Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN NGÀNH một số vấn đề lý LUẬN về BIẾN đổi xã hội và BIẾN đổi xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.61 KB, 14 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
I. Biến đổi xã hội: khái niệm và các yếu tố giải thích
Biến đổi là một nhân tố phổ quát trong đời sống xã hội. Không có xã hội nào
không trải qua biến đổi. Đó là quá trình mà qua đó các giá trị, chuẩn mực, thiết
chế, quan hệ xã hội và hệ thống phân tầng biến đổi theo thời gian”. (Beth
B.Hess, Elizabeth W. Markson, Peter J. Stein. 1992, tr. 429)
Sự biến đổi được thúc đẩy hay kìm hãm bởi những người chiếm giữ các vị
thế trong hệ thống xã hội. Một số vị thế có tác động nhiều hơn lên các vị thế khác,
vì thế những người chiếm giữ các vị thế này là một tác nhân quan trọng của sự biến
đổi.
Sự biến đổi trong các xã hội về cơ bản diễn ra thông qua hai quá trình- kiến
tạo và truyền bá. Kiến tạo là sự tạo thành một nhân tố mới thông qua việc kết hợp
hai hay nhiều hơn các nhân tố đang tồn tại và sự tạo thành các quy tắc sử dụng mới
như một sự kết hợp duy nhất. Kiến tạo bao gồm cả mặt vật chất và phi vật chất- văn
hoá và cấu trúc xã hội. Tốc độ biến đổi xã hội thông qua kiến tạo gắn chặt với sự
phức tạp của nền tảng văn hoá và xã hội. Khi nền tảng trở nên phức tạp và đa dạng
hơn, số lượng các nhân tố cũng như là cách kết hợp chúng cũng tăng lên đáng kể.
Vì thế, xã hội càng phức tạp và đa dạng thì sự biến đổi diễn ra càng nhanh.
Các nhà xã hội học chia các nhân tố ảnh hưởng đến biến đổi xã hội thành
những nhân tố có nguồn gốc bên trong và bên ngoài:
Nhân tố bên trong: nói đến những nhân tố bắt nguồn từ bên trong một xã hội
cụ thể và dẫn đến những thay đổi quan trọng trong tổ chức và cấu trúc xã hội của nó
một cách đơn lẻ hay dựa trên sự kết hợp. Các nguồn lực bên trong quan trọng nhất
của biến đổi xã hội là cách mạng công nghệ/kỹ thuật, tư tưởng, xung đột văn hoá và
bất bình đẳng cấu trúc.
Nhân tố bên ngoài: tất cả mọi xã hội đều tồn tại trong môi trường tự nhiên và
văn hoá xã hội nhất định. Không có xã hội nào thích ứng hoàn toàn với môi trường
của nó bởi cả hai cùng biến đổi không ngừng. Một trong những nhân tố bên ngoài
của biến đổi xã hội là quá trình truyền bá - đó là khi các nhóm với nền văn hoá khác
nhau giao tiếp và trao đổi với nhau thông tin và tư tưởng.
Parsons giải thích biến đổi xã hội xuất phát từ hai nguồn: nó có thể từ bên


ngoài hệ thống- từ những hệ thống khác, hoặc có thể do sự căng thẳng từ chính bên
trong hệ thống. Khi một hệ thống được tạo thành từ các thành phần có tính phụ
thuộc lẫn nhau, sự biến đổi trong một thành phần có thể gây ra biến đổi trong nhiều
thành phần khác. Parsons nhấn mạnh rằng văn hoá - bao gồm hệ thống các niềm tin,
1


chuẩn mực và giá trị xã hội - là “chất keo” gắn kết xã hội, bởi vì nó là yếu tố chống
lại sự biến đổi mạnh mẽ nhất. Một sự biến đổi trong xã hội chắc chắn là chậm hơn
nếu nó xung đột với văn hoá. Từ đó Parsons trình bày biến đổi xã hội như một quá
trình phân tách qua đó các bộ phận của một xã hội ngày càng chuyên môn hoá, và
do đó có thể đáp ứng các nhu cầu xã hội một cách hiệu quả hơn.
Còn Karl Marx giải thích mọi xung đột và biến đổi trong xã hội suy đến
cùng, đều có thể bắt nguồn từ xung đột giai cấp, trên cơ sở các quyền lợi giai cấp
đối lập nảy sinh từ sự bóc lột. Marx nhấn mạnh điều kiện vật chất là cơ sở cho xung
đột, những quan hệ kinh tế cơ bản nhào nặn mọi khía cạnh khác của cấu trúc xã hội.
Theo Karl Max, với sự phát triển của phân công lao động và sở hữu sẽ hình thành
các giai cấp khác nhau bên trong một xã hội: sự bất bình đẳng của các giai cấp này
dựa trên vị thế khác nhau của chúng trong quá trình sản xuất của xã hội, nhưng
trước hết là trên sự chiếm hữu hay không chiếm hữu các tư liệu sản xuất.
Max Weber thì nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường như là cơ sở kinh tế
cho giai cấp hơn là tài sản. Theo ông, yếu tố quan trọng cho sự di động xã hội đi lên
của cá nhân hay nhóm xã hội là khả năng chiếm lĩnh thị trường (là cái mà cá nhân,
nhóm đó nhờ bản lĩnh riêng của mình mà chiếm lĩnh được hoặc là tay nghề mà
người lao động có thể bán được trong thị trường lao động). Theo nghĩa đó, hoàn
cảnh giai cấp, xét đến cùng, là hoàn cảnh thị trường. Như vậy, với ông, nguyên
nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản là khả năng thị trường - đấy
là những kỹ năng mà người làm thuê mang ra thị trường lao động.
II. Biến đổi xã hội trong lý luận xã hội học
Biến đổi xã hội luôn là chủ đề trung tâm của xã hội học. Vào giữa thế kỷ XIX

những cố gắng đầu tiên phân tích xã hội học chủ đề này đã được thúc đẩy bởi nhu
cầu giải thích hai làn sóng biến đổi lớn đang diễn ra trên khắp châu Âu lúc này. Đó
là quá trình công nghiệp hoá và sự mở mở rộng nền dân chủ và các quyền công dân,
được thức tỉnh từ sau các cuộc cách mạng ở Pháp và ở Mỹ. Auguste Comte, trong lý
thuyết về động thái xã hội của mình, cho rằng các xã hội đã và đang phát triển thông
qua những giai đoạn có thể dự báo được dựa trên sự phát triển của tri thức nhân
loại. Herbert Spencer thì đưa ra lý thuyết về sự biến đổi mang tính cách mạng dựa
trên sự tăng trưởng dân số và những khác biệt cấu trúc. Còn Karl Marx thì đưa ra
quan niệm cho rằng những biến đổi xã hội mạnh mẽ nhất đều mang bản chất cách
mạng, như là hệ quả của các cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các giai cấp kinh
tế

