BẢN CHẤT CỦA TƯ DUY TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN,
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG ĐỔI MỚI TƯ DUY
CỦA ĐẢNG TA
Trong hoạt động thực tiễn của mình, con người luôn tác động và làm biến đổi thế giới
khách quan, muốn cải biến thế giới khách quan con người cần nhận phải hiểu biết về nó . Do
vậy quá trình nhận thức nó không dừng lại ở sự mô tả hình thức bên ngoài mà cần hiểu rõ bản
chất, quy luật, mối quan hệ nội tại trong sự vật, cũng như giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Để đạt được trình độ ấy, con người phải trải qua một quá trình nhận thức (tư duy) hết sức phức
tạp. Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng, tư duy là sự phản ánh ở trình độ cao của một dạng
vật chất hữu cơ đặc biệt (não người), điều này đã được Ph.Ăngghen chỉ rõ trong tác phẩm
chống Đuy-rinh: “Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì
người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con người và bản thân con người, là sản vật
của giới tự nhiên, một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất định và cùng với môi
trường đó”1.
Tư duy là một thuộc tính của bộ não con người, là một trong những đặc trưng cơ bản để
phân biệt con người với con vật, là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự vận động, phát triển
của lịch sử loài người. Như vậy, tư duy không phải là cái gì thần bí mà đó chỉ là quá trình phản
ánh của bộ não người về thế giới hiện thực. Nhận thức về những thuộc tính và bản chất của sự
vật hiện tượng là đòi hỏi tất yếu khách quan đối với hoạt động cải tạo hiện thực của con người.
11 C.Mác và
1
Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 55.
1
Quá trình nhận thức thế giới khách quan của con người phải trải qua hai giai đoạn, giai
đoạn đầu là nhận thức cảm tính, giai đoạn hai là nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là giai
đoạn nhận thức ban đầu về bề ngoài của sự vật, hiện tượng; nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp
theo đi sâu vào khám phá để tìm hiểu bản chất, quy luật vận động của sự vật hiện tượng. Từ
những hình ảnh trực quan nguyên vẹn của sự vật, hiện tượng thông qua hàng loạt các thao tác
tư duy kết hợp với hệ thống công cụ của tư duy như ngôn ngữ và những hình thức khác của tư
duy, bộ óc con người “nhào nặn” những hình ảnh cảm tính vốn chỉ được thu nhận trực tiếp để
tìm ra những thuộc tính tất yếu và những quan hệ bền vững giữa chúng, từ đó mới có tri thức
đầy đủ về nó và nắm được bản chất, quy luật của sự vật hiện tượng. Quá trình nhận thức diễn
ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi tư duy trừu tượng trở về
với thực tiễn. Chính vì vậy, tư duy của con người luôn là một trong hai vấn đề cơ bản của triết
học.
Với suy nghĩ như vậy, bài viết này trình bày nhận thức của mình về bản chất của tư duy,
vận dụng nó vào đổi mới tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam và vào lĩnh vực hoạt động quân
sự của Quân đội ta. Vấn đề này được tiếp cận dưới góc độ bộ môn chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chính đây là giới hạn của bài tiểu luận, chứ không đi sâu phân tích vào các hình thức,
quy tắc, nguyên tắc, quy luật của tư duy.
1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của tư duy
Cùng với lao động và ngôn ngữ, tư duy của con người xuất hiện, đánh dấu bước phát
triển căn bản của nhận thức con người, khi nhận thức đạt đến trình độ có thể nắm được bản
chất, quy luật của hiện thực khách quan. Với tư duy của mình, con người chính thức trở thành
chủ thể của quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội. Chúng ta đều biết rằng, tư duy là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan; giữa tư duy trừu tượng và nhận thức cảm tính có sự khác nhau
về chất, vậy tư duy là gì? giữa tư duy, nhận thức lý tính và ý thức quan hệ như thế nào? tư duy
đóng vai trò gì trong việc phản ánh thế giới khách quan?
Theo nghĩa rộng, tư duy là sự phản ánh tồn tại. Khi bàn về vấn đề cơ bản của triết học,
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, Ph.Ăngghen có viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết
học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”2. Như vậy, có
thể hiểu rằng mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại cũng là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất.
Cấu trúc ý thức theo chiều ngang bao gồm các yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí và ý
22 C.Mác và
2
Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 403.
2
chí…trong đó tri thức đóng vai trò cốt lõi của ý thức. Điều đó cho chúng ta thấy rằng tri thức
như là hạt nhân của ý thức. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế
giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và
diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ (khái niệm) hoặc hệ thống các ký hiệu khác. Do đó
nhận thức nói chung có một ý nghĩa rộng hơn ý thức. Kết quả của quá trình nhận thức là ý
thức của con người, nếu không có quá trình nhận thức về thế giới khách quan thì sẽ không có
ý thức. Theo C.Mác ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được chuyển vào trong óc con người
và được cải biến đi ở trong đó”3, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Giữa tư
duy, nhận thức lý tính và ý thức có nghĩa giống nhau, có thể thay thế cho nhau, nhưng chúng
không hoàn toàn đồng nhất với nhau; rằng không phải tư duy, nhận thức lý tính và ý thức là
một, tuy giữa chúng có sự đồng nhất, nhưng đó là sự đồng nhất trong khác biệt.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chứng minh, tư duy là sản phẩm của một cơ quan vật
chất sống có tổ chức đặc biệt là bộ óc con người, nó được hình thành trong quá trình hoạt động
thực tiễn của con người. Đối tượng của tư duy là hiện thực khách quan, nó quyết định hoạt
động tư duy của con người. Do vậy, con người tác động đến thế giới hiện thực như thế nào thì
sẽ có những hình thức nhận thức như thế đó. Thực tiễn nói chung quyết định sự hình thành của
tư duy và sự phát triển của thực tiễn cũng quyết định sự phát triển của tư duy. Giữa tư duy và
sự phát triển của hoạt động thực tiễn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn có tư duy thì phải
có hoạt động thực tiễn, ngược lại, muốn có hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao thì phải có tư
duy định hướng chỉ đạo. Khi chỉ ra sự phát triển của tư duy phụ thuộc vào sự phát triển của
thực tiễn, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như triết
học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai
môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác, chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người
ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là
cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”4. Tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực
khách quan thông qua các tri giác cảm tính, các kinh nghiệm đã được tính luỹ và nói chung
33 C.Mác và
44 C.Mác và
3
Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 35.
Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 720.
3
dựa vào những hiểu biết đã có. Do vậy, vai trò phản ánh thế giới khách quan của tư duy trừu
tượng khác với tri giác, biểu tượng là do bản chất của nó quy định.
Tư duy là trình độ phản ánh cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát gián
tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới: ở giai đoạn nhận thức bằng tư duy, sự vật được phản ánh
một cách gián tiếp và khái quát trong các khái niệm, phán đoán và suy lý. Khái quát hoá và
trừu tượng hoá là đặc điểm của tư duy, không có khái quát hoá thì không có hệ thống các khái
niệm, không thể xây dựng được các lý thuyết khoa học. Không có hoạt động nhận thức sáng
tạo, khái quát hoá không tách rời trừu tượng hoá. Hoạt động khái quát hoá của tư duy chỉ có
thể nảy sinh ra và thực hiện trên cơ sở một số thuộc tính quan trọng (xét ở một phương diện
nào đó) đã được tư duy trừu tượng tách ra khỏi những thuộc tính khác. Từ những thuộc tính đã
được trừu tượng hoá này, tư duy đi tới cái chung, cái bản chất, cái có tính quy luật. V.I. Lênin
đã nhận xét ngay cả “sự khái quát đơn giản nhất, sự hình thành đầu tiên và đơn giản nhất của
những khái niệm có nghĩa là con người nhận thức mối liên hệ khách quan ngày càng sâu của
thế giới”5. Nhờ trừu tượng hoá và khái quát hoá, tư duy đưa lại cho con người những tri thức
về các mối liên hệ, quan hệ bản chất và quy luật trong sự vận động phát triển của sự vật, hiện
tượng, các quá trình đã, đang và sẽ diễn ra trong khoảng không gian bao la của vũ trụ. Tính
chất khái quát và gián tiếp của tư duy biểu hiện ở chỗ, nó đi “Từ một hình thức liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau này đến một hình thức khác, sâu sắc hơn, chung hơn”6.
Về bản chất, tư duy là một quá trình phản ánh sáng tạo. Nói đến tính sáng tạo của tư duy
là nói đến sự hình thành tri thức mới về các mối liên hệ và quan hệ, về tính quy luật khách
quan chi phối sự phát triển của các sự kiện vào quá trình lịch sử, về bản chất của khách thể,
cũng như về diễn biến của hiện thực. Trong quá trình nhận thức chân lý, chủ thể tư duy không
chỉ biết đặt ra những vấn đề mới, mà còn giải quyết chúng bằng những phương pháp thích hợp
với quy luật của chúng. Đồng thời quá trình đó chủ thể tư duy huy động một cách sáng tạo vốn
tri thức phong phú đã có, bao gồm cả kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, không chỉ
huy động tri thức lý luận chung, mà cả sự am hiểu cần thiết, cụ thể về những lĩnh vực “có vấn
đề”. Do đó, thiếu vốn tri thức của cuộc sống sẽ không có tư duy sáng tạo. Ngoài ra trong sự
sáng tạo của tư duy ở trình độ lý luận khoa học còn có sự tham gia tích cực của sự tưởng
tượng và tri giác. Đặc biệt là vai trò của trực giác; bởi vì trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp
55 V.I.Lênin,
Toàn
66 V.I.Lênin,
Toàn
4
tập, tập 29, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 81.
tập, tập 29, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva 1981, tr. 240.
4
chân lý không cần lập luận lôgic. Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián
tiếp, trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý thức, có thể coi trực giác như một hành vi
lôgic (trực tiếp trí tuệ) mà ở đó nhiều lập luận, nhiều tiền đề đã được giảm lược, nó là kết quả
của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao tác tư duy phát triển ở
trình độ khác nhau. Thực chất nó là sản phẩm của tài năng, sự say mê và sự kiên trì lao động
nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc; vì vậy, trong nhận thức khoa học, trực giác có vai
trò hết sức to lớn, thể hiện tính sáng tạo cao của con người. Trong lịch sử khoa học đã chứng
minh, nhiều phát minh khoa học ra đời bằng con đường nhận thức trực giác. Các tư tưởng,
quan niệm, lý thuyết khoa học… do tư duy sáng tạo ra cũng như bản thân tư duy có sự biến
đổi, phát triển là do thực tiễn lịch sử- xã hội quyết định. Điều này không loại bỏ tính độc lập
tương đối của tư duy, vì tư duy có lôgic phát triển nội tại riêng của nó, chịu sự chi phối của các
quy luật (quy tắc, nguyên tắc) riêng.
Tư duy có vai trò rất quan trọng trong việc nhận thức thế giới, khi chúng ta xem xét,
nhận thức về giới tự nhiên, về lịch sử xã hội loài người ngay cả về hoạt động tinh thần của
chúng ta. Nhờ có tư duy mà đem lại cho chúng ta sự hiểu biết về bản chất, những mối liên hệ
phong phú, đa dạng, phức tạp, sự vận động, biến đổi, phát sinh, phát triển và tiêu vong của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư duy trừu tượng hướng vào việc tìm ra
chân lý, nắm bắt những mối liên hệ khách quan, có tính bản chất, phát hiện ra tính quy luật
chi phối sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói về tầm quan trọng của tư duy
trừu tượng trong việc phát hiện ra chân lý, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Theo bản chất của nó, tư
duy của con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà
chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học
lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn
chân lý của mọi định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tuỳ
theo sự tăng tiến của tri thức”7. Nhờ có tư duy trừu tượng mà con người đi từ sự hiểu biết có
tính chất hiện tượng đến sự hiểu biết về bản chất, từ ngẫu nhiên bề ngoài đến quan hệ có tính
tất nhiên, tính quy luật. Tư duy biện chứng cho chúng ta nhận thức các sự vật, hiện tượng
trong một chỉnh thể thống nhất, chứ không phải là sự hiểu biết riêng lẻ, tách rời của các yếu tố,
các bộ phận của sự vật, hiện tượng.
77 V.I.Lênin,
Toàn
5
tập, tập 18, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 158.
