Tải bản đầy đủ (.doc) (219 trang)

SÁCH THAM KHẢO HUY ĐỘNG vốn TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HÔNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 219 trang )

1

HUY ĐỘNG VỐN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP


2

I. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

1. Khái niệm vốn
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đối với quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Việt Nam là nước đang
phát triển, có nhu cầu vốn rất lớn để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy
nhiên, do tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân thấp, khả năng thu hút
vốn từ nước ngoài còn hạn hẹp nên lượng vốn đầu tư phát triển kinh tế rất
thiếu. Vì vậy, nhận thức và vận dụng đúng đắn phạm trù vốn sẽ là tiền đề thúc
đẩy việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng vốn để đầu tư phát triển nền
kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng, hội nhập tốt vào nền kinh tế thế giới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế, khái niệm vốn được tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái kinh tế trước C.Mác đã
dày công nghiên cứu vốn thông qua phạm trù tư bản và đi đến kết luận: vốn là
phạm trù kinh tế.
Kế thừa chọn lọc tư tưởng của các nhà tiền bối, khi nghiên cứu sự


chuyển hóa của tiền thành tư bản, C.Mác khẳng định: "Như vậy là giá trị ứng
ra lúc ban đầu không những được bảo toàn trong lưu thông, mà còn thay đổi
đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá
trị. Chính sự vận động ấy biến nó thành tư bản"1.
Khẳng định trên của C.Mác đã vạch rõ bản chất và chức năng của tư
bản (vốn) trong phát triển kinh tế. Bản chất của tư bản là giá trị; chức năng
của tư bản là sinh lời. Tuy nhiên, để giá trị trở thành tư bản và tư bản sinh lời
phải trải qua sự vận động. Nghĩa là, tư bản phải có mặt trong lưu thông, tham
gia vào quá trình sản xuất. Thông qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở và
lớn lên không ngừng.
. C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 228.

1


3

Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn không chỉ là yếu tố
cần thiết đối với quá trình sản xuất của các nước phát triển mà còn là yếu tố
đóng vai trò quan trọng của hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát
triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế
học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều bình diện khác nhau.
Dưới góc độ tài chính - tiền tệ, trong ấn phẩm "Chú giải thuật ngữ kế
toán Mỹ", tác giả Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín cho rằng, vốn là "tổng số
tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh
doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức"1.
Dưới góc độ tài sản, cuốn "Dictionary of Economic" - Từ điển Kinh tế
của Penguin Reference, do Phạm Đăng Bình và Nguyễn Văn Lập dịch lại đưa
ra khái niệm: "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân
nó cũng được cái khác tạo ra"2.

Dưới góc độ nhân tố đầu vào, trong tác phẩm "Lịch sử tư tưởng kinh tế",
I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlianxki kết luận: Vốn là "một trong ba yếu tố đầu vào
phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu
bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (tức là máy móc, công cụ, thiết bị, nhà
cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán thành phẩm)"3.
Ở Việt Nam, cuốn "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học cũng
chỉ ra: "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh, nhằm
mục tiêu sinh lợi"4.
Như vậy, "vốn sẽ bao gồm bất cứ thứ gì đưa lại một luồng thu nhập
qua thời gian", "Sự phát triển có thể coi như là một quá trình khái quát của
sự tích lũy vốn"1. Những cách tiếp cận trên đây về vốn đã nêu rõ tính đa dạng,
. Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín, Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai, 1994, tr. 29.
. Penguin Reference, Từ điển kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr. 56.
3
. I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pôlianxki, Lịch sử tư tưởng kinh tế, phần thứ nhất, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1994, tr. 300.
4
. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, 2000, tr. 1126.
1
. E.Wayne Nafziger, Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998, tr. 460.
1
2


