vui chơi.
Về mặt xã hội, dân cư trong bản quần tụ chủ yếu theo 1 dòng họ hay từ 3

dỉnh. Các trưởng bản có nhiệm vụ thực hiện những quy ước chung của bản đã

- 5 dòng họ, trong đó thường có dòng họ đông hơn.Ví dụ như hầu hết các bản ở

đề ra và đôn đốc mọi người thực hiện những quy ước đó. Trưởng bản được

Sà Phìn - Đồng Văn trước đây cư dân chủ yếu thuộc dòng họ Vương. Cho đến

bầu căn cứ theo các dòng họ lớn trong bản để cử ra người đứng đầu phù hợp.

nay, khu vực xã Sà Phìn đều là con cháu của Vương Chí Sình, chỉ có một vài gia

Nếu bản có nhiều dòng họ thì trưởng họ của dòng họ đông nhất sẽ đứng đầu

đình mang họ khác. Quan hệ dòng họ trong các bản nhằm thực hiện những quy

bản nhờ vào uy tín và sự có mặt lâu đời của dòng họ. Hoặc đại diện của các


ước về canh tác, chăn nuôi, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc chung và những

dòng họ sẽ luân phiên nhau từ dòng họ đông người nhất đến dòng họ ít người

nghĩa vụ khác. Có thể thấy hình thức tập hợp dân bản có quan hệ láng giềng hay
huyết thống được thống kê ở 9 bản thuộc xã Hố Quáng Phìn:

Những tiêu chuẩn để được bầu làm trưởng bản:

Bảng 2.1: Bảng thống kê các dòng họ người Mông

- Trưởng bản phải là người biết ứng xử, nói được, làm được.

ở xã Hố Quáng Phìn - Đồng Văn (Hà Giang)
Stt

Dòng họ

Tên bản
1 Tha Xúa

- Có anh em họ hàng đông.
Vàng Ly Mua Sùng Giàng Hầu Vù Lầu
+

+

2 Khu Trù Ván
3 Chín Trù Ván


nhất đứng đầu bản.

+
+

+

4 Phỉng Cổ Ván

+

5 Tả Phìn

+

6 Tả Phán

+

7 HốQuáng Phìn

+

+

9 Phàn Nhìa Tủng

+


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

+
+

+

+

+

+

32

bản được miễn thuế thuốc phiện, chỉ phải đóng một phần thuế nông nghiệp,
không phải đi phu còn hiện nay họ cũng tham gia lao động sản xuất như mọi

+
+

xích mích, tranh chấp giữa các thành viên trong bản, xử phạt những vi phạm
theo quy định. Trước đây bên cạnh những nghĩa vụ phải hoàn thành, trưởng

+

+
+

+


trật tự an ninh, phân phối đất đai canh tác cho các gia đình, giải quyết các vụ
+

+

+

8 Tả Củ Ván

Trưởng bản có nhiệm vụ điều hành công việc chung của bản, duy trì
+

+

+

- Có kinh nghiệm trong sản xuất.



thành viên khác, phải có trách nhệm với nhiệm vụ của mình và được mọi
người kính trọng vị nể chứ không có quyền lợi vật chất gì khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

33





Hệ thống tổ chức tự quản truyền thống của người Mông trong cộng
đồng làng bản toát lên vai trò và mối quan hệ của chủ gia đình – trưởng họ trưởng bản.

- Nếu ai muốn làm trên đất đai của người khác thì phải hỏi ý kiến kèm
theo chút quà là một con gà và chai rượu cho người đã có công khai phá.
- Người ở bản khác đến khai phá phải hỏi trưởng bản, mang nộp cho

Chủ gia đình là tiếng nói đại diện cho mỗi gia đình trước các vấn đề

bản ruợu, gà và bạc trắng, nếu được đồng ý thì còn phải nộp lệ phí cho bản
tùy theo chất lượng đất canh tác, nhưng sau 3 đến 5 năm thì trả lại cho bản.

