Tải bản đầy đủ (.doc) (240 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ HUY ĐỘNG vốn PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG hóa ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 240 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp, có gần 80% dân số sống ở nông thôn
và 60,67% lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp [2, tr. 2]. Nông nghiệp tạo ra 20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
40% giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Do đó, nông nghiệp là ngành giữ
vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế - xã hội và phát triển đất nước. Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là
một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước...
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp hàng
hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu [37, tr. 94-96].
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, việc huy động tốt các nguồn vốn,
đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu vốn đối với phát triển nông nghiệp, nông
thôn là vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa quyết định.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là một trong hai vùng nông nghiệp
trọng điểm của cả nước. Hàng năm ĐBSH sản xuất ra 17,5% sản lượng lương
thực có hạt, 20% sản lượng lúa gạo, 19% GDP nông, lâm sản cả nước. Trong
những năm đổi mới, nông nghiệp vùng ĐBSH có sự chuyển biến khá mạnh
mẽ, phát triển đa dạng, phong phú và đạt trình độ thâm canh cao hơn các


2

vùng, miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển một nền
nông nghiệp hàng hóa (NNHH) hiện đại, hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế


khu vực và thế giới, nông nghiệp vùng ĐBSH còn nhiều yếu kém: Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm chạp; sản xuất mang nặng tính độc
canh, chủ yếu là trồng trọt xoay quanh cây lúa nước; chăn nuôi chưa phát
triển; lâm nghiệp và ngư nghiệp thiên về khai thác tự nhiên. Hơn thế, việc ứng
dụng những thành tựu khoa học - công nghệ còn nhiều yếu kém nên năng
suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa thấp, chưa bền
vững.
Trong bối cảnh đó, khâu đột phá để nông nghiệp vùng ĐBSH xứng
đáng là một trong những đầu tầu, có tác dụng lan tỏa và lôi cuốn nông nghiệp
cả nước phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập có hiệu quả vào nền nông
nghiệp khu vực và thế giới cần phải bắt đầu từ việc gia tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh doanh trong nông nghiệp. Song, trở ngại lớn nhất để
đạt được mục tiêu trên là thiếu vốn do chưa huy động tốt các nguồn vốn vào
phát triển nông nghiệp của vùng. Vì vậy, nghiên cứu đề tài: "Huy động vốn
phát triển nông nghiệp hàng hóa vùng đồng bằng sông Hồng nước ta" là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn phát triển nền kinh tế nói chung, phát
triển NNHH, trên cơ sở phát huy lợi thế của vùng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phạm trù tư bản (vốn), tích tụ và tập trung vốn, vai trò của vốn trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luận bàn trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, trên
các ấn phẩm, nhiều nhà kinh tế học hiện đại cũng đang tiếp tục nghiên cứu
vấn đề này.
Ở nước ta, dưới ánh sáng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, vấn đề
vốn phát triển nền kinh tế quốc dân, vốn phát triển công nghiệp, vốn phát
triển nông nghiệp... được các nhà khoa học rất quan tâm nghiên cứu, đáng chú


3


ý là các công trình: Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước
phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Nguyễn
Văn Lai, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Những giải pháp
tài chính huy động vốn trong nước để đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam,
Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Phạm Ngọc Quyết, Trường Đại học Tài chính
- Kế toán Hà Nội, Bộ Tài chính, 1996; Tích tụ và tập trung vốn trong nước để
phát triển công nghiệp nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần
Xuân Kiên, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Đầu tư trong
nông nghiệp - thực trạng và triển vọng của phó tiến sĩ Nguyễn Sinh Cúc và phó
tiến sĩ Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Thị
trường vốn tín dụng nông thôn và sử dụng vốn tín dụng của hộ nông dân
huyện Gia Lâm, Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế của Kim Thị Dung, Trường Đại
học Nông nghiệp I Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1999;
Hoàn thiện chính sách tài chính hỗ trợ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Học viện Tài chính, Bộ
Tài chính, Hà Nội, 2002...
Ngoài ra, còn có các bài nghiên cứu liên quan đến vấn đề vốn và vai
trò của vốn đối với phát triển kinh tế được đăng tải trên sách, báo, tạp chí...
Hầu hết các công trình trên đã đề cập khá toàn diện, khái quát hoặc đi
vào phân tích từng mặt của phạm trù vốn, đầu tư vốn phát triển nền kinh tế
quốc dân nói chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề huy động vốn phát triển
NNHH trên địa bàn vùng đồng bằng - nơi hàm chứa những đặc trưng riêng có
về tiềm năng huy động và khai thác vốn phát triển NNHH, gắn với thị trường
cũng như những bức xúc đặt ra trong thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu
như đề tài của luận án này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:



4

Luận án tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề huy
động vốn phát triển NNHH vùng ĐBSH nước ta, trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp cơ bản nhằm huy động vốn có hiệu quả để phát triển NNHH, gắn
với thị trường.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn: khái niệm và vai
trò của vốn; cơ cấu nguồn vốn; những nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động
vốn phát triển NNHH.
+ Tìm hiểu kinh nghiệm huy động vốn phát triển NNHH của một số
nước châu Á.
+ Phân tích thực trạng huy động vốn phát triển NNHH vùng ĐBSH
nước ta những năm qua. Đánh giá khái quát những thuận lợi và khó khăn;
phát hiện những nguyên nhân cản trở quá trình huy động vốn phát triển
NNHH tại vùng ĐBSH.
+ Luận chứng phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm huy động vốn có
hiệu quả để phát triển NNHH vùng ĐBSH.
4. Giới hạn nghiên cứu
- Về nội dung: Vốn có nhiều loại, trên giác độ huy động, luận án chỉ
nghiên cứu vốn trong nước; xem xét vốn với tư cách là giá trị, biểu hiện dưới
hình thái tiền.
Huy động vốn để phát triển NNHH gắn bó mật thiết với phát triển
nông thôn. Nói cách khác, vốn phát triển NNHH và vốn phát triển nông thôn
luôn hàm chứa tính chất liên ngành. Nghĩa là, những khoản đầu tư phát triển
nông thôn; phục vụ các hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn có tác động
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến phát triển NNHH và ngược lại. Do đó, việc