5
Tư duy trừu tượng là quá trình phản ánh gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng hoá các sự
vật hiện tượng nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ tham gia vào các quá trình của tư duy, với tư cách là
cái chứa đựng các nghĩa biểu đạt cho sự vật mà thoạt đầu có hình thái vật chất bên ngoài với
chứng năng phát âm thông báo, về sau chức năng này giảm dần và chuyển thành lời nói bên
trong, có chức năng chuyên chở các ý nghĩ. Ở đây các cụm từ, các từ hay ngôn ngữ nói chung,
trong khi là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, biểu đạt các khái niệm, phán đoán, suy lý, quy
luật, lý thuyết, đã có tính chất khái quát và bao hàm cái chung. Do vậy, ngôn ngữ càng phát
triển, vốn từ vững càng phong phú thì tư duy gắn liền với nó càng linh hoạt, mền dẻo, phản
ánh càng sâu sắc, chính xác và đầy đủ các mối liên hệ đa dạng, phức tạp của thế giới hiện
thực. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” Ph.Ăngghen viết “Tư duy lý luận của mỗi
thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình
thức rất khác nhau trong thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” 8. Theo
đó, mỗi thời đại lịch sử sản sinh ra một phong cách tư duy mang những đặc điểm riêng của
mình, đặc điểm trong khoa học tự nhiên thể hiện rất rõ. Chính vì vậy, mà ở Việt Nam một số
những người nghiên cứu khoa học như Vũ Văn Viên, Tô Huy Hợp.. đã có những khái niệm
“phong cách tư duy” để phân biệt những loại hình tư duy khoa học tự nhiên khác nhau, đặc
trưng cho mỗi thời đại lịch sử. Theo tác giả Vũ Văn Viên, “Phong cách tư duy khoa học tự
nhiên đã trải qua 3 giai đoạn cơ bản: phong cách cổ điển, phong cách cận đại và phong cách
hiện đại”9. Sự phát triển của tư duy khoa học nói chung, sự hình thành các phong cách tư duy
khoa học tự nhiên nói riêng, diễn ra theo hướng ngày càng cụ thể và ngày càng tiến gần tới
một phong cách tư duy bao quát đối với nhận thức khoa học (phong cách tư duy biện chứng).
Điều đó chứng minh rằng trình độ tư duy con người càng phát triển, thì nhận thức khoa học
ngày càng được nâng cao, vì nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác và mang
tính trừu tượng, khái quát ngày càng cao. Nó thể hiện tính khoa học, năng động sáng tạo của
tư duy trừu tượng. Nó phản ánh thế gới hiện thực dưới dạng lôgic trừu tượng những thuộc
tính, những kết cấu, những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, những quy luật vốn có của thế giới
khách quan. Nhận thức khoa học hướng tới nắm bắt các quy luật, cái bản chất của thế giới
hiện thực, nó không dừng lại ở cái bên ngoài, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất. Nhận thức khoa
học được thể hiện trong các phạm trù, quy luật của khoa học và đến lượt mình các phạm trù,
quy luật lại trở thành chỗ dựa và là công cụ, phương tiện của nhận thức khoa học. Chính vì
88 C.Mác và Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.
99 Vũ văn Viên,
Vấn đề thực chất của tư duy khoa học, Tạp chí Nghiên cứu lý luận,
6
6
487.
số 3, 1992, tr 36
vậy, sự ra đời và phát triển của nhận thức khoa học là thành quả vĩ đại của trí tuệ, của tư duy
con người. Trong lịch sử triết học trước Mác, đã có hai phương pháp tư duy đối lập nhau về
cách xem xét thế giới- đó là tư duy siêu hình và tư duy biện chứng; tư duy siêu hình là kiểu tư
duy xơ cứng, xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tách rời, bất biến, không có
mối liên hệ, ràng buộc, tác động lẫn nhau; trái lại tư duy biện chứng là tư duy linh hoạt, mền
dẻo, nó xem xét sự vật hiện tượng trong trạng thái động, trong mối liên hệ, ràng buộc tác
động, ảnh hưởng lẫn nhau, sự vận động, biết đổi không ngừng. Phương pháp xem xét đó tuân
theo quy luật vốn có của thế giới khách quan. Hai phương pháp tư duy trên ra đời từ thời cổ
đại, nhưng xét về bản chất, ở thời kỳ cổ đại, tư duy biện chứng chiếm ưu thế hơn, mặc dù nó
còn mang tính ngây thơ, chất phác, thực chất đó là những phỏng đoán thiên tài. Còn ở thời kỳ
phục hưng, tư duy siêu hình chiếm ưu thế, nó trở thành phương pháp tư duy đặc trưng cho thời
cận đại và ở trong thế kỷ XVII-XVIII, khi mà phương pháp phân tích trong khoa học tự nhiên
được đưa vào và trở thành phương pháp triết học. Như Ph.Ăngghen đã viết: Khi phương pháp
nhận thức ấy được Bêcơn và Lốccơ đưa từ khoa học tự nhiên vào triết học nó tạo ra tính hạn
chế đặc thù của những thế kỷ gần đây-tức là phương pháp tư duy siêu hình. Phương pháp tư
duy siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại
giữa chúng những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát
sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự vật ấy mà quên mất
sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng” 10. Chính vì thế,
tư duy siêu hình chỉ có ý nghĩa trong những dưới hạn hết sức chật hẹp, nếu vượt ra ngoài giới
hạn đó thì tư duy siêu hình sẽ mắc sai lầm, trở thành phiến diện, trừu tượng và sa vào những
mâu thuẫn mà không thể nào giải quyết được. Hê-ghen là người có công lớn trong việc phê
phán tư duy siêu hình và trở thành người đầu tiên trình bày phương pháp biện chứng được thể
hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học của ông từ lôgíc học, triết học tự nhiên đến triết học
tinh thần. Tuy nhiên, phương pháp tư duy biện chứng ấy đã được Hê-ghen xây dựng trên cơ sở
của chủ nghĩa duy tâm khách quan, cho nên nó không có giá trị đối với hoạt động thực tiễn
của con người: chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp tư duy trên đã thúc đẩy tư
duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần, với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Quá trình phát triển của nhận thức nói chung, của tư duy nói riêng, thì tư duy biện chứng
mácxít là hình thức tư duy phát triển cao.
1010
7
C.Mác và Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 37.
