Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN dân BIẾT, dân bàn, dân làm, dân KIỂM TRA ở cấp xã , TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.53 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

3

CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN “DÂN BIẾT, DÂN
BÀN, DÂN LÀM, DÂN KIỂM TRA” Ở CẤP XÃ,
TỈNH THÁI BÌNH
1.1.

10

Một số vấn đề lý luận về chất lượng thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh
Thái Bình

1.2.

10

Thực trạng chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện

Chương 2

nay
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

30



LƯỢNG THỰC HIỆN: “DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN
LÀM, DÂN KIỂM TRA” Ở CẤP XÃ, TỈNH THÁI
50

2.1.

BÌNH HIỆN NAY
Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn,

50

2.2.

dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện nay
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực hiện
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh

Thái Bình hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

58
82
85
91


2


2

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban thanh tra nhân dân

BTTND

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Hệ thống chính trị

HTCT

Hội đồng nhân dân

HĐND

Mặt trận Tổ quốc


MTTQ

Pháp lệnh dân chủ

PLDC

Quy chế dân chủ

QCDC

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


3

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm qua, nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị
quyết, nghị định, chỉ thị quan trọng nhằm thực thi và phát huy dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân để phát triển kinh tế, xã hội, ổn định

chính trị, xây dựng và bảo vệ đất nước; đã đặc biệt quan tâm đến dân chủ ở cơ sở.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CT-TW “Về việc
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; ngày 20/4/2007, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội ban hành “Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”.
QCDC ở cơ sở và PLDC ở xã, phường, thị trấn quy định cụ thể những việc, những
nội dung để dân được biết, được bàn, quyết định, được làm và kiểm tra. Đây là biểu hiện
cụ thể về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; là một bước tiến lớn thể hiện sự
quyết tâm củng cố, hoàn thiện và phát triển nền dân chủ XHCN của Đảng, Nhà nước ta.
Thái Bình là một tỉnh có truyền thống cách mạng rất đáng tự hào. Những năm
đầu của thời kỳ đổi mới, do bất cập của cơ chế quản lý cũ cùng với những nhận thức
hạn chế của đội ngũ cán bộ cơ sở về dân chủ, Thái Bình trở thành một điểm "nóng"
bất ổn. Đến nay, tỉnh Thái Bình đã có một diện mạo, một thế và lực mới, tạo ra những
động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những nguyên nhân thành công đó
là do việc phát huy dân chủ ở cơ sở; trong đó, việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đã trở thành một trong những động lực quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” ở một số xã, phường, thị trấn của tỉnh còn có những bất cập, hạn chế. Việc thực
hiện những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra có nơi, có lúc còn hình thức,
hiệu quả thấp. Vai trò của MTTQ, các đoàn thể ở một số xã, phường, thị trấn trong vấn
đề này chưa được phát huy tốt. Một bộ phận đáng kể nhân dân chưa thực sự hiểu hết
quyền, nghĩa vụ của mình trong thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”...


4

4

Vai trò quan trọng của việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”;
thực trạng tình hình, cùng với yêu cầu mới về chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” ở cơ cở trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã đặt ra và thôi thúc tác giả

lựa chọn vấn đề: Chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở
cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện nay làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, có
nhiều công trình khoa học, bài báo, bài viết liên quan đến vấn đề này.
* Một số công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề dân chủ
và thực hiện dân chủ ở cơ sở:
Các sách tham khảo, chuyên khảo nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở và thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
Năm 2000, PGS. TS Dương Xuân Ngọc (chủ biên): “Quy chế thực hiện dân
chủ ở cấp xã, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb CTQG. Cuốn sách tập
trung trình bày thực trạng tổ chức và hoạt động của HTCT cấp xã trước yêu cầu
thực hiện QCDC ở cơ sở, đồng thời kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm kiện
toàn tổ chức, bộ máy của HTCT, thực hiện có hiệu quả QCDC ở cơ sở.
Năm 2002, Ban Dân vận Trung ương - Ban Chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC
ở cơ sở của Trung ương: “Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”, Nxb CTQG. Cuốn
sách tập hợp các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ tại
Hội nghị toàn quốc sơ kết Chỉ thị số 30/CT - TU về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ
sở và những đánh giá của nhiều địa phương, Bộ, ngành, cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước trong phạm vi cả nước về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở.
Năm 2006, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự: Hỏi - đáp “Dân
chủ ở Việt Nam, dân chủ của dân, do dân, vì dân”, Nxb QĐND. Cuốn sách
cung cấp một số nội dung cơ bản về dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN
ở Việt Nam theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí


5

5


Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, đồng thời phê phán những luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc
vấn đề dân chủ trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam.
Năm 2010, Luật gia Lê Trọng Vinh: Hỏi - đáp “Về dân chủ và tổ chức thực
hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007”, Nxb CTQG.
Cuốn sách cung cấp một số nội dung cơ bản về dân chủ nói chung theo quan điểm
Mácxít và nội dung cơ bản của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, giúp cho cán bộ, công chức và nhân dân hiểu đúng để vận dụng vào thực
tiễn.
Năm 2010, GS.TS Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông
thôn trong tiến trình đổi mới”, Nxb CTQG. Cuốn sách nêu lên tầm quan trọng
của dân chủ, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay; phân tích
những hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời gian qua,
đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội, tạo động lực cho sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam
XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm 2010, QĐND Việt Nam, Tổng cục Chính trị, Đại tá, TS Nguyễn
Đức Tiến (chủ biên): “Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở đơn
vị học viên nhà trường Quân đội”, Nxb QĐND. Cuốn sách luận giải cơ sở lý
luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm, đồng thời đề ra những giải pháp thiết thực, nhằm nâng cao chất
lượng thực hiện quy chế dân chủ ở đơn vị học viên nhà trường quân đội.
Năm 2011, TS Lê Văn Giảng (chủ biên): “Nâng cao chất lượng thực hiện dân
chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng”, Nxb CTQG.
Cuốn sách phân tích sâu sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn những vấn đề cơ
bản về dân chủ, dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng, đánh giá thực trạng, đề ra những giải pháp thiết thực, nhằm nâng cao chất lượng
thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.



6

6

Năm 2011, PGS. TS Lê Minh Quân: “Về quá trình dân chủ hóa xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Nxb CTQG. Cuốn sách đề cập tới nhiều vấn
đề về dân chủ hóa từ góc độ lý thuyết và thực tiễn; phân tích nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay.
Các đề tài, luận án, luận văn, bài viết về dân chủ ở cơ sở và thực hiện
dân chủ ở cơ sở có:
Đề tài: “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía bắc nước
ta”, do TS Nguyễn Quốc Phẩm chủ nhiệm, Nxb CTQG, H. 2000.
Năm 2013, Nguyễn Đình Nam, Luận văn thạc sĩ CNXHKH, Học viện
Chính trị: “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc việt Nam cấp xã, tỉnh Quảng Ngãi
trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay”.
Nam Khánh: “Mở rộng dân chủ đề cao trách nhiệm” - Báo Xây dựng
Đảng, số 6/2010; GS. TS Phạm Ngọc Quang: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở
trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề và giải pháp”- Tạp chí Lý luận
chính trị số 3/2004; Hoàng Đức Sơn: “Phát huy quyền lực chính trị của dân
trong thực hiện dân chủ ở cơ sở”- Tạp chí Lý luận chính trị số 5/2009.
Trong các công trình trên, thông qua khảo sát một số vùng, địa phương các
tác giả đã phân tích nội dung lý luận và thực tiễn thực hiện dân chủ ở cơ sở, trực
tiếp là thực hiện QCDC ở cơ sở, làm rõ vai trò HTCT đối với việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở, đề xuất các giải pháp thực hiện dân chủ ở cơ sở nước ta hiện nay.
* Các bài viết, bài báo liên quan trực tiếp đến thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã.
Nguyễn Mạnh Hùng: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”- từ chủ
trương đến hiện thực ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số

9/2010; Đào Ngọc Đệ: “Để cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, Báo


7

7

Người cao tuổi, thứ Tư, 20/10/2010; Huỳnh Đảm: “Nhìn lại mười năm thực hiện
quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn”. Tạp chí Cộng sản, số 789 tháng 7/2008;
Các bài viết tuy đề cập trực tiếp tới việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”, nhưng chưa trực tiếp bàn tới quá trình thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” ở Thái Bình.
* Các công trình, bài viết liên quan đến thực hiện dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn Thái Bình.
Năm 2012, Huyện ủy - UBND huyện Hưng Hà, Thái Bình, ThS
Nguyễn Hồng Chuyên (chủ biên): “Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
thực hiện dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh Thái Bình”; Năm 2012, Đỗ Thị Hạnh, Trường Đại học KHXHNV:
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vào việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở nông thôn tỉnh Thái Bình (1998 - 2010)”. Đức Dục, bài viết:
“Khi cán bộ cấp tỉnh, huyện tham gia bàn việc thôn”, Báo QĐND, thứ
năm, 25/10/2012.
Các văn bản, Chỉ thị của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về triển khai thực hiện dân chủ
ở cơ sở; Báo cáo tổng kết, đánh giá công tác thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ban chỉ đạo thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở, Tỉnh Thái Bình.
Các công trình, bài viết trên đã tập trung làm rõ tầm quan trọng, nội dung, cơ chế thực
hiện, thực trạng chung của việc thực hiện QCDC ở cơ sở, chất lượng thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên địa bàn tỉnh Thái Bình; đồng thời đề cập các giải pháp
nhằm phát huy dân chủ ở Thái Bình trong thực tiễn. Tuy nhiên, các công trình chưa nghiên

cứu một cách có hệ thống và toàn diện về việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” ở cấp xã thuộc tỉnh Thái Bình. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn là đề tài độc lập,
không trùng lặp với các luận văn, luận án, công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


8

8

* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình; trên cơ sở đó,
xác định yêu cầu, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện nay.
- Đề xuất yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề dân chủ, dân chủ ở cấp xã với
nội dung: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và chất lượng thực hiện nội
dung đó ở cấp xã. Khảo sát thực tế ở một số xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Thái
Bình thời gian từ 2007 đến nay (Từ khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
“Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” năm 2007 đến nay).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân
chủ, dân chủ ở cơ sở với nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.