5


phân biệt huy động vốn để phát triển nông nghiệp với huy động vốn phát triển
nông thôn sẽ chỉ mang tính chất tương đối.
Bên cạnh đó, thực tế có nhiều loại tín dụng được huy động để phát
triển NNHH, luận án tập trung nghiên cứu hình thức tín dụng chính thống còn
tín dụng phi chính thống chỉ được xem xét như một yếu tố có liên quan.
Phát triển NNHH vùng ĐBSH bao gồm nhiều loại sản phẩm, luận án
chủ yếu nghiên cứu một số sản phẩm đặc trưng của vùng như: lúa gạo, rau
màu, hoa quả và một số sản phẩm chăn nuôi.
- Về không gian: Luận án chọn vùng ĐBSH làm địa bàn khảo sát,
nghiên cứu tình hình huy động vốn trong nước phát triển NNHH.
- Về thời gian: Hiện trạng huy động vốn trong nước phát triển NNHH
vùng ĐBSH được phân tích thông qua các số liệu trong thời kỳ đổi mới kinh
tế, chủ yếu là trong những năm gần đây; dự báo vốn phát triển lĩnh vực này ở
ĐBSH từ nay đến 2010.
Đề tài thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị nên luận án chỉ tập trung
đề xuất những phương hướng và giải pháp có tính chất định hướng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Dựa vào những luận điểm cơ bản của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vốn và huy động vốn phát triển kinh tế nông thôn nói chung, nông nghiệp
nói riêng; tham khảo một số lý thuyết kinh tế hiện đại, đặc biệt là lý thuyết về
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mặt khác, luận án kế thừa có chọn lọc
những công trình khoa học có liên quan đến vấn đề huy động vốn phát triển
NNHH.
- Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin;
coi trọng phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê; kết



6

hợp chặt chẽ với phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn nhằm
khái quát, chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề huy
động vốn phát triển nền NNHH để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
6. Những đóng góp cơ bản về mặt khoa học của luận án
- Hệ thống hóa những luận điểm cơ bản về vốn và vai trò của vốn đối
với phát triển NNHH.
- Phân tích đặc điểm nông nghiệp vùng ĐBSH, làm rõ tiềm năng, thế
mạnh hiện thực cũng như những khó khăn, cản trở phát triển NNHH của vùng
này.
- Đánh giá khái quát thực trạng huy động vốn trong nước phát triển
NNHH vùng ĐBSH.
- Xác lập những phương hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm huy
động có hiệu quả vốn trong nước phát triển NNHH vùng ĐBSH.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định và thực
hiện có hiệu quả chính sách về huy động vốn để phát triển nền kinh tế quốc
dân nói chung, phát triển NNHH vùng ĐBSH nói riêng theo hướng CNH,
HĐH, hội nhập quốc tế. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn kinh tế chính trị.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận án gồm 3 chương, 7 tiết.


7

Chương 1
VỐN TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA


1.1. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
HÀNG HÓA

1.1.1. Khái niệm vốn
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đối với quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang
phát triển, có nhu cầu vốn rất lớn để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy
nhiên, do tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân thấp, khả năng thu hút
vốn từ nước ngoài còn hạn hẹp nên lượng vốn đầu tư phát triển kinh tế rất
thiếu. Vì vậy, nhận thức và vận dụng đúng đắn phạm trù vốn sẽ là tiền đề thúc
đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng vốn để đầu tư phát triển nền
kinh tế nói chung, NNHH nói riêng, hội nhập tốt vào nền kinh tế thế giới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, khái niệm vốn được tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái kinh tế trước C.Mác đã
dày công nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là
phạm trù kinh tế.
Kế thừa chọn lọc tư tưởng của các nhà tiền bối, khi nghiên cứu sự
chuyển hóa của tiền thành tư bản, C.Mác khẳng định: "Như vậy là giá trị ứng
ra lúc ban đầu không những được bảo toàn trong lưu thông, mà còn thay đổi
đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá
trị. Chính sự vận động ấy biến nó thành tư bản" [49, tr. 228].
Khẳng định trên của C.Mác đã vạch rõ bản chất và chức năng của tư
bản (vốn) trong phát triển kinh tế. Bản chất của tư bản là giá trị; chức năng
của tư bản là sinh lời. Tuy nhiên, để giá trị trở thành tư bản và tư bản sinh lời