7
Quá trình phản ánh hiện thực khách quan, để nhận thức được các quy luật vận động phát
triển của sự vật, hiện tượng, tư duy biện chứng không thể không phản ánh trạng thái xác định,
ổn định của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, để hiểu được bản chất của tư duy với tư cách một chỉnh
thể thống nhất và đặc biệt và vận dụng các công cụ, phương tiện của tư duy một cách có hiệu
quả, chúng ta không thể không phân tích bộ phận cơ bản của nó là tư duy chính xác.Tư duy
chính xác, là một bộ phận của tư duy biện chứng mácxít, phản ánh trạng thái ổn định tương
đối của sự vật, hiện tượng trong tính “đồng nhất trừu tượng” của chúng.Việc nghiên cứu tư
duy chính xác là nhiệm vụ của lôgic hình thức và việc nghiên cứu tư duy biện chứng mácxít là
nhiệm vụ của lôgic học biện chứng. Tuy lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng khác nhau, nhưng
xét về bản chất và nguồn gốc thì giữa chúng có sự đồng nhất. Theo quan niệm của các nhà lý
luận mácxít, quan hệ giữa lôgic học hình thức và lôgic học biện chứng đồng nhất cũng giống
như giữa toán học sơ cấp và toán học cao cấp, nó đều phản ánh hiện thực khách quan. Như
vậy, tư duy chính xác chỉ là một bộ phận của tư duy biện chứng, bao hàm trong tư duy biện
chứng. Một số quan niệm khác đã chia tư duy thành tư duy biện chứng và tư duy hình thức.
Xét trên mặt triết học duy vật biện chứng, thuật ngữ tư duy hình thức ở đây được hiểu giống
như thuật ngữ tư duy chính xác đã sử dụng ở trên. Nên tư duy chính xác là một bộ phận của tư
duy biện chứng. Việc phân chia tư duy thành tư duy chính xác và tư duy biện chứng là có cơ
sở của nó.
Xem xét vấn đề này trên phương diện thế giới quan, chúng ta thấy nó hoàn toàn khoa
học. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mọi sự vật, hiện tượng trong quá
trình tồn tại, phát triển của mình đều nằm trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng,
nhưng không loại trừ trạng thái đứng im tương đối. Theo đó, có thể nói rằng các sự vật, hiện
tượng luôn nằm trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (trạng thái tĩnh và trạng
thái động). Trạng thái tĩnh của sự vật chính là sự đứng im tương đối, là trạng thái của sự vật,
hiện tượng được xem xét ở phẩm chất xác định trong một thời điểm nhất định, một không gian
xác định. Trạng thái động là tuyệt đối, đây là trạng thái của sự vật, hiện tượng xem xét trong
mối quan hệ lệ thuộc, chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một sự vật, hiện
tượng, hay giữa các sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển của chúng. Trạng thái
tĩnh và trạng thái động là hai trạng thái không thể tách rời nhau trong sự tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng. Trạng thái tĩnh, xác định sự vật được phản ánh bởi tư duy chính xác,
trạng thái động của sự vật được phản ánh bởi tư duy biện chứng. Như vậy, nếu lôgic biện
chứng là khoa học về tư duy biện chứng, tư duy phản ánh trạng thái động của sự vật, hiện
8
8
tượng thì lôgic học hình thức là khoa học về tư duy chính xác (tư duy phản ánh trạng thái tĩnh)
của sự vật, hiện tượng. Quan niệm như vậy, hoàn toàn phù hợp với bản chất của lôgic học hình
thức, lôgic lấy “sự đồng nhất trừu tượng” làm cơ sở cho quá trình nhận thức các sự vật, hiện
tượng. Chính vì vậy, trong tư duy khoa học luôn cần có tư duy chính xác, cũng như phải có tư
duy biện chứng. Tư duy chính xác phản ánh sự vật trong trạng thái tĩnh, ổn định, nhưng mọi
sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi
không ngừng cho nên không thể có sự đồng nhất tuyệt đối. Mặc dù tư duy chính xác phản ánh
sự vật, hiện tượng trong “tính đồng nhất trừu tượng”, trong một phạm vi nhất định và trong
một thời gian ngắn, nhưng đó là sự phản ánh cần thiết để có thể hiểu được sự vật, hiện tượng
trong quá trình vận động phát triển của nó. Ngoài phạm vi xác định “tính đồng nhất trừu
tượng” không đáp ứng được nhu cầu nhận thức của con người. Ph.Ăngghen viết: “Tính đồng
nhất trừu tượng (a = a; và cả dưới hình thức phủ định: a không thể đồng thời vừa là a vừa
không phải là a), cũng không thể dùng được trong giới hữu cơ. Cái cây, con vật, mỗi tế bào,
trong mỗi lúc của đời nó, là đồng nhất với nó những lại khác biệt với bản thân nó, do sự đồng
hoá và bài tiết các chất, do sự hô hấp, sự tạo thành và sự huỷ diệt các tế bào, do đó quá trình
diễn biến của sự tuần hoàn”11. Nhận thức của con người đi từ nhận thức hiện tượng đến bản
chất, từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai, v.v… đến vô hạn. Ở đây, chúng ta có thể quan
niệm các cấp độ bản chất khác nhau về sự vật, hiện tượng mà nhận thức của chúng ta đã đạt
được, là những trạng thái tĩnh về sự phát triển của nhận thức. Lôgic học hình thức có nhiệm vụ
nghiên cứu, nắm bắt những dấu hiệu, những thuộc tính bản chất của mỗi cấp độ ấy trong sự
“đồng nhất trừu tượng” của chúng, còn lôgic học biện chứng nghiên cứu quá trình chuyển hoá
của các dấu hiệu thuộc tính ấy, quá trình chuyển hoá từ cấp độ thấp đến cấp độ cao hơn. Xét ở
góc độ tự ý thức về tư duy, tư duy với tư cách một hiện tượng đặc thù cũng có quá trình vận
động, phát triển của mình. Trong quá trình ấy, bản chất tư duy cũng là sự thống nhất của hai
trạng thái nhận thức sự vật, hiện tượng (động và tĩnh). Vì vậy, việc nghiên cứu tư duy cũng
phải được xem xét từ hai trạng thái đó.
Tư duy phản ánh các sự vật, hiện tượng ở phẩm chất xác định và được định hình d ưới
dạng các hình thức của tư duy, như khái niệm, phán đoán, suy lý, đó là tư duy chính xác.
Trạng thái tĩnh của tư duy chỉ là tạm thời tương đối nó nằm trong quá trình vận động, phát
triển của tư duy. Thể hiện trạng thái động của tư duy đó là tư duy biện chứng, tư duy phản ánh
1111 C.Mác và
9
Ph.Ăngghen,
Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 698.
