Tải bản đầy đủ (.doc) (191 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ tổ CHỨC QUẢN lý DOANH NGHIỆP NHÀ nước TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ở CỘNG hòa dân CHỦ NHÂN dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.67 KB, 191 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (năm 1984)
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường,
đảm bảo nguyên tắc hạch toán kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Chuyển sang
cơ chế kinh tế mới, các DNNN có quyền tự chủ thực sự, hạch toán kinh doanh,
thực hiện đầy đủ và kịp thời nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội, tiến
hành kinh doanh theo pháp luật cũng như việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả, trên
cơ sở đó có thể phát triển ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của
công nhân viên chức, tăng tích lũy cho doanh nghiệp và cho nhà nước.
Việc thực hiện đổi mới quản lý DNNN ở CHDCND Lào năm qua đã
đạt được những thành tựu to lớn. Các DNNN đã được tổ chức và sắp xếp lại,
vừa đổi mới cơ chế quản lý, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh, chuyển đổi sở
hữu một phần. Trên cơ sở phân tích tình hình hoạt động của các DNNN để tổ
chức lại sản xuất kinh doanh cho phù hợp, các biện pháp của Nhà nước Lào
đã được triển khai theo hướng phát triển những DNNN quan trọng, nòng cốt
cần phải duy trì 100% vốn nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp của
nhà nước; những DNNN không cần duy trì 100% vốn nhà nước được chuyển
đổi cơ cấu sở hữu và những doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ kéo dài được
xử lý thích hợp. Kết quả hoạt động của những doanh nghiệp này đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Vấn đề then chốt là lần đầu tiên DNNN được trao
quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về hiệu quả quản
lý của mình.
Mặc dù đã có bước đổi mới quản lý và tổ chức lại nhưng thực trạng các
DNNN cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề. Sự phát triển các DNNN chưa tương



2

xứng với tiềm năng, quá trình đổi mới tổ chức quản lý chưa được tiến hành một
cách cơ bản, đồng bộ và chưa trở thành một nhân tố tích cực thúc đẩy mạnh mẽ
công cuộc cải cách kinh tế của Lào theo hình thức chuyển mạnh sang nền kinh tế
thị trường. Nhà nước chưa có cơ chế phù hợp, làm cho một số DNNN làm ăn
vẫn kém hiệu quả, các DNNN chưa thực hiện được chức năng, vai trò của mình
trong nền kinh tế thị trường. Cho đến nay, mặc dù đã có những định hướng
lớn của Đảng và Nhà nước nhưng trong thực tiễn về quản lý còn lúng túng, còn
phát sinh và tồn tại nhiều yếu tố cản trở, nhất là về chính sách, thể chế, thủ tục
hành chính, điều kiện, môi trường sản xuất kinh doanh còn nhiều điều chưa rõ
ràng, không những không khuyến khích mà còn gây cản trở các DNNN trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Khung khổ pháp lý quản lý DNNN còn nhiều
điểm hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp. Các vấn đề như cơ cấu, tổ
chức doanh nghiệp, mô hình công ty, tổng công ty, quyền đại diện chủ sở
hữu tài sản nhà nước tại DNNN... còn nhiều điểm chưa được quy định rõ
ràng hoặc chưa phù hợp với thực tế; cơ chế, chính sách quản lý DNNN còn
chồng chéo, chưa hiệu quả, bộc lộ nhiều kẽ hở, còn để thất thoát tài sản của
nhà nước...
Để DNNN phát huy được tốt vai trò chủ đạo của mình, làm chỗ dựa
cho Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với toàn bộ nền kinh tế một cách có
hiệu lực và hiệu quả, cần phải đổi mới tổ chức quản lý, một mặt phải tiếp tục
sắp xếp lại các DNNN, cơ cấu lại, phát triển thêm, mặt khác, cần đổi mới cơ
chế quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNN được chủ động sáng tạo.
Đây là vấn đề rất cần thiết đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam và
CHDCND Lào. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào" làm
đề tài luận án tiến sĩ kinh tế nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu bức xúc trước
mắt và lâu dài.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


3

Sự tham gia của nhà nước vào kinh doanh (hình thành nên các
DNNN) đã phát triển từ lâu trong nền kinh tế các nước, kể cả các nước theo
mô hình TBCN và các nước XHCN. Tuy nhiên, việc nhà nước sử dụng các
DNNN tham gia vào kinh doanh đã gây nên sự tranh luận sôi nổi và chưa có
kêt thúc. Một mặt, sự tham gia của DNNN vào hoạt động kinh tế - xã hội diễn
ra như một tất yếu khách quan vừa góp phần khẳng định quyền lực của nhà
nước vừa hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường tự do, giúp nhiều
nước đạt được hiệu quả kinh tế, tạo ra tăng trưởng kinh tế và bảo đảm công
bằng xã hội; mặt khác DNNN ở hầu hết các nước đều hoạt động kém hiệu quả
hơn các doanh nghiệp tư nhân, thường là nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân
sách, làm giảm hiệu quả chung của nền kinh tế. Do vậy, từ giữa thế kỷ XX,
nhiều học giả và giới hoạch định chính sách rất quan tâm về đề tài này và đã
có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Kết quả là hàng loạt các công trình
được công bố, từ sách giáo khoa, luận án, sách, báo cáo chuyên đề, các bài
báo... về chủ đề này.
Có thể mô tả tổng quan các công trình nghiên cứu đã công bố liên
quan đến đề tài theo ba mảng công trình sau đây:
Mảng thứ nhất: Các công trình nghiên cứu tiếng nước ngoài (trong
đó, có một phần nhỏ đã được dịch ra tiếng Việt). Các công trình này đã
nghiên cứu các vấn đề sau:
- Luận chứng cơ sở lý luận của DNNN trong nền kinh tế thị trường
nói chung và nền kinh tế hỗn hợp nói riêng. Theo hướng này nhiều nội dung
khoa học được nghiên cứu và công bố rộng rãi trong các ấn phẩm từ sách giáo
khoa đến các chuyên khảo, bài báo, báo cáo chuyên đề. Điển hình trong loạt
công trình này là: Ngân hàng Thế giới (1997), Giới quan chức trong kinh

doanh - ý nghĩa kinh tế và chính trị của sở hữu nhà nước; Trương Văn Bân
(1996), Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước; Ngân hàng Thế