2


Xu hướng chung của các lý thuyết về biến đổi xã hội giữa thế kỷ XIX là đều
hướng tới chủ nghĩa lịch sử và chủ nghĩa không tưởng. Trong suốt thế kỷ này các lý
thuyết về biến đổi xã hội đã nảy nở và trở nên phức tạp hơn, song tất cả chúng đều
không vượt qua được các công thức đã có từ trước.
Trong thế giới hiện đại, chúng ta đều biết rằng xã hội không bao giờ tĩnh tại,
rằng những biến đổi chinh trị, xã hội và văn hoá diễn ra thường xuyên. Các biến đổi
có thể khởi nguồn từ phía chính phủ, thông qua các hoạt động lập pháp và hành
pháp (như một quy định mới về sự trả tiền bình đẳng hay tuyên bố một cuộc chiến
tranh); bởi các công dân được tổ chức trong những phong trào xã hội (như công
đoàn, nữ quyền,...); từ sự truyền bá văn hoá (như trong các hành động xâm chiếm
quân sự, di cư, chủ nghĩa thực dân); hay bởi các hậu quả dự kiến hoặc không dự
kiến được của sự phát triển công nghệ. Một số biến đổi xã hội mạnh mẽ nhất trong
thế giới hiện đại lại diễn ra bởi sự xuất hiện của ô tô, của thuốc kháng sinh, của vô
tuyến truyền hình, của máy vi tính và gần đây nhất là của mạng internet, với các yếu
tố cấu thành những xã hội thông tin đang đến gần. Những biến đổi xã hội cũng có

thể diễn ra dưới tác động của các nhân tố môi trường và những chuyển đổi quốc tế
về lợi thế chính trị và kinh tế.
Các nhà xã hội học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề biến đổi xã hội một cách
rộng khắp thông qua việc phân tích kỹ lưỡng các quá trình biến đổi đặc biệt. Các lý
thuyết về biến đổi xã hội hiện nay bao trùm một phổ rất rộng lớn các loại biến đổi
từ ngắn hạn đến dài hạn, từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ, từ cấp độ toàn cầu đến cấp
độ gia đình. Những biến đổi kinh tế và cấu trúc đầy kịch tính như đã diễn ra ở Đông
Âu và Liên Xô cũ vào đầu những năm 90 có thể là một thí dụ minh hoạ cho sự biến
đổi xã hội ở cấp vĩ mô. Các nhà xã hội học cũng quan tâm đến những biến đổi có
tác động đến các chuẩn mực, các giá trị, hành vi, ý nghĩa văn hoá và các quan hệ xã
hội.
Trong các công trình của Emil Durkheim, có thể thấy các ý tưởng về biến đổi
xã hội trên cơ sở lý thuyết chức năng luận mà sau này gắn liền với tên tuổi của
Talcott Parson và Wilbert E. Moore. Theo cách tiếp cận này, nếu xã hội được xem
như một mô hình các chức năng được nối kết lẫn nhau một cách phức tạp thì các
biến đổi có thể được giải thích như là hiện tượng thường xuyên đi tìm kiếm trạng
thái trung lập (equilibrium). Chẳng hạn, nạn thất nghiệp hàng loạt có thể tạo ra hệ
thống phúc lợi, hoặc xung đột sắc tộc có thể tạo ra các điều chỉnh pháp luật. Những
hệ quả rắc rối của biến đổi xã hội là không bao giờ kết thúc và không thể dự đoán
được nhưng tất cả đều có thể được hiểu như là những sự điều chỉnh xã hội đối với
một số trục trặc hay rối loạn chức năng trong cơ thể xã hội.
3


Quan điểm tiến hoá luận của Hebert Spencer về biến đổi xã hội cũng được
chú ý trong xã hội học thế kỷ XIX. Những nhà xã hội học theo quan điểm này nhìn
nhận xã hội như một quá trình thích ứng mà có cội rễ được di truyền qua hệ thống
gien. Họ lập luận rằng xã hội loài người là những sản phẩm mang tính cá nhân và xã
hội của hàng triệu năm với các chiến lược thích ứng mang tính sinh tồn. Một xã hội
có thể biến đổi một cách tích cực (thích ứng) hay tiêu cực (không thích ứng) và sự