8


phải trải qua sự vận động. Nghĩa là, tư bản phải có mặt trong lưu thông, tham
gia vào quá trình sản xuất. Thông qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở và
lớn lên không ngừng.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn không chỉ là yếu tố
cần thiết đối với quá trình sản xuất của các nước phát triển mà còn là yếu tố
đóng vai trò quan trọng của hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát
triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế
học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều bình diện khác nhau.
Dưới góc độ tài chính - tiền tệ, trong ấn phẩm "Chú giải thuật ngữ kế
toán Mỹ", tác giả Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín cho rằng, vốn là "tổng số
tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh
doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức" [54, tr. 29].
Dưới góc độ tài sản, cuốn "Dictionary of Economic" - Từ điển Kinh tế
của Penguin Reference, do Phạm Đăng Bình và Nguyễn Văn Lập dịch lại đưa
ra khái niệm: "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân
nó cũng được cái khác tạo ra" [71, tr. 56].
Dưới góc độ nhân tố đầu vào, trong tác phẩm "Lịch sử tư tưởng kinh tế",
I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlianxki kết luận: Vốn là "một trong ba yếu tố đầu vào
phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu
bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (tức là máy móc, công cụ, thiết bị, nhà
cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán thành phẩm)" [92, tr. 300].
Ở Việt Nam, cuốn "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học cũng
chỉ ra: "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh, nhằm
mục tiêu sinh lợi" [93, tr. 1126].
Như vậy, "vốn sẽ bao gồm bất cứ thứ gì đưa lại một luồng thu nhập
qua thời gian", "Sự phát triển có thể coi như là một quá trình khái quát của
sự tích lũy vốn" [55, tr. 460]. Những cách tiếp cận trên đây về vốn đã nêu rõ
tính đa dạng, nhiều vẻ về hình thái tồn tại của vốn. Vốn có thể là tiền hay tài



9

sản được giá trị hóa. Mặt khác, với tư cách là vốn thì tiền hay tài sản phải
được đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh để tạo ra hàng hóa, dịch vụ
nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai. Nghĩa là, vốn luôn gắn với sự vận
động và đảm nhiệm chức năng sinh lời.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn bản chất của vốn, trên cơ sở đó có biện
pháp đúng đắn khi huy động và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển, cần nhận
thức sâu sắc một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn
- Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thái giá trị. Giá trị đó được ứng ra
để chuyển hóa nó thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá
trình sản xuất, giá trị lớn lên không ngừng.
- Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng, bao
gồm: Tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Những tài sản này
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ, đồng thời làm tăng giá trị. Nói cách khác, vốn là giá trị thực của
tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính đưa vào đầu tư để tạo ra
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật
chất. Tài sản hữu hình bao gồm hai bộ phận: Một là, những tài sản hữu hình
phục vụ trực tiếp cho sản xuất, như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ,
nguyên - nhiên vật liệu, bán thành phẩm v.v... Về thực chất, những tài sản hữu
hình này chính là sự cụ thể hóa năng lực sản xuất của một đơn vị kinh tế cơ sở
hay xét trên phạm vi rộng lớn - toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tới
hiệu quả sản xuất - kinh doanh; hai là, những tài sản hữu hình phục vụ gián
tiếp cho sản xuất, như: trụ sở văn phòng, trang bị nội thất văn phòng, phương
tiện đi lại, nhà ở v.v... Mặc dù những tài sản hữu hình này là cần thiết cho
hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng chỉ tác động gián tiếp đến việc gia



10

tăng sản lượng đầu ra, đóng vai trò thứ yếu đối với hiệu quả sản xuất - kinh
doanh.
Việc phân biệt rõ hai loại tài sản hữu hình như trên cho ta phương
pháp luận đúng đắn khi huy động, sử dụng chúng đầu tư cho phát triển. Trên
thực tế, cần phải tập trung mọi nguồn lực để làm tăng tài sản hữu hình với tư
cách là năng lực sản xuất.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của
vật chất, bao gồm những sản phẩm của trí tuệ, như: bằng phát minh, sáng chế,
bản quyền; thương hiệu sản phẩm, uy tín kinh doanh; vị trí kinh doanh; chi
phí đào tạo nguồn nhân lực (kỹ năng lao động, tri thức quản lý) v.v... Nền
kinh tế thị trường càng phát triển, giá trị tài sản vô hình càng trở nên quan
trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi lẽ, khi đã huy động được những tài sản vô
hình vào phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm
chí là siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn, Nhật Bản là một điển
hình thành công khi tạo bước đột phá trong khai thác giá trị tài sản vô hình để
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Người Nhật Bản không ngần ngại trả giá cao
cho những phát minh, sáng chế mới của các nhà khoa học trên khắp các châu
lục, đồng thời đem những tài sản - trí tuệ đó ứng dụng vào sản xuất - kinh
doanh, nhờ đó, nền kinh tế Nhật Bản cất cánh thật ngoạn mục! Nếu như sau
chiến tranh thế giới lần thứ Hai, nền kinh tế Nhật bị kiệt quệ, lạm phát phi mã,
thất nghiệp gia tăng... thì chỉ trong vòng 20 năm, Nhật Bản trở thành một siêu
cường kinh tế thế giới, chỉ đứng sau Mỹ và EU, thành công đó có sự đóng góp
không nhỏ của việc khai thác tốt yếu tố vốn vô hình - sản phẩm trí tuệ của loài
người vào phát triển kinh tế.
Tài sản tài chính, bao gồm tiền mặt hay các chứng chỉ có giá (cổ
phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ...), có thể gọi chung là tiền. Tuy nhiên, không
phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền là hình thái cụ thể của vốn. Tiền được coi là vốn



11

khi và chỉ khi tiền đại diện cho một lượng giá trị hàng hóa, dịch vụ, hay tài sản
nhất định, được "ném" vào lưu thông hoặc tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh để kiếm lời. Bởi vậy, những đồng tiền được cất trữ hay đem tiêu
dùng trong sinh hoạt hàng ngày, không có khả năng sinh ra lợi nhuận không
phải là vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức vận động của tiền với tư cách
là vốn do phương thức đầu tư cụ thể quyết định. Trên thực tế, sự vận động của
vốn có ba hình thức:
TLSX
+T-H
... SX ... H' - T': Đây là hình thức vận động của
SLĐ
vốn trong các doanh nghiệp sản xuất. Thực chất, đó cũng chính là mô hình tái
sản xuất xã hội nói chung.
+ T - H - T': Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh
nghiệp thương mại - dịch vụ.
+ T - T': Đây là hình thức vận động của vốn trong các tổ chức tài
chính trung gian.
Trong đó:
T:

Lượng tiền ứng ra để đầu tư phát triển

H:

Hàng hóa với tư cách là tư liệu sản xuất, sức lao động, hàng hóa dự
trữ...