9
sự chuyển hoá của các sự vật, hiện tượng từ phẩm chất này sang phẩm chất khác. Để thấy
được vị trí, vai trò của tư duy chính xác cũng như tư duy biện chứng và mối quan hệ giữa
chúng, cần sử dụng phương pháp so sánh nhằm xác định rõ mối quan hệ hai hình thức tư duy
này.
Qua nghiên cứu tư duy chính xác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trừu tượng,
trong trạng thái cô lập, tách rời, không vận động, biến đổi. Còn tư duy biện chứng phản ánh
các sự vật, hiện tượng không những trong trạng thái vận động, biến đổi, mà còn đặt nó trong
mối liên hệ, tác động ảnh hưởng lẫn nhau với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện
tượng muốn tồn tại đều phải có mối liên hệ ràng buộc, tác động với các sự vật hiện tượng
khác. Thuộc tính, đặc tính của sự vật là sự thể hiện của sự vật đó trong mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác. Phép biện chứng duy vật khẳng định: mọi sự vật hiện tượng đều nằm
trong quá trình vận động biến đổi không ngừng. Trạng thái động là tuyệt đối, là vĩnh cửu. Để
có thể nhận thức được một sự vật nào đó, chủ thể nhận thức phải bóc tách sự vật đó ra khỏi
những mối liên hệ phức tạp, khỏi sự tác động ảnh hưởng với các sự vật khác, chỉ để lại những
mối liên hệ bản chất, chủ yếu thì chúng ta mới có thể xem xét sự vật đó một cách khái quát,
tìm ra bản chất nhất của nó.
Tư duy biện chứng phản ánh các sự vật, hiện tượng với tư cách là biểu hiện cụ thể của
thế giới vật chất, giữa các sự vật, hiên tượng luôn có mối liên hệ, ràng buộc tác động ảnh
hưởng lẫn nhau. Khái niệm “liên hệ” phản ánh sự phụ thuộc, ràng buộc, quy định lẫn nhau,
làm điều kiện, tiền đề cho nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Chính khái niệm này phản ánh sự
tác động qua lại giữa chúng thể hiện sự thống nhất của thế giới vật chất. Đó là kiểu liên hệ đặc
biệt mà trong đó, các sự vật, hiện tượng là đối tượng tác động,ảnh hưởng lẫn nhau một cách
trực tiếp hay gián tiếp, nhờ đó sự vận động, biến đổi của thế giới được thực hiện thường
xuyên, liên tục.
Tư duy biện chứng phản ánh các sự vật, hiện tượng, các yếu tố, các bộ phận cấu thành
của các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ hữu cơ với nhau. Các giai đoạn trong một quá
trình với các quá trình trước, quá trình sau của sự vận động, phát triển của thế giới nói chung,
của từng sự vật hiện tượng nói riêng cũng luôn luôn liên hệ với nhau. Chúng ta không thể tìm
thấy ở đâu, ở bất cứ chỗ nào, trong thời gian khác nhau, bất cứ lĩnh vực nào cũng không có
những sự vật, hiện tượng tồn tại một cách hoàn toàn cô lập. Mối liên hệ đó là khách quan, là
phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực.
10
10
Ngày nay, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, chúng ta càng thấy rõ hơn yếu tố quyết
định hình thức tồn tại của sự vật, hiện tượng ở một dạng cụ thể nào đó là ở cách thức liên hệ
của các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng ấy. Yếu tố quyết định sự vận động,
biến đổi của sự vật, hiện tượng là do tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành
bản thân nó, mà chủ yếu là do sự liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt đối lập. Như vậy,
nguyên nhân của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng chính ngay trong bản thân
của nó, chứ không phải do lực tác động bên ngoài sự vật, cũng không phải cú “hích của
thượng đế”, mặt khác do bản thân sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng quy định lẫn nhau. Hơn
nữa, những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ bộc lộ ra ngoài khi các sự vật, hiện
tượng liên hệ, tác động qua lại với nhau. Tuỳ theo phạm vi rộng hay hẹp và mức độ nông hay
sâu của mối liên hệ, tác động mà bản chất của sự vật, hiện tượng được bộc lộ ra như thế nào.
Chỉ có trên cơ sở như vậy, tư duy của con người mới có thể ngày càng nắm bắt được bản chất
của sự vật, hiện tượng cùng với tính đa dạng, muôn hình, muôn vẻ, sinh động của thế giới hiện
thực xung quanh chúng ta. Tư duy biện chứng phản ánh các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan, đặt chúng trong mối liên hệ phong phú và đa dạng, mỗi mối liên hệ lại có một vị
trí, vai trò khác nhau trong sự tồn tại, vận động, phát triển của chúng. Có mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bản chất, có mối liên hệ không bản chất, có mối
liên hệ chủ yếu, lại có mối liên hệ không chủ yếu…v.v. mối liên hệ, tác động qua lại càng
phong phú da dạng, thì sự vật càng bộc lộ nhiều thuộc tính khác nhau, đòi hỏi tư duy của
chúng ta cần phải mở rộng phạm vi, nghiên cứu khái quát hơn. Đặc biệt trong lĩnh vực xã hội,
tính chất phức tạp của mối liên hệ, tác động qua lại rất phức tạp do sự đan xen, chồng chéo lẫn
nhau của vô vàn những hoạt động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, mà việc nhận thức
bản chất của các hiện tượng trong lĩnh vực xã hội là rất phức tạp. Tuỳ theo tính chất và vai trò
của từng mối liên hệ mà có thể khái quát bằng những khái niệm khác nhau. Sự khác nhau này
chỉ có ý nghĩa tương đối, vì tính chất đa dạng và phức tạp của các mối liên hệ. Do đó, không
thể xem xét mối liên hệ tách rời khỏi hệ thống của nó, hoặc là không thể tuyệt đối hoá bất kỳ
mối liên hệ nào.Sự khác nhau giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng được biểu hiện rất
cụ thể như sau:
Thứ nhất: Tư duy chính xác xem xét sự vật, hiện tượng “trong tính đồng nhất trừu
tượng” và do vậy, không thấy được mối liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt, các bộ phận
trong một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Còn tư duy biện chứng
nhìn nhận các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ ràng buộc, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
11
11
Thứ hai: Tư duy chính xác phản ánh các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tĩnh, trong
trạng thái đứng im tương đối, nó phản ánh các sự vật, hiện tượng trong sự tồn tại hiện có mà
chưa thấy quá trình sinh thành, phát triển và tiêu vong của nó. Còn tư duy biện chứng phản
ánh các sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển không ngừng, nó xem xét một cách
toàn diện, bao quát sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất và những
quy luật phổ biến của quá trình này; nó phản ánh sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh,
phát triển và tiêu vong.