được bản làng đưa ra thảo luận.
Trưởng họ là người hiểu biết phong tục tập quán, là tiếng nói đại diện cho

- Những nương ngô, ruộng lúa sau 3 đến 4 năm canh tác mà gia đình đó

một dòng họ.Người của dòng họ nào vi phạm luật tục thì trước khi xét xử,

không làm nữa thì thuộc sở hữu công cộng, ai muốn canh tác đều được mà

trưởng bản phải mời trưởng họ đến bàn bạc để tìm cách giải quyết.

không phải hỏi ý kiến của chủ cũ.

Bên cạnh đó còn có già làng là những người có nhiều kinh nghiệm
trong sản xuất, am hiểu phong tục tập quán, họ khuyên bảo chỉ dẫn cho lớp trẻ
về phong tục tập quán và những điều hay lẽ phải trong cuộc sống nên rất

- Người Mông coi nương thuốc phiện là tài sản thừa kế, nếu bố không

làm thì để lại cho con cái chứ không được bỏ đi hoặc cho mượn.
Những quy định về nguồn nước và rừng
- Để bảo vệ nguồn nước của bản, vào cuối năm hoặc vào mùa mưa

được dân bản kính trọng và vị nể.
Có thể nói đây chính là những người duy trì điều tiết các mối quan hệ

trưởng bản đứng ra điều hành việc tu sửa nguồn nước, mọi gia đình đều phải

trong cộng đồng, đồng thời là những người có vai trò trung gian trong việc

cử người tới góp sức. Rạng sáng mùng một vào lúc 2- 3 giờ sáng, chủ các gia

bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc.

đình đi lấy nước nguồn, người đi mang theo một nắm cơm một miếng thịt, 3

2.2.3. Những luật tục về đất đai, nguồn nước, chăn nuôi và các thể thức
xử phạt vi phạm.
Đối với người Mông những luật tục đã được hình thành từ lâu đời và
được truyền miệng qua nhiều hế hệ, các thành viên đều phải tự ý thức làm
theo, trưởng bản quản lý và điều hành mọi công việc theo luật tục.
Những quy định về đất đai

mới đã đến, mong mọi điều ốm đau bệnh tật những điều chưa tốt đi theo năm
cũ để năm mới làm ăn may mắn đạt kết quả tốt hơn. Nước lấy về qua cửa
chính 2 lần ra 3 lần vào sau đó đổ lên các chén trên bàn thờ làm nước cúng và
để một ấm đun uống. Người Mông quan niệm nước lấy đầu năm là nước tinh
khiết, lấy nước đó về thắp hương làm lễ, ăn uống vào sẽ không sợ ma quỷ là
hại, năm mới sẽ gặp may mắn, ăn nên làm ra, sạch sẽ khỏe mạnh.


Trong phạm vi một bản, các gia đình được phép khai phá đất đai làm
nương rẫy nhưng không được khai phá bừa bãi mà phải tuân theo những quy
định chung:

- Cấm tắm giặt, mổ lợn, gà ở nguồn nước. Lần đầu vi phạm, trưởng bản
nhắc nhở. Nếu ai cố tình vi phạm thì phải nộp 5 lạng bạc trắng, nặng hơn thì phải
nộp 10 lạng bạc mang một con gà, một chai rượu, một quả trứng và vàng mã rồi

- Nơi nào có dấu hiệu là đất đã có chủ thì không được xâm phạm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

thẻ hương và 3 tờ giấy bản, đến nơi thắp hương rồi khấn: Năm cũ đã qua, năm

34



nhờ trưởng bản cùng ra nguồn nước để cúng xin thần nước tha tội [53, 7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

35




- Vác đá đi quanh bản.

- Cấm không được chặt phá rừng để làm nương rẫy ở những khu vực

rừng do bản quy định. Nếu vi phạm phạt nộp cho bản một con dê hoặc một

- Vác quẩy tấu đi khắp bản để mọi người trong bản vứt đá

con lợn.

vào quẩy tấu.