4

giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi; V.Ramanadhan
(1989), The Economics of Public Enterprise; P. Tonielli (2000), The Rise and
Falle of Stated - Owned Enterprises in Western World. Nhìn chung, các công
trình tương đối thống nhất khi cho rằng, trong nền kinh tế hỗn hợp, cần thiết
phải có DNNN tham gia vào kinh doanh với tư cách như một hình thức, một
công cụ can thiệp của chính phủ (Nhà nước) vào nền kinh tế thị trường. Nội
dung lý luận còn gây tranh luận và ý kiến khác nhau chính là mức độ, phạm vi
hoạt động của DNNN, cơ chế quản lý DNNN, các yếu tố quyết định đến
chính sách tăng cường sự tham gia của DNNN quốc hữu hóa hoặc giảm bớt
DNNN (tư nhân hóa hoặc phi nhà nước hóa), các biện pháp hiệu quả khi thực
hiện tư nhân hóa DNNN...
- Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, khi các nước SNG và Đông Âu cũng
như các nước XHCN khác thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
nổi lên nhiều công trình nghiên cứu về DNNN. Ở các nền kinh tế chuyển đổi,
các công trình nghiên cứu về mảng vấn đề này vẫn tiếp tục được công bố. Nội
dung của các công trình này tập trung vào lý giải năm vấn đề chính sau: sự tất
yếu phải điều chỉnh khu vực DNNN (cổ phần hóa, tư nhân hóa) ở các nền
kinh tế chuyển đổi; tác động của việc điều chỉnh DNNN đến nền kinh tế các
nước; các hình thức, kinh nghiệm và kỹ thuật tư nhân hóa; sự khó khăn thực
hiện của các công trình này, giải pháp cổ phần hóa, tư nhân hóa quy mô lớn;
xác lập cơ chế quản lý DNNN trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi sang cơ
chế thị trường. Các kết quả nghiên cứu ở mảng này rất có ích cho Việt Nam
cũng như CHDCND Lào. Tuy nhiên, do những đặc thù khác nhau, mục tiêu
và lộ trình cải cách khác nhau nên sự vận dụng kinh nghiệm và kết quả nghiên

cứu mảng này vào thực tiễn Việt Nam cũng như CHDCND Lào có những hạn
chế đáng kể. Điều này xuất phát từ đặc thù của Lào có quy mô DNNN khá
khiêm tốn và việc tổ chức DNNN rất dàn trải, manh mún, quản lý tùy tiện.


5

- Về DNNN ở Trung Quốc, có rất nhiều học giả Trung Quốc và nước
ngoài nghiên cứu trường hợp Trung Quốc và đi đến các kết luận có căn cứ
khoa học về đổi mới DNNN, cơ chế quản lý DNNN ở Trung Quốc. Từ năm
1998, các nghiên cứu của Trung Quốc đã có bước đột phá lớn, xây dựng cơ sở
lý luận cho bước cải cách kinh tế toàn diện đối với DNNN và đặc biệt là xác
lập cơ chế quản lý DNNN ở Trung Quốc. Quan điểm mới nhất ở mảng công
trình Trung Quốc là quan điểm "rút lui toàn diện doanh nghiệp nhà nước khỏi
các ngành cạnh tranh". Mặc dù mô hình cải cách của Trung Quốc có nhiều
điểm tương đồng với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam và Lào nhưng đặc thù
của Lào vẫn không cho phép vận dụng máy móc các bài học của Trung Quốc.
Mảng thứ hai: Nghiên cứu tại Việt Nam. Những công trình nghiên cứu
về DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thực
sự được bắt đầu từ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, khi công cuộc đổi mới
của Việt Nam được khẳng định và triển khai trên thực tế. Các biện pháp chính
sách, cơ chế và tổ chức đối với DNNN luôn được coi là các biện pháp trọng
tâm của quá trình đổi mới cơ chế quản lý và chúng được coi là các biện pháp
trọng tâm của quá trình đổi mới cơ chế quản lý và chúng được nghiên cứu,
triển khai thành ba giai đoạn: giai đoạn thương mại hóa các DNNN (đánh dấu
bởi Quyết định 271/HĐBT), giai đoạn sắp xếp lại DNNN đợt 1 (theo Nghị
định 388/HĐBT) và giai đoạn sắp xếp lại đợt 2 (từ năm 1998 đến nay). Đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu (từ luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đến các bài báo,
sách chuyên khảo, đề tài khoa học - công nghệ cấp bộ, cấp nhà nước) đề cập
đến vấn đề này, đặc biệt trong vài năm gần đây. Những kết quả nghiên cứu

mới nhất ở các công trình nghiên cứu này có thể nêu vắn tắt ở năm nội dung
sau: Thứ nhất, đã luận chứng sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị
trường nói chung và trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam nói riêng. Một số công trình còn có những luận chứng chỉ rõ những khu
vực nào cần có DNNN và lý giải về vai trò của chúng trong nền kinh tế thị