Tư duy chính xác phản ánh sự vật trong trạng thái xác định, trong trạng thái đứng im
tương đối. Nó phản ánh sự vật trong sự tồn tại của nó mà gạt bỏ một cách “trừu tượng” khỏi
quá trình vận động phát triển sự vật đó. Việc tư duy chính xác phản ánh sự vật trong trạng thái
xác định, trong sự tồn tại hiện có của nó không thể không phiến diện, không thể không là
“chết cứng”, tách sự vật khỏi quá trình vận động phát triển của nó. Nhưng sự phản ánh đó là
rất cần thiết trong nhận thức của chúng ta về thế giới khách quan. “V.I. Lênin viết: “Chúng ta
không thể biểu hiện, thể hiện, đo lường, hình dung sự vận động mà không cắt đứt tính liên tục,
không đơn giản hoá, không làm thô lỗ, không tách rời, không làm chết cứng cái đang sống.
Việc tư duy, (không những tư duy mà cả cảm giác) hình dung sự vận động (không những sự
vận động mà tất cả các khái niệm) bao giờ cũng làm thô lỗ, làm chết cứng”12.
Tư duy biện chứng không những phản ánh các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, mà
còn phản ánh nó trong sự vận động, phát triển không ngừng. Tư duy biện chứng xem xét một
cách toàn diện, bao quát sự vận động, phát triển của thế giới, tìm ra bản chất và những quy
luật phổ biến của quá trình đó. Nó phản ánh các sự vật, hiện tượng qua các giai đoạn sinh
thành, phát triển và tiêu vong. Sự vật, hiện tượng này mất đi, là điều kiện, tiền đề cho sự ra đời
của sự vật, hiện tượng khác. Bởi vì, sự ra đời các sự vật, hiện tượng không phải từ hư vô, mà
từ các sự vật, hiện tượng trước đó. Nó được chuẩn bị từ bên trong của chính các sự vật, hiện
tượng trước đó.
Tư duy biện chứng xem xét sự phát triển một cách đối lập với tư duy siêu hình. Tư duy
siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng như là những cái được sinh ra một lần là mãi mãi như
thế, không có sự thay đổi từ sự vật này thành sự vật khác. Tuy nhiên, cũng có những nhà triết
học siêu hình thừa nhận có sự phát triển, nhưng sự phát triển đối với họ chỉ là sự tăng lên đơn
thuần về mặt số lượng, từ ít đến nhiều, hoặc là sự biến đổi tuần hoàn lặp lại theo vòng tròn
1212 V.I.Lênin,
Toàn
12
tập, tập 29, Nxb Tiến Bộ, Mátcơva, 1981, tr. 275.
12
khép kín, chứ không phải là sự chuyển hoá từ sự vật này sang sự vật khác, không có sự xuất
hiện của cái mới, nảy sinh trên nền tảng của cái cũ.
Tư duy biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn vận động và biến
đổi, chuyển hoá từ sự vật, hiện tượng này thành sự vật, hiện tượng khác. Cái mới ra đời kế tiếp
cái cũ, giai đoạn trước là điều kiện, tiền đề cho giai đoạn sau, nó tạo ra quá trình phát triển mãi
mãi, không ngừng sản sinh ra cái mới. Nguyên nhân của sự phát triển là do mối liên hệ, tác
động quan lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập bên trong bản thân sự vật, hiện tượng đó. Sự phát
triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo cách thức: tích luỹ dần dần về lượng để dẫn đến một
độ nhất định nó nhảy vọt về chất. Con đường xu hướng của sự phát triển không theo đường
thẳng tắp, cũng không theo đường tròn khép kín, mà được diễn tả như là đường “xoáy ốc” tạo
thành xu hướng phát triển tiến lên từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn
thiện hơn.
Tư duy chính xác và tư duy biện chứng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, giữa
chúng có vai trò, vị trí xác định, quá trình nhận thức của con người nhằm phản ánh đúng bản
chất và quy luật của thế giới khách quan. Tư duy chính xác là một bộ phận không thể thiếu
được trong mọi quá trình tư duy khoa học. Vì nó giúp chúng ta nhận thức đúng đắn trạng thái
tĩnh của mọi cấp độ, bản chất của các sự vật, hiện tượng; do đó để nắm bắt được quá trình vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng, thì trước hết phải hiểu những sự vật đó như những
sự vật đồng nhất trừu tượng. Nếu nhìn một cách tổng thể thì tư duy chính xác chỉ là một bộ
phận của tư duy biện chứng, song đó là một bộ phận cơ bản và có tính độc lập tương đối của
nó. Việc phân chia như vậy là để nhằm tạo điều kiện nghiên cứu bản chất của tư duy một cách
sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Để thấy rõ vị trí, vai trò của tư duy chính xác, thiết nghĩ, cũng cần có
sự phân biệt nó với tư duy siêu hình. Tư duy chính xác có vị trí vai trò rất quan trọng đối với
tư duy biện chứng, nhưng chúng ta không được lẫn lộn tư duy chính xác với tư duy siêu hình,
không thể đồng nhất tư duy siêu hình với tư duy chính xác. Theo đó càng không thể đồng nhất
phương pháp siêu hình với lôgic học hình thức. Vì xét theo một nghĩa nào đó, phương pháp tư
duy siêu hình tuyệt đối hoá các quy luật của khoa học tự nhiên, trong đó có các quy luật của
lôgic học hình thức, đồng thời xem nó là những quy luật duy nhất và phổ biến của mọi sự vật,
mọi quá trình của thế giới khách quan; đây là sự áp đặt miễn cưỡng, cứng đờ, trong một giới
hạn chật hẹp. Còn lôgic hình thức nghiên cứu tư duy chính xác, đó là tư duy phản ánh sự vật
trong trạng thái tĩnh, đứng im tương đối; nhưng đây là sự phản ánh cần thiết không thể thiếu
13
13
được, để nhằm nhận thức đúng quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chính
vì vậy, không thể đồng nhất phương pháp tư duy siêu hình với lôgic hình thức.