Những quy định về bảo vệ mùa màng và chăn nuôi, săn bắt
- Nếu để bò, ngựa thả rông, vuợt rào phá hoại ruộng nương của người
khác thì chủ nương có quyền chặt chân hoặc giết con bò, con ngựa đó. Nếu
nương lúa, ngô tính ra giá trị không bằng giá trị của con bò, ngựa thì con vật
được ngả thịt chia cho chủ nương và chủ chăn nuôi mỗi người một nửa nhưng
nếu số lúa, ngô bị thiệt hại có giá trị lớn hơn giá trị con vật thì chủ nương
được bồi thường số hoa màu và toàn bộ con vật bị đã bị giết thịt.
- Trong việc săn bắt, trước khi đi săn tập thể, bản phải làm lễ cúng,
trưởng bản là người chủ trì, sau khi thắp hương, tất cả các thành viên trong
bản và những người đi săn quỳ xuống khấn để thần săn bắt phù hộ cho cuộc
đi săn đạt kết quả tốt, không ai bị tai nạn. Thịt thú săn được sau khi cúng cảm
ơn thần thì quy định người có công bắn được hưởng một phần lớn hơn còn thì

- Vợ chồng bỏ nhau, tài sản thuộc về người chồng, con cái thường theo
cha hoặc con trai theo cha, con gái theo mẹ.
2.2.4. Bản (giao) với quan hệ cộng đồng về tín ngưỡng và đời sống sinh
hoạt
Những lễ nghi liên quan đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng chiếm vị trí
quan trọng, có tác dụng cố kết các thành viên trong bản với nhau. Đầu năm
mới, các bản tổ chức lễ cúng ma bản. Đặc biệt, hàng năm, thường có một gia
đình đứng ra tổ chức lễ hội Gầu Tào nhằm cúng tạ trời đất, xin được ban cho
con cái khoẻ mạnh, gia đình no đủ, làng xóm yên bình thịnh vượng. Tất cả

các thành viên trong bản đều được mời tham gia. Trên một bãi đất rộng người
ta trồng một cây nêu hoặc một cây trúc vót nhọn, trên thân cây có dán giấy
đỏ, gia chủ làm một mâm cúng đặt dưới gốc cây đó, thầy cúng sẽ đọc bài cầu

chia đều cho mỗi nhà trong bản.

khấn cho gia chủ có con cái khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Hết phần lễ, chuyển

Một số luật tục khác
- Ăn trộm lúa, ngô, của người khác bị phạt 2 lạng bạc trắng.
- Ăn trộm gia súc gia cầm bị phạt 3 lạng bạc trắng.
- Cố tình đầu độc gia súc của người khác phạt 10 lạng bạc trắng.

sang phần hội thường mở đầu bằng nghi lễ múa khèn, tiếp theo là hội hát và
các trò chơi ngày xuân như đánh pao, đánh yến, bắn nỏ, múa khèn, thổi sáo,
chọi gà, chọi chim.
Các thành viên trong bản có ý thức cộng đồng tương trợ lẫn nhau trong

- Phụ nữ ngoại tình phạt nộp rượu, gà.

lao động sản xuất cũng như khi có công việc ma chay, cưới xin, làm nhà

- Người trong một họ nếu lấy nhau là điều tối kỵ nhưng nếu cố ý vi

mới…cũng như thăm hỏi giúp đỡ nhau khi sinh đẻ hay lúc ốm đau, hoạn nạn.

phạm sẽ có mấy hình thức phạt:

Trong ngày mùa các gia đình lao động theo hình thức đổi công, nhiều


- Đào một con đường cho cả bản đi.

nhà đến giúp một nhà. Trong đám cưới, mọi người trong bản đến dự, mừng

- Gõ vào chậu hoặc nồi vừa đi vừa gõ vừa kể ra tội lỗi

cho gia chủ rượu, tiền, gạo. Nếu có người trong bản qua đời, mọi người trong

của mình và bảo mọi người đừng vi phạm như mình.

bản đến giúp đỡ tang chủ, khi đến tùy tâm mang theo gạo, rượu, thịt để góp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