6

trường định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai
gần. Thứ hai, một số công trình trong vài năm trở lại đây, dựa trên lý luận
mới, bắt đầu luận chứng về phạm trù kinh tế nhà nước và lý giải sự khác nhau
cả về nội hàm lẫn phương thức thể hiện giữa phạm trù kinh tế nhà nước và
các phạm trù sở hữu nhà nước, DNNN. Cách tiếp cận này cho phép lý giải
được xu hướng phát triển gần đây của DNNN và các hình thức tồn tại khác
của kinh tế nhà nước trong quá trình vận động của nền kinh tế. Quan điểm
mới này đã đi đến kết luận rất đáng chú ý: Kinh tế nhà nước vói nội hàm rất
rộng mới có vai trò chủ đạo, còn DNNN với tư cách là một bộ phận của kinh tế
nhà nước chỉ có vai trò nhất định và nó chỉ đóng vai trò chủ đạo ở một số lĩnh
vực cần thiết. Thứ ba, nhiều công trình đã tổng kết đánh giá quá trình phát
triển, đánh giá các biện pháp tổ chức, quản lý và hiện trạng DNNN ở Việt
Nam trong giai đoạn đổi mới vừa qua, nêu rõ sự cần thiết phải cải tổ khu vực
này. Các đánh giá ở nhiều công trình tương đối thống nhất với nhau, mặc dù
còn nhiều ý kiến tranh luận xung quanh việc phân tích nguyên nhân của tình
hình và tiêu chí đánh giá bản thân DNNN cũng như các biện pháp quản lý.
Thứ tư, luận chứng về các giải pháp tổ chức, sắp xếp lại DNNN theo các
hướng: phân loại doanh nghiệp, thành lập tổng công ty, cổ phần hóa và đa
dạng hóa sở hữu DNNN. Thứ năm, luận chứng về các giải pháp đổi mới cơ
chế quản lý của nhà nước đối với DNNN, các hình thức xác lập quyền sở hữu
của nhà nước tại DNNN. Nhìn chung, thấy rõ là đã có nhiều công trình nghiên

cứu về đề tài này nhưng quan điểm, ý kiến còn chưa thống nhất. Thậm chí, có
thể nói rằng, nhiều vấn đề cốt lõi về chủ đề này như xác định vai trò của
DNNN, quy mô và phạm vi của DNNN... thường hay bị né tránh hoặc tiếp
cận theo tư duy cũ của mô hình tập trung bao cấp. Cơ sở lý luận và các giải
pháp tổng thể về tổ chức, quản lý DNNN cũng chưa được giải quyết triệt để,
thấu đáo. Các công trình còn mang nặng tính chất mô tả thực chứng, chưa có
các phân tích giải pháp chuẩn tắc đủ tầm cỡ định hướng cho chỉ đạo thực tiễn.
Về các kiến nghị cụ thể, mới chỉ dừng lại ở cấp độ chung chung, định hướng
hoặc có đưa ra những giải pháp cụ thể nhưng lại thiếu luận chứng chặt chẽ


7

giữa giải pháp và cơ sở lý luận về DNNN trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Có sự mâu thuẫn rõ rệt giữa lý luận về vai trò của DNNN với thực tiễn
chính sách và các giải pháp đã áp dụng trên thực tế đối với khu vực này.
Mảng thứ ba. Đề tài về DNNN và đổi mới DNNN ở CHDCND Lào
còn ít được nghiên cứu. Từ trước đến nay, chỉ có một vài công trình khoa học
công bố như: "Một số vấn đề cơ bản về sắp xếp lại và đổi mới quản lý DNNN
ở CHDCND Lào" của Thoong Sa Lit, luận án phó tiến sỹ khoa học kinh tế,
Hà Nội, 1995; "Các biện pháp tổ chức lại DNNN, thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế", Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia Lào, 1999; "Nâng cao chất
lượng quản lý DNNN ở CHDCND Lào" UBKHNN và Tài chính, 12/1999;
"Kinh doanh của DNNN" Ban chỉ đạo Trung ương, 10/2001...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về DNNN ở Lào tương đối
thống nhất với nhau ở kết luận cho rằng, trong điều kiện chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường cần phải đổi mới cách làm ăn (cơ chế quản lý) của
DNNN từ kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường với DNNN kinh doanh
tự chủ. Về mặt tổ chức, cần có những biện pháp sắp xếp lại như cổ phần hóa,
tư nhân hóa, sáp nhập, giải thể...

Ngoài những điểm chung được thừa nhận về mặt khoa học, về chủ đề
DNNN nói chung và về tổ chức, quản lý DNNN trong điều kiện cụ thể hiện
nay nói riêng, còn nhiều vấn đề gây tranh luận và ý kiến khác nhau. Đó là
mức độ, phạm vi tổ chức, cơ chế quản lý, các ưu đãi cần thiết, chiến lược phát
triển, các biện pháp cổ phần hóa và tư nhân hóa DNNN... Về các kiến nghị
mang tính giải pháp, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở cấp độ chung chung,
định hướng hoặc có đưa ra những giải pháp cụ thể nhưng lại thiếu luận chứng
chặt chẽ giữa giải pháp và cơ sở lý luận về tổ chức DNNN...
Các kết quả nghiên cứu của thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam
ở mảng này rất có ích cho CHDCND Lào, nhưng do dặc thù khác nhau, mục
tiêu khác nhau, nên sự vận dụng các kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu vào
điều kiện cụ thể của CHDCND Lào có những hạn chế đáng kể.


8

Xuất phát từ các yêu cầu phát triển kinh tế, từ đặc thù DNNN của đất
nước Lào, chúng tôi chọn đề tài và đi sâu nghiên cứu vấn đề tổ chức, quản lý
DNNN vì trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước Lào, khu
vực kinh tế nhà nước đã và vẫn sẽ giữ vị trí lãnh đạo. Tuy nhiên, các DNNN bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước lại rất yếu kém, không hiệu quả. Để các
DNNN với tư cách là bộ phận cấu thành cơ bản của kinh tế nhà nước có thể
đảm nhận vai trò của mình thì cần phải đổi mới toàn diện từ quan điểm đến cơ
cấu tổ chức, phương thức quản lý, làm sao để các DNNN hoạt động kinh
doanh ngày càng có hiệu quả cao hơn, sức cạnh tranh cao hơn, góp phần tăng
hiệu quả chung của nền kinh tế.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích của luận án:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức, quản lý DNNN trong điều kiện nền
kinh tế thị trường.
+ Phân tích tình hình tổ chức, quản lý và thực trạng phát triển của các

DNNN ở Lào.
+ Luận chứng những giải pháp thích hợp nhằm sắp xếp lại và đổi mới
tổ chức, quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
DNNN ở CHDCND Lào.
- Nhiệm vụ của luận án:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về DNNN;
+ Phân tích quá trình hình thành, phát triển các DNNN, thực trạng
công tác tổ chức, quản lý DNNN ở CHDCND Lào;
+ Chỉ ra những thành tựu ban đầu, những tồn tại, hạn chế hiện nay
của DNNN; cũng như công tác tổ chức, quản lý DNNN của Nhà nước Lào.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp về đổi mới tổ chức quản lý
DNNN ở Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