Tư duy biện chứng mácxít là một phương pháp tư duy phát triển ở trình độ cao so với
các phương pháp tư duy trong lịch sử triết học. Nó không những khác về chất so với các
phương pháp tư duy đã có trong lịch sử như: tư duy biện chứng tự phát thời cổ đại, tư duy biện
chứng duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức, tư duy siêu hình, tư duy kinh nghiệm; mà
còn khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các phương pháp tư duy đó. Tư duy biện
chứng mácxít nó hàm chứa nội dung hiện thực, nó phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng, phản ánh đúng mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan, chứ không “tô hồng”, hoặc “bóp méo” sự vật, hiện tượng. Do đó chỉ có tư duy
biện chứng mácxít luôn hàm chứ nội dung hiện thực, phản ánh đúng hiện thực, nó dẫn đường,
chỉ lối cho con người nhận thức và phản ánh chính xác bản chất, quy luật vận động phát triển
của thế giới khách quan. Từ đó vạch ra mục tiêu, biện pháp, con đường của quá trình nhận
thức chân lý, để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra nhằm đạt hiệu quả cao trong nhận
thức và cải tạo hiện thực khách quan. Nó giúp cho con người nâng cao sức mạnh vốn có của
mình lên nhiều lần trong nhận thức và cải tạo thế giới.
2. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG TA
Nghiên cứu bản chất của tư duy, chúng ta thấy sự vận động của tư duy con người luôn
hướng ra thế giới bên ngoài để nhằm nhận thức và cải tạo thế giới. Sự vận động đó được thể
hiện ở sự ra đời và phát triển của tất cả các khoa học trong nhiều thế kỷ qua. Kết quả của sự
phát triển đó là con người đã tích luỹ được những tri thức cơ bản về thế giới tự nhiên, xã hội
và tư duy. Chính là sự phản ánh sáng tạo của con người về sự vận động phát triển của thế giới
khách quan. Hay nói cách khác thế giới hiện thực vận động phát triển như thế nào thì được tư
duy của con người phản ánh đúng như thế ấy.
Ngày nay, trước sự vận động, biến đổi và phát triển mau lẹ của tình hình thế giới và
trong nước. Phương pháp tư duy biện chứng mácxít với bản chất khoa học và cách mạng càng
tỏ rõ tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống hiện thực. Đảng cộng sản Việt Nam
vận dụng sáng tạo phương pháp tư duy biện chứng mácxít vào đổi mới tư duy, lãnh đạo cách
mạng Việt Nam nói chung và vào lĩnh vực quân sự nói riêng đã và đang giành được những kết
quả, thành tựu to lớn về mọi mặt.
2.1. Ý nghĩa phương pháp luận trong đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam
14
14
Thực tiễn sau 30 năm đổi mới với những kết quả và thành tựu to lớn về nhiều mặt đã xác
định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng. Đó cũng là thực tiễn cho thấy
sự trưởng thành về tư duy lý luận, về tiềm lực tư tưởng, trí tuệ và bản lĩnh chính trị của Đảng
ta. Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác lý luận là một trong những công tác quan
trọng hàng đầu của Đảng. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề này,
Người đã viết tác phẩm: “đường cách mệnh”, trong đó có câu nói của Lênin “Không có lý luận
cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”. Như vậy, Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò công tác
lý luận là rất quan trọng, Người nêu rõ: phải có Đảng cách mạng lãnh đạo thì cách mạng mới
giành được thắng lợi; Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”; phải dùng lập trường,
quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để xem xét và giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam. Người đặc biệt nhấn mạnh quan điểm: lý luận phải gắn với thực tiễn: lý
luận mà xa rời thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không có lý luận soi sáng là thực tiễn
mù quáng; Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, từ đó
dần dần phát hiện ra những quy luật của cách mạng Việt Nam, có như vậy mới định ra được
đường lối, chính sách và phương pháp đúng đắn để đưa cách mạng đến thắng lợi. Những quan
điểm ấy đã định hướng cho công tác lý luận của Đảng từ khi thành lập đến nay, lãnh đạo cách
mạng qua từng thời kỳ, giai đoạn khó khăn, thử thách mà thực tiễn Việt Nam đã phải chứng
kiến. Thực tiễn ấy rất sinh động trong từng giai đoạn thì Đảng ta cũng có những quyết sách
đúng đắn, phù hợp từng giai đoạn ấy. Chính sự phù hợp ấy là quá trình Đảng ta luôn đổi mới
tư duy lý luận phù hợp với điều kiện hành cảnh lịch sử thực tiễn Việt Nam.
Lý luận của Đảng là lý luận về cách mạng Việt Nam, đã được Hồ Chí Minh xây dựng và
phát triển trong suốt quá trình hoạt động của Người. Lý luận ấy đã được phát triển làm phong
phú thêm bằng sự đóng góp của nhiều thế hệ các nhà lãnh đạo của Đảng, các nhà nghiên cứu
khoa học, bằng hoạt động đầy sáng tạo của đông đảo cán bộ đảng viên và nhân dân lao động
qua nhiều giai đoạn cách mạng. Lý luận ấy là sản phẩm của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, phát huy những tuyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của
nhân loại và những kinh nghiệm cách mạng các nước anh em trên thế giới. Tất cả lý luận đó
phải gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu. Xa rời thực tiễn ấy thì không thể coi là lý
luận chỉ đạo của cách mạng Việt Nam.
15
15
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề lý luận, các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc
của Đảng và nhiều Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương đều đặt ra yêu cầu đổi mới công
tác lý luận.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã mở ra bước ngoặt bằng
đường lối đổi mới toàn diện. Lần đầu tiên Đảng ta đặt vấn đề phải đổi mới tư duy, trước hết là
tư duy về kinh tế, coi đó là điểm khởi đầu để xác định đường lối đổi mới của Đảng. Đổi mới
tư duy gồm cả hai mặt: đổi mới phương pháp tư duy và đổi mới nhận thức, tư tưởng, lý luận tức là kết quả của tư duy. Không có phương pháp tư duy đúng thì không thể có kết quả tư duy
khoa học. Nếu trước kia với lối tư duy giáo điều, tư duy kinh nghiệm đã làm cho chúng ta
không nhận thức đầy đủ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Không rút ra được từ thực tiễn những kết luận mới để bổ sung cho lý luận về
chủ nghĩa xã hội, thì nhiệm vụ đổi mới tư duy đòi hỏi phải không ngừng bồi dưỡng tư duy
biện chứng, tư duy lý luận khoa học để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm đã mắc phải.