9

9

* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp, lôgích - lịch sử, so sánh, điều tra xã
hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần luận giải những vấn đề cơ bản lý luận về chất lượng
thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, cung cấp những
tiêu chí làm căn cứ đánh giá thực trạng chất lượng thực hiện.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cung cấp một số luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng
thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình hiện
nay; góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo tổ chức triển khai hoạt động
thực tiễn của cấp ủy đảng, chính quyền trong nâng cao chất lượng thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã.
- Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy các môn khoa học xã hội nhân văn.
7. Kết cấu luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.



10

10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG
THỰC HIỆN “DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN LÀM, DÂN KIỂM TRA”
Ở CẤP XÃ, TỈNH THÁI BÌNH
1.1. Một số vấn đề lý luận về chất lượng thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình
1.1.1. Dân chủ ở cơ sở và thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” ở cấp xã nước ta hiện nay
* Dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa phức tạp. Với tư cách là một giá trị
xã hội, dân chủ gắn với những quyền cơ bản của con người: tự do, bình đẳng,
công bằng…; là những giá trị của văn hóa, văn minh nhân loại; là mục đích,
khát vọng của con người vươn tới và là thước đo đánh giá sự tiến bộ xã hội.
Xét về mặt lịch sử, từ rất sớm, trong ngôn ngữ của người Hy Lạp cổ đại xuất
hiện cụm từ: Dé moskratos. Theo nghĩa khởi thủy này, dân chủ có nghĩa là
quyền lực của nhân dân, sự cai trị của nhân dân. Cùng với sự phát triển của xã
hội, qua mỗi thời đại, mỗi chế độ xã hội, khái niệm dân chủ được hiểu và diễn
đạt ngày càng đầy đủ hơn với bản chất là quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một hình thức
nhà nước, một chế độ xã hội. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta
(1875), C.Mác đã khẳng định: dân chủ tức là chính quyền của nhân dân, nhân
dân là chủ thể của quyền lực; dân chủ chính là phương thức thực hiện quyền
lực của nhân dân. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin chỉ rõ,
chế độ dân chủ là một hình thức, một trong những hình thái của nhà nước.



11

11

Nói về vai trò quan trọng của dân chủ trong quá trình xây dựng CNXH,
V.I.Lênin khẳng định: “Không có con đường nào khác dẫn đến chủ nghĩa xã
hội, ngoài cách kinh qua chế độ dân chủ, qua tự do chính trị” [24, tr.52].
Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện được, giai cấp vô
sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng XHCN…nếu không thực hiện đầy
đủ chế độ dân chủ. “Thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ” cũng có nghĩa tạo điều
kiện cho người dân được phát huy quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ;
“Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân” [42, tr.698]. Dân có quyền được hưởng mọi quyền con
người, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm. Mọi công việc có quan hệ
đến vận mệnh quốc gia, dân tộc phải được công khai bàn bạc với dân, do dân quyết
định. Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, đánh giá, thẩm định quá trình thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: có dân chủ là có tất cả, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, thực hành
dân chủ là “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết mọi khó khăn. Tuy nhiên, để
dân thực hiện được quyền làm chủ của mình, để phát huy dân chủ, thì phải có cấu
tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại
diện tham gia xây dựng một hệ thống chính trị “do dân cử ra”, “do dân tổ chức
nên”, “phải để cho nhân dân bàn bạc kỹ và tự mình quyết định một cách thực sự
dân chủ” [40, tr.822]. Đây là điều kiện không thể thiếu trong phát huy quyền làm
chủ của nhân ở cơ sở cũng như các cấp. Để đảm bảo quyền dân chủ của dân được

thực hiện trên thực tế, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết phải xây dựng cho
được bộ máy chính quyền dân chủ từ trung ương đến cơ sở vững mạnh: “Cơ quan
Chính phủ từ toàn quốc đến làng, đều là công bộc của dân”; “Chính phủ nhân dân