36



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

37




Nếu ai trong bản dựng nhà mới, mỗi gia đình cử người đến góp sức. Khi
có người sinh nở, không chỉ người trong họ hàng mà mọi người trong bản cũng
đến thăm hỏi, tặng quà cho đứa bé, mang thuốc thang, đồ ăn cho mẹ đứa bé.
Các gia đình người Mông còn có một tập tục độc đáo vào lúc chuẩn bị
ăn tết là mổ lợn tết mời cả bản đến giúp và ăn cỗ, phần thịt còn lại ướp muối


- Mỗi giao có thổ thần chung và những quy ước chung, mọi người
trong jaol đều phải thực hiện.
- Dư luận xã hội và phạt vạ là biện pháp để đảm bảo các quy ước
chung được thực hiện.
- Tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống trong giao

và treo gác bếp. Vào các dịp tết Nguyên Đán, rằm tháng giêng, tết Thanh

được mọi người coi trọng.

minh, tết Đoan Ngọ, rằm tháng bảy. Các thành viên trong bản có những ngày

2.3. Chế độ thổ ty

nghỉ ngơi, tổ chức ăn uống, vui chơi và đi thăm viếng nhau.
Có thể thấy rằng từ các sinh hoạt hàng ngày đến những dịp lễ hội của
người Mông ở Đồng Văn đều diễn ra trong phạm vi không gian của “giao”,
diễn ra theo chu kì mùa vụ, có tính chất dân chủ, bình đẳng rất cao. Cái nổi
bật xuyên suốt trong các hoạt động đó là sự cố kết cộng đồng dân tộc, cộng
đồng dòng họ, giáo dục các thế hệ hướng về cội nguồn, đạo đức lối sống.
Đây chính là yếu tố đảm bảo đời sống tinh thần, thỏa mãn những rung cảm
bị kìm nén bởi chu kỳ lao động cực nhọc quanh năm vất vả của đồng bào
dân tộc Mông.
Như vậy, với cộng đồng cùng cư trú trên một phạm vi chủ yếu theo
quan hệ huyết thống, cùng thực hiện những quy ước chung, bản (giao) của người Mông là quan hệ thôn xã cổ truyền có vai trò quan trọng trong đời sống.
Trong điều kiện sản xuất cá thể, du canh du cư, kinh tế mang tính chất khép
kín, cư trú biệt lập ở vùng núi cao, những quan hệ đó được lưu lại một cách tự

2.3.1. Ruộng đất và quan hệ giai cấp

Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 trở về trước các dân tộc thiểu số
khác ở Hà Giang đã tồn tại những thiết chế chính trị khác nhau mang nhiều
đặc trưng riêng biệt độc đáo như chế độ Quằng ở vùng người Tày - Nùng, chế
độ Mán Mục, Quản Chiểu ở vùng người Dao, nhưng về bản chất thì vẫn được
gọi bằng cái tên chung là chế độ thổ ty.
Chế độ thổ ty đã tồn tại dưới thời kỳ phong kiến là kết quả của chính
sách dân tộc thiểu số của triều đình phong kiến Việt Nam với các vùng biên
giới - nơi có vị trí chiến lược xung yếu chống ngoại xâm, trình độ quần chúng
còn lạc hậu, ảnh hưởng của bọn thổ tù lớn mạnh trong dân gian. Dựa vào các
thổ ty địa phương đã được phong chức tước, triều đình và vua chúa phong
kiến quản lý được lãnh thổ và cư dân các vùng biên viễn.
Dưới triều đại phong kiến Việt Nam người Mông ở Hà Giang không có

nhiên với nhiều mức độ khác nhau. Có thể khái quát những đặc điểm chung về

thiết chế chính trị của riêng mình mà phụ thuộc vào chế độ Quằng của người

“giao” của người Mông như sau:

Tày. Theo truyền ngôn và sử sách, từ thời Lê, Nhà nước đã phong hầu cho 7

- Dân cư trong một giao gồm một hay nhiều dòng họ.
- Mỗi giao có phạm vi cư trú và nguồn nước, đất đai làm ăn riêng.
- Mỗi giao có nguời đứng đầu theo chế độ luân phiên.