9

- Đối tượng nghiên cứu: Chỉ tập trung nghiên cứu các khía cạnh quan
hệ tổ chức, quản lý các DNNN (SOE) ở CHDCND Lào từ khi bắt đầu đổi mới
(1988) đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận án bao hàm chủ
yếu là khía cạnh tổ chức, quản lý của Nhà nước đối với DNNN và quản lý nhà
nước đối với khu vực này trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Về ngữ
nghĩa, "tổ chức, quản lý" có thể hiểu dưới góc độ quản lý nhà nước, có thể
hiểu dưới góc độ quản trị vi mô. Trong luận án này, chủ yếu tập trung vào
khía cạnh tổ chức, quản lý của Nhà nước vừa với tư cách là chủ sở hữu cuối
cùng đối với DNNN, vừa là cơ quan sử dụng DNNN như một công cụ quản lý
vĩ mô của mình, vừa là cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để giải quyết
các mục tiêu nghiên cứu đã xác định, luận án có đề cập một phần đến giải
pháp quản trị để bảo đảm tính hệ thống của hệ thống giải pháp. Về không

gian, không đi sâu vào hoạt động cụ thể của từng ngành, từng DNNN mà
khảo sát tổng thể DNNN nói chung ở CHDCND Lào. Thời gian chủ yếu được
khảo sát từ năm 1988 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện:
+ Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng
và Nhà nước Lào cũng như Đảng và Nhà nước Việt Nam.
+ Kết hợp hợp lý những thành tựu nghiên cứu lý luận và tổng kết thực
tiễn liên quan.
+ Phương pháp duy vật biện chứng, lịch sử, truyền thống, hệ thống,
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp...
6. Những đóng góp của luận án
- Làm rõ những luận cứ khoa học về tổ chức, quản lý DNNN trong
nền kinh tế thị trường với điều kiện cụ thể ở CHDCND Lào.


10

- Phân tích những tồn tại, yếu kém, rút ra những kinh nghiệm, luận
chứng các định hướng và giải pháp có ý nghĩa thực tiễn góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN ở Lào.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án bao gồm 3 chương, 9 tiết.


11

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Để làm rõ quan niệm về DNNN, xin bắt đầu từ khái niệm doanh
nghiệp với tư cách là khái niệm chung, từ đó hiểu khái niệm DNNN.
Về doanh nghiệp: Theo nghĩa chung nhất, doanh nghiệp là các đơn vị
kinh tế cơ sở có chức năng sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ một cách
hợp pháp theo nhu cầu của thị trường nhằm đạt lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh
tế - xã hội tối đa [48, tr. 149].
Viện Thống kê và Nghiên cứu kinh tế quốc gia Cộng hòa Pháp (INSEE)
cho rằng: "Doanh nghiệp là một tác nhân kinh tế mà chức năng chính của nó
là sản xuất ra các của cải vật chất hoặc các dịch vụ dùng để bán" [27, tr. 5].
Định nghĩa này bao hàm trong nó một nội hàm rất rộng, tức là tất cả các tác
nhân dù chỉ là một người, một hội hay một tổ chức đa quốc gia dù là có tư
cách pháp nhân hay không, nếu có hành động mua bán hàng hóa, dịch vụ thì
đều được coi là doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam khóa X
thông qua ngày 12/6/1999 cũng nêu rõ: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh".
Ở CHDCND Lào, Điều 4 Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông
qua đã đưa ra khái niệm bao quát về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh được thành lập
nhằm mục đích tổ chức sản xuất kinh doanh và được chia thành bốn


12


loại: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
tập thể và trách nhiệm hữu hạn (doanh nghiệp nhà nước trong và
ngoài nước), doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước. Doanh
nghiệp có hai dạng: doanh nghiệp tư nhân và công ty [126, tr. 7].
Như vậy, doanh nghiệp là khái niệm chung, bao quát cho tất cả các tổ
chức kinh tế có chức năng kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Thông thường,
khái niệm doanh nghiệp dùng chỉ các đơn vị kinh tế có đăng ký kinh doanh hợp
pháp với tư cách pháp lý là một tổ chức nhất định với những điều kiện nhất định
(cơ sở, tiền vốn, trang thiết bị, nhân lực).
Về khái niệm DNNN: Cũng có nhiều định nghĩa khác nhau, mỗi định
nghĩa nhấn mạnh một số tiêu chí nhất định. Các định nghĩa đó dựa trên các
tiêu chí khác nhau như mục đích, sở hữu, hình thức, lý do thành lập, cơ cấu tổ
chức doanh nghiệp v.v... Do vậy, các khái niệm về DNNN rất hay bị lẫn lộn
vì: theo tiêu chí nào đó, doanh nghiệp ở nước này là DNNN nhưng ở nước
khác lại là doanh nghiệp tư nhân. Chẳng hạn, có nước lấy tiêu chí khống chế
cổ phần và khống chế quản lý là chủ yếu, có nước cho rằng chỉ có các doanh
nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn mới là DNNN; có nước đòi hỏi
ngoài tiêu chí sở hữu phải kèm theo tiêu chí tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm
về tài sản và hiệu quả hoạt động kinh doanh; có nước quan niệm cả các tổ
chức tài chính, dịch vụ công là DNNN nhưng nhiều nước chỉ coi các cơ sở
sản xuất mới là DNNN. Do vậy, việc điểm qua các quan niệm về DNNN có ý
nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
- Ủy ban Cộng đồng châu Âu (1980) đã xác định DNNN là
tất cả các doanh nghiệp mà nhà cầm quyền có thể dựa vào quyền sở
hữu, quyền khống chế qua cổ phần hoặc điều lệ quản lý đối với
doanh nghiệp để gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián
tiếp đối với chúng [33, tr. 8].
- Ở Anh (1956), đã qui định các DNNN gồm ba điều kiện:
i) Hội đồng quản trị doanh nghiệp do chính phủ bổ nhiệm, ii) Ủy