12

12

bao giờ cũng phải đặt quyền lợi nhân dân lên hết thảy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh lý
giải nội dung quyền dân chủ của nông dân và khẳng định đây chính là thước đo
dân chủ của một chế độ xã hội: “Bao giờ ở nông thôn người dân thật sự nắm
chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới là dân chủ thật sự” [33, tr.25]
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi ra
đời đến nay, Đảng ta luôn coi việc thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân là mục tiêu, là động lực to lớn của cách mạng nước ta. Trong suốt quá trình
đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: phải nắm chắc ngọn cờ dân chủ,
phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người, tăng cường gắn kết xã hội và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng nền dân chủ
XHCN. Cơ sở là nơi mọi biểu hiện về dân chủ hết sức rõ ràng, nơi trực tiếp giải
quyết các nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân. V.I.Lênin đã chỉ ra, không
phải cứ tuyên truyền về dân chủ hay giao trách nhiệm cho “những người đại
diện” nhân dân là đủ, mà phải xây dựng chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến
của quần chúng, sự tham gia của quần chúng vào mọi công việc nhà nước.
Lần đầu tiên, trong Chỉ thị 53 - CT/TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng
khóa V (28-11-1984) “Về tăng cường công tác quần chúng của đảng” đã nhấn
mạnh: phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực
hiện tốt khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong sản xuất, phân
phối cũng như tất cả các công tác quan hệ trực tiếp đến quần chúng. Đại hội VI

của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), mở đầu thời kỳ đổi mới với quan điểm
“lấy dân làm gốc” đã khẳng định tư tưởng trên là nền nếp hàng ngày của xã hội
mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Phát triển tư tưởng về dân chủ, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung: “toàn bộ tổ chức và
hoạt động của HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ


13

13

gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà
nước do dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp” [8, tr.19]
Đến Đại hội VIII, Đảng đặt ra vấn đề phải có cơ chế và cách làm cụ thể để
thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để thực thi phương hướng ấy,
trong văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh: “Điều
quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại biểu, mở rộng và có
cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng
hướng và có hiệu quả”. Trên tinh thần đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCHTW
khóa VIII khẳng định: Cần phát huy dân chủ XHCN, thực hiện tốt “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”; khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân ở từng loại cơ sở. Để biến Nghị quyết thành hiện thực,
ngày 18 tháng 02 năm 1998, Đảng và Chính phủ ra Chỉ thị 30/CT- TW về QCDC ở
cơ sở. QCDC ở cơ sở: là những quy định cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng về quyền và
nghĩa vụ công dân và cơ chế để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát
mọi lĩnh vực hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thị của Bộ
Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29-NQ/CP ngày 11 tháng 5 năm

1998; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2003 về QCDC ở xã.
Trước yêu cầu về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa XI ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp
lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007). Pháp lệnh dân chủ
ở xã, phường, thị trấn là một văn bản quy phạm pháp luật, là căn cứ pháp lý quan
trọng để mọi công dân thực hiện nguyên tắc “sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật”. Pháp lệnh 34 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những nội
dung phải công khai để nhân dân biết, nhân dân bàn và quyết định, những nội
dung nhân dân tham gia ý kiến, giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ
công chức, nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Pháp lệnh thể hiện


14

14

nhận thức, tư duy sâu sắc của Đảng, nhà nước về vai trò của cơ sở, tư tưởng lấy
dân làm gốc. Lần đầu tiên vấn đề dân chủ ở cơ sở được luật hóa, là một bước tiến
quan trọng trong việc thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở cấp xã.
Ngày 04 tháng 3 năm 2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X ban hành
Kết luận số 65-KL/TW tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị
khóa VIII về thực hiện QCDC ở cơ sở. Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ XI, trong
phần phát huy dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã nêu rõ:
“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”. Đại hội nhấn mạnh: “Có cơ
chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt
hơn QCDC ở cơ sở và Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” [15,
tr.239]. Tiếp đó, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã mở ra không gian Hiến định mới
để chúng ta thực hiện dân chủ trong thực tiễn. Các quyền của công dân được Hiến

pháp ghi nhận là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ.
Về hình thức thực hiện dân chủ ở nước ta, dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp là hai phương thức chủ yếu. Song, xuất phát từ bản chất của một chế độ xã
hội ngày càng mang lại nhiều quyền dân chủ hơn cho nhân dân lao động nên xu
hướng phát triển tất yếu là ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp bởi dân chủ
trực tiếp càng sâu rộng và thực chất thì dân chủ đại diện càng hiệu quả. Thực
hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hiện thực hóa vấn đề dân chủ
XHCN ở Việt Nam theo xu hướng kết hợp mở rộng dân chủ gián tiếp với phát
huy dân chủ trực tiếp, đồng thời đảm bảo dân chủ trong khuôn khổ pháp luật.
Bên cạnh đó, Đảng ta còn khẳng định: ngoài hình thức làm chủ trực tiếp và
thông qua đại diện, nhân dân ta còn có thể thực hiện dân chủ thông qua hình
thức tự quản ở cơ sở, coi hình thức tự quản ở cơ sở là một hình thức thực hiện
dân chủ cùng với dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Đây là sự phát triển mới


15

15

về lý luận và thực tiễn thực hiện dân chủ ở nước ta, là sự kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống dân chủ của dân tộc ta trong điều kiện mới.
Dân chủ ở cơ sở ở nước ta thực chất là dân chủ ở cấp xã, nhằm bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống ở cơ sở, với
phương châm cơ bản là “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” là nội dung về các quyền dân chủ của người dân được
quy định trong QCDC ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình. Về thực
chất, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là xương sống, là trụ cột của quá
trình thực hiện dân chủ ở cấp xã trong quản lý xây dựng mọi hoạt động của chính
quyền cơ sở. Đó là nội dung quan trọng trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.

* Nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Dân biết: Bản chất của “dân biết” là quyền được thông tin. Biết không
chỉ là “quyền” mà còn là “nghĩa vụ” biết để bàn, để làm, để kiểm tra nhằm
phát huy vai trò của nhân dân, ý thức địa vị làm chủ của người dân tham
gia quản lý mọi hoạt động của chính quyền cơ sở. Nội dung chủ yếu của dân
biết là nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân; kịp thời thông tin cho nhân
dân biết những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; về chủ trương của tổ chức đảng và những quy định
của chính quyền các cấp ở địa phương; về tôn chỉ, mục đích và nội dung,
phương thức hoạt động của các đoàn thể xã hội. Trong Pháp lệnh 34 quy định
11 nội dung chính quyền cơ sở phải công khai cho dân biết trên ba lĩnh vực cơ
bản: phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng chính quyền và những nội dung khác
theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Dân bàn: Là một khái niệm để chỉ quyền của nhân dân trong tham gia ý
kiến, nói lên nguyện vọng của mình. Về nguyên tắc, dân được tham gia bàn, thảo


16

16

luận, góp ý kiến về các vấn đề quốc kế dân sinh, các vấn đề dân làm, dân thực
hiện, dân quyết định nhằm tiếp thu trí tuệ của đông đảo nhân dân đối với các đề
án, chương trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Dân bàn có nhiều mục
đích: bàn để nâng cao nhận thức, để xây dựng, để làm. Dân bàn trên nhiều nội
dung, bao gồm tất cả những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và các đoàn thể xã hội.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn quy định hai nội dung
nhân dân bàn và quyết định trực tiếp là: bàn về chủ trương và mức đóng góp

toàn bộ hoặc một phần kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc
lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố; bàn về chủ trương và mức
đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí để giải quyết các công việc khác trong
nội bộ dân cư phù hợp với quy định của pháp luật. Pháp lệnh còn quy định
những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định như
xây dựng hương ước, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng
dân phố, thành viên BTTND, Ban giám sát đầu tư cộng đồng...
Dân làm: Nhân dân với tính cách là chủ thể, thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm
của người dân tham gia công việc của đất nước, địa phương, tham gia quản lý xã
hội. Dân làm nhằm phát huy sức mạnh vật chất, các nguồn lực có giá trị của nhân
dân trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các
chủ trương của cấp ủy, chính quyền các cấp, ở địa phương. Sau khi được biết,
được bàn, nhân dân phải thể hiện sự nhất trí cao bằng việc thực hiện tốt nhất
những điều đã bàn, đã nhất trí theo chức trách và quyền hạn của mỗi công dân.
Dân kiểm tra: Nhân dân xem xét những việc dân đã biết, đã bàn, đã làm,
kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đối với nhân dân của cán bộ Đảng,
Nhà nước, HTCT, nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo
vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội. Pháp lệnh thực hiện dân


17

17

chủ ở xã, phường thị trấn quy định những nội dung nhân dân giám sát bao gồm:
11 nội dung chính quyền đã công khai cho dân biết, 02 nội dung nhân dân bàn và
quyết định trực tiếp, 03 nội dung nhân dân bàn, biểu quyết và 05 nội dung nhân
dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền cấp trên quyết định.
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là bốn yếu tố cơ bản, quan hệ

thống nhất biện chứng với nhau nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà trực tiếp trên các vấn đề, các
lĩnh vực của đời sống ở cơ sở.
* Thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” - quan niệm
và vai trò.
Quan niệm:
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thực chất là thực
thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thể hiện quyền lực thuộc về
nhân dân; là thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm đảm bảo cho mọi tổ chức và
hoạt động ở cơ sở thực sự là của dân, do dân, vì dân.
Trên cơ sở nội dung “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và thực
hiện vấn đề này ở cơ sở, có thể quan niệm: Thực hiện “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” là tổng thể các hoạt động tổ chức, bảo đảm quyền và
nghĩa vụ làm chủ của nhân dân theo nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” nhằm hiện thực hóa những nội dung, yêu cầu đã được quy
định, thể chế hóa trong văn bản pháp lý của Nhà nước đối với người dân để
mở rộng, phát huy quyền làm chủ và sức mạnh của nhân dân tham gia vào
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và tăng
cường hiệu lực lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng, chính quyền ở cơ sở.
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hoạt động chủ
động tích cực, có mục đích rõ ràng mà chủ thể lãnh đạo quá trình hoạt động
trên là Đảng bộ, chi bộ; lực lượng chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn thực hiện là cơ


18

18

quan chính quyền cấp xã; lực lượng tham gia thực hiện là toàn thể quần chúng

nhân dân với quyền và trách nhiệm công dân.
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hoạt động được
triển khai trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo đời sống nhân
dân được nâng cao.
Vai trò thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”:
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” có vai trò hết sức
quan trọng trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tạo động lực to
lớn để thực hiện các mục tiêu của Đảng đề ra.
Thứ nhất, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc hiện thực hóa nền dân chủ XHCN ở cấp xã.
Bản chất nền dân chủ XHCN là “dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”,
được xác định bởi mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tự do, hạnh phúc chân
chính được tạo lập dưới CNXH khi nhân dân là người chủ đích thực của quá
trình dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là phương thức hành động cơ bản trong
thực tiễn, nhằm bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, thể hiện một chế độ xã hội của dân, do
dân và vì dân. Vai trò chủ thể của quyền lực là nhân dân chỉ được nâng cao
khi nhân dân được tham gia trực tiếp vào công việc của địa phương, kiểm tra,
giám sát công việc của cán bộ, đảng viên. Từ đó, tính tích cực xã hội của nhân
dân được phát huy, nhân dân ý thức hơn vai trò làm chủ của mình, chủ động
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhân dân được
hưởng trên thực tế tất cả những giá trị vật chất và tinh thần mà họ sáng tạo ra,
lúc ấy bản chất dân chủ dưới CNXH mới được đầy đủ, trọn vẹn. Điều đó cũng
có nghĩa là dân chủ XHCN ngày càng được củng cố và phát triển.
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là cơ sở và nền tảng
cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền và tổ


19


19

chức chính trị - xã hội ở cấp xã theo hướng dân chủ hóa, chuyên nghiệp và hiện
đại, góp phần trực tiếp xây dựng HTCT cấp xã trong sạch, vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Việc nhân dân
tích cực đóng góp ý kiến để xây dựng Đảng, chính quyền, phát hiện kịp thời
những mặt tiêu cực của cán bộ đảng viên ở cơ sở đã góp phần nâng cao năng lực,
phương thức lãnh đạo của cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền, thay đổi
phong cách, lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, đảng viên theo hướng dựa vào
dân, gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân; chịu trách nhiệm trước các quyết định của cá nhân, giảm thiểu tình
trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tham ô, thiếu trách nhiệm trước những sai
phạm của cá nhân và tập thể. Đồng thời, thông qua thực hiện dân chủ còn giúp
cho các tổ chức làm tốt công tác đánh giá, lựa chọn, sàng lọc, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ ở cấp xã có đức, có tài, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, thực sự là công
bộc của dân, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Quá trình thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cũng đặt ra
nhu cầu nâng cao vai trò của các tổ chức đối với việc quản lý, giám sát, đôn đốc
hoạt động thực hiện dân chủ của người dân. Khi các tổ chức tích cực, chủ động
tạo điều kiện thuận lợi để đưa nhân dân tham gia vào quá trình bàn, làm, kiểm
tra thì sẽ từng bước nâng cao nhận thức, rèn luyện năng lực thực hành dân chủ
của nhân dân. Các tổ chức chăm lo bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của
nhân dân; nắm bắt được nhu cầu thiết thực của nhân dân để hướng dẫn, phát huy
sáng kiến, trí tuệ, khả năng, năng lực của người dân vào việc tìm ra những hình
thức, biện pháp thực hiện dân chủ một cách hiệu quả, thiết thực phù hợp với thực
tiễn. Quá trình đó sẽ thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân,
tạo sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân, xây dựng môi
trường chính trị - xã hội lành mạnh, giữ vững bản chất dân chủ XHCN.



20

20

Thứ hai, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tạo động
lực trực tiếp trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh trên
địa bàn cấp xã.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có dân
chủ mới tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân phát huy sáng kiến, mới giải phóng được
những tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động lực cho sự phát triển và tiến bộ.
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đóng vai trò là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
Dưới tác động của tiến trình đổi mới cùng quá trình thực thi dân chủ hóa,
cơ chế quản lý kinh tế dân chủ, người dân đã trở thành người chủ, làm chủ tư liệu
sản xuất, có quyền tự chủ quyết định phương hướng, kế hoạch sản xuất, kinh
doanh làm giàu cho gia đình và xã hội. Việc thực hiện các quyền dân chủ của
người dân đã khơi dậy và phát huy mạnh mẽ trí tuệ, kinh nghiệm, nguồn nhân lực
và vật lực của người dân. Người dân tham gia đóng góp ý kiến về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; được tự do trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, áp
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, chuyển giao kỹ thuật; mở rộng ngành nghề,
tìm việc làm mới, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân.
Về xã hội, việc thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” góp
phần tích cực vào việc tháo gỡ những khó khăn, bức xúc trong cuộc sống của
người dân, giảm thiểu tình trạng khiếu kiện, giữ vững ổn định xã hội. Sức
người, sức của của nhân dân từng bước được khơi dậy, nhiều ý kiến, sáng
kiến được đóng góp, đề xuất; ngày công, tiền của của người dân được huy
động cho phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó làm cho xã hội ngày càng trở nên
đồng thuận, vững chắc hơn. Vai trò động lực của việc thực hiện “Dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được thể hiện rõ nét trong lĩnh vực văn
hóa - xã hội. Các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn, phát huy tác
dụng khi nhân dân được tổ chức thảo luận và thực hiện nếp sống văn minh,