SX: Quá trình sản xuất - kinh doanh
H': Hàng hóa thu được sau quá trình sản xuất - kinh doanh
T':

Lượng tiền thu được khi kết thúc chu kỳ kinh doanh {T' > T và T' = T +
∆t (∆t là lượng giá trị tăng thêm)}

Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh đều có thể sử
dụng một hay nhiều phương thức đầu tư vốn theo các mô hình vận động của
vốn như đã nêu, nhằm mục tiêu lợi nhuận.


12

Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều
hình thái cụ thể: Tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Nhưng,
hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hóa nhất
trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt
động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của
chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh
doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô
ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của vốn
trên thị trường tuân thủ quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song,
với khả năng nhận thức, con người có thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách
quan, tạo ra những kênh huy động vốn một cách hiệu quả, đáp ứng mục đích
sản xuất - kinh doanh của mình.
Thứ hai, vốn là hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hóa. Muốn phát
triển sản xuất - kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư

được xem là cơ sở phát sinh quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như
vậy, vốn hiển nhiên là đối tượng trao đổi, mua bán trên thị trường vốn. Với tư
cách là hàng hóa, vốn có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng; có chủ sở hữu
và là một trong những yếu tố đầu vào của một quá trình sản xuất.
Thứ ba, vốn là hàng hóa đặc biệt
Tính đặc biệt của hàng hóa thể hiện ở chỗ, vốn có khả năng sinh lời.
Với tư cách là hàng hóa đặc biệt, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn
tách rời nhau. Đặc điểm này của vốn không có ở các loại hàng hóa thông
thường. Chủ sở hữu vốn sẽ nhận được một khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất
quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vốn cho người mua (các nhà đầu
tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản gọi là chi
phí (giá mua quyền sử dụng vốn) trả cho chủ sở hữu và nhận về mình quyền
sử dụng vốn. Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn


13

làm cho vốn trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời. Cụ thể hơn, nhờ có
sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn mà khi sử dụng
chúng trong hoạt động đầu tư, vốn không những không bị "tan biến" giá trị và
giá trị sử dụng mà còn bảo toàn, phát triển giá trị và giá trị sử dụng của chúng.
C.Mác đã chỉ rõ: "Hàng hóa tư bản có đặc tính là: Khi giá trị sử dụng của nó
được đem tiêu dùng đi, hàng hóa - tư bản không những giữ được giá trị và giá trị
sử dụng của nó, mà còn làm cho giá trị sử dụng đó tăng thêm nữa" [49, tr. 537].
Tất nhiên, để đồng vốn phát sinh lợi nhuận (tăng giá trị), nó phải được
đặt trong một môi trường cụ thể, có sự tương tác của các yếu tố thuộc môi
trường kinh doanh. Từ môi trường này nhà đầu tư có thể lựa chọn kênh cung
cấp vốn, cơ chế huy động và hình thức đầu tư.
Thứ tư, vốn có mối quan hệ mật thiết với thời gian
C.Mác viết:

Tiền chỉ được đem nhượng lại với hai điều kiện, một là, nó
sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là,
nó sẽ quay trở về điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là
sau khi đã thực hiện được các giá trị sử dụng của nó, thực hiện được
các khả năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư [49, tr. 525].
Như thế, chủ sở hữu vốn nhượng lại quyền sử dụng vốn cho nhà đầu
tư trong một khoảng thời gian xác định. Sau khi vốn trải qua chu kỳ vận động,
nó quay về tay chủ sở hữu, với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị lớn
hơn đó là lợi tức của chủ sở hữu vốn hay là lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi
sử dụng vốn. Mức lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với lượng vốn
khi chủ sở hữu vốn nhượng, bán quyền sử dụng vốn theo đơn vị thời gian
(tháng, quý, năm...), phù hợp với nền kinh tế thị trường [70, tr. 14]. Thông
thường, thời gian "vay" vốn dài, lãi suất lớn và ngược lại, thời gian "vay" vốn
ngắn, lãi suất nhỏ (lãi suất tỷ lệ thuận với thời gian vay). Sự tách rời giữa
quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn, gắn với khoảng thời gian xác định


14

tất yếu dẫn đến quá trình tích tụ, tập trung vốn từ những khoản tiết kiệm nhỏ,
lẻ; những đồng tiền chưa có cơ hội đầu tư trở thành vốn và chuyển chúng đến
tay các nhà đầu tư. Sự vận động ấy đã tạo nên dòng chảy của vốn không
ngừng, không nghỉ trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, trong nền kinh tế
thị trường, khi tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, các nhà đầu tư luôn
luôn chú trọng tới yếu tố thời gian. Bởi vì, các yếu tố như giá cả, lạm phát, lãi
suất, tỉ giá... biến động thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ một nhà đầu tư nào, khi xác
định hiệu quả đầu tư cũng phải đưa toàn bộ chi phí và thu nhập về cùng một
thời điểm để so sánh, tính toán các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất doanh lợi/ vốn, tỷ
suất doanh lợi/ doanh thu, vòng quay của đồng vốn v.v... Điều đó cắt nghĩa