Đánh giá tình hình lý luận của Đảng trong gần 20 năm đổi mới, nghị quyết Hội nghị
Trung ương V khoá IX đã nhận định: “Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, trình độ lý
luận của Đảng đã có bước phát triển rõ rệt, Đảng không ngừng đổi mới phương pháp tư duy
lý luận, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc
phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, mở ra bước chuyển biến quan trọng trong tư duy lý
luận, từng bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối đổi mới toàn diện, làm cho nước ta có
bước phát triển mạnh mẽ; giải đáp có căn cứ khoa học một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
nhận thức đầy đủ nội dung, giá trị và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng”. Tiếp đó đánh
giá về công tác lý luận của Đảng, Nghị quyết Trung ương V đánh giá là “đã đạt được thành
tựu quan trọng: những kết quả nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn đã cung cấp
nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng,
góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội”. Tuy nhiên, trong
Nghị quyết Trung ương 5, Đảng ta cũng mạnh dạn chỉ ra những hạn chế về công tác lý luận
“nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những
nét khái quát chung, còn không ít vấn đề cụ thể được đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp
hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục; nhiều cán bộ đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn, hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa sâu
sắc, có mặt còn lệch lạc; phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại
16
16
trình độ ở cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng; “công tác lý luận chưa theo kịp
với sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”13.
Đảng đã thẳng thắn đánh giá những ưu, nhược điểm về công tác lý luận, đây là điểm
khởi đầu cho việc nhận thức đúng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đánh giá đúng các học thuyết khác, nhận thức đúng thực tiễn, định hướng cho thực tiễn
phát triển, tổng kết và rút ra từ thực tiễn những kết luận mới, các vòng tư duy ấy cứ nối tiếp
nhau để thực hiện việc bổ sung và phát triển lý luận. Chính công tác đổi mới của đất nước,
trước hết là nhận thức đúng bản chất vai trò của lý luận và đổi mới tư duy lý luận của Đảng đã
đem lại kết quả to lớn, và kết quả đó lại đòi hỏi công tác lý luận của Đảng phải tiếp tục đổi
mới, lại trở thành động lực thúc đấy mạnh mẽ hơn nữa việc đổi mới tư duy lý luận, đáp ứng
yêu cầu phát triển của thực tiễn đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó chúng ta thấy lý
luận xuất phát từ thực tiễn, nhưng lý luận không thể đi theo sau thực tiễn, mà phải vượt lên
trước thực tiễn, định hướng cho thực tiễn phát triển theo đúng quy luật khách quan của xã hội,
chúng ta nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nhưng sự tụt hậu về trí tuệ, về lý luận mới
là nguồn gốc của mọi sự tụt hậu khác. Lý luận của Đảng là lý luận tiên phong để Đảng đảm
nhiệm được vai trò người chiến sĩ tiên phong, quan điểm đó của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
Mác - Lênin rất có ý nghĩa đối với việc đổi mới công tác lý luận của Đảng hiện nay.
Chúng ta hiểu đổi mới tư duy không phải là thay đổi về mặt tư tưởng hay thay đổi một
học thuyết nào đó, mà đổi mới có nghĩa là phát triển tư duy ấy lên tầm cao mới, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh của thực tiễn của đất nước. Hoàn cảnh thay đổi thì tư duy cũng có những
phải thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh hiện thực của đất nước. Đổi mới tư duy là đổi mới cả
nhận thức, tư tưởng và phương pháp tư duy. Tất cả đều có quan hệ mật thiết với nhau, làm
tiền đề cho nhau, ràng buộc và quy ước lẫn nhau. Như Đảng ta đã chỉ rõ, do có những nhận
thức không đúng về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội nên chúng ta đã có những tư
tưởng tuyệt đối hoá kinh tế kế hoạch, kỳ thị kinh tế thị trường, muốn xác lập chế độ công hữu
trong một thời gian ngắn, với hai thành phần kinh tế, là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
để sớm có chủ nghĩa xã hội hiện thực, xa rời phương pháp tư duy biện chứng là phải xuất phát
từ thực tiễn, từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ.
Đổi mới tư duy không chỉ đơn giản là đưa ra những nhận thức tư tưởng và phương
pháp tư duy khác với trước. Cái mới phải bao hàm cả những cái gì đúng đắn đã có trước kia,
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ V ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chín
quốc gia. Hà Nội, 2002, tr. 131-133.
17
17
1313
nhưng vừa loại bỏ những cái sai trái, lệch lại, lỗi thời của thời đại cũ, đồng thời bổ sung những
cái mới, phản ánh đúng thực tiễn, định hướng cho đất nước đi lên, phù hợp với quy luật khách
quan của sự phát triển trong lĩnh vực xã hội, của sự phát triển đất nước và con người Việt
Nam.
Nhưng đổi mới tư duy không phải là mục đích tự thân, việc đổi mới tư duy của Đảng
phải đi đến xác định được những đường lối, chủ trương đúng, biến nó thành những hoạt động
thực tiễn có hiệu quả, nhằm biến đổi hiện thực đất nước Việt Nam theo định xã hội chủ nghĩa.
Hướng tới một mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Một xã hội
không còn người bóc lột người, trong đó con người được giải phóng hoàn toàn, được làm chủ
bản thân mình và xã hội, có điều kiện phát triển toàn diện. Đổi mới tư duy phải dẫn tới đổi
mới mọi mặt của đất nước như: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, về lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, về cuộc sống của con người và
toàn xã hội; ngược lại, thành quả đổi mới mọi mặt của đất nước lại là thước đo sự đổi mới tư
duy của Đảng và của dân tộc, đồng thời đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi tư duy phải tiếp tục
đổi mới ở những vòng khâu, giai đoạn, những nấc thanh cao hơn của sự phát triển.
Đảng ta đã vận dụng tài tình phương pháp luận tư duy biện chứng, trong đó hiểu rõ bản
chất của tư duy, nhất là tư duy về lý luận, gắn nó với hoạt động thực tiễn, để xuất phát từ chính
tư duy của Đảng và của toàn xã hội để đặt vấn đề đổi mới tư duy, phải xuất phát từ thực tiễn
của đất nước và xu hướng phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới để đặt ra
những yêu cầu của đổi mới tư duy. Chính vì vậy, việc đánh giá đúng bản chất đổi mới tư duy
của chúng ta cũng như đánh giá đúng thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đổi mới tư duy là
vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã
hội chủ nghĩa.
18
18