21

21

lối sống lành mạnh, xây dựng môi trường văn hóa. Hương ước, quy ước
chính là sản phẩm văn hóa của quá trình dân chủ hóa, được nhân dân bàn
bạc, thông qua và thực hiện, mang tính cộng đồng, thể hiện khát vọng và
ước muốn của người dân được sống trong môi trường xã hội có trật tự, kỷ
cương, góp phần ổn định và giữ gìn trật tự an ninh xã hội ở địa phương.
Dân chủ là một trong các vấn đề chính trị xã hội hết sức nhạy cảm,
thường được các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, khoét sâu vào những hạn
chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện dân chủ của Đảng, các tổ chức chính
quyền, các tổ chức chính trị xã hội các cấp, nhằm can thiệp vào công việc nội bộ
nước ta, bóp méo, xuyên tạc bản chất của chế độ dân chủ XHCN, gây hoang
mang, nghi ngờ và suy giảm niềm tin của nhân dân. Thực hiện tốt “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, người dân sẽ phát huy vai trò, trách nhiệm, nêu cao
tinh thần làm chủ của mình trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nâng
cao ý thức cảnh giác, phòng ngừa, đấu tranh với những thủ đoạn của các thế lực
thù địch và hành vi lợi dụng vấn đề dân chủ chống phá cách mạng, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” sẽ làm tăng niềm tin và sự gắn bó của nhân dân với Đảng,
Nhà nước, các cấp chính quyền, xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.
Như vậy, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã và đang
thực sự trở thành động lực quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình thực hiện các

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ;
quốc phòng, an ninh được củng cố; trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo.
Thứ ba, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” góp phần
quan trọng trực tiếp nâng cao trình độ nhận thức, năng lực làm chủ của nhân
dân lao động trên địa bàn cấp xã.


22

22

Quá trình thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã trực
tiếp đưa người dân vào các hoạt động dân chủ, thông qua đó nâng cao năng
lực làm chủ, hiểu rõ cách thức thực hiện quyền làm chủ của mình. Người dân
sẽ nhận thức được quyền được biết, được bàn, được quyết định, được kiểm
tra, giám sát những công việc ở địa phương; nhận thức được những lợi ích của
bản thân từ đó chủ động và có ý thức tự giác hơn trong việc thực hiện các
quyền và trách nhiệm công dân. Khi nhận thức và năng lực thực hành dân chủ
của nhân dân được nâng lên, họ sẽ tích cực tham gia ngày càng sâu rộng hoạt
động của mình vào các công việc quản lý nhà nước và quản lý xã hội ở địa
phương. Đồng thời, cũng làm nảy sinh nhu cầu trong thực hiện quyền dân
chủ, nâng cao khả năng tư duy sáng tạo của mỗi người dân, hình thành ý thức
tích cực, tự giác tham gia đóng góp ý kiến xây dựng địa phương, đề đạt tâm tư
nguyện vọng, đấu tranh phê bình, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực.
Như vậy, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là một yêu
cầu khách quan, tất yếu trong tiến trình xây dựng đất nước và là nền tảng, nguyên
tắc cơ bản dựa trên đó người dân có thể làm những điều cần thiết cho cuộc sống
của mình đáp ứng nguyện vọng của bản thân. Quá trình thực hiện tạo ra chuyển
biến tích cực cho việc phát huy dân chủ, nâng cao nhận thức, năng lực làm chủ,
đấu tranh với những hiện tượng vi phạm dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN.

Thực chất thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là phát huy vai trò
động lực to lớn của dân chủ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà trực tiếp là ở cấp xã.
1.1.2. Quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình
* Quan niệm về chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình
Cấp xã:


23

23

Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp cuối cùng trong sự phân cấp hành
chính ở nước ta. Cấp xã là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ trong
các quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hóa. Cấp xã có một vị trí rất quan trọng, là
nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân; là địa bàn tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; đồng
thời, cấp xã cũng là nơi trực tiếp sản xuất vật chất, nền tảng vật chất cơ bản của xã
hội, là nơi có thể tổ chức, huy động phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân
dân. Cấp xã còn là trường học thực tiễn để giáo dục, rèn luyện cán bộ, giúp cán bộ
trưởng thành về mọi mặt và phát huy được năng lực trong thực tiễn công tác. Nhờ
đó, uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân ngày càng được củng cố và nâng
cao. Cấp xã là cấp cuối cùng gần dân nhất, sát dân nhất.
Đặc điểm cấp xã ở tỉnh Thái Bình
Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, có
7 huyện, 1 thị xã, 286 đơn vị hành chính cấp cơ sở; nằm trong vùng chịu ảnh
hưởng trực tiếp của vùng tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh, đó là thị trường lớn về lao động, sản phẩm, lương thực, thực
phẩm và hợp tác phát triển. Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng là