dòng họ làm Quằng (thất tộc phiên thần) trong đó có Đồng Văn (vốn là tổng
Đông Quan của châu Bảo Lạc) do họ Nguyễn Doãn cai quản [40, tr. 94]. Các
Quằng người Tày thường trao quyền quản lý cho các mã phài, seo phài ở các
bản có đa số người Mông. Vì người Mông cư trú theo bản làng nhưng không


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

38



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

39




liền với nhau thành một dải mà thường bị ngăn cách, xen kẽ bởi nhiều khu

trở thành một chức dịch, một công cụ cai trị của thực dân Pháp, thực hiện đôn

vực cư trú của các dân tộc khác, đặc biệt là do tập quán sản xuất du canh du

đốc, bóc lột người cùng một dân tộc lao động cống nạp.

cư nên đương nhiên giai cấp phong kiến Mèo không có một vị trí tương đối

Về cơ cấu tổ chức, mỗi bản có một mã phài. Ở Sà Phìn lúc bấy giờ có 9

ổn định, lâu dài, không thể tổ chức bộ máy chính trị với những hệ thống quan

mã phài tương đương với 9 bản: I Gioo, Lì Tro Tổng, Phầy Ma Tổng, Sấy

điểm tín ngưỡng, tôn giáo riêng, thường phải “vay mượn ” của các dân tộc lớn


Lổng, Tỏ Phìn, Tỏ Lủng, Lũng Tó, Mõ Sầu, Khía Lìa [41, 2].

hơn mà phụ thuộc [28, tr. 20] vì vậy khi nói đến chế độ thổ ty phong kiến ở
vùng dân tộc Mông trước hết người ta nói đến mã phài, seo phài.

Giúp việc cho mã phài là seo phài (so phìa), mỗi mã phài có 2-3 seo
phài hỗ trợ cho mình. Các seo phài có nhiệm vụ liên lạc, thông báo, phổ biến

Mã phài (Mo phìa) là tên gọi cho người đứng đầu và quản lý một bản

các chủ trương cho dân bản biết mà thực hiện, triệu tập dân bản khi bản có

của người Mông. Mã phài có thể do người làm mã phài trước đó chọn và đề

công việc lớn. Cũng giống như mã phài, các seo phài một mặt trực tiếp tham

cử hoặc do dân bản bầu lên. Họ là những người giàu và có uy tín với dân.

gia sản xuất nhưng mặt khác cũng trở thành người bóc lột và được hưởng

Trong suốt quá trình quản lý, nếu làm tốt có thể được làm mã phài suốt đời,

không ít quyền lợi về của cải.

nếu để mất uy tín với dân bản thì bị thay thế, nhưng trong thực tế chức vụ mã

Đến đầu thế kỉ XX, ở vùng người Mông thế lực của thổ ty thực sự lớn

phài đã trao cho ai thì rất ít khi có sự thay thế nhất là từ khi có sự can thiệp


mạnh khiến xã hội phân chia thành giai cấp theo ranh giới huyết tộc rõ rệt.

của chế độ thực dân.

Thổ ty với danh nghĩa là kẻ sở hữu tối cao, nắm toàn bộ ruộng đất và trực tiếp

Ví dụ như trường hợp của ông Sùng Xí Chá được cử làm mã phài ở Sà
Phìn (Đồng Văn) vốn là một người giàu có với nhiều ruộng bậc thang, nuôi
nhiều người ở, người làm thuê và rất có uy tín với dân trong bản nên trong
cuộc đời 100 tuổi của mình, Sùng Xí Chá đã giữ chức vụ mã phài suốt 20
năm [53, 7].

phục dịch khác trong nhà, thổ ty bắt nhân dân trong vùng thống trị đến làm
không công cho chúng hoặc giao cho các chức dịch trong bản có trách nhiệm
huy động sức lao động của nhân dân làm không công từ lúc cày cấy đến khi
thu hoạch. Ruộng đất được phân chia ra 3 loại:
+ Phần ruộng nương tốt nhất ở các bản đều do thổ ty trực tiếp sở hữu.