lựa chọn này sẽ gắn kết với số phận của nó. Vì vậy, phúc lợi, hoặc các hành động
tích cực, hoặc sự thâm hụt chi tiêu có thể là tốt với một số người, nhưng lại là xấu
đối với tất cả. Sự sinh tồn xã hội là chìa khóa để hiểu các hậu quả chứ không phải
để hiểu những mục tiêu của biến đổi xã hội.
Nhìn chung các quan điểm chức năng luận, tiến hoá luận hay xã hội học về
biến đổi xã hội cho đến lúc này đều mang hàm ý bảo thủ, thể hiện nhu cầu của xã
hội và đều bảo vệ trạng thái ổn định của nó hơn là các ước muốn cá nhân.
Những truyền thống Mác–xít và lý thuyết xung đột lại phát triển các tuyến lý
giải khác, cho dù họ có chia sẻ những giả thuyết được xem là quan trọng của thuyết
chức năng luận. Lý thuyết Mác-xít về biến đổi xã hội mang tính tích cực hơn, khi
nhấn mạnh khả năng của con người có thể ảnh hưởng tới số phận riêng của họ thông
qua hành động chính trị. Các lý thuyết xung đột (không nhất thiết là mác-xít) giải
thích biến đổi xã hội như là hệ quả của cuộc đấu tranh giành ưu thế giữa các giai
cấp, các sắc tộc hay các nhóm khác, hơn là vì mục tiêu tìm kiếm sự đồng thuận.
Daniel Bell trong tác phẩm Cultural Contraditions of Capitalism (1976) đã trở lại
với cách tiếp cận xung đột khi đề xuất rằng những biến đổi trong thế giới hiện đại
đang gia tăng là do mâu thuẫn giữa ba “lĩnh vực” của thực tiễn xã hội, đang vận
hành trên những nguyên tắc và những mục tiêu khác nhau. Đó là: cấu trúc kinh tếkỹ thuật (khoa học, công nghiệp và kinh tế); hệ thống chính trị; và văn hoá. Vào thế
kỷ XIX, các nhà lý luận nhìn nhận biến đổi xã hội như một quá trình tổng thể thuần
nhất, ở đó mỗi khía cạnh của xã hội có thể thay đổi lẫn cho nhau. Còn ngày nay,
chúng ta biết rằng, như mô hình của Bell đưa ra, biến đổi thường không đều và
mang tính bộ phận. “Trễ văn hoá (cultural lag) là một hiện tượng phổ biến, ở đó sự
phát triển của văn hoá thường bị trễ so với sự phát triển trong công nghệ, chính trị
hoặc kinh tế”.
Đối với các nghiên cứu thực nghiệm về biến đổi xã hội thì tình hình cũng
không đơn giản. Các số liệu lịch sử thì thường xuyên không đầy đủ hoặc đầy định
kiến sai lệch. Những nghiên cứu dài hạn về các biến đổi đang diễn ra thì quá tốn
kém và rất khó khăn. Những số liệu thống kê chính thức và các nghiên cứu lặp (như
kiểu trưng cầu dư luận của Gallup) hay các nghiên cứu panel là những công cụ mà
sinh viên học về biến đổi xã hội bắt buộc phải sử dụng.

4


Sự đồng nhất biến đổi với tiến bộ trong thế kỷ XIX giờ đây là không thể chấp
nhận. Biến đổi cũng có thể là thoái bộ, là phá hoại hoặc đảo lộn trật tự bởi sự trễ
văn hoá. Với sự xuất hiện của quá trình “hiện đại hoá tự phát”, các xã hội công
nghiệp tiên tiến đang ngày càng được đặc trưng bởi sự không chắc chắn hoặc các
rủi ro thường xuyên phát sinh. Điều này vẫn còn là một câu hỏi mở cho đến khi nào
các nhà xã hội học có thể giải thích hoặc dự báo được các biến đổi xã hội, hoặc đến
khi nào các xã hội có thể khởi động hoặc kiểm soát một cách vững chắc sự biến đổi
theo hướng đáng mong muốn cho xã hội.
III. Biến đổi xã hội theo hướng hiện đại hoá và vai trò của các giai tầng mới
1. Những đặc điểm chung
Biến đổi xã hội theo hướng hiện đại hóa diễn ra khi một xã hội truyền thống
trải qua công nghiệp hóa. Người nông dân vượt ra ngoài phạm vi sản xuất tự cung
tự cấp để sản xuất ra những mặt hàng phục vụ trao đổi trên thị trường. Những công
cụ thô sơ và nghề thủ công truyền thống được thay thế bởi kỹ thuật công nghiệp hóa
và tri thức khoa học. Lao động chân tay cũng dần được thay thế bằng máy móc.
Việc làm ngày càng chuyên môn hóa, và nó cũng thường đòi hỏi sự đào tạo chuyên
biệt. Thiết chế giáo dục tách ra khỏi đời sống gia đình. Quá trình đô thị hóa diễn ra
ở khắp nơi, khiến thu hút các tầng lớp dân cư di cư vào thành phố, v.v… Tất cả
những đặc điểm gắn với biến đổi xã hội theo hướng hiện đại hóa ở trên là những
đặc trưng quan trọng của các xã hội hiện đại.
Peter Berger (1977) lưu ý bốn đặc điểm của hiện đại hoá:
Thứ nhất, đó là sự suy giảm của các cộng đồng truyền thống nhỏ. Berger
cho rằng đặc điểm của tính hiện đại là “sự suy yếu dần, nếu không nói là diệt vong,
của các cộng đồng cụ thể, cố kết tương đối trong đó con người tìm thấy sự đoàn kết
và ý nghĩa trong hầu hết chiều dài lịch sử” (1977:72). Hay như Parsons (1966) nhận
xét, phần lớn đời sống hiện đại được tiến hành trong các thể chế xã hội khác hẳn với
gia đình - bao gồm tôn giáo, hệ thống chính trị, kinh tế và hệ thống giáo dục.

Thứ hai, đó là sự mở rộng quyền lựa chọn của cá nhân. Trong xã hội tiền
công nghiệp truyền thống, con người thường xem đời sống được định hình bằng các
tác động ngoài sự kiểm soát của con người - thần thánh, ma quỷ hay chỉ đơn thuần
là số mệnh. Khi sức mạnh truyền thống giảm sút, con người trong xã hội hiện đại
xem đời sống của mình như một loạt các tuỳ chọn hay chọn lựa cá nhân, mà Berger
mô tả là quá trình cá nhân hoá.
Thứ ba là sự đa dạng hoá các khuôn mẫu niềm tin. Trong xã hội tiền công
nghiệp, niềm tin tôn giáo và các yếu tố truyền thống khác có khuynh hướng củng cố
sự tuân thủ của cá nhân. Nhưng hiện đại hoá đã thúc đẩy thế giới quan duy lý, khiến
5


cho các giá trị và tiêu chuẩn văn hoá không còn là bất biến. Hơn nữa, sự phát triển
của đô thị, của các tổ chức xã hôi phi chính thức, và sự hoà nhập các dòng di cư,
v.v… tất cả đều nuôi dưỡng trong xã hội hiện đại một sự đa dạng về niềm tin và
hành vi vượt quá những thực tiễn thông thường của xã hội truyền thống.
Thứ tư là sự định hướng tương lai. Trong các xã hội tiền công nghiệp, con
người hướng về quá khứ để tìm sự chỉ dẫn. Còn trong xã hội hiện đại, con người có
khuynh hướng nhìn về tương lai với hi vọng những đổi mới và khám phá mới sẽ
làm đời sống tốt hơn. Tính hiệu quả khuyến khích sự chấp nhận các khuôn mẫu xã
hội mới trong chừng mực sự đổi mới cho phép người ta dễ dàng đạt mục tiêu hơn.
Vì thế mà xã hội hiện đại sẵn sàng tán thành những biến đổi xã hội mà các xã hội
tiền công nghiệp truyền thống thường phản kháng.
Có thể thấy “tính mở” là một đặc trưng nổi bật của xã hội hiện đại, nó cho
phép các cá nhân có nhiều lựa chọn hơn. Địa vị cá nhân thường dựa trên phần
thưởng và nỗ lực cá nhân, chứ không phải dựa trên dòng dõi, gia đình. Trong xã hội
đó, ưu thế về nghề nghiệp được coi là một chỉ báo quan trọng của di động xã hội, là
cơ sở để xác định vị thế xã hội của một cá nhân. Một lý do quan trọng của di động
nghề nghiệp là công nghiệp hoá có khuynh hướng khuyến khích dòng nhập cư từ
nông thôn vào thành phố, tạo nên sự biến đổi trong cấu trúc nghề nghiệp, từ đó dẫn

đến những biến đổi trong cấu trúc phân tầng xã hội. Tiếp nữa, hệ thống chính trị
thường gặp trong các xã hội hiện đại hoá đều mở rộng quyền chính trị đến nhiều
người hơn, khiến họ tham gia tích cực hơn vào đời sống xã hội.

2. Sự xuất hiện các giai tầng như là biểu hiện của biến đổi xã hội
Phân công lao động ngày càng tăng là quy luật của tất cả các thực thể phức
hợp: các xã hội ngày càng gia tăng về số lượng và dày đặc các mối quan hệ giữa các
thành viên, điều này càng khiến sự tranh giành các nguồn lực khan hiếm trở nên
trầm trọng. Để giảm sự căng thẳng này người ta cần có sự chuyên môn hóa, và do
đó dẫn đến những mô hình xã hội ngày càng phân hóa xét trên bình diện phân công
lao động. Như vậy, những biến đổi cấu trúc diễn ra như là sự tái tổ chức lại nguồn
lực, mà từ đó nó kéo theo sự tái tổ chức vai trò. Và sự xuất hiện của các giai tầng
bắt nguồn từ sự phân hóa, hay phân tầng trong xã hội.
Các nhà lý thuyết chức năng coi phân tầng và bất bình đẳng như là những nét
thường trực tất yếu và không tránh khỏi của các xã hội loài người. Những nhà chức
năng luận nhấn mạnh rằng phân tầng có chức năng tích cực và đó là một nét nổi bật
của các xã hội loài người trong quá khứ và nó sẽ tiếp diễn như thế trong các xã hội
hiện đại. Họ quan tâm chủ yếu đến chức năng của phân tầng xã hội, đóng góp của
6


nó vào việc duy trì xã hội. Họ cho rằng bất bình đẳng thấm sâu vào các các vai trò
của bất kỳ xã hội nào vì một số vai trò quan trọng hơn và khó thực hiện hơn, và
rằng để đảm bảo những người đủ tiêu chuẩn sẽ giữ những vị trí quan trọng nhất, thì
cần dành cho vị trí ấy nhiều quyền lợi và ưu thế hơn các vị trí khác.
Cách tiếp cận tiến hóa cho rằng vì trong các xã hội loài người, văn hóa là quá
trình tích lũy dần dần, nên không ai có thể nắm vững toàn bộ nền văn hóa của một
nhóm, hay một xã hội. Từ đó dẫn đến sự chuyên môn hóa văn hóa, hay là sự phân
công lao động. Vì một số ngành chuyên môn sẽ được đánh giá cao hơn các ngành
khác nên nảy sinh bất bình đẳng, hay là sự phân tầng.

Khác với tiếp cận chức năng, tiếp cận xung đột coi phân tầng là một cấu trúc
gây chia rẽ hơn là liên kết. Họ cho rằng phân tầng là một cơ chế để một số người
bóc lột những người khác, chứ không phải là phương tiện thúc đẩy những mục tiêu
tập thể. Họ cho rằng, trong một xã hội, các cá nhân và nhóm luôn tìm cách lợi dụng
vị trí của mình nhằm trục lợi, do đó trong xã hội, sự phân tầng diễn ra gay gắt hơn
rất nhiều so với cách quan niệm của các nhà chức năng luận. Nói cách khác, hệ
thống phân tầng của bất kỳ xã hội nào đều là kết quả của xung đột và nhượng bộ
giữa các nhóm cạnh tranh.
Theo Marx, sự phát triển của phân công lao động và sở hữu sẽ hình thành các
giai cấp khác nhau bên trong một xã hội: sự bất bình đẳng của các giai cấp này dựa
trên vị thế khác nhau của chúng trong quá trình sản xuất của xã hội, nhưng trước hết
là trên sự chiếm hữu hay không chiếm hữu các tư liệu sản xuất như nguyên liệu,
máy móc hay đất đai. Những đối kháng về mặt quyền lợi này sẽ thể hiện thành các
cuộc đấu tranh giai cấp. Khi bộ phận phụ thuộc càng nhận thức được những lợi ích
tập thể của họ và nghi ngờ tính hợp pháp trong việc phân phối nguồn lực thì họ
càng dễ tham gia vào những xung đột công khai chống lại bộ phận thống trị.
Tuy nhiên, lịch sử của chủ nghĩa tư bản hiện đại cho thấy cấu trúc tầng lớp
không phát triển trong một hình thức trật tự và chính xác như vậy. Giai cấp tư sản
kiểm soát mọi khía cạnh trong hệ thống sản xuất, còn giai cấp công nhân thì không
kiểm soát khía cạnh nào. Tuy nhiên, giữa hai giai cấp này, có những nhóm mà vị trí
của họ không rõ ràng - là những người quản lý và công nhân cổ trắng. Wright cho
rằng những người này ở vị trí giai cấp mang tính mâu thuẫn vì họ có khả năng ảnh
hưởng đến một số khía cạnh của sản xuất, nhưng không có quyền kiểm soát các
khía cạnh khác. Có những chứng cứ chắc chắn cho thấy rằng, rõ ràng quy mô của
tầng lớp trung lưu cũ - chủ cửa hiệu và thợ thủ công, đã giảm (Gagliani 1981; cf.
Stein-metz and Wright 1989), và một tầng lớp "trung lưu mới" những nhà quản lý,
chuyên gia và những người lao động trí óc đã phát triển để chiếm giữ những không
gian còn bỏ trống. Và đây cũng chính là tâm điểm lý luận của trường phái Tân
7



Marxist trong quá trình tìm kiếm sự khắc phục hạn chế lý thuyết xung đột của
Marx. Trường phái này bổ sung cho luận điểm của Marx khi nói về các quan hệ xã
hội ở nơi làm việc, họ cho rằng có nhiều nguồn lực trong xã hội có tác động “nhào
nặn” quan hệ xã hội ở nơi làm việc như “vốn về tổ chức”, “vốn về kỹ năng”.
Theo Marx, kinh tế tư bản dựa trên tích luỹ tư bản, và sở dĩ có tích luỹ tư bản
là nhờ tạo nên giá trị thặng dư và lợi nhuận trong quá trình sản xuất của nền kinh tế
công nghiệp dựa vào tư bản. Và người đứng ra góp vốn và tổ chức guồng máy sản
xuất chính là doanh nhân. Doanh nhân, theo Marx, là người đóng vai trò chủ chốt
trong việc phát triển của nền kinh tế tư bản, cũng như nhà tư bản là người tạo ra nền
kinh tế tư bản. Động lực thúc đẩy một người trở thành doanh nhân chính là lợi
nhuận.
Khác với Marx, Dahrendorf tin tưởng rằng xung đột và bất đồng hiện diện
trong mỗi bộ phận của xã hội, giữa các nhóm ở mọi cấp độ xã hội khác nhau. Trong
khi Marx tập trung vào xung đột giữa các giai cấp phân định về mặt kinh tế, thì
Dahrendorf và những nhà lý luận xung đột khác mở rộng phạm vi mà họ nhìn thấy
có xung đột. Dân tộc và các nhóm dân tộc, đảng chính trị và nhóm tôn giáo cũng có
xung đột. Đó là những xung đột không mang tính giai cấp xã hội. Từ đó Dahrendorf
cho rằng xã hội biến đổi chính là sự biến đổi quan hệ quyền lực giữa các nhóm lợi
ích. Biến đổi xã hội được coi là sự phân bố lại quyền lực.
Max Weber cũng tin rằng quan điểm thuần túy kinh tế của Marx về phân tầng
không thể nắm bắt được những đặc điểm quan trọng nhất của các hệ thống phân
tầng công nghiệp hiện đại. Thực tế nước Đức cho thấy phân tầng xã hội có những
chiều cạnh khác. Từ đó Weber đưa ra một quan niệm ba chiều về phân tầng, là vị
thế, đảng phái và giai cấp. Vị thế trong lý thuyết của Weber là nói tới những khác
biệt giữa các nhóm xã hội về uy tín, nó biểu hiện qua phong cách sống của mỗi
người. Tất cả những biểu trưng của vị thế đều góp phần tạo nên vị thế xã hội của cá
nhân trong mắt người khác. Còn đảng phái là những nhóm người đặc biệt quan tâm
đến việc gây ảnh hưởng tới các chính sách và việc ra quyết định vì lợi ích của các
thành viên của nó. Trong một xã hội hiện đại, việc lập đảng phái là một khía cạnh

quan trọng của quyền lực, nó có thể ảnh hưởng tới sự phân tầng. Sự phân chia giai
cấp, theo Weber, không chỉ bắt nguồn từ sự kiểm soát hay không kiểm soát các tư
liệu sản xuất, mà còn từ những khác biệt kinh tế không liên quan trực tiếp đến tài
sản. Những nguồn lực đó bao gồm kỹ năng, bằng cấp, và chúng tác động mạnh đến
loại công việc mà người ta có thể kiếm được dựa trên những khác biệt kinh tế đó.
Chính những ý tưởng mà Marx và Weber phát triển trở thành cơ sở cho hầu
hết những phân tích xã hội học về giai cấp và phân tầng xã hội. Những hệ quả của
8


phân tầng xã hội dẫn đến việc hình thành những giai cấp/tầng lớp mới, trong đó
người ta ghi nhận sự phát triển mạnh của tầng lớp trung lưu.
Các nhà kinh tế học đã tổng hợp lại 6 đặc trưng của tầng lớp trung lưu: (1)
Nền tảng giáo dục của họ thường rất tốt (2) Họ có cơ sở kinh tế cơ bản và tri thức
lập nghiệp (3) Họ tương đối giàu có, chấp nhận phát triển kinh tế, có khả năng lôi
kéo, thường thì có thể đem đến cơ hội việc làm cho tầng lớp nghèo (5) Họ rất dễ trở
thành một lớp chuyên gia và tầng lớp có trình độ chuyên nghiệp (6) Họ có một phần
tài sản cố định. Những người ưu tú có trí tuệ, thu nhập cao, biết nhìn về tương lai,
làm ra của cải, phần lớn làm trong các ngành thương nghiệp, tiền tệ, chứng khoán,
công nghệ thông tin và nghệ thuật, v.v... trong số đó có các học giả, chuyên gia, luật
sư, bác sỹ, giám đốc doanh nghiệp, v.v...
3. Sự xuất hiện giai cấp trung lưu mới ở một số quốc gia trong quá trình hiện đại
hoá
Ở các nước tư bản phát triển, thông thường người ta phân biệt hai loại giai
cấp trung lưu: giai cấp trung lưu cũ và giai cấp trung lưu mới. Giai cấp trung lưu cũ
chủ yếu chỉ những nhà thầu khoán và chủ nông trại, còn giai cấp trung lưu mới là
những ông chủ và các chuyên gia, chẳng hạn như nhóm quản lý và chuyên gia.
Đối với nhiều thế hệ, hệ thống giai cấp Mỹ được ủng hộ bằng niềm tin cho
rằng giai cấp trung lưu đang tăng dần. Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nghề lao
động trí óc sau Thế chiến II- lôi kéo hàng triệu người Mỹ ra khỏi các công việc lao

động chân tay và trồng trọt - củng cố nhận thức cho rằng nước Mỹ ngày càng trở
thành một xã hội của giai cấp trung lưu nhiều hơn (Kerckhoff, Camphell, &
Winfield – Laird, 1985). Cuộc cách mạng bàn giấy tượng trưng cho tính dễ thay đổi
trong cấu trúc xã hội khiến nhiều người Mỹ xem vị trí xã hội của mình cao hơn vị
trí xã hội do bố mẹ, ông bà mình nắm giữ. Kết quả chung là thay vì xem xã hội bị
chia rẽ sâu sắc giữa người giàu và người nghèo, nhiều người Mỹ xem xã hội của
mình phần lớn là giai cấp trung lưu (Edwards, 1979; Gagliani, 1981;
Wright&Martin, 1987).
Đánh giá quá trình công nghiệp hoá ở Liên Xô, Markku Kininen cho rằng nó
hàm chứa một mức tăng đột biến về “lao động trí óc” và “địa vị giai cấp trung lưu”.
Thao tác hoá của Markku Kininen về cấu trúc giai cấp được hình thành trên những
tiền đề về: nhóm nòng cốt của giai cấp trung lưu mới, bao gồm tất cả những nhóm
người có quyền tự quản về chuyên môn, khoa học- kỹ thuật, quản lý và hành chínhquan liêu, bất kể vị trí quản lý của người đó là gì. Thêm vào đó, còn có cả những
người ở vị trí lãnh đạo các văn phòng. Ngược lại, những người làm công việc chăm
sóc, công nhân lành nghề và những người quản lý các doanh nghiệp nhỏ cũng như
9


những người thực thi các công việc văn phòng mang tính tự quản tạo thành một vị
trí giai cấp đối lập nằm giữa nhóm nòng cốt của giai cấp trung lưu và giai cấp công
nhân. (Kininen, 1987: 195)
Tại Hàn Quốc, một công trình nghiên cứu gần đây đã phân tích và chỉ ra một
nhóm xã hội mới, đóng vai trò như là một nhân tố xã hội chủ chốt quan trọng tạo
nên sức sống của xã hội dân sự Hàn Quốc hiện nay (Han Sang Jin, 2003). Đó là bộ
phận năng động nhất trong tầng lớp trung lưu mới của xã hội Hàn Quốc, những
người được sinh ra từ những năm 1960 trở lại đây, tức là đang ở độ tuổi 40 (so với
nhóm còn lại của tầng lớp trung lưu, thường ở độ tuổi 50 hoặc 60). Nhóm xã hội trẻ
hơn này được tác giả Han Sang Jin gọi là nhóm “middling grassroots” với hàm ý họ
đang trong quá trình phát triển và rất gắn bó với “nhân dân”, khác với thế hệ già
hơn của tầng lớp trung lưu Hàn Quốc. Phân tích sâu hơn về nhóm xã hội này, tác

giả chỉ ra những đặc trưng khá lý thú về họ như sau. Thứ nhất, họ lớn lên và trưởng
thành trong môi trường chính trị những năm 1980, họ duy trì và chia sẻ một bản sắc
tập thể như là một lực lượng xã hội định hướng cải cách. Thứ hai, họ hiểu bản than
họ như là một bộ phận của “nhân dân” hoặc của “cơ sở” hơn là một bộ phận của
giới có quyền lực và ảnh hưởng. Thứ ba, họ có xu hướng nhịn nhận lịch sử và xã
hội với sự chú ý đặc biệt đến các quyền và phúc lợi của con người nói chung hơn là
chỉ nhằm vào lợi ích của một nhóm nhỏ của giới thượng lưu quyền lực. Thứ tư,
bằng nhãn quan xã hội rộng lớn của mình, họ có thể hiểu rõ hơn tình trạng của các
nhóm xã hội thiểu số như phụ nữ, lao động nước ngoài, người tàn tật, người nghèo,
tù nhân, người đồng tính, những người ly khai từ miền bắc và những người xã hội
chủ nghĩa. Họ cố gắng thu hút chứ không loại trừ những nhóm thiểu số này. Thứ
năm, họ có thể duy trì tinh thần chủ quyền quốc gia của họ, khác với sự chấp nhận
một thái độ phục tùng vào nhà nước quyền lực. Thứ sáu, họ ủng hộ và tôn trọng
những người lãnh đạo thà giữ vững nguyên tắc hơn là thỏa hiệp với những nhượng
bộ phi lý và không thể chấp nhận được. Thứ bảy, họ ưa chuộng những cải cách cấu
trúc tương ứng với những tiêu chuẩn toàn cầu hơn là theo đuổi chủ nghĩa địa
phương và thiên kiến dân tộc. Nói tóm lại, nhóm “middling grassroots” này là
những người tích cực nhất trong việc dẫn dắt và hỗ trợ các phong trào dân chủ và
cải cách xã hội ở Hàn Quốc.
Tại Trung Quốc, tác giả Lục Học Nghệ (2002) cho rằng xã hội Trung Quốc
đương đại có 10 giai tầng xã hội được phân tầng theo ba tiêu chí cơ bản là: nguồn
lực tổ chức (chính trị), nguồn lực kinh tế và nguồn lực văn hoá. Sự phân hoá thành
người giàu-người nghèo, tầng lớp có lợi thế-tầng lớp yếu thế, đều căn cứ ở việc họ
không có, hoặc có một, hai hay cả ba nguồn lực này với các mức độ khác nhau.
Nghiên cứu của tác giả này là một gợi ý rất quan trọng để các nhà nghiên cứu tiếp
10


tục thực hiện các phân tích của mình trên các lĩnh vực phân tầng xã hội và biến đổi
cơ cấu xã hội ở các nước đang phát triển.

Một công trình nghiên cứu khác về Trung Quốc gần đây (Peter Norlan, 2005)
đã cho thấy: từ giữa những năm 1990, sự phân tầng xã hội và mức độ bất bình đẳng
xã hội ở đô thị đã tăng lên đáng kể. Thu nhập của 10% số người nghèo nhất năm
1992 đã tăng lên 5,4 lần năm 2001. Người ta cũng bàn luận nhiều về sự gia tăng của
“tầng lớp trung lưu” mà ước tính đã chiếm tới gần 10% dân số đô thị. Vai trò của
tầng lớp này là rất đáng kể trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa xã hội
Trung Quốc.
Cũng cần lưu ý tới những nguồn lực mà giai cấp trung lưu chiếm giữ và
những hình thức tổ chức “các quan hệ trong sản xuất”. Điều này dẫn đến một phát
hiện rằng “lao động trí óc” không phải là một khái niệm đơn giản, mà nó bao hàm
nhiều loại hình khác nhau trong đó có cả các dạng quyền lực, chiến lược và các quá
trình lịch sử. Một vai trò có tính quyết định trong phân tích các nguồn lực của giai
cấp trung lưu mới chính là tính chuyên nghiệp hoá. Thực ra điều đó hoàn toàn gắn
với “tính tự trị nghề nghiệp” vốn đặc trưng cho tất cả các loại hình lao động trí óc
khác.
Sự phát triển hay mở rộng của giai cấp trung lưu, trong một số trường hợp, do
nhận diện giai cấp trở nên suy yếu hơn so với các xã hội truyền thống. Việc gắn
mình vào một giai cấp xã hội nào đó không được trợ giúp bởi mạng lưới truyền
thống từ gia đình hay dòng dõi. Nói một cách khác, ý thức giai cấp không được rõ
ràng như trước đây.
Cho dù xã hội có trở nên hiện đại với tính mở tăng lên, cấu trúc tầng lớp có
thay đổi, phân tầng xã hội vẫn tồn tại dưới hình thức nào đó và nó là kết quả của
quá trình phân tách. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy hệ quả của những biến đổi
trong cấu trúc xã hội hiện đại có tính tích cực. Đó chính là vai trò của giai cấp trung
lưu trong việc thúc đẩy phát triển và tiến bộ xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, giai cấp trung lưu là lực lượng đóng thuế chủ
yếu. Điều kiện sống của về kinh tế của giai cấp này quy định hoạt động đầu tư của
quốc gia, tình trạng ngân sách nhà nước và việc thực hiện các chương trình xã hội,
và quan trọng hơn cả là nó quy định những tiến trình kinh tế xã hội nói chung.
Nhưng giai cấp trung lưu không chỉ được nhìn nhận như một lực lượng tạo sự

bình ổn. Nó còn là một người tiên phong về đạo đức và là một lực lượng then chốt
cho sự phát triển của một xã hội dân sự. Giai cấp này định hình các chuẩn mực đạo
đức của xã hội (theo nghĩa là hệ tư tưởng của nó) bởi giai cấp này chiếm ưu thế
trong hệ thống tư pháp, trong các tổ chức tôn giáo cũng như trong tổ chức chính trị.
11


Nó còn đảm nhận những chức năng đặc thù như: đảm bảo năng suất lao động cao,
sáng tạo và sắp xếp tri thức và thông tin; định hình cơ cấu tiêu dùng. Và cuối cùng
nhưng không kém phần quan trọng là giai cấp trung lưu với tư cách là một chỉnh thể
được xem là lực lượng khuếch trương tự do chính trị, dân chủ.
4. Sự xuất hiện của tầng lớp doanh nhân và vai trò của họ trong các xã hội
chuyển đổi.
Kh¸i niÖm doanh nh©n
Khái niệm về tầng lớp doanh nhân/giới nghiệp chủ đã được nhà kinh tế
Joseph Schumpeter phát triển. Đó là những người có khả năng lĩnh hội những phát
minh kỹ thuật và những phương pháp quản lý mới, cũng như ứng dụng chúng vào xí
nghiệp hoặc công việc kinh doanh của mình. Họ là những người có khả năng dự
kiến được lợi ích tiềm tàng do những đổi mới đem lại, đề xướng được nội dung đổi
mới và sẵn sàng thực hiện những việc mạo hiểm, mà sự nỗ lực có thể thất bại và dẫn
tới thua thiệt. Họ không nhất thiết phải là người quản lý của các công ty, tiến hành
đổi mới hoặc là người cung cấp vốn đầu tư (cho công ty đó). Họ là người cải cách,
quản lý doanh nghiệp của mình; hoặc là người bỏ vốn ra, có thể thuê người quản lý
hoặc vay vốn từ ngân hàng. Schumpeter cũng đặt câu hỏi về sự cần thiết của tầng
lớp doanh nhân trong các nền kinh tế công nghiệp phát triển cao độ, bởi trong các
nền kinh tế đó, việc đổi mới có khuynh hướng trở thành thông lệ. Mà đổi mới hiện
nay không chỉ là đặc quyền của các nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển, đổi
mới đã phát huy giá trị của nó ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước
đang phát triển. Nhiệm vụ của các nước đang phát triển là phải tìm kiếm vốn và
những tài năng quản lý để đầu tư và khai thác nhà máy mới. Và như vậy giới doanh