được tại sao vốn luôn có giá trị về mặt thời gian (gắn với thời gian).
Từ những phân tích trên đây, theo chúng tôi, có thể hiểu, vốn là tổng
giá trị của những tài sản (bao gồm tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản
tài chính) tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất - kinh
doanh nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai.
Trong giới hạn, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, luận án chỉ đề cập
đến vấn đề huy động vốn trong nước vào phát triển NNHH ở vùng ĐBSH. Cụ
thể là:
- Vốn trong nước là tổng giá trị của những tài sản (bao gồm tài sản
hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính), được hình thành từ các nguồn
lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động ở một nước, tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm mục tiêu có
thu nhập trong tương lai.
- Vốn với tư cách là giá trị, biểu hiện dưới hình thái tiền, được huy
động để đầu tư vào phát triển NNHH. Cụ thể hơn, vốn đầu tư phát triển


15

NNHH là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được
sử dụng vào phát triển sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh nhịp
độ tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả; cung ứng đầy đủ và kịp
thời vốn cho nền kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng đẩy mạnh phát
triển nền kinh tế quốc dân nói chung, NNHH nói riêng. Tuy vậy, trong mỗi
quyết định đầu tư cụ thể lại đòi hỏi không chỉ lượng vốn đủ lớn mà còn yêu
cầu một hay nhiều loại vốn khác nhau. Thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phân
chia và xác định rõ từng loại vốn để có biện pháp huy động, sử dụng và quản
lý vốn có hiệu quả.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân chia vốn

thành nhiều loại khác nhau. Dưới đây là một số loại vốn cơ bản:
+ Dựa vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại: vốn
trong nước và vốn ngoài nước.
+ Dựa vào đặc điểm vận động, vốn có hai loại: Vốn cố định và vốn
lưu động.
Vốn cố định được biểu hiện bởi giá trị những tài sản cố định, bao
gồm: nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, kết cấu
hạ tầng, dụng cụ đo lường v.v...
Vốn lưu động được biểu hiện bởi giá trị của những tài sản lưu động,
bao gồm: nguyên - nhiên liệu, sản phẩm dở dang, hàng hóa dự trữ, các khoản
tiền tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán v.v...
+ Dựa theo hình thái tồn tại, vốn chia thành hai loại: Vốn hữu hình và
vốn vô hình.
+ Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: Vốn ngắn hạn, vốn trung
hạn và vốn dài hạn.


16

Vốn ngắn hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn
dưới một năm.
Vốn trung hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ
một năm đến dưới năm năm.
Vốn dài hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với thời hạn từ
năm năm trở lên.
+ Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
và vốn vay (huy động từ bên ngoài).
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một hoặc
nhiều chủ thể sở hữu. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) được hình thành trên cơ sở NSNN cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ

sở hữu của công ty cổ phần được hình thành thông qua huy động vốn góp của
cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn được hình thành
thông qua vốn góp của các thành viên v.v...
Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng
lượng vốn của chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá
trình sản xuất. Vốn vay có thể huy động từ: Vay trong nước và vay ngoài
nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vay vốn ngoài nước để phát triển
kinh tế không phải là công việc quá khó đối với các nước đang phát triển và
kém phát triển. Song, vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng vốn vay ngoài
nước ra sao cho có hiệu quả vẫn còn là vấn đề rất nan giải đối với các nước
nghèo và kém phát triển. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, vốn vay
sẽ càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của một chủ thể sản xuất kinh doanh.
+ Dựa vào mục đích sử dụng, không chỉ có vốn sản xuất trực tiếp
phục vụ cho quá trình sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ, hàng hóa mà còn


17

cần vốn phục vụ gián tiếp cho sản xuất, bao gồm khối lượng lớn và phong
phú hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng... [44, tr. 143].
+ Dựa vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế và những chứng chỉ có
giá (cổ phiếu, trái phiếu...), vốn chia thành hai loại: Vốn thực (tư bản thật) và
vốn ảo (tư bản giả) [69, tr. 14] v.v...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta
những quan niệm khác nhau về vốn, song, nhận thức về vốn, xét về bản chất
là thống nhất. Việc phân chia vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích
hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - vốn là hình thái giá trị, là thứ hàng hóa
đặc biệt, có mối quan hệ mật thiết với thời gian. Cùng với việc hiểu rõ bản
chất của vốn còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp của
vốn trong nền kinh tế thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp các chủ

thể kinh doanh nắm bắt và chủ động trong kế hoạch huy động, sử dụng các
loại vốn, đẩy mạnh phát triển sản xuất - kinh doanh.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn và phương thức huy động vốn phát triển
nông nghiệp hàng hóa trên thị trường tài chính
1.1.2.1. Cơ cấu nguồn vốn
Trong một đơn vị kinh tế cơ sở hay xét trên phạm vi rộng lớn - toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, điều hiển nhiên là: muốn có vốn cần phải đầu tư và
muốn có vốn đầu tư phải tìm ra nguồn. Cắt nghĩa cho vấn đề này, nhiều nhà kinh
tế học, điển hình là nhà kinh tế người Mỹ P.A.Samuelson cho rằng: nhịn tiêu
dùng hiện tại, dành vốn đầu tư cho sản xuất sẽ có thu nhập trong tương lai
[72, tr. 362]. Về bản chất, "nhịn tiêu dùng" chính là hành động tiết kiệm (hay
tích lũy vốn) của một chủ thể kinh tế. Chính tiết kiệm là nguồn gốc cơ bản để
hình thành vốn đầu tư.