13

ban quốc hữu hóa công nghiệp có quyền kiểm tra tài khoản kinh
doanh của doanh nghiệp, iii) Thu nhập của doanh nghiệp phải đủ
lớn để trang trải chi phí, không dựa vào sự cung cấp của Quốc hội
hoặc các cơ quan tài chính nhà nước.
- Ở Pháp, DNNN được xác định là những doanh nghiệp thỏa
mãn ba điều kiện: i) Tính công hữu của quyền sở hữu doanh nghiệp,
nhờ đó chính phủ xác định được địa vị lãnh đạo của nhà nước đối
với doanh nghiệp; ii) Có địa vị pháp nhân độc lập, nghĩa là địa vị
của nó trong quá trình kinh tế giống như các pháp nhân doanh
nghiệp khác; iii) Thực hiện các hoạt động công thương độc lập, qui
định nó là tổ chức kinh tế có hạch toán lỗ lãi, chứ không phải là đơn
vị hành chính sự nghiệp của chính phủ [118, tr. 9].
- Ở các nước khác, như Tây Ban Nha, Australia, Thụy Điển,
Phần Lan, Braxin, Mêhicô v.v... đều xác định DNNN là các doanh
nghiệp trong đó nhà nước chiếm trên 50% cổ phần. Cũng có những
nước như Hàn Quốc chỉ quy định nếu Nhà nước chiếm trên 10% cổ
phần, Italia trên 25%, Indonesia và Malaysia quy định nhà nước sở
hữu trên 20% vốn pháp định đều là DNNN. Còn Ấn Độ xác định
tất cả các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trong các ngành công
- nông nghiệp và các ngành dịch vụ do chính phủ là người sở
hữu chủ yếu đều là DNNN [33, tr. 9].
- Ở Thái Lan đã qui định, DNNN là công ty cổ phần có tư
cách pháp nhân do nhà nước thành lập và đầu tư vốn 100% hoặc
một phần trên 50% và thỏa mãn năm điều kiện: i) Là các tổ chức hoặc
đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh mà chủ sở hữu là nhà nước; ii) Các
doanh nghiệp hoặc các cửa hàng mà cổ phần nhà nước trên 50%;

iii) Các doanh nghiệp hoặc cửa hàng cổ phần mà nhà nước và hoặc
công ty của nhà nước ở hai dạng trên góp vốn trên 50%; iv) Các


14

doanh nghiệp hoặc cửa hàng cổ phần mà Nhà nước hoặc DNNN ở
các dạng i, ii, iii nêu trên góp vốn trên 50%; v) Các doanh nghiệp
hoặc cửa hàng cổ phần mà Nhà nước hoặc DNNN ở bốn dạng trên
góp vốn trên 50% [125, tr. 11].
- Ở Việt Nam, quan niệm về DNNN qua các thời kỳ đổi mới
quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều, khiến nhiều học giả, nhà quản lý
đôi khi lẫn lộn giữa khái niệm DNNN và các khái niệm gần nghĩa
khác dẫn đến hiểu sai lệch về vai trò, vị trí của DNNN và cuối cùng
dẫn đến những cách hiểu và làm khác nhau trong thực tế tổ chức đổi
mới DNNN. Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, DNNN
được coi là xí nghiệp quốc doanh, do nhà nước đầu tư vốn 100% và
trực tiếp quản lý bao cấp, chiếm vị trí độc tôn trong nền kinh tế. Khi
chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự thay đổi cả
về mặt nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý hạch toán và cơ cấu sở
hữu, phát triển một số hình thức đan xen sở hữu hoàn toàn mới. Tuy
vậy, theo Luật DNNN của Việt Nam ban hành ngày 30/4/1995 thì
"DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc công ích nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách
pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý [60, tr. 30].
Theo Luật DNNN sửa đổi (năm 2003) của Việt Nam, DNNN được
định nghĩa lại như sau: "DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn

bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình
thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn". Với
quan niệm như vậy, DNNN không những bao gồm loại doanh nghiệp có
100% vốn nhà nước đăng ký, hoạt động theo Luật DNNN như trước đây (nay
được gọi là công ty nhà nước), mà còn gồm cả doanh nghiệp có 100% vốn


15

nhà nước nhưng đăng ký, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên và loại doanh nghiệp có
cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước (dưới hình thức công ty TNHH và
công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hoặc theo Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam mà Nhà nước giữ trên 50% vốn điều lệ).
- Ở CHDCND Lào, vấn đề nghiên cứu và xác định tư cách pháp lý của
DNNN bắt đầu có từ khi xuất hiện pháp luật về doanh nghiệp nói chung. Mặc
dù Luật Doanh nghiệp đã ban hành và nhiều lần sửa đổi nhưng mỗi lần lại
khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có được khái niệm rõ ràng về DNNN.
Tuy nhiên, có cơ sở pháp lý để xác định DNNN ở Lào dựa vào Luật Doanh
nghiệp. Luật Doanh nghiệp do Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 18/7/1994,
Điều 77 đã qui định: "DNNN là một đơn vị kinh doanh của Nhà nước được
thành lập và đầu tư hoặc liên doanh với các thành phần kinh tế khác với số
vốn của Nhà nước từ 51% trở lên" [119, tr. 26]. Nguồn vốn của DNNN được
lấy từ sự đầu tư của Nhà nước, sự đóng góp cổ phần, tiền vay ngân hàng hoặc
thiết chế tài chính ở trong và ngoài nước trên cơ sở chấp nhận quyền, nghĩa
vụ và lợi ích chính đáng của hai bên đã ghi trong các điều lệ của Luật Doanh
nghiệp.
Như vậy, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản sau đây của
DNNN:
- Nhà nước chiếm trên 50% vốn của doanh nghiệp, nhờ đó Nhà nước có

thể gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh
nghiệp.
- Các DNNN đều tổ chức theo chế độ công ty, là một pháp nhân,
nguồn thu chủ yếu từ hoạt động kinh doanh, tự hạch toán và thường phải thực
hiện song song cả mục tiêu kinh tế lẫn mục tiêu xã hội.