4

nhiều vẻ về hình thái tồn tại của vốn. Vốn có thể là tiền hay tài sản được giá
trị hóa. Mặt khác, với tư cách là vốn thì tiền hay tài sản phải được đầu tư vào
hoạt động sản xuất - kinh doanh để tạo ra hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu có
thu nhập trong tương lai. Nghĩa là, vốn luôn gắn với sự vận động và đảm

nhiệm chức năng sinh lời.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn bản chất của vốn, trên cơ sở đó có biện
pháp đúng đắn khi huy động và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển, cần nhận
thức sâu sắc một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn
- Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thái giá trị. Giá trị đó được ứng ra
để chuyển hóa nó thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá
trình sản xuất, giá trị lớn lên không ngừng.
- Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng, bao
gồm: Tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Những tài sản này
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ, đồng thời làm tăng giá trị. Nói cách khác, vốn là giá trị thực của
tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính đưa vào đầu tư để tạo ra
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật
chất. Tài sản hữu hình bao gồm hai bộ phận: Một là, những tài sản hữu hình
phục vụ trực tiếp cho sản xuất, như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ,
nguyên - nhiên vật liệu, bán thành phẩm v.v... Về thực chất, những tài sản hữu
hình này chính là sự cụ thể hóa năng lực sản xuất của một đơn vị kinh tế cơ sở
hay xét trên phạm vi rộng lớn - toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tới
hiệu quả sản xuất - kinh doanh; hai là, những tài sản hữu hình phục vụ gián
tiếp cho sản xuất, như: trụ sở văn phòng, trang bị nội thất văn phòng, phương
tiện đi lại, nhà ở v.v... Mặc dù những tài sản hữu hình này là cần thiết cho
hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng chỉ tác động gián tiếp đến việc gia


5

tăng sản lượng đầu ra, đóng vai trò thứ yếu đối với hiệu quả sản xuất - kinh
doanh.

Việc phân biệt rõ hai loại tài sản hữu hình như trên cho ta phương
pháp luận đúng đắn khi huy động, sử dụng chúng đầu tư cho phát triển. Trên
thực tế, cần phải tập trung mọi nguồn lực để làm tăng tài sản hữu hình với tư
cách là năng lực sản xuất.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của
vật chất, bao gồm những sản phẩm của trí tuệ, như: bằng phát minh, sáng chế,
bản quyền; thương hiệu sản phẩm, uy tín kinh doanh; vị trí kinh doanh; chi
phí đào tạo nguồn nhân lực (kỹ năng lao động, tri thức quản lý) v.v... Nền
kinh tế thị trường càng phát triển, giá trị tài sản vô hình càng trở nên quan
trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi lẽ, khi đã huy động được những tài sản vô
hình vào phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm
chí là siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn, Nhật Bản là một điển
hình thành công khi tạo bước đột phá trong khai thác giá trị tài sản vô hình để
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Người Nhật Bản không ngần ngại trả giá cao
cho những phát minh, sáng chế mới của các nhà khoa học trên khắp các châu
lục, đồng thời đem những tài sản - trí tuệ đó ứng dụng vào sản xuất - kinh
doanh, nhờ đó, nền kinh tế Nhật Bản cất cánh thật ngoạn mục! Nếu như sau
Chiến tranh thế giới lần thứ Hai, nền kinh tế Nhật Bản bị kiệt quệ, lạm phát
phi mã, thất nghiệp gia tăng... thì chỉ trong vòng 20 năm, Nhật Bản trở thành
một siêu cường kinh tế thế giới, chỉ đứng sau Mỹ và EU, thành công đó có sự
đóng góp không nhỏ của việc khai thác tốt yếu tố vốn vô hình - sản phẩm trí
tuệ của loài người vào phát triển kinh tế.
Tài sản tài chính, bao gồm tiền mặt hay các chứng chỉ có giá (cổ
phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ...), có thể gọi chung là tiền. Tuy nhiên, không
phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền là hình thái cụ thể của vốn. Tiền được coi là vốn
khi và chỉ khi tiền đại diện cho một lượng giá trị hàng hóa, dịch vụ, hay tài sản
nhất định, được "ném" vào lưu thông hoặc tham gia trực tiếp vào sản xuất -