18

Thực tế đã chứng minh, những nước có nền kinh tế phát triển ở trình
độ tiên tiến như Mỹ, EU, Nhật Bản, mức thu nhập bình quân đầu người cao,
quy mô và tỷ lệ tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân lớn sẽ dễ dàng gia
tăng nhanh tiết kiệm để tái đầu tư, mở rộng sản xuất. Trái lại, những nền kinh
tế đang phát triển và kém phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người thấp,
quy mô và tỷ lệ tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân nhỏ nên việc gia
tăng tích lũy vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư là công việc khá khó khăn, phức
tạp. Sự thiếu vốn là một cản trở đơn giản nhưng quan trọng nhất đối với việc
đẩy nhanh phát triển kinh tế [42, tr. 4] ở các nước đang phát triển và kém phát
triển. Bởi vậy, thu hút nguồn tiết kiệm ngoài nước, đầu tư cho phát triển là
cần thiết và đó cũng là một trong những giải pháp tốt để bù đắp lỗ hổng thiếu
hụt vốn; góp phần tạo ra nguồn tiết kiệm mới ở trong nước thông qua chính
nguồn vốn ngoài nước.

Như vậy, vốn đầu tư phát triển của một chủ thể kinh tế được huy động
từ hai nguồn: Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Tuy nhiên,
ở những nước khác nhau sẽ có những quan điểm khác nhau trong huy động
vốn: Có những nước hoàn toàn dựa vào ngoại lực và ngược lại có những nước
quyết tâm phát huy nội lực, dựa vào "sức mình"; cũng không ít nước kết hợp
huy động cả hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đẩy mạnh phát triển
kinh tế.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng hệ quan điểm huy
động vốn xuyên suốt Đại hội lần thứ VII, VIII và IX, đó là: "Kết hợp nội lực
và ngoại lực hình thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước" [36, tr. 26].
Trong đó, "vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa
quan trọng" [34, tr. 228]. Đặc biệt, đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn
phải "dựa vào nội lực là chính" [37, tr. 94]. Cơ sở khoa học của hệ quan điểm
trên bắt nguồn từ:


19

Một là, việc nhận thức sâu sắc hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là một
nước đang phát triển đi lên từ nông nghiệp, phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh
ác liệt, khả năng tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế rất hạn hẹp, do đó, nếu chỉ
dựa vào "sức mình" sẽ rất khó đáp ứng được yêu cầu cao về vốn cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hai là, trên cơ sở tìm hiểu những bài học thành công cũng như thất
bại của các nước trên thế giới trong việc huy động vốn ngoài nước để phát
triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác định rõ: "Vốn trong nước có ý nghĩa
quyết định". Bởi vì, chỉ khi nào nền kinh tế quốc dân tạo ra tiết kiệm từ chính
nội bộ của mình thì khi đó mới chủ động được vốn, bố trí, phân bổ, sử dụng
vốn một cách hiệu quả theo yêu cầu và mục đích phát triển kinh tế ở từng giai
đoạn cụ thể của cách mạng, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, bền

vững. Tuy nhiên, khi nội lực còn hạn hẹp, việc huy động vốn từ bên ngoài vào
phát triển kinh tế là rất cần thiết. Chính vốn ngoài nước tạo ra "cú hích" đột
phá vào vòng luẩn quẩn của nền kinh tế (thu nhập thấp - tiết kiệm thấp - đầu
tư thấp - sản xuất không phát triển - thu nhập thấp), tạo đà cho nền kinh tế
chuyển động, từng bước tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế thông qua việc huy
động vốn từ ngoài nước. Vì thế, hiện nay Đảng ta xác định rõ: "Vốn ngoài
nước có ý nghĩa quan trọng" đối với nền kinh tế Việt Nam.
Quan điểm huy động vốn phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam là sự biểu hiện tập trung của tư tưởng Hồ Chí Minh: "Các nước bạn ta... ra
sức giúp đỡ ta... để chúng ta có thêm điều kiện tự lực cánh sinh" [50, tr. 39]
trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới.
Trong giới hạn, phạm vi nghiên cứu, luận án đi sâu phân tích cơ cấu
nguồn vốn trong nước phát triển NNHH.
Vốn trong nước được hình thành từ tiết kiệm trong nước. Theo Hệ
thống tài khoản quốc gia (SNA) do Liên hợp quốc xuất bản năm 1989 và tái


20

bản năm 1993 thì: Tiết kiệm (Saving - S) bằng tổng thu nhập quốc gia khả
dụng (GNDI - Gross National Disposable Income) trừ đi tiêu dùng cuối cùng.
Bên cạnh đó, theo định nghĩa của Liên hợp quốc và Vụ Hệ thống tài khoản
quốc gia thuộc Tổng Cục thống kê thì: Tổng thu nhập quốc gia khả dụng bằng
GDP cộng thu từ sở hữu thuần, cộng thu từ chuyển nhượng hiện hành thuần.
Nên tiết kiệm thuần (Net Saving - Sn) bằng tiết kiệm trừ khấu hao tài sản cố
định [25, tr. 25].
Với cách tiếp cận như trên, tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ tiết kiệm thuần ở
Việt Nam (không bao hàm khấu hao tài sản cố định) so với GDP như sau:
Biểu 1.1: Tiết kiệm và tiết kiệm thuần giai đoạn 1994 - 2000
Đơn vị tính: %

Năm

Tiết kiệm/Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP)

Tiết kiệm thuần/Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP)