“bờ xôi ruộng mật” do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái
Bình, tổng diện tích đất tự nhiên: 1.545.84 km2, dân số: 1.865.400 người.
Thái Bình là một tỉnh thuần túy đồng bằng, không có đồi núi, bao gồm
các cánh đồng bằng phẳng phản ánh đặc điểm của một tỉnh nông nghiệp. Cấp
xã tỉnh Thái Bình khá phong phú đa dạng, bao gồm những xã, phường, thị
trấn trên các địa bàn nông thôn, thành thị và ven biển. Đây là một đặc điểm
mà một số tỉnh ven biển ở nước ta cũng có, nhưng cũng là đặc điểm khá đặc
thù của tỉnh Thái Bình. Trong cấp xã tỉnh Thái Bình, số xã chiếm tỷ lệ lớn,
chủ yếu là các xã ở địa bàn nông thôn (273 xã, 6 phường, 7 thị trấn).


24

24

Cấp xã ở tỉnh Thái Bình là nơi trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
tỉnh. Kinh tế ở cấp xã tỉnh Thái Bình chủ yếu là nông nghiệp, tuy có những
hoạt động kinh tế khác nhưng chiếm tỷ trọng không lớn. Thái Bình có trên
90% dân số sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Do điều kiện đất chật,
người đông cũng có khó khăn nhất định cho việc giải quyết việc làm, nâng
cao đời sống nhân dân địa phương. Việc phát triển nghề, làng nghề là một
hướng quan trọng trong phát triển kinh tế ở Thái Bình, góp phần tích cực tới
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, giải quyết lao động việc làm tại chỗ.
Cư dân cấp xã chủ yếu là người Kinh, có ít dân tộc thiểu số (Tày,
Mường, Hoa), tạo thuận lợi cho việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực hoạt
động ở địa phương. Tuy nhiên, mật độ dân số khá đông, phần lớn các xã trong
tỉnh đều có trên 10.000 dân. Tình hình dân cư vừa tạo thuận lợi vừa có những
khó khăn đối với việc phát huy dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ cấp xã ở Thái Bình đều là dân địa phương làm ăn sinh

sống tại xã, phường, thị trấn, có nhiều thuận lợi cho việc nằm chắc và hiểu rõ
tình hình mọi mặt ở địa bàn và thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Tuy nhiên,họ
chủ yếu qua đào tạo tại chức, nên khó đáp ứng yêu cầu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
vào thực tiễn của khu vực nông thôn
Cấp xã ở Thái Bình cũng là địa bàn phức tạp, nơi có sự tập trung
chống phá của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị. Trên thực
tế đã xảy ra những điểm nóng chính trị - xã hội, gây nhiều khó khăn phức
tạp cho việc giữ vững ổn định xã hội và phát triển kinh tế ở địa phương.
Quan niệm về chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình.
Theo Từ điển Tiếng Việt, chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của
con người, sự vật, “cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác với sự


25

25

vật kia, phân biệt với số lượng”. Hiểu khái quát, chất lượng là kết quả đạt được
trong hoạt động của một lĩnh vực nào đó với các nguồn lực đã được sử dụng.
Trên cơ sở phân tích thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở
cấp xã và nhận thức về chất lượng nêu trên, có thể quan niệm: Chất lượng thực
hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình là kết
quả tổng hợp của các hoạt động bảo đảm, tổ chức, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân theo nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên các
mặt hoạt động ở xã, phường, thị trấn của tỉnh, biểu hiện ở quyền làm chủ thực tế
của người dân, sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây
dựng và tăng cường hiệu lực lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng, chính quyền
cấp xã.
Chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã,

tỉnh Thái Bình là chất lượng toàn bộ các yếu tố cấu thành việc thực hiện và kết
quả của việc thực hiện ấy, biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống ở cấp xã.
Thực chất đó bao gồm cả những yếu tố làm nên chất lượng và cả những yếu tố
phản ánh chất lượng sự vật - “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chất
lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình
phản ánh quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống ở cấp xã, tỉnh Thái Bình;
đồng thời thông qua quyền làm chủ thực tế của người dân, sự phát triển kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và tăng cường hiệu lực lãnh đạo, quản
lý của cấp ủy đảng, chính quyền cấp xã mà nhận rõ được chất lượng thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình.
* Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” ở cấp xã, tỉnh Thái Bình
Xác định đúng tiêu chí là vấn đề quan trọng không chỉ gíúp cho việc
đánh giá được chính xác mà còn tạo cơ sở cho việc xác định yêu cầu và thực
thi giải pháp được phù hợp, hiệu quả. Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cấp xã là những căn cứ để nhận
biết, đánh giá thực trạng thực hiện quyền dân chủ của dân trên thực tiễn và đề


×