16

- Tùy theo từng quốc gia, định nghĩa và đặc trưng của DNNN có thể
mở rộng sang cả các nhóm doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần
dưới 50% nhưng có quyền chi phối quản lý.
Như vậy, mặc dù đã có nhiều định nghĩa về DNNN được luật hóa như
đã nêu nhưng khi giải thích luật có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh mức
độ đầu tư vốn của Nhà nước vào một doanh nghiệp để có thể coi doanh
nghiệp đó là DNNN. Từ đó, chúng ta có thể kết luận một doanh nghiệp được
coi là DNNN khi thỏa mãn ba điều kiện sau:
Thứ nhất: Nhà nước là cổ đông chính, sở hữu 100% vốn hoặc sở hữu
cổ phần chi phối (trên 50%), hoặc sở hữu cổ phần đặc biệt (cổ phần qui định
quyền quản lý của Nhà nước).
Hiện nay, sự đan xen các hình thức sở hữu đối với các loại hình doanh
nghiệp đã trở thành xu thế chung của mọi nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường. Vấn đề là hình thức sở hữu nào chiếm
ưu thế trong sự đan xen ấy sẽ qui định tính chất của doanh nghiệp. Đối với
những DNNN đã cổ phần hóa hoặc doanh nghiệp cổ phần, Nhà nước vẫn nắm
tỷ lệ cổ phần chi phối, cho nên Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất, từ đó cổ
đông nhà nước sẽ nắm quyền quyết định trong Hội đồng quản trị, sẽ đảm bảo
được lợi ích Nhà nước do có cổ phần áp đảo.
Thứ hai: Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ để bán.
Thứ ba: Doanh nghiệp có hạch toán kinh tế.

Một doanh nghiệp nếu thiếu điều kiện thứ nhất, thì đó là doanh nghiệp
tư nhân, thiếu điều kiện thứ hai hoặc điều kiện thứ ba cũng không được coi là
DNNN mà chỉ được coi là cơ quan công cộng thông thường.
Dĩ nhiên, DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn
toàn hay một phần, sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ được đưa ra bán trên thị


17

trường. Quyền sở hữu của Nhà nước là đặc điểm phân biệt DNNN với những
doanh nghiệp trong khu vực tư nhân trong khi tính chất thương mại của chúng
lại phân biệt chúng với những tổ chức và cơ quan khác của Nhà nước. Đặc
điểm sở hữu của Nhà nước hầu như bao giờ cũng bao gồm cả quyền kiểm soát
đến một mức độ nào đó, đến chính sách chỉ đạo và quyền can thiệp vào hoạt
động của doanh nghiệp.
Kết hợp những quan niệm về DNNN đã nêu ở trên, luận án cho rằng:
Ở CHDCND Lào, DNNN là loại doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn thành
lập và quản lý, có 100% sở hữu nhà nước hoặc Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối
trong vốn điều lệ, có tư cách pháp nhân độc lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
theo luật định, hoạt động theo mục tiêu lợi nhuận hoặc công ích, có vai trò
nòng cốt trong nền kinh tế nhiều thành phần do nắm giữ những ngành, lĩnh
vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế và do hiệu quả kinh tế, tiến bộ công
nghệ, năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
DNNN là một loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, được
thành lập bằng vốn nhà nước, có vai trò quan trọng mà Nhà nước dùng để trực
tiếp điều tiết nền kinh tế phục vụ cho các mục đích của Nhà nước. Người ta
cũng có thể phân DNNN thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo tiêu chí phân loại
về qui mô, ngành nghề kinh doanh, mục đích thành lập, hoạt động, mức độ sở
hữu... Thông thường, ở các nước trên thế giới có nhiều cách phân loại khác nhau.

Nếu xét theo cơ cấu sở hữu thì có hai loại DNNN:
Một là, DNNN đơn chủ sở hữu, là loại doanh nghiệp mà chủ sở hữu chỉ có
Nhà nước.
Hai là, DNNN đa sở hữu, là loại doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ nắm
giữ một phần sở hữu (tùy theo qui định của mỗi nước).
Nếu xét theo cách phân loại của Liên hợp quốc, có ba loại DNNN:


18

- Doanh nghiệp sự nghiệp (Department Enterprise) được thành lập
trong các ngành cung cấp nước, điện, giao thông liên lạc. Đây là DNNN chủ
yếu cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng không lấy lợi nhuận làm mục đích
mặc dù có ý thức về tài chính cố gắng hoạt động có hiệu quả.
- Doanh nghiệp công cộng (Public Enterprise), người chủ sở hữu
chính của doanh nghiệp cũng là Nhà nước, nhưng có sự tham gia của các cổ
đông trong xã hội. Loại DNNN này hoạt động nhằm cả mục đích xã hội chứ
không đơn giản vì mục tiêu lợi nhuận.
- Doanh nghiệp sở hữu nhà nước (State Owned Enterprise) là loại doanh
nghiệp mà Nhà nước sở hữu toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp,
hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ dựa trên
sự phân tích tài chính, lợi nhuận và chịu sự cạnh tranh với khu vực tư nhân
trên thị trường.
Nếu xét theo mục tiêu hoạt động thì DNNN được chia thành ba
nhóm:
• Nhóm I: Là các DNNN hoạt động công ích, phục vụ cho các mục tiêu
chính trị xã hội của Nhà nước, phục vụ cho lợi ích trực tiếp của toàn xã hội
hay lợi ích công cộng, chuyên sản xuất hàng quốc phòng, an ninh, y tế cộng
đồng, văn hóa... Tiêu chí chuẩn chủ yếu để đánh giá hoạt động của DNNN
nhóm này là hiệu quả chính trị xã hội, tức là sự ổn định và an toàn xã hội gắn

với môi trường chính trị, kinh tế và xã hội. Sự hoạt động của các doanh
nghiệp thuộc nhóm này dựa chủ yếu vào sự bao cấp tài chính của Nhà nước,
chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, sản xuất theo kế hoạch và đơn đặt
hàng của Nhà nước.


Nhóm II: Là nhóm các DNNN bán công ích sản xuất hàng hóa

khuyến dụng. Về thực chất, hoạt động của nhóm này là bán kinh doanh, là
loại doanh nghiệp nửa bao cấp, nửa kinh doanh. Để đánh giá hoạt động của


19

các doanh nghiệp nhóm này, cần căn cứ chủ yếu vào kết quả thực hiện các
chính sách xã hội đối với người lao động và xã hội như phúc lợi xã hội hay
việc đáp ứng các hàng hóa khuyến dụng cho nhu cầu chung.


Nhóm III: Là nhóm các DNNN kinh doanh thuần túy, mục đích hoạt

động của nhóm này là sản xuất và kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận là chính.
Nếu như nhóm thứ hai chỉ trong chừng mực nào đó chịu sự chi phối của cơ chế
thị trường thì nhóm này hoạt động hoàn toàn bình đẳng với các chủ thể ở các
thành phần kinh tế khác trong cạnh tranh trên thị trường. Đối với DNNN loại
này, Nhà nước giao vốn đầu tư, doanh nghiệp tự chủ sản xuất, bảo tồn và phát
triển vốn. Sự bảo tồn vốn và mức sinh lợi theo vốn trong sản xuất và kinh doanh
là tiêu chuẩn chính để đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thuộc
nhóm này, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế là tỷ suất lợi nhuận.
Nếu xét theo góc độ cạnh tranh, có thể chia DNNN thành ba loại:

+ Loại DNNN mang tính độc quyền.
+ Loại DNNN độc quyền cạnh tranh.
+ Loại DNNN mang tính cạnh tranh.
Nếu xét trên quản lý hành chính thì có hai loại (thực chất theo
cấp):
+ DNNN trung ương: do chính quyền trung ương thành lập và quản lý.
+ DNNN địa phương: do chính quyền địa phương thành lập và quản
lý.
Nếu xét theo góc độ nguồn vốn có hai loại:
+ DNNN 100% vốn của Nhà nước
+ DNNN hỗn hợp, Nhà nước nắm cổ phần khống chế.
Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, người ta có thể chia
thành ba loại DNNN như sau:


20

+ DNNN do Chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị pháp
nhân độc lập.
+ DNNN có đầy đủ địa vị pháp nhân và toàn bộ sở hữu thuộc về Nhà nước.
+ DNNN hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước có quyền
sở hữu một phần tài sản.
Ngoài ra, theo các tiêu chí qui mô ngành nghề, hình thức tổ chức quản
lý DNNN còn được phân loại giống như hệ thống phân loại chung của các
doanh nghiệp nói chung.
Ở Việt Nam, theo Luật DNNN năm 1995 và 2003 xét theo góc độ sở
hữu thì DNNN được chia thành ba loại:
+ Loại doanh nghiệp chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước.
+ Loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước
nắm giữ trên 50%.

+ Loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu
của Nhà nước có tỷ lệ khống chế
Trên cơ sở kế thừa những quy định của Luật DNNN năm 1995, Luật
DNNN năm 2003, đã sửa đổi và bổ sung, đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp
thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 tháy thế luật DNNN năm 1995, dựa vào vốn
của Nhà nước vào doanh nghiệp, DNNN có thể chiưa thành các loại:
+ Công ty nhà nước: Là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ, các công ty này được thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt
động theo Luật DNNN năm 2003. Công ty nhà nước có thể chia ra:


Công ty nhà nước độc lập: Là công ty nhà nước không thuộc cơ cấu

tổ chức của tổng công ty nhà nước.


Tổng công ty nhà nước: Là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự

đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các


21

doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các
đơn vị kinh tế thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế
công nghệ, thị trường và các dịch vụ khác trong một hoặc một số chuyên
ngành kinh tế kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực
hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty.
+ Công ty cổ phần nhà nước: Là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông
là các công ty nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn được

tổ chức và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật DNNN (2003).
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước: Là công ty do các công ty
nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước ủy quyền đầu tư vốn thành lập gồm:
công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên và công ty TNHH nhà
nước có hai thành viên trở lên.
+ Doanh nghiệp cổ phần: Vốn góp chi phỗi của Nhà nước là doanh
nghiệp mà cổ phần hoặc phần vốn góp của nhà nước chiếm trên 50% vốn điều
lệ. Đối với các doanh nghiệp thuộc loại này nhà nước giữ quyền chi phối; có
nghĩa là Nhà nước giữ quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt, việc tổ chức
và quản lý các quyết định quản lý quan trọng khác của doanh nghiệp.
Các loại DNNN nêu trên (trừ các loại công ty nhà nước), mặc dù được
pháp luật thừa nhận là DNNN nhưng chúng được tổ chức và hoạt động theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật DNNN năm 2003 chỉ điều
chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với người đại diện phần vốn góp của
Nhà nước tại các doanh nghiệp đó.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước, luật chia DNNN năm
2003 cũng đã quy định hai mô hình tổ chức quản lý DNNN. Đó là:
+ DNNN có HĐQT: Là công ty hoặc tổng công ty có quy mô lớn, tầm
quan trọng cao, có bộ máy quản lý gồm HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc, các phó Tổng giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc, do Thủ


22

tướng Chính phủ hoặc người được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền quyết
định.
+ DNNN không có HĐQT: Là công ty mà giám đốc do người quyết
định thành lập doanh nghiệp bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật...
Ở CHDCND Lào, DNNN chỉ được phân loại theo các khía cạnh khác

nhau như tính chất sở hữu tài sản, trách nhiệm pháp lý, qui mô,...
- Theo tính chất sở hữu tài sản thì có hai loại:
+ Loại DNNN một chủ sở hữu, là đơn vị kinh tế 100% vốn, thuộc
về Nhà nước, chủ yếu áp dụng cho những lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế
quốc dân.
+ Loại các DNNN nhiều chủ sở hữu vốn trong đó Nhà nước có tỷ lệ
sở hữu khống chế. Đây là loại doanh nghiệp bao gồm vốn nhà nước, vốn liên
doanh, vốn huy động công nhân viên chức, vốn cổ phần của các cổ đông
khác, về lâu dài chủ yếu sẽ là doanh nghiệp cổ phần có huy động vốn nhàn
rỗi trong xã hội để khắc phục những mặt hạn chế về nguồn vốn nhà nước,
đặc điểm hạn chế của DNNN loại này là trách nhiệm pháp lý hữu hạn của
các bên chung vốn trong nghĩa vụ tài chính.
- Theo trách nhiệm pháp lý thì có hai loại DNNN:
+ Loại DNNN có trách nhiệm pháp lý vô hạn.
+ Loại DNNN có trách nhiệm pháp lý hữu hạn như công ty cổ phần...
- Theo qui mô: Có DNNN qui mô lớn, vừa và nhỏ. Để phân loại qui
mô DNNN người ta dùng các tiêu chuẩn vốn, doanh số và lao động. Thông
thường, ở Lào, trong điều kiện hiện nay, hai tiêu chuẩn: vốn và doanh số là
hai tiêu chí phân loại về qui mô quan trọng nhất (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNNN theo qui mô
Số vốn

Vốn ban đầu

Doanh số hàng năm


23

Loại DNNN


(triệu kíp)

(triệu kíp)

DNNN qui mô lớn

≥ 200

≥ 100

DNNN qui mô vừa

Từ 50 - 200

Từ 10 - 100

DNNN qui mô nhỏ

< 50

< 10

Nguồn: Bộ Công nghiệp - Thủ công nghiệp (1996), xí nghiệp, nhà máy.
- Theo ngành nghề và tính chất sản phẩm, có hai loại DNNN:
+ Loại doanh nghiệp sản xuất: Là loại DNNN thuộc các ngành sản
xuất trực tiếp như nông - lâm nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng cơ bản...
+ Loại doanh nghiệp dịch vụ: Là loại DNNN thuộc các ngành nghề
thương mại, du lịch, vận tải, tài chính, tín dụng, tư vấn, chuyển giao công

nghệ, thông tin, bảo hiểm. Những loại DNNN này góp phần phục vụ trực tiếp
hoặc gián tiếp tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
- Theo đặc điểm tiêu hao sử dụng các yếu tố sản xuất (yếu tố đầu
vào), có ba loại DNNN:
+ Loại doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động: Là loại DNNN mà chi
phí lao động có tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh.
+ Loại doanh nghiệp sử dụng nhiều máy móc thiết bị: Là loại DNNN
có vốn tài sản cố định lớn và do đó có tỷ trọng chi phí khấu hao rất lớn trong
toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh.
+ Loại doanh nghiệp tiêu hao nhiều nguyên nhiên vật liệu: Là loại
DNNN chi phí về các yếu tố nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá
thành sản phẩm.


24

Vậy, việc phân loại DNNN có mục đích xác định đúng chính sách và
cơ chế, hướng các DNNN đi vào hoạt động theo quỹ đạo để sắp xếp và đổi
mới hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3. Vị trí, vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị
trường
DNNN là các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu nhà nước
(toàn dân). Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung, cụ thể
là ở Lào, các DNNN chiếm những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc
dân (năng lượng, bưu điện, vận tải đường xá, hàng không, hàng hải, công
nghiệp nặng...) và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò
chủ đạo của các DNNN thể hiện ở các mặt sau:
- Bảo đảm những cân đối lớn, cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
- Kết quả hoạt động của chúng chi phối và có ý nghĩa quyết định tới
sự tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Chi phối một cách quyết định hiệu quả kinh tế quốc dân và định
hướng mục tiêu phát triển nền kinh tế thông qua việc cải thiện các yếu tố đầu
vào của sản xuất kinh doanh.
- Có sức mạnh về vốn, kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân lực, có
trình độ cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng
sâu rộng vào phân công lao động quốc tế.
- Hỗ trợ nhiều mặt cho các khu vực kinh tế khác phát triển, hoạt động
với tư cách như một công cụ điều tiết vĩ mô.
Ngày nay, các DNNN đều có ở tất cả các nước trên thế giới, không kể
nước đó thuộc chế độ xã hội, chính trị như thế nào. Trong lịch sử, các DNNN
đã xuất hiện từ khá lâu và phát triển ở các nước tư bản phát triển như Pháp,
Đức, Anh, Nhật, Mỹ và các nước khác.


25

Đến giữa thế kỷ XX, sự xuất hiện và phát triển DNNN trên phạm
vi rộng rãi cả về quy mô và tốc độ ở các nước nhưng vai trò của nó ở các
nước khá khác nhau, tuỳ thuộc vào đường lối chính trị, chiến lược và quan
điểm phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ
thể. Trải qua nhiều thập kỷ, loại hình này luôn được củng cố và phát triển
không ngừng, vị trí, vai trò của các DNNN đã được khẳng định trong thực
tế. Tuy nhiên, giống như mọi hình thức tổ chức khác, trong quá trình phát
triển, các DNNN không tránh khỏi những bước thăng trầm. Nhìn chung,
qui mô của chúng không đều, lúc mở rộng, lúc thu hẹp. Nếu nhìn theo tiến
trình lịch sử phát triển lâu dài của các nền kinh tế thị trường trên thế giới
thì hệ thống DNNN thường được mở rộng và có vai trò lớn trong thời kỳ
đầu của quá trình CNH, thời kỳ khủng hoảng kinh tế lớn hoặc thời kỳ sau
chiến tranh.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, DNNN ở các nước phát

triển có xu hướng được tăng cường trong các thập kỷ 50, 60, 70. Từ đầu thập
kỷ 80 trở đi, lại có xu hướng ngược lại, nhiều DNNN được tư nhân hóa, tỷ
trọng DNNN trong GDP giảm. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước phát triển,
DNNN được duy trì ở mức độ 1 - 10% (xem số liệu bảng 1.2. và 1.3).
Bảng 1.2: Tỷ trọng DNNN ở một số nước phát triển
Tên nước

Tỷ trọng lao động
(%)

Tỷ trọng trong GDP Tỷ trọng tổng vốn đầu
(%)
tư trong nước (%)

Anh

8,1

11,1

20

CHLB Đức

10,5

Pháp

10,5


13

30,5

Italia (1981)

15,2

12

15,5

Nhật Bản (1975)

4,7

1,3

11

12,7

Nguồn: Viện Kinh tế thế giới, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1997.


×