1994

21,21

12,55

1995

22,86

14,22

1996

20,55

11,70

1997

21,63


12,90

1998

23,90

15,40

1999

27,09

17,59

2000

31,00

19,46

Nguồn: [25].
Như vậy, trong giai đoạn 1994 - 2000, tiết kiệm quốc gia có xu hướng
tăng lên rõ rệt. Nếu như năm 1994, tiết kiệm/ GDP chỉ chiếm 21,21% thì sau
7 năm, con số này tăng lên 31%, trong đó, tích lũy vốn trong nước có bước
phát triển mới.
Biểu 1.2: Tích lũy vốn giai đoạn 1996 - 1998


21


Đơn vị tính: %
1996

1997

1998

100

100

100

73,12

76,44

82,27

- Tiết kiệm thuần

41,65

45,59

53,01

- Khấu hao tài sản cố định

31,47


30,85

29,26

26,88

23,56

17,73

Tổng số vốn cho tích lũy
1. Nguồn vốn trong nước cho tích lũy:
Trong đó:

2. Nguồn vốn từ ngoài nước (chuyển nhượng
vốn, đi vay...)

Nguồn: [25, tr. 26].
Qua số liệu trên đây, có thể thấy, nguồn vốn trong nước cho tích lũy
có xu hướng tăng dần, từ 73,12% năm 1996 tăng lên 82,27% năm 1998.
Trong đó, tiết kiệm thuần tăng từ 41,65% (1990) lên 53,01% (1998); khấu hao
tài sản cố định giảm từ 31,47% (1996) xuống còn 29,26% (1998). Tích lũy
vốn từ nguồn vốn ngoài nước lại có xu hướng giảm dần, từ 26,88% năm 1996
giảm xuống còn 17,73% năm 1998. Thực trạng đó phản ánh đúng quan điểm
mục tiêu, đường lối và chủ trương phát huy nội lực, huy động vốn, tích lũy
vốn cho phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, đánh giá
khách quan phải thấy rằng, đó là chỉ là kết quả bước đầu trong quá trình tích
lũy vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thực tế, quy mô tích lũy vốn
trong nước còn nhỏ bé đã hạn chế khả năng đầu tư cho phát triển kinh tế nói

chung, NNHH nói riêng.
Tiết kiệm trong nước bao gồm: tiết kiệm của ngân sách nhà nước
(NSNN), tiết kiệm của doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư (hộ gia đình) [44,
tr. 147].
- Tiết kiệm của NSNN, là phần vốn dành để chi cho đầu tư phát triển,
lấy từ thu NSNN, không tính các khoản: Viện trợ không hoàn lại của chính


22

phủ các nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài; các khoản vay trong nước
và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp bội chi NSNN.
Tiết kiệm NSNN chi cho đầu tư phát triển thông qua cấp phát vốn trực
tiếp (nhà nước đầu tư trực tiếp) và cung ứng tín dụng nhà nước (nhà nước đầu
tư gián tiếp). Đầu tư gián tiếp của Nhà nước qua tín dụng là rất cần thiết trong
nền kinh tế thị trường và đó cũng là cơ sở quan trọng để hình thành các loại
vốn có nguồn gốc từ NSNN, như: tín dụng ngân hàng, các quỹ đầu tư tài
chính, các quỹ hỗ trợ vốn cho phát triển v.v... Đối với khu vực nông thôn,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNN&PTNT), Ngân hàng
phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng chính sách xã hội), Quỹ tín dụng nhân
dân, ... là những tổ chức tín dụng quan trọng bậc nhất trong việc cung ứng
vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này.
Quy mô tiết kiệm của NSNN, về cơ bản phụ thuộc vào sự thay đổi của
tổng thu và tổng chi thường xuyên của NSNN.
Tổng thu NSNN phụ thuộc vào quy mô và chất lượng tăng trưởng của
nền kinh tế; chính sách động viên thu nhập vào NSNN của Chính phủ (chủ
yếu thông qua hệ thống thuế, phí, lệ phí); hiệu lực và hiệu quả của việc thu nộp thuế, phí, lệ phí trên thực tế. Thu NSNN tăng sẽ đẩy mạnh tích lũy vốn,
tăng chi cho đầu tư phát triển và ngược lại.
Chi NSNN cũng là nhân tố quan trọng tác động đến việc mở rộng hay
thu hẹp qui mô tiết kiệm NSNN. Cơ cấu, nội dung và quy mô chi NSNN, về cơ

bản, phụ thuộc vào thu NSNN, đường lối phát triển kinh tế và phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử cụ thể. Song, nếu tăng chi cho đầu tư phát triển, cắt giảm hợp
lý chi tiêu thường xuyên sẽ tạo thuận lợi để tăng tiết kiệm NSNN và ngược
lại.
Ở Việt Nam, từ 1992 trở về trước, tiết kiệm từ NSNN còn nhỏ bé. Từ
1995 trở lại đây, thu nhập cuối cùng đã vượt tiêu dùng cuối cùng nên phần tiết