Mã phài có vai trò quan trọng trong tổ chức quản lý, điều hành mọi
hoạt động của cư dân như quản lý dân số, đất đai, thu thuế, đảm bảo trật tự trị
an trong bản. Mã phài có dấu triện riêng, tất cả mọi công việc như ma chay, cưới xin, cúng tế…đều phải thông qua mã phài, mời mã phài đến chứng kiến
và làm chủ trì [53,8]. Trước đây mã phài cũng tham gia sản xuất cho gia đình
nhưng sau khi thực Pháp đặt chế độ “quân sự quản chế” ở Đồng Văn thì mã
phài từ chỗ trực tiếp tham gia lao động sản xuất cho chính gia đình mình đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

sở hữu số ruộng đất tốt. Để canh tác số ruộng đất này và làm những công việc

40




+ Ruộng cấp cho các chức dịch, cho binh lính.
+ Ruộng do nhân dân cày cấy [53,7].
Trong các vùng cư trú của người Mông ở Hà Giang nói chung và ở
Đồng Văn nói riêng, thổ ty phong kiến, các chức dịch và những người giàu có
gây được ảnh hưởng lớn đối với những người thuộc cùng một dân tộc bởi của
cải và uy tín của họ. Cũng theo đó, thổ ty, mã phài không chỉ là người quản lý
trực tiếp về kinh tế mà còn nắm giữ quyền quản lý về con người và tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

41




phân công lao động xã hội. Trên cơ sở nắm được số dân trong bản sẽ phân bổ

Thổ ty, mã phài và những người giàu ở Đồng Văn nhà cửa được làm

số lượng thanh niên phải tham gia lực lượng an ninh, số người phải tham gia

khang trang, nhà to, rộng, cột gỗ kè trên đá tảng đẽo hình đèn lồng hoặc quả

lao động sản xuất cho thổ ty bên cạnh hoạt động chính là tự làm ruộng nương

cầu mai, lợp ngói hoặc lát ván. Tiêu biểu cho dạng kiến trúc này là những

cho gia đình mình.


ngôi nhà được xây dựng vào đầu thế kỉ XX, nay được gọi là “khu phố cổ”

Không giống như chế độ quằng ở người Tày, các quằng giữ độc quyền

thuộc thị trấn Đồng Văn. Khi quan sát có thể hình dung được sự công phu cầu

trong việc thờ cúng tức là đã trực tiếp nắm lấy thần quyền cùng với chính

kỳ khi xây dựng, nó khác hẳn với nhà của dân nghèo chỉ làm bằng cột ngoãn,

quyền làm công cụ áp bức sắc bén. Còn mã phài, thổ ty ở người Mông

vách nứa hay ván bổ, mái lợp tranh.

không giữ độc quyền trong thờ cúng vì những người dân cũng có thể làm

Điển hình nhất khi nói đến nhà của thổ ty phong kiến thời bấy giờ là khu

thầy cúng. Thầy cúng là một nhân vật có vị trí quan trọng trong xã hội và

dinh thự họVương được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, là một công trình thể

quan niệm tín ngưỡng của người Mông, được coi là nhân vật trung gian giữa
người với thần linh, một thầy cúng giỏi sẽ rất coi trọng nên khi giải quyết
công việc mã phài đã lợi dụng lời phân xử hay cách giải quyết của thầy cúng
để đem lại quyền lợi cho mình nhất là khi áp dụng những quy định phạt vạ
đối với người mắc tội.

hiện sự giàu có và quyền lực của gia tộc họ Vương. Đây vừa là nơi ở của cả gia

đình vừa là trụ sở làm việc và cũng vừa là một pháo đài của bang tá Vương
Chính Đức. Vương Chính Đức đã lựa chọn thợ giỏi từ Vân Nam, Quảng Tây
(Trung Quốc) sang xây dựng dinh thự này, thợ phụ là người địa phương, xây
dựng trong 3 năm mới xong với hàng ngàn dân phu và tiêu tốn 15 vạn đồng bạc