6


kinh doanh để kiếm lời. Bởi vậy, những đồng tiền được cất trữ hay đem tiêu
dùng trong sinh hoạt hàng ngày, không có khả năng sinh ra lợi nhuận không
phải là vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức vận động của tiền với tư cách
là vốn do phương thức đầu tư cụ thể quyết định. Trên thực tế, sự vận động của
vốn có ba hình thức:
TLSX
+T-H
... SX ... H' - T': Đây là hình thức vận động của
SLĐ
vốn trong các doanh nghiệp sản xuất. Xét theo nghĩa rộng, thực chất, đó cũng
chính là mô hình tái sản xuất xã hội nói chung.
+ T - H - T': Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh
nghiệp thương mại - dịch vụ.
+ T - T': Đây là hình thức vận động của vốn trong các tổ chức tài
chính trung gian.
Trong đó:
T: Lượng tiền ứng ra để đầu tư phát triển
H: Hàng hóa với tư cách là tư liệu sản xuất, sức lao động, hàng hóa dự trữ...
SX: Quá trình sản xuất - kinh doanh
H': Hàng hóa thu được sau quá trình sản xuất - kinh doanh
T': Lượng tiền thu được khi kết thúc chu kỳ kinh doanh {T' > T và T' = T +
∆t (∆t là lượng giá trị tăng thêm)}

Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh đều có thể sử
dụng một hay nhiều phương thức đầu tư vốn theo các mô hình vận động của
vốn như đã nêu, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều
hình thái cụ thể: Tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính. Nhưng,



7

hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hóa nhất
trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt
động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của
chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh
doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô
ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của vốn
trên thị trường tuân thủ quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song,
với khả năng nhận thức, con người có thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách
quan, tạo ra những kênh huy động vốn một cách hiệu quả, đáp ứng mục đích
sản xuất - kinh doanh của mình.
Thứ hai, vốn là hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hóa. Muốn phát
triển sản xuất - kinh doanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư
được xem là cơ sở phát sinh quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như
vậy, vốn hiển nhiên là đối tượng trao đổi, mua bán trên thị trường vốn. Với tư
cách là hàng hóa, vốn có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng; có chủ sở hữu
và là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Thứ ba, vốn là hàng hóa đặc biệt
Tính đặc biệt của "hàng hóa vốn" thể hiện ở chỗ: vốn có khả năng sinh
lời. Với tư cách là hàng hóa đặc biệt, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn
tách rời nhau. Đặc điểm này của vốn không có ở các loại hàng hóa thông
thường. Chủ sở hữu vốn sẽ nhận được một khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất
quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vốn cho người mua (các nhà đầu
tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản gọi là chi
phí (giá mua quyền sử dụng vốn) trả cho chủ sở hữu và nhận về mình quyền
sử dụng vốn. Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn

làm cho vốn trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời. Cụ thể hơn, nhờ có
sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn mà khi sử dụng chúng


8

trong hoạt động đầu tư, vốn không những không bị "tan biến" giá trị và giá trị sử
dụng mà còn bảo toàn, phát triển giá trị và giá trị sử dụng của chúng. C.Mác
đã chỉ rõ: "Hàng hóa tư bản có đặc tính là: Khi giá trị sử dụng của nó được đem
tiêu dùng đi, hàng hóa - tư bản không những giữ được giá trị và giá trị sử dụng
của nó, mà còn làm cho giá trị và giá trị sử dụng đó tăng thêm nữa"1.
Tất nhiên, để đồng vốn phát sinh lợi nhuận (tăng giá trị), nó phải được
đặt trong một môi trường cụ thể, có sự tương tác của các yếu tố thuộc môi
trường kinh doanh. Từ môi trường này nhà đầu tư có thể lựa chọn kênh cung
cấp vốn, cơ chế huy động và hình thức đầu tư.
Thứ tư, vốn có mối quan hệ mật thiết với thời gian
C.Mác viết: "Tiền chỉ được đem nhượng lại với hai điều kiện, một là,
nó sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là, nó sẽ
quay trở về điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực
hiện được các giá trị sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là
sản xuất ra giá trị thặng dư"2.
Như thế, chủ sở hữu vốn nhượng lại quyền sử dụng vốn cho nhà đầu
tư trong một khoảng thời gian xác định. Sau khi vốn trải qua chu kỳ vận động,
nó quay về tay chủ sở hữu, với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị lớn
hơn đó là lợi tức của chủ sở hữu vốn hay là lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi
sử dụng vốn. Mức lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với lượng vốn
khi chủ sở hữu vốn nhượng, bán quyền sử dụng vốn theo đơn vị thời gian
(tháng, quý, năm...), phù hợp với nền kinh tế thị trường. Thông thường, thời
gian "vay" vốn dài, lãi suất lớn và ngược lại, thời gian "vay" vốn ngắn, lãi
suất nhỏ (lãi suất tỷ lệ thuận với thời gian vay). Sự tách rời giữa quyền sở hữu

vốn và quyền sử dụng vốn, gắn với khoảng thời gian xác định tất yếu dẫn đến
quá trình tích tụ, tập trung vốn từ những khoản tiết kiệm nhỏ, lẻ; những đồng
tiền chưa có cơ hội đầu tư trở thành vốn và chuyển chúng đến tay các nhà đầu
. C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 537.
. C.Mác và Ăngghen , Sđd, tr. 525.

1
2


9

tư. Sự vận động ấy đã tạo nên dòng chảy của vốn không ngừng, không nghỉ
trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, khi tiến
hành hoạt động sản xuất - kinh doanh, các nhà đầu tư luôn luôn chú trọng tới
yếu tố thời gian. Bởi vì, các yếu tố như giá cả, lạm phát, lãi suất, tỉ giá... biến
động thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ một nhà đầu tư nào, khi xác định hiệu quả
đầu tư cũng phải đưa toàn bộ chi phí và thu nhập về cùng một thời điểm để so
sánh, tính toán các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất doanh lợi/ vốn, tỷ suất doanh lợi/
doanh thu, vòng quay của đồng vốn v.v... Điều đó cắt nghĩa được tại sao vốn
luôn có giá trị về mặt thời gian (gắn với thời gian).
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu, vốn là tổng giá trị của
những tài sản (tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính) tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất - kinh doanh nhằm mục tiêu
thu nhập trong tương lai.
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh nhịp
độ tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả; cung ứng đầy đủ và kịp
thời vốn cho nền kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng đẩy mạnh phát
triển nền kinh tế quốc dân nói chung, nông nghiệp (theo nghĩa rộng) nói

riêng. Tuy nhiên, trong mỗi quyết định đầu tư cụ thể lại đòi hỏi không chỉ
lượng vốn đủ lớn mà còn yêu cầu một hay nhiều loại vốn khác nhau. Như
vậy, thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phân chia và xác định rõ từng loại vốn để có
biện pháp huy động, sử dụng và quản lý vốn có hiệu quả.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân chia vốn
thành nhiều loại khác nhau. Dưới đây là một số loại vốn cơ bản:
+ Dựa vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại: vốn
trong nước và vốn ngoài nước.


10

+ Dựa vào đặc điểm vận động, vốn có hai loại: Vốn cố định và vốn
lưu động. Vốn cố định được biểu hiện bởi giá trị những tài sản cố định, bao
gồm: nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, kết cấu
hạ tầng, dụng cụ đo lường v.v... Vốn lưu động được biểu hiện bởi giá trị của
những tài sản lưu động, bao gồm: nguyên - nhiên liệu, sản phẩm dở dang,
hàng hóa dự trữ, các khoản tiền tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán v.v...
+ Dựa theo hình thái tồn tại cụ thể, vốn chia thành ba loại: Vốn hữu
hình, vốn vô hình và vốn tài chính.
+ Dựa vào thời gian sử dụng, vốn có ba loại: Vốn ngắn hạn, vốn trung
hạn và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư với
thời hạn dưới một năm. Vốn trung hạn là lượng giá trị được sử dụng để đầu tư
với thời hạn từ một năm đến dưới năm năm. Vốn dài hạn là lượng giá trị được
sử dụng để đầu tư với thời hạn từ năm năm trở lên.
+ Dựa vào chế độ sở hữu, vốn có hai loại: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
và vốn vay (huy động từ bên ngoài).
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một hoặc
nhiều chủ thể sở hữu. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) được hình thành trên cơ sở NSNN cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ

sở hữu của công ty cổ phần được hình thành thông qua huy động vốn góp của
cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn được hình thành
thông qua vốn góp của các thành viên v.v...
Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng
lượng vốn của chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá
trình sản xuất. Vốn vay có thể huy động từ: Vay trong nước và vay ngoài
nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vay vốn ngoài nước để phát triển
kinh tế không phải là công việc quá khó đối với các nước đang phát triển và
kém phát triển. Song, vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng vốn vay ngoài
nước ra sao cho có hiệu quả vẫn còn là vấn đề rất nan giải đối với các nước


11

nghèo và kém phát triển. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, vốn vay
sẽ càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của một chủ thể sản xuất kinh doanh.
+ Dựa vào phương thức sử dụng, không chỉ có vốn sản xuất trực tiếp
phục vụ cho quá trình sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ, hàng hóa mà còn
cần vốn phục vụ gián tiếp cho sản xuất, bao gồm khối lượng lớn và phong
phú hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng...
+ Dựa vào giá trị của vốn đầu tư trong thực tế và những chứng chỉ có
giá (cổ phiếu, trái phiếu...), vốn chia thành hai loại: Vốn thực (tư bản thật) và
vốn ảo (tư bản giả) v.v...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta
những quan niệm khác nhau về vốn, song, nhận thức về vốn, xét về bản chất
là thống nhất. Việc phân chia vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích
hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - vốn là hình thái giá trị, là thứ hàng hóa
đặc biệt, có mối quan hệ mật thiết với thời gian. Cùng với việc hiểu rõ bản
chất của vốn còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp của
vốn trong nền kinh tế thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp các chủ

thể kinh doanh nắm bắt và chủ động trong kế hoạch huy động, sử dụng các
loại vốn, đẩy mạnh phát triển sản xuất - kinh doanh.
2. Đặc điểm của vốn và huy động vốn phát triển nông nghiệp
Đặc điểm của vốn sản xuất nông nghiệp và huy động vốn phát triển
nông nghiệp thể hiện trên các khía cạnh:
- Tác động của vốn đối với quá trình sản xuất nông nghiệp không trực
tiếp mà phải thông qua đất đai, cây trồng, vật nuôi. Mỗi loại đất, cây, con lại
có yêu cầu rất khác nhau về vốn (số lượng, cơ cấu, thời gian...). Do đó, khi
huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp bắt buộc phải tính toán cụ thể, chi
tiết cho phù hợp với từng loại đất, cây trồng, vật nuôi.


12

- Trong cấu thành vốn cố định của sản xuất nông nghiệp, bên cạnh
những tư liệu có nguồn gốc kỹ thuật còn có tư liệu lao động có nguồn gốc
sinh học. Chẳng hạn: súc vật làm việc, súc vật sinh sản, cây lâu năm... Các tư
liệu lao động đặc biệt này thay đổi giá trị sử dụng của mình khác với tư liệu
lao động có nguồn gốc kỹ thuật. Vì vậy, khi huy động vốn phát triển nông
nghiệp không những cần làm tăng năng lực sản xuất (tư liệu lao động) có
nguồn gốc kỹ thuật mà còn phải chú ý bảo tồn, chăm sóc và phát triển tư liệu
lao động có nguồn gốc sinh học.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rõ rệt; chu kỳ sản xuất của
cây trồng, vật nuôi tương đối dài, một mặt, làm cho quá trình tuần hoàn và
chu chuyển vốn chậm chạp, thời gian thu hồi vốn cố định dài và cần phải dự
trữ đáng kể vốn lưu động, gây nên tình trạng "ứ đọng" vốn cục bộ. Mặt khác,
trong sản xuất nông nghiệp cần tập trung hóa cao hơn về phương tiện kỹ thuật
trên một lao động nông nghiệp so với ngành công nghiệp. Bởi vậy, huy động
vốn phát triển nông nghiệp luôn cần các loại vốn: ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn; tính toán sát đúng với kế hoạch phát triển; cung ứng vốn cho người sản

xuất đủ và đúng thời vụ, phù hợp với yêu cầu vốn của từng loại cây, con
nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp cũng như đầu
tư vốn.
- Một bộ phận sản phẩm nông nghiệp không qua lưu thông mà chuyển
trực tiếp làm tư liệu sản xuất nông nghiệp nên vòng tuần hoàn vốn sản xuất
nông nghiệp chia thành hai loại: tuần hoàn đầy đủ và tuần hoàn không đầy đủ.
Do đó, khi cung ứng vốn phát triển nông nghiệp cần phải hạch toán đầy đủ
giá trị của những nông phẩm chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản
thân ngành mình.
- Điều kiện tự nhiên có tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh nông nghiệp nên khi sử dụng vốn phát triển nông nghiệp thường gặp
rủi ro, tổn thất hoặc giảm hiệu quả đầu tư vốn (khi thời tiết khí hậu không
thuận hòa). Vì vậy, huy động vốn phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển


13

nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế, không chỉ đầu tư vốn
cho sản xuất mà cần phải dành một khoản nhất định hình thành quỹ hỗ trợ rủi
ro nhằm phân tán rủi ro cho những người sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
đảm bảo tính ổn định, bền vững trong phát triển nông nghiệp. Như vậy, hình
thành và phát triển quỹ rủi ro là một tất yếu trong phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa hiện đại.
3. Cơ cấu nguồn vốn và phương thức huy động vốn phát triển
nông nghiệp
3.1. Cơ cấu nguồn vốn huy động phát triển nông nghiệp
Trong một đơn vị kinh tế cơ sở hay xét trên phạm vi rộng lớn - toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, điều hiển nhiên là: muốn đầu tư phải có vốn và muốn
có vốn phải tìm ra nguồn. Cắt nghĩa cho vấn đề này, nhiều nhà kinh tế học, điển
hình là nhà kinh tế người Mỹ P.A.Samuelson cho rằng: nhịn tiêu dùng hiện tại,

dành vốn đầu tư cho sản xuất sẽ có thu nhập trong tương lai 1. Về bản chất,
"nhịn tiêu dùng" chính là hành động tiết kiệm (hay tích lũy vốn) của một chủ
thể kinh tế. Chính tiết kiệm là nguồn gốc cơ bản để hình thành vốn đầu tư.
Thực tế đã chứng minh, những nước có nền kinh tế phát triển ở trình
độ tiên tiến như Mỹ, EU, Nhật Bản, mức thu nhập bình quân đầu người cao,
quy mô và tỷ lệ tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân lớn sẽ dễ dàng gia
tăng nhanh tiết kiệm để tái đầu tư, mở rộng sản xuất. Trái lại, những nền kinh
tế đang phát triển và kém phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người thấp,
quy mô và tỷ lệ tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân nhỏ nên việc gia
tăng tích lũy vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư là công việc khá khó khăn, phức tạp.
Sự thiếu vốn là một cản trở đơn giản nhưng quan trọng nhất đối với việc đẩy
nhanh phát triển kinh tế 2 ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Bởi
vậy, thu hút nguồn tiết kiệm ngoài nước, đầu tư cho phát triển là cần thiết và
. Paul. A.Samuelson và William. D. Nordhaus, Kinh tế học, tập II, Viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1989, tr.
362.
2
. Malcolm Gillis, Dwight H. Perkins, Michael Roemer, Donald R.Snodgrass (1990), Kinh tế học của sự phát
triển, tập 2, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, TTTTTL, Hà Nội, 1990, tr.4.
1


14

đó cũng là một trong những giải pháp tốt để bù đắp lỗ hổng thiếu hụt vốn; góp
phần tạo ra nguồn tiết kiệm mới ở trong nước thông qua chính nguồn vốn
ngoài nước.
Như vậy, vốn đầu tư phát triển của một chủ thể kinh tế được huy động
từ hai nguồn: Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Tuy nhiên, ở
những nước khác nhau sẽ có những quan điểm khác nhau trong huy động vốn:
Có những nước hoàn toàn dựa vào ngoại lực và ngược lại có những nước

quyết tâm phát huy nội lực, dựa vào "sức mình"; cũng không ít nước kết hợp
huy động cả hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đẩy mạnh phát triển
kinh tế.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng hệ quan điểm huy
động vốn xuyên suốt Đại hội lần thứ VII, VIII và IX, đó là: "Kết hợp nội lực
và ngoại lực hình thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước" 1. Trong đó,
"vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan
trọng"2. Đặc biệt, đối với phát triển nông nghiệp phải "dựa vào nội lực là
chính"3. Cơ sở khoa học của hệ quan điểm trên bắt nguồn từ:
Một là, việc nhận thức sâu sắc hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là một
nước đang phát triển đi lên từ nông nghiệp, phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh
ác liệt, khả năng tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế rất hạn hẹp, do đó, nếu chỉ
dựa vào "sức mình" sẽ rất khó đáp ứng được yêu cầu cao về vốn cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hai là, trên cơ sở tìm hiểu những bài học thành công cũng như thất
bại của các nước trên thế giới trong việc huy động vốn ngoài nước để phát
triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác định rõ: "Vốn trong nước có ý nghĩa
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr. 26.
2
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996, tr. 228.
3
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khóa IX), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 94.
1


15


quyết định". Bởi vì, chỉ khi nào nền kinh tế quốc dân tạo ra tiết kiệm từ chính
nội bộ của mình thì khi đó mới chủ động được vốn; bố trí, phân bổ, sử dụng
vốn một cách hiệu quả theo yêu cầu và mục đích phát triển kinh tế ở từng giai
đoạn cụ thể của sự nghiệp đổi mới, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn
định, bền vững. Tuy nhiên, khi nội lực còn hạn hẹp, việc huy động vốn từ bên
ngoài vào phát triển kinh tế là rất cần thiết. Chính vốn ngoài nước tạo ra "cú
hích" đột phá vào vòng luẩn quẩn của nền kinh tế (thu nhập thấp - tiết kiệm
thấp - đầu tư thấp - sản xuất không phát triển - thu nhập thấp), tạo đà cho nền
kinh tế chuyển động, từng bước tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế thông qua
việc huy động vốn ngoài nước. Vì thế, hiện nay Đảng ta xác định rõ: "Vốn
ngoài nước có ý nghĩa quan trọng" đối với nền kinh tế Việt Nam.
Quan điểm huy động vốn phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam là sự biểu hiện tập trung của tư tưởng Hồ Chí Minh: "Các nước bạn ta... ra
sức giúp đỡ ta... để chúng ta có thêm điều kiện tự lực cánh sinh" 1 trong điều
kiện mới, hoàn cảnh mới.
Trong giới hạn, phạm vi nghiên cứu, luận án đi sâu phân tích cơ cấu
nguồn vốn trong nước phát triển nông nghiệp.
Vốn trong nước được hình thành từ tiết kiệm trong nước. Theo Hệ thống
tài khoản quốc gia (SNA) do Liên hợp quốc xuất bản năm 1989 và tái bản
năm 1993 thì: Tiết kiệm (Saving - S) bằng tổng thu nhập quốc gia khả dụng
(GNDI - Gross National Disposable Income) trừ đi tiêu dùng cuối cùng. Bên
cạnh đó, theo định nghĩa của Liên hợp quốc và Vụ Hệ thống tài khoản quốc
gia thuộc Tổng Cục thống kê Việt Nam thì: Tổng thu nhập quốc gia khả dụng
bằng GDP cộng thu từ sở hữu thuần, cộng thu từ chuyển nhượng hiện hành
thuần. Nên tiết kiệm thuần (Net Saving - Sn) bằng tiết kiệm trừ khấu hao tài
sản cố định2.
. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 39.
. Bùi Bá Cường và Bùi Trinh, Bàn về phương pháp tính chỉ tiêu tiết kiệm, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số
10/2002, tr. 25.
1

2


16

Với cách tiếp cận như trên, tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ tiết kiệm thuần ở
Việt Nam (không bao hàm khấu hao tài sản cố định) so với GDP như sau:
Biểu 1: Tiết kiệm và tiết kiệm thuần của Việt Nam giai đoạn 1994 - 2000
Đơn vị tính: %
Năm

Tiết kiệm/Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP)

Tiết kiệm thuần/Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP)

1994

21,21

12,55

1995

22,86

14,22

1996


20,55

11,70

1997

21,63

12,90

1998

23,90

15,40

1999

27,09

17,59

2000

31,00

19,46

Nguồn: Bùi Bá Cường và Bùi Trinh, Bàn về phương pháