Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN ASEAN, QUAN hệ và NHỮNG GIẢI PHÁP MANG TÍNH ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH về CHÍNH TRỊ xã hội của VIỆT NAM với ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.35 KB, 14 trang )

2

MỎ ĐẦU
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8 tháng 8
năm 1967 đến nay, đã có 10 nước thành viên và trở thành một thể chế chính trị có
tiếng nói ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và thế giới nói chung. Đối
với Việt Nam, việc gia nhập ASEAN là một trong những quyết sách hết sức quan
trọng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Hiện nay, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á đang cố gắng xây dựng
Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột là chính trị, kinh tế và văn hoá- xã hội.
Tuy nhiên bài viết này chỉ tập trung vào phân tích nhân tố chính trị- an ninh
trong quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN vì theo đánh giá chung của các nhà
nghiên cứu về ASEAN ở khu vực và trên thế giới, thành tựu lớn nhất mà tổ chức
ASEAN đạt được là ở lĩnh vực chính trị và an ninh. Xét thời điểm thành lập ASEAN
và quá trình thành lập, vấn đề hợp tác về chính trị an ninh là rất quan trọng ở khu vực.

Vào thời điểm ngay sau khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam còn tỏ ra
khá bị động và chưa tham gia nhiều vào hoạt động của ASEAN do chưa có sự hiểu
biết đầy đủ về các nước trong khu vực. Tuy nhiên, từ sau Hội nghị cấp cao ASEAN VI
tổ chức tại Việt Nam năm 1998, chúng ta đã tham gia chủ động và tích cực vào các
hoạt động của khối và để lại nhiều dấu ấn đáng kể. Đến năm 2010, Việt Nam là chủ
nhà của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ XVI và XVII, lúc này Việt Nam đã trở thành
thành viên quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất định trong khu vực. Vì vậy, trong hơn
10 năm hội nhập và phát triển với khu vực trên lĩnh vực chính trị- an ninh, chúng ta
cần một cái nhìn tổng quan và rút ra những bài học kinh nghiệm cho những năm tiếp
theo trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực biến đổi phức tạp không ngừng.

Mặt khác, trong công việc nội bộ của một quốc gia nói riêng cũng như quan hệ
quốc tế nói chung, vấn đề chính trị luôn đi cùng an ninh. Có thể hiểu chính trị theo


nghĩa giản đơn là những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước và về quan
hệ chính thức giữa các quốc gia với nhau; còn an ninh là trạng thái yên ổn về mặt
chính trị, về trật tự xã hội. Vì vậy các quốc gia khi muốn phát triển một cách bền vừng
cần một thể chế chính trị ổn định, luôn cố gắng đảm bảo an ninh, khi đó các lực lượng
lao động trong xã hội sẽ có khả năng phát huy tối đa những năng lực để xây dựng đất
nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các yếu tố gây bất ổn ngày càng trở nên đa dạng,


3

khó lường; việc hợp tác giữa các quốc gia trên cơ sở cùng mục tiêu về chính trị- an
ninh trong khu vực và trên toàn thế giới trở thành một nhu cầu tất yếu. Việt Nam và
ASEAN cũng nằm trong xu thế chung đó.

NỘI DUNG
I. Bối cảnh những năm đầu thế kỷ XXI
1* Bối cảnh thế giới
Toàn cảnh chính trị thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI có nhiều biến đổi
đa dạng và phức tạp. Bên cạnh các vấn đề an ninh truyền thống vẫn còn tồn tại như
cuộc khủng hoảng trên bán đảo Triều tiên, vấn đề eo biển Đài Loan, chạy đua vũ
trang; thì các vấn đề an ninh phi truyền thống liên tiếp nổi lên thu hút sự chú ý của các
nước như buôn lậu, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu
vũ khí, rửa tiền....Thế kỷ XXI bắt đầu cũng đánh dấu quy mô của chủ nghĩa khủng bố
đã lan rộng ra quy mô toàn thế giới, biểu hiện là cuộc tấn công vào Mỹ ngày
11/9/2001 và các cuộc đánh bom vào khu vực du lịch Bali Indonexia vào tháng
10/2002. Ngoài ra, xu thế toàn cầu hóa vẫn tiếp tục phát triển mạnh, mọi hoạt động
quốc tế đều không thể biệt lập. Do đó, cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ năm
2008 đã lan nhanh và có tác động xấu đến cả đời sổng kinh tế và chính trị toàn cầu.
Như vậy, để đối phó với những khó khăn của thế kỷ mới một cách có hiệu quả cần có
sự hợp tác, liên hết toàn khu vực và quốc tế dưới nhiều hình thức, dựa trên cơ sở có

nguyên tắc và luật pháp quốc tế. Về phía Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác giữa
các nước, các khu vực trên những lợi ích chung trong đời sống chính trị quốc tế.

2* Bối cảnh khu vực
Môi trường chính trị an ninh ở khu vực Đông Nam Á trong những năm
đầu thế kỉ 21 đã có nhiều biến đổi theo hướng bất lợi cho hòa bình và ổn định
khu vực so với môi trường chính tri an ninh ớ Đông Nam Á những năm 90 của
thế kỉ trước. Phong trào li khai đã được kích trở lại từ sự kiện Đông Timor rời
khỏi Indonesia để trở thành một quốc gia độc lập. Sự có mặt của Mỹ ở một số
nước Đông Nam Á làm cho Mỹ và các đồng minh của Mỹ trở thành một trong
những kẻ thù của các lực lượng hồi giáo li khai.
Những diễn biến trên trong tình hình khu vực Đông Nam Á đã được các lực
lượng khủng bố quốc tế xem là cơ hội thuận lợi để biến vùng này trở thành địa bàn
hoạt động quan trọng trong cuộc chiến chổng Mỹ và các đồng minh. Các hoạt động


4

khủng bổ trong khu vực ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ tàn bạo trong mấy
năm gần đây bởi có sự kết hợp giữa các lực lượng khủng bố quốc tế và khu vực mà
điển hình là cuộc đánh bom ở khu du lịch Bali, Indonesia.

Bên cạnh đó còn nhiều thách thức an ninh phi truyền thống đang gia tăng
và trở nên trầm trọng như buôn lậu vũ khí, ma túy, phụ nữ và trẻ em ngày càng
trở nên dễ dàng trong bối cảnh khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
Các vấn đề có "tác động lan t ỏa" ảnh hưởng đến an ninh toàn khu vực do hệ
quả của sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế, chính trị và an ninh của các
quốc gia trong khu vực. Đó là các vấn đề liên quan đến nội trị của một số nước, vấn đề
tăng cường vũ trang trong khu vực và các vấn đề an ninh phi quân sự như năng lượng,
lương thực, môi trường... Lấy vấn đề tăng cường mua sắm vũ khí trong khu vực trong

thời gian gần đây làm ví dụ. Mặc dù có nhiều nguyên nhân để lý giải hiện tượng này,
nhưng ớ khía cạnh nào đó, việc này thể hiện sự lo ngại lẫn nhau và thiếu lòng tin của
các nước trong khu vực về môi trường an ninh trong tương lai.

3* Bối cảnh Việt Nam
Trong hơn 10 năm từ 2000 đến 2013, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi,
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước
đang phát triển có thu nhập trung bình. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu
quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vũng. Công tác đối ngoại, hội nhập
quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn
định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Diện mạo của đất nước có nhiều
thay đối. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tuy nhiên,
những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn đang tiềm ẩn những
yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.

II. Giải pháp mang tính Định hướng chính sách của Việt Nam về

chính trị - an ninh với ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI


5

2.1 Chủ trương và đóng góp của Việt Nam trong việc xây dựng cộng đồng
an ninh- chính trị ASEAN đến 2015


Tháng 11/2003, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 họp tại Bali,
Indonesia, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua tuyên bố hòa hợp ASEAN II,
trong đó đề ra mục tiêu là thành lập Cộng Đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng
đồng An ninh ASEAN (ASC), cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), cộng đồng Văn hóa
- xã hội ASEAN (ASCC). Việt Nam luôn xác định là một bộ phận không tách rời của
gia đình ASEAN và chủ trương tham gia hợp tác ASEAN với phương châm chủ động,
tích cực, và có trách nhiệm, góp phần xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ, vững
mạnh và là hạt nhân trong cấu trúc mới đang định hình ở khu vực.

Trong hợp tác về lĩnh vực an ninh - chính trị, Việt Nam xác định rõ duy
trì hoà bình và an ninh khu vực Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương là
nguyện vọng thiết tha và quyết tâm mạnh mẽ của các nước thành viên ASEAN
cũng như các nước khác trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. ASEAN cần
phát huy hơn nữa vai trò là nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy đối thoại và
họp tác về các vấn đề chính trị-an ninh, vì hoà bình, ổn định và thịnh vượng ở
khu vực. Nguyên Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm
cho rằng: Cộng đồng an ninh ASEAN không nhằm tạo ra khối phòng thủ chung,
mà mục tiêu là tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở
khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng cao hợp tác chính trị - an ninh
ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia, đóng góp xây dựng của các đối tác
bên ngoài.
Đối với ASC, Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc hoàn thiện Chương
trình hành động về ASC và đăng cai tổ chức hội nghị các quan chức cấp cao
SOM về cộng đồng này. Chương trình hành động ASC đã chấp nhận quan điểm
an ninh toàn diện do Việt Nam đề xuất với việc khẳng định sự ổn định chính trị xã hội, tăng trưởng kinh tế cùng với việc thu hẹp khoảng cách phát triển, xoá đói
giảm nghèo là nền tảng và cơ sở bảo đảm sự phát triể n bên vững của ASC. Việt
Nam cũng đã cùng với các nước ASEAN khác vận động, đưa vào nội dung Chương
trình hành động việc ngăn chặn sự can thiệp quân sự từ bên ngoài vào dưới bất kỳ hình
thức nào, đặc biệt không cho phép dùng lãnh thổ của một nước vào mục đích chống



6

phá các nước thành viên khác.
Để tránh tình trạng khi xảy ra tranh chấp, các nước thành viên ASEAN đưa vấn
đề của họ lên tòa án Lahay nhờ phân xử, làm giảm vai trò của ASEAN với tư cách một
tổ chức họp tác giữa các nước Đông Nam Á, Việt Nam đã cùng các nước thành viên
khác soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao nhàm nâng cao vai trò của nó
trong việc giải quyết các tranh chấp khu vực. Trong hội đồng tối cao, Việt Nam luôn
nhấn mạnh vai trò chủ đạo của ASEAN, tránh biến hội đồng tối cao thành một tòa án
khu vực, trong đó, một vài nước cụ thể đóng vai trò khống chế các quyết định của hội
đồng.

Việt Nam đã tham gia kí kết và phê chuẩn ngay từ đầu Hiệp Ước Đông
Nam Á không có vũ khí hạt nhân(SEAN - WFZ) nhằm xây dựng Đông Nam Á
thành một khu vực hoàn toàn không có vũ khí hạt nhân. Khi đảm nhiệm vai trò chủ
tịch ASC và ARF, Việt Nam đã chủ động nêu sáng kiến và tổ chức thành công cuộc
họp tham khảo ý kiến giữa các nước ASEAN với 5 nước có vũ khí hạt nhân về một số
nội dung trong nghị định thư và vận động các nước này sớm tham gia nghị định thư
của SEANWFZ.

Như vậy, những đóng góp và nỗ lực của Việt Nam trong việc hướng tới xây
dựng Cộng đồng ASEAN, trong đó có ASC, trong suốt hơn 10 năm qua thực sự đáng
ghi nhận và thực tế, nó đã được ghi nhận bởi các nước thành viên của Hiệp hội. Những
việc làm và hành động này của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với chính sách đối
ngoại mà ta đã vạch ra đổi với ASEAN. Tuy nhiên, để tiếp tục “nâng cao vị thế trong
khu vực và trên thế giới”, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa và phải có những đóng góp
thực sự nôi trội hơn nữa trong ASEAN, đặc biệt trong việc xây dựng Cộng đồng
ASEAN.


2.2 Ứng

xử

của Việt Nam về biển Đông trong giữ gìn an ninh ở khu vực

Đông Nam Á

Biển Đông là một vùng biển rất quan trọng về tài nguyên và đường hàng
hải. Nhưng cũng là một vùng biển ấn chứa những xung đột tiềm tàng giữa các
quốc gia có tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên biển Đông, các tuyên bố chủ
quyền gồm tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Phillipin,
Việt Nam và Brunây, làm cho tình hình trên biển Đông càng thêm phức tạp.
Thậm chí, trong lịch sử đã có những đụng độ bằng quân sự.


7

Bất cứ một hành động đơn phương nghiêm trọng nào trên biển Đông có
thể gây căng thắng, mất ổn định an ninh chính trị trong khu vực vốn rất nhạy
cảm này. Việt Nam cũng là một trong các bên tranh chấp. Vậy chính sách của
Việt Nam như thế nào để vừa thể hiện được quan điểm, lập trường của mình vừa
đảm bảo xung đột không xảy ra, giữ được ổn định về an ninh chính trị?
Việt Nam đã có những nỗ lực nhằm giải quyết các vấn đề về biển Đông,
chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình dựa trên
việc tôn trọng luật pháp quốc tế, Tuyên bố Manila về Biển Đông năm 1992,
Tuyên bố về cách ứng xử giữa các bên ở Biển Đông được ký kết giừa ASEAN
và Trung Quốc ngày 4/11/2002. Cho đến nay Việt Nam vẫn tôn trọng những gì
đã được kí kết giữa các quốc gia có tranh chấp về biển Đông và mong muốn các

bên thực hiện nghiêm túc để căng thăng không leo thang.
Việt Nam đã tích cực tham gia vào các Hội thảo về biền Đông, mới đây
nhất là Hội thảo “Biển Đông: Hướng tới một cơ chế quản lí hợp tác” do Trường
Nghiên cứu quốc tế s.Rajaratnam, Đại học Công nghệ Nanyang tổ chức tại
Singapore năm 2007. Đồng thời cũng tổ chức các Hội thảo liên quan đến biển
Đông như hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông: “ Biển Đông: hợp tác vì an
ninh và phát triển ở khu vực”. Hội thảo nhằm tăng cường hợp tác khu vực và
xây dựng lòng tin giữa các quốc gia. Mục tiêu của hội thảo là hình thành mạng
lưới các nhà nghiên cứu về Biển Đông từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như
khoa học pháp lý, chính trị, quan hệ quốc tế. Hội thảo cũng nhằm tạo diễn đàn
để các nhà nghiên cứu chia sẻ, thảo luận những quan điểm của mình, đồng thời
tăng cường tình hữu nghị giữa các học giả nghiên cứu về Biển Đông, ở mức độ
cao hơn, hội thảo kiến nghị những giải pháp, từ góc độ học thuật, đối với những
tranh chấp hiện nay ở khu vực Biển Đông. Kế đó là hội thảo biển Đông lần II ngày
11/11/2010, tại thành phố Hồ Chí Minh, với sự góp mặt của nhiều học giả quốc tế đến
tham dự. Các cuộc hội thảo cũng là cơ hội để Việt Nam bày tỏ ý chí, lập trường của
mình.
Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực. Do vậy, mỗi bước đi của Trung
Quốc đều có ảnh hưởng đến tình hình an ninh trong khu vực. Trung Quốc đã có nhiều
hành động đơn phương, gây căng thẳng thêm cho tình hình vốn đã rất phức tạp. Năm


8

2008, một tập đoàn dầu khí Trung Quốc đã công bố dự án khai thác ớ biển Đông trị
giá lên đến 30 tỷ USD. Rồi đơn phương đưa ra các lệnh cấm đánh bắt cá ớ biển Đông,
đưa ra tấm bản đồ chín đoạn. Phía Việt Nam đều có những phản ứng cứng rắn: Việt
Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyển, quyền
chủ quyển và quyền hợp pháp của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cũng như các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Mọi hoạt động tiến hành trên

vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam mà không có sự đồng ý, chấp thuận của Việt
Nam đều vi phạm chủ quyền, vi phạm lợi ích quốc gia của Việt Nam và hoàn toàn vô
giá trị.

Điều này cho thấy, ngoài việc thái độ mềm mỏng để tránh căng th ẳng leo
thang, Việt Nam cũng có lập trường cứng rắn đối với phần chủ quyền thiêng liêng của
tổ quốc. Việt Nam tiếp tục cùng hợp tác với các nước ASEAN để giải quyết các vấn đề
về biển Đông theo hướng thương lượng, hòa bình. Việt Nam và ASEAN đang xúc tiến
việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử về biển Đông (COC) có tính ràng buộc hơn thay thế
cho DOC trước đó.

2.3 Việt Nam và các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa ASEAN với bên
ngoài

Trong suốt quá trình hợp tác với ASEAN kể từ khi gia nhập đến nay, Việt
Nam đã tham gia đầy đủ vào các quan hệ đối thoại của ASEAN đặc biệt là đã tham gia
đầy đủ vào các cơ chế hợp tác chính trị - an ninh và các hoạt động hợp tác của ASEAN
như các cơ chế về chính trị (SOM, AMM, cấp cao chính thức và không chính thức).
Việt Nam cũng tham gia hầu hết các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa ASEAN
với bên ngoài như Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Bộ Trưởng ASEAN
(PMC), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đông Bắc Á là Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc (ASEAN+3). Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc
trao đổi ý kiến, đánh giá tình hình thế giới và khu vực, tăng cường phối hợp lập trường
về các vấn đề khu vực và quốc tế và khi cần thiết thì thoả thuận về đối sách chung.

- Việt Nam và các cơ chế đối thoại trong ASEAN
+ ARF và đóng góp của Việt Nam
ARF là một trong những diễn đàn khu vực đầu tiên Việt Nam tham gia
thành lập, trực tiếp kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 17 năm tham gia ARF, Việt Nam đã chủ động



9

đề xuất nhiều sáng kiến, tham gia soạn thảo nhiều văn bản, chủ trì thành công
nhiều hoạt động của ARF. Các hoạt động này của Việt Nam được các nước trân
trọng và đánh giá cao.
Những đóng góp cụ thể của Việt Nam cho ARF trước hết thể hiện qua
những lần chủ trì hoặc đồng chủ trì thành công các hội nghị của Diễn đàn như
ISM-DR 98-99, Chủ tịch ARF 2000-2001. Ngoài những hoạt động này, thông
qua các nước ASEAN khác, Việt Nam cũng đã đi đầu trong quá trình cải tiến bộ
máy, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hợp tác của ARF, những sáng kiến này
đang tiếp tục được thực hiện và áp dụng rộng rãi.
Là Chủ tịch ASEAN từ tháng 1/2010, Việt Nam đã chuẩn bị từ sớm cho nhiệm
vụ Chủ tịch ARF. Ngay từ tháng 7/2009, ta đã đề xuất và được các nước chấp thuận
một số định hướng lớn cho Diễn đàn trong năm 2010. Nổi lên trong số đó là tiếp tục
củng cố và thúc đẩy ARF tiến lên trên cơ sở các nguyên tắc, các định hướng đã có là
ASEAN phải luôn ở vị trí trung tâm và là hạt nhân của cả tiến trình và đồng thời các
biện pháp xây dựng lòng tin vẫn phải là trọng tâm cho các hoạt động của ARF.

Cụ thể hơn, Việt Nam đã đề xướng, điều hành và chủ trì soạn thả o thành
công Kế hoạch Hành động Hà Nội thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF. Đây là một kế
hoạch rộng lớn, bao quát các lĩnh vực hợp tác của ARF, đề ra những bước đi cụ thể
cho cả Diễn đàn. Diễn đàn ARF 17 (Hà Nội, 23/7/2010) đã thông qua văn kiện này và
Ngoại trưởng các nước đều đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam, chất lượng của văn kiện
và cam kết sẽ thúc đầy thực hiện nghiêm túc các hoạt động đề ra trong kế hoạch. Với
những đóng góp này, chắc chắn, nhiệm kỳ Chủ tịch ARF 2010 của Việt Nam sẽ thành
công, đi vào lịch sử của Diễn đàn như một dấu mốc đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ,
hướng tới quan hệ đối tác toàn khu vực vì hòa bình, ổn định, phát triển .


+ Việt Nam và đóng góp cho kênh 2
Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia ngày càng tích cực và chủ động hơn vào
kênh 2- kênh có vai trò quan trọng trong hoạt động của ASEAN, được xem như
là một kênh phi chính phủ, kênh không chính thức, có tác dụng tham khảo ý
kiến và tư vấn cho Kênh 1, kênh chính phủ, kênh chính thức. Chức năng của
Kênh 2 là đối thoại, tư vấn, nghiên cứu, xây dựng lòng tin, thông tin liên lạc...
nhằm nâng cao ý thức hợp tác, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, xây dựng lợi ích


10

cộng đồng, do vậy mà có thề kiềm chế, dẫn tới loại trừ giải pháp dùng vũ lực
giải quyết xung đột và giảm thiểu các nguy cơ gây xung đột.

Việt Nam đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo của Kênh 2, góp phần thúc đẩy
một cơ chế mà thông qua đó các học giả, các quan chức với tư cách cá nhân có thể
thảo luận các vấn đề an ninh - chính trị của khu vực; thiết lập các mối liên hệ với
những thiết chế, tổ chức thuộc khu vực và các khu vực khác trên thế giới nhằm trao
đổi thông tin, quan điểm, kinh nghiệm về phương cách xử lí các vấn đề cũng như hợp
tác an ninh chính trị khu vực; và đưa ra những khuyến nghị mang tính định hướng cho
các chính phủ và các cơ quan liên chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề an ninh
chính trị của khu vực.

- Đóng góp của Việt Nam trong đối thoại giữa ASEAN và bên ngoài
Do có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế và khu vực châu Á-Thái
Bình Dương , nên từ nhiều năm qua ASEAN đã được Nhật Bản, và trong
khoảng hơn thập niên gần đây, nhất là từ giữa những năm 1990 đến nay, cũng đã
được cả Trung Quốc cũng đặc biệt quan tâm trong chính sách đối ngoại và hợp
tác cùng phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh đó, kể từ tháng 12/1997,
hưởng ứng sự đề xuất của ASEAN nhằm thực hiện chiến lược "cân bằng giữa

các nước lớn" bằng cách mở rộng phạm vi liên kết, hợp tác ra toàn bộ khu vực
Đông Á, ba nước Đông Bắc Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều đồng
ý tiến hành cùng với ASEAN tiến hành các cuộc hội nghị nguyên thủ quốc gia
thường niên vào dịp cuối năm với cả hai hình thức: ASEAN+3 ( Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc) và ASEAN+1 (Nhật Bản), ASEAN+1 (Hàn Quốc),
ASEAN+1 (Trung Quốc). Cũng từ các cuộc gặp gỡ này, ASEAN đã lần lượt ký
với các nước đó "Tuyên ngôn hợp tác hướng tới thế kỷ 2 1 V i ệ t Nam còn đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN và
các nước đối thoại nói trên góp phần sáng lập hoặc tham gia sáng lập các tổ
chức và diễn đàn hợp tác như "Diễn đàn khu vực ASEAN", "Diễn đàn Đông ÁMỹ Latinh". Trong vài năm gần đây, đặc biệt từ sau sự kiện 11/9 đến nay, do
việc Mỹ tăng cường hợp tác an ninh với ASEAN để chống lại hiể m hoạ khủng bố
nên vai trò quốc tế của ASEAN càng được coi trọng.
Việt Nam đã và đang ngày càng chủ động hơn trong hợp tác nội khối, hướng


11

hoạt động của ASEAN vào những nội dung hợp tác thiết thực, vừa bảo đảm lợi ích của
Việt Nam vừa thể hiện quan tâm chung của Hiệp hội.

- Nhân tố Mỹ, Trung Quốc trong việc triển khai chính sách chính trị- an ninh
Việt Nam- ASEAN

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ vẫn nắm vai trò đầu tàu thế giới
trong cả kinh tế và chính trị, tuy nhiên một trật tự thế giới mới đang nổi lên với
xu thế đa cực được đánh dấu bởi sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật, Trung Quốc,
Ấn Độ. Trong bối cảnh như vậy, khi xem xét bất kỳ một vấn đề quan hệ quốc tế,
chúng ta không thể bỏ qua vai trò của các nước lớn. Với vị trí địa lý nằm ở phía
Nam Trung Quốc và trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương, ASEAN từ lâu
đã trở thành mối quan tâm chiến lược của Mỹ và Trung Quốc. Sự can dự của hai

nhân tố này đều có những ảnh hưởng nhất định tới việc triển khai chính sách về
chính trị- an ninh giữa Việt Nam và ASEAN.
Có thể nói sự hiện diện của Mỹ và Trung Quốc là rất rõ ràng. Từ sau
chiến tranh thế giới thứ II, lợi ích của Mỹ luôn gắn chặt khu vực Đông Nam Á.
Hiện nay đầu tư trực tiếp (FDI) của Mỹ ở Đông Nam Á gấp 3 lần FDI của Mỹ
vào Trung Quốc, gấp 10 lần FDI của Mỹ vào Ấn Độ. Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton tuyên bố: “Ấn Độ có vị trí có một không hai để giữ vai trò lãnh đạo ở
châu Á - Thải Bình Dương, trên cơ sở lịch sử, khả năng và sự tín nhiệm của
chúng ta”, về các lợi ích an ninh và chiến lược, ASEAN có hai trong số năm
đồng minh của Mỹ ở châu Á là Philippines và Thái Lan(l). về phía Trung Quốc,
dựa vào những khoản đầu tư khổng lồ vào Campuchia, Trung Quốc đang muốn
thiết lập mối quan hệ gần gũi với các nước ASEAN

(2)

. Minh chứng cho mục

đích này là tháng 10 năm 2010, Trung Quốc cam kết ủng hộ công trình xây
dựng tuyến đường sắt trị giá 600 triệu đô la giữa Phnom Penh và Việt Nam.
Tuyến đường này sẽ giúp cho Trung Quốc tiến được một bước quan trọng trong
việc hòa nhập toàn bộ Đông Nam Á, kể cả Singapore ở xa tận phía Nam, vào
mạng lưới xe lửa của họ. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã hoàn tất một thỏa thuận
thương mại với toàn thể 10 quốc gia Đông Nam Á, trong khi một hiệp định
tương tự của Mỹ chỉ mới trong giai đoạn sơ khai. Như vậy, “khả năng Trung
Quốc chiếm quyển kiểm soát là điều không thể tránh khỏi, Campuchia ngả vào


12

Trung Quốc với vòng tay mở rộng. Đó là cách thức trước đây Mỹ dùng để giành

quyền kiểm soát các láng giềng. Địa lý chính trị là như vậy ”.
Trung Quốc hiện là một đối tác rất quan trọng của ASEAN về mặt kinh
tế. Trung Quốc cũng tạo điều kiện để ASEAN như một khối thống nhất về các
vấn đề an ninh, chính trị thành một nhóm tại vùng Biển Đông. Tuy nhiên, Việt
Nam cũng như các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á thì cảm thấy lo ngại về ý
định của Trung Quốc, điều mà họ gọi “lợi ích cốt lõi ở Biển Đông” và chính
điều này đã thúc đẩy các quốc gia thành viên phải xích lại gần nhau về mặt an
ninh - chính trị và kết quả là những cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng của
ASEAN thống nhất và chặt chẽ hơn. Trong khi đó, kể từ khi kết thúc chiến tranh
Việt Nam đến nay, sự chú trọng của Mỹ đối với khu vực ASEAN thường bị đứt
đoạn và luôn bị dẫn dắt bởi sự khủng hoảng. Những chính sách của Mỹ tại đây
không kết nối được với nhau và không phát triển được thành một chiến lược phù
hợp.
Việc thiếu một chiến lược được tư vấn tốt đối với châu Á lâu nay đã ảnh
hưởng tới cân bằng trong khu vực ASEAN. Ngoài ra, việc thiếu những chính
sách nhất quán đối với khu vực Đông Nam Á đã tạo điều kiện cho Trung Quốc
tăng cường ảnh hưởng tại đây, đe dọa quyền lợi của Mỹ và dần dần sẽ làm yếu
đi khả năng đảm bảo an ninh của chính nước Mỹ. Do đó, Mỹ đang điều chỉnh
chính sách của mình theo hướng chú trọng hơn đến Đông Nam Á trong chiến
lược của mình ở châu Á. Bằng chứng là ngày 08/02/2011 Hoa Kỳ đã công bố
Chiến lược Quân sự mới của mình, lần đầu tiên từ năm 2004 đến nay. Chiến
lược Quân sự Mỹ năm 2011 phản ánh một thay đổi đáng kể so với chủ trương đề
ra trước đây, có nghĩa là tập trung nhiều hơn vào khu vực châu Á, với tiềm lực
quân sự của Trung Quốc được coi là một trong các thách thức đối với Hoa Kỳ .
Đứng giữa sự tăng cường ảnh hưởng của hai cường quốc là Trung Quốc và Mỹ,
Việt Nam luôn cố giữ một vị trí tương đối chủ động, có thể cân bằng ảnh hưởng của 2
nước. Trong chính sách đối ngoại của mình với từng nước trong khu vực nói riêng và
khối ASEAN nói chung, Việt Nam luôn "tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,
toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia thành viên" . Bên cạnh
đó, chúng ta luôn dựa trên tình hình thực tế để xác định chính sách. Đồng thời Việt



13

Nam cũng xác định Trung Quốc và Mỹ là hai nước lớn và sẽ luôn là hai nước lớn.
ASEAN chỉ là một tổ chức của các nước nhỏ và vừa, biết rất rõ thực lực của mình, sẽ
khó có thể điều khiển được Mỹ và Trung Quốc để tìm kiếm sự cân bằng trong quan hệ
với hai nước này. Về phía ASEAN, hiệp hội muốn "sử dụng vị thế địa chính trị đặc
biệt của mình để xúc tác và thúc đẩy các bên hợp tác với nhau, tạo ra khuôn khổ cho
sự hợp tác đó, tránh những hiểu lầm và những xung đột không cần thiết giữa các bên,
thông qua đó duy trì môi trường hợp tác giữa ASEAN với các nước lớn và giữa các
nước lớn với nhau” và việc này hoàn toàn là khả thi với ASEAN, bởi "nó phù hợp với
lợi ích của các nước lớn và ở khu vực chưa có tổ chức hay diễn đàn nào có thể làm
điểu đó tốt hơn ASEAN. Đó là bản chất ứng xử của ASEAN trong thời gian qua.

KẾT LUẬN
Nhìn chung, việc triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam về an ninh
- chính trị đối với Asean hơn 10 năm đầu thế kỷ XXI đã đi đúng hướng với định
hướng chính sách mà Đảng và Nhà Nước ta đã vạch ra trong các Đại hội IX, X
và XI. Việc triển khai chính sách đối ngoại đó trên thực tế đã đạt được một số
những thành quả nhất định, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Song bên cạnh đó, vẫn có những mặt còn hạn chế trong công tác nghiên cứu, dự
báo chiến lược về đối ngoại. Sự phối họp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá
đối ngoại chưa thật đồng bộ.
Trong những năm tới, với những xác định phương hướng đối ngoại không
có nhiều thay đổi được nêu trong văn kiện đại hội Đảng XI, Đảng và nhà nước
ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
họp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực

hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đặc biệt tiếp tục phấn
đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng
Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.


14

Với quan điểm và phương pháp triển khai chính sách như hiện tại, chắc chắn
Việt Nam sẽ tiếp tục gặt hái thêm những thành công mới trên lĩnh vực hợp tác
quốc tế không chỉ về chính trị- an ninh, mà còn trên các lĩnh vực khác như kinh
tế, văn hóa- xã hội.


15

DANH MỤC THAM KHẢO

1. TS.Nguyễn Vũ Tùng (biên soạn) (2007), “Chính sách đối ngoại Việt Nam
tập 2 (1975- 2006) , NXB Thế giới, Hà Nội.

2. (8/2007) “Hợp tác chính trị - an ninh Asean: VN sẽ nỗ lực hết
mình”, Đặc san báo thế giới và Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Thu Mỳ / Lê Phương Hòa (2008) - Viện khoa học xã hội Việt
Nam/ nghiên cứu Đông Nam Á, “Việt Nam và công cuộc xây dựng cộng đồng
Asean”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 7(100).
4. Luận Thùy Dương, “Sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác chính
trị- an ninh ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 7(100)/ 2008.

5. Nguyễn Thu Mỹ / Lê Phương Hòa, “Việt Nam và công cuộc xây dựng
cộng đồng Asean” - Viện khoa học xã hội Việt Nam/ nghiên cứu Đông Nam Á.
6. Tháng 12-2004, “Quan hệ ASEAN-Nhật Bản-Hàn Quốc những năm
gần đây” - Tạp chí NCQT số 4(59).
7. Đào Huy Ngọc (chủ biên), Nguyễn Phương Bình, Hoàng Anh Tuấn
(1997), “ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam”, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Thu Mỹ, “ Môi trường an ninh Đông Nam Á những năm đầu thế ki
XXI”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 6/87/2007- Viện KHXHVN, Viện nghiên
cứu Đông Nam Á.

9. “Thế giới và Việt Nam” online; “Nỗ lực vì mục tiêu hình thành Cộng đồng
ASEAN”.



×