23

kiệm NSNN từ nội bộ NSNN tăng lên đáng kể. Tiết kiệm từ NSNN tăng lên
sẽ tạo điều kiện để tăng chi đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung,
phát triển nông nghiệp nói riêng.
Trên thực tế, vốn NSNN được dành để phát triển nông nghiệp, nông
thôn có xu hướng tăng lên rõ rệt. Nếu như cả giai đoạn 1991 - 1995 chỉ huy
động được 756 tỷ đồng (bình quân hàng năm tăng 45,2%) thì sang giai đoạn
1996 - 2000, tăng lên 35.955 tỷ đồng, chiếm 8,2% tổng dư NSNN, tăng bình
quân hàng năm 36,9%. Trong đó, phần vốn NSNN huy động vào phát triển
nông nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn là 82%; lâm nghiệp 10%; ngư
nghiệp 6,2%; doanh nghiệp 1,8% [39, tr. 11]. Bên cạnh đó, NSNN còn thực
hiện đầu tư vốn gián tiếp thông qua việc hỗ trợ vốn cho các tổ chức tín dụng
nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển... để các trung gian tài chính này có thêm
nguồn vốn cho nông dân vay với mức lãi suất ưu đãi. Thời kỳ 1996 - 2000,
vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước được huy động vào phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp khoảng 3.000 tỷ đồng, chiếm 5% tổng vốn tín dụng ưu đãi của
Nhà nước; khoanh nợ 1.200 tỷ đồng; xóa nợ gần 800 tỷ đồng cho nông dân ở
vùng bị thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh v.v... [39, tr. 11].
- Tiết kiệm của doanh nghiệp, bao gồm: Tiết kiệm của DNNN và tiết
kiệm của doanh nghiệp tư nhân, là phần lãi sau thuế (lãi thuần) được doanh
nghiệp để lại dành cho đầu tư phát triển. Trên thực tế, nguồn tự tài trợ cho

hoạt động tái đầu tư, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp còn cộng với khoản
thu được từ khấu hao tài sản cố định.
Qui mô và tốc độ tăng trưởng của tiết kiệm doanh nghiệp phụ thuộc vào:
+ Quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp;
+ Chính sách của Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp, mà
trước hết là chính sách thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp);


24

+ Chính sách khuyến khích đầu tư;
+ Chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với DNNN,
vấn đề phân phối lợi nhuận còn chịu sự chi phối bởi chính sách phân phối lợi
nhuận của Nhà nước.
Ở Việt Nam hiện nay, trong khu vực doanh nghiệp, thu nhập cuối
cùng đã vượt tiêu dùng. Phần vốn tiết kiệm của doanh nghiệp chiếm khoảng
20% thu nhập cuối cùng [31, tr. 34]. Đây cũng là một trong những nguồn vốn
góp phần mở rộng quy mô phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa tập trung. Nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản bước đầu đã
tìm đến với nông dân, huy động và tập trung vốn phát triển ngành nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Phương thức đầu tư chủ yếu của doanh
nghiệp là ứng vốn cho nông dân, hỗ trợ kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư; bao tiêu nông sản phẩm để chế biến; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ
tầng phục vụ phát triển NNHH v.v... Song, qui mô tiết kiệm của khu vực
doanh nghiệp còn nhỏ bé (do hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh
của doanh nghiệp chưa cao) nên tác động của nguồn vốn doanh nghiệp đối
với phát triển NNHH còn hạn chế.
- Tiết kiệm của dân cư, là phần thu nhập để dành, chưa tiêu dùng của
các hộ gia đình.
Thu nhập của dân cư được hình thành từ thu nhập trong kết quả lao

động ở lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của các gia đình, cá nhân người lao động;
thu nhập do thừa kế các loại thu nhập khác, như: Tiền trúng xổ số, tiền do
thân nhân từ nước ngoài gửi về... Nói cách khác, nguồn vốn của dân cư là
khoản tiết kiệm, thu nhập của họ.
Qui mô và tốc độ tăng trưởng tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu
nhập và chi tiêu của hộ gia đình.


25

Tỉ lệ tiết kiệm của dân cư có xu hướng tăng dần khi thu nhập của các
hộ gia đình tăng. Vì vậy, tiết kiệm của dân cư được coi là biến số trực tiếp
phụ thuộc vào thu nhập sau khi đã nộp thuế của dân cư [42, tr. 31].
Tâm lý và tập quán tiêu dùng của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Tâm lý ưa chuộng tiêu
dùng cao sẽ hạn chế tỉ lệ tiết kiệm và ngược lại, có ý thức tiết kiệm tiêu dùng,
tiêu dùng hợp lý sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Hiện tượng phổ biến
xảy ra ở trên thế giới là: "Với mức thu nhập như nhau thì dân nông thôn để
dành một tỷ lệ thu nhập cao hơn so với dân thành phố" [42, tr. 40]. Bên cạnh
đó, trình độ động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế, phí, lệ phí và
các đóng góp xã hội cũng như những tác động của các chính sách kinh tế vĩ
mô, trực tiếp là chính sách tài chính - tiền tệ cũng có những tác động không
nhỏ đến việc gia tăng tiết kiệm của khu vực dân cư.
Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu
và ngày càng khẳng định được vị trí, tầm quan trọng của nó trong việc hình
thành tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của một quốc gia.
Ở Việt Nam theo tính toán của các nhà kinh tế, khu vực hộ gia đình và
các tổ chức phi lợi nhuận, bao gồm: Cá thể, kinh tế hộ gia đình, hiệp hội, các
tổ chức xã hội khác... phần tiết kiệm đạt trên dưới 12% so với thu nhập cuối
cùng [31, tr. 34]. Phần vốn tiết kiệm từ khu vực dân cư được động viên đáng

kể vào phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Trong thời kỳ 1991 - 1995 đã huy động được 50% số vốn tiết kiệm của
dân cư đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thời kỳ 1996 - 2000, đã
huy động được trên 8.000 tỷ đồng, chiếm 15% tổng đầu tư toàn xã hội từ
nguồn vốn tiết kiệm của tư nhân và dân cư đầu tư phát triển nông nghiệp,
nông thôn [39, tr. 12], tập trung chủ yếu phát triển NNHH theo mô hình trang
trại, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thủy hải sản v.v...


×