Trong đời sống xã hội, thổ ty, mã phài và các chức dịch là những người
được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi nhất. Trong nhà được sử dụng những người làm tạp dịch (chăn ngựa, đun nước) gọi là “tỷ súng’’, đi đâu có “thúc
dung’’ (lính) từ 5 đến 10 người thay phiên nhau bảo vệ. Mọi sinh hoạt của thổ
ty mã phài, những người giàu đều tác động đến cư dân trong bản làng và có
khi ở phạm vi cả một vùng. Đám ma của người giàu được thổi kèn đánh
trống, mổ nhiều bò, lợn, dê, sau một tuần mới chôn cất, tất cả các gia đình
trong bản đều phải cử người đến giúp đỡ. Đơn cử như khi thổ ty Vương
Chính Đức chết, nhà Vương mổ 19 con bò đám ma trong một tuần, mọi hoạt
động sản xuất đều dừng lại để tập trung vào đám ma, khi Vương Chí Sình mất

trắng [32, tr.33]. Toàn bộ kiến trúc nhà Vương được tạo dựng bằng nguyên liệu
đá xanh, gỗ thông, gỗ pơ mu, ngói đất nung già được chạm trổ công phu hình
rồng, phượng tượng trưng cho sự quyền quý và hưng thịnh. Ngoài cổng có tấm
hoành phi đề “Biên chinh khả phong”(chính quyền biên cương này mạnh). Khu
nhà có 13 khu: Cổng ngoài, nhà cổng, tiền dinh, trung dinh, hậu dinh, lô cốt (có
3 tầng quan sát đựơc 4 phía, xây bằng đá ), nhà vệ sinh, chuồng ngựa, chuồng
bò, sân lát đá, nhà bếp, nhà kho, nhà cánh, bể nước lớn. Có thể nói dinh thự họ
Vương là nơi lưu giữ bằng chứng phản ánh chế độ thổ ty phong kiến miền núi
điển hình của dân tộc Mông ở Đồng Văn xưa kia.

tại Hà Nội, khi đưa về đã có tới gần 700 người đến đầu huyện Đồng Văn để

Đối tượng đôn đốc lao động, cống nạp và bóc lột của thổ ty phong kiến

đón thi hài [53, 7]. Khác với đám ma của nguời nghèo chỉ tổ chức rất đơn


không ai khác là người nông dân. Nông dân là tầng lớp chiếm tuyệt đại đa số,

giản, mổ một con bò, nếu có nhiều bạn bè, họ hàng thì tổ chức đám ma trong

họ phải nộp thuế, phải đi phu, đi lính, hầu hạ trong nhà thổ ty, mã phài. Có rất

3 ngày, nếu ít thì chỉ trong 2 ngày.

nhiều loại thuế mà nông dân nghèo phải đóng như thuế họ, thuế nương rẫy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

42



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

43




thuế chợ, thuế thuốc phiện…thổ ty căn cứ vào số lượng thóc giống, ngô giống

dưới quyền của mình. Cột đá xanh cao chừng 1,9m, được đẽo to như cây cột

để thu thuế của các hộ dân, nếu số lượng thóc ngô thu hoạch được nhiều thì


đình, hai bên được khoét lỗ để vừa cánh tay hai người có thể luồn qua. Những

thuế càng nặng. Quy định cứ 100 kg thóc thì phải nộp 70 - 80 kg giống, bán

đôi trai gái trong vùng đất mà hắn quản lý yêu nhau, những nô bộc nào phạm

1kg thuốc phiện phải nộp 30% số tiền [53, 2].

luật như làm sai việc, chống lại Sùng Chúa Đà đều bị còng tay và buộc chặt

Mỗi năm người đàn ông phải đi phu 2-3 lần, mỗi lần 15-20 ngày. Phần
lớn nông dân có ít đất đai, làm ăn vất vả nên thường phải đi ở, đi làm thuê,

vào cột đá, để lạnh ngoài trời, phạt không cho ăn, cho uống, tội nặng thì bỏ
cho chết đói, cho kiến vàng đốt, rắn rết cắn đến chết [53,5].