nhân ở các nước đang phát triển có một vai trò nhất định, tùy thuộc vào những ưu
thế hay trở ngại mà từng xã hội đặt ra cho họ.
Khái niệm ‘doanh nhân’ cổ điển, chỉ những người chấp nhận mạo hiểm, bỏ
tiền bạc của mình ra kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường, thực ra
không còn thích dụng hoàn toàn với điều kiện hiện đại, khi chức năng quản trị và
điều hành doanh nghiệp đã được tách khỏi quyền sở hữu. Nhìn chung, thuật ngữ
‘doanh nhân’ hiện nay còn bao gồm cả đội ngũ các nhà quản trị chuyên nghiệp
trong khu vực các doanh nghiệp lớn, vì họ là những người thực tế hoạch định, tổ
chức, triển khai và điều hành hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
Tại Trung Quốc, các tầng lớp mới, đặc biệt là tầng lớp chủ doanh nghiệp, có
vai trò quan trọng đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung
Quốc. Thứ nhất, nó thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng cường sức mạng tổng hợp của
đất nước. Thứ hai, nó làm giảm sức ép việc làm, duy trì ổn định xã hội. Thứ ba, nó
12


đẩy nhanh sự trưởng thành của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Thứ tư,
nó đẩy nhanh tiến trình hình ngành nghề hoá nông nghiệp và thành thị hoá nông
thôn. Thứ năm, nó đã có đóng góp lớn vào hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia. Trên
thực tế, tầng lớp xã hội mới chính là chỗ dựa quan trọng của phát triển kinh tế
Trung Quốc.
Doanh nhân là một tầng lớp xã hội mới, với vai trò là người khởi xướng các
công việc kinh doanh. Họ tổ chức việc làm ăn dưới các hình thức công ty hay xí
nghiệp hay tập đoàn, và họ cũng có thể đứng ở cương vị quản lý. Giải thích sự bành
trướng của kinh tế tư bản, Schumpeter đề cập đến doanh nhân như là nhân vật cốt
cán thúc đẩy nền kinh tế thị trường đi lên. Schumpeter cho rằng phát triển kinh tế
(nhất là ở các xã hội công nghiệp) là một quá trình không liên tục, gồm nhiều bước
tiến chếch nhau. Yếu tố chính thôi thúc kinh tế đi lên là sự phá vỡ có tính xây dựng,
mà trong đó doanh nhân là xúc tác chủ yếu. Trong khi doanh nhân theo khái niệm
của Marx là những người chỉ quan tâm đến lợi nhuận, thì đặc điểm của doanh nhân

theo Schumpeter là kẻ không chấp nhận sự sẵn có, không chấp nhận lối mòn, mà
ngược lại, luôn tìm kiếm ý tưởng mới, lề lối mới. Chính nhờ lối tư duy và hành
động “khác người” đó của doanh nhân mà họ chính là động lực của nền kinh tế, tạo
ra những bước đột phá trong nền kinh tế của một xã hội.
Giống như tình hình Trung Quốc, các tầng lớp xã hội mới ở Việt Nam đều là
sản phẩm của chính sách mở cửa, đặc biệt là tầng lớp chủ doanh nghiệp. Việc xây
dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại khiến cho một số công nhân viên chuyển sang
các ngành nghề khác; cải cách kết cấu chế độ sở hữu tạo điều kiện cho sự phát triển
của kinh tế tư nhân; và cải cách khoa học công nghệ, cải cách giáo dục đã làm cho
lượng lớn nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp lựa chọn nghề mới. Có thể nói sự ra
đời của các tầng lớp xã hội mới đã hình thành từng bước, lấy chính sách Đổi mới,
mở cửa làm thời cơ, lấy chính sách của Đảng làm hướng dẫn, lấy cơ chế thị trường
làm động lực, lấy dòng lưu động hợp lý làm biện pháp.
Có một số lý thuyết cố gắn giải thích về vai trò của tầng lớp doanh nhân trong
xã hội.
Khi coi doanh nhân đóng vai trò chủ yếu trong quá trình phát triển của tư bản
(Marx) và phát triển kinh tế (Schumpeter), lý thuyết kinh tế tân cổ điển đã phân tích
vai trò của tầng lớp này dựa trên các phân tích vi mô - lý thuyết về doanh nghiệp.
Nhà kinh tế học Harvey Leibenstein lại có một lối giải thích khác về vai trò của
doanh nhân. Ông chia doanh nhân thành hai loại. Một là loại quản lý thông thường,
loại kia là loại sáng tạo hiểu theo nghĩa của Schumpeter. Theo ông, doanh nhân là
người “lấp các khiếm khuyết”, hay kẽ hở của thị trường. Doanh nhân phải dùng óc
sáng tạo và trí tưởng tượng để bù vào các kẽ hở đó. Trong mọi nền kinh tế, đặc biệt
13


là nền kinh tế chậm phát triển, doanh nhân thường thiếu các thông tin cần thiết để
tính toán sắp đặt công việc làm ăn. Nhưng đây không phải là vai trò độc nhất của
doanh nhân. Họ còn là người “lấp đầy các yếu tố sản xuất” (input-completing),
trong trường hợp thị trường thiếu các yếu tố sản xuất cần thiết hoặc tình trạng cung

cầu của một yếu tố chưa rõ ràng. Leibenstein cho rằng sự không hoàn hảo của thị
trường là một yếu tố quan trọng, nhưng không phải là yếu tố độc nhất để giải thích
vai trò của doanh nhân.
Từ một góc nhìn khác, nhà tâm lý học xã hội David McClelland cho rằng, đối
với một số người, thành đạt quan trọng hơn tiền bạc. Doanh nhân có thể thuộc hạng
người này. Hay nói cách khác, tham vọng làm giàu chưa chắc là yếu tố duy nhất
giải thích tại sao một người thường lại muốn làm doanh nhân. Có nhiều bằng chứng
cho thấy rằng đối với một số người, làm doanh nhân là cốt để thoả mãn những thôi
thúc muốn thành đạt.

14



×