sống cuộc sống như những nguời nô lệ. Các dân tộc khác trong vùng (Lô Lô,

Sự tàn ác của thổ ty cùng với đặc điểm thế tập đã khiến cho xã hội

Giáy, Dao, Pu Péo) cũng cùng chung thân phận làm tôi tớ và bị bóc lột như

phân chia thành giai cấp, đẳng cấp theo ranh giới huyết tộc ngày càng sâu

người Mông.

sắc hơn. Trong khi sự tranh giành của các dòng họ thổ ty diến ra thì người

Ngoài ra thổ ty mã phài, các chức dịch còn bóc lột nhân dân bằng cách
bắt dân đến phục dịch, cày cấy, gặt hái không công, bắt dân hàng năm phải

nộp đủ số thuốc phiện, thóc, ngô, mà chúng đưa ra. Người dân mắc tội phải
mang bạc trắng, gà, lợn, thuốc phiện đến cầu cứu mã phài. Khi đến xin khai
phá nương rẫy, khi có việc kiện cáo hay chỉ đơn giản là săn được muông thú

nông dân ngày càng trở thành nông nô bị phụ thuộc về cả vật chất và tinh
thần nhất là từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm và duy trì thế lực thổ ty
để tạo ra tay sai.
2.3.2. Sự thay đổi trong thời kỳ Pháp thuộc
2.3.2.1. Thực dân Pháp xâm chiếm và duy trì thế lực thổ ty tạo ra tay sai

trong địa phận của mã phài quản lý thì dân phải đến báo cáo và biếu xén cho

Từ khi chiếm đóng Hà Giang (1887) [1, tr.11], thực dân Pháp nắm lấy

mã phài. Có những chức dịch, mã phài giành được quyền thu mua thuốc phiện

bọn thổ ty, phong kiến địa chủ để lập bộ máy thống trị từ tỉnh đến các châu,

để bán thì càng trở nên giàu có và có thế lực lớn hơn, số ruộng đất canh tác

tổng và xã. Chúng thi hành chế độ “quân sự quản chế”, lập ra các đạo quan

chủ yếu là phát canh thu tô, bóc lột nhân công bằng cách cho thuê hoặc dựa

binh để kiểm soát mọi công việc hành chính ở địa phương. Thực hiện chính

vào chức quyền của mình để cưỡng bức tập hợp dân đến làm [53, 2].

sách “chia để trị”, thực dân Pháp chia vùng cao nguyên Đồng Văn ra thành 4


Người lao dộng bị đánh đập tàn nhẫn, trong nhà thổ ty luôn có nhà
giam với gông cùm, súng, kiếm, roi vọt với những hình thức tra tấn rất dã
man vẫn được những người già kể lại như: Sùng Chúa Đà, là người khét tiếng
gian ác, bạo liệt, cũng là một thổ ty có máu mặt của vùng. Ông ta có những
cánh đồng bằng phẳng thuộc khu đất Đường Thượng ngày nay. Đất nhiều, lại

khu vực,đứng đầu mỗi khu vực là một dòng họ thổ ty cai quản:
- Vùng phía bắc (Huyện Mèo Vạc ngày nay) do trùm thổ ty Dương
Trung Nhân cai quản.
- Vùng giữa cao nguyên Đồng Văn (chủ yếu là xã Đồng Văn) do trùm
thổ ty Nguyễn Chánh Quay cai quản.

có quyền thế và rất có uy tín với quan trên. Sùng Chúa Đà vì thế mà có rất

-Vùng Phó Bảng- Sà phìn do trùm thổ ty Vương Chính Đức cai quản.

nhiều nô bộc và người làm công trong vùng đất của hắn. Sùng Chúa Đà cho

- Phía nam cao nguyên Đồng Văn (Huyện Yên Minh ngày nay) do trùm

người đẽo một cây cột đá và coi nó như một bảo bối để trừng trị những người

thổ ty Nguyễn Doãn Quý và Nguyễn Chánh Tư cai quản.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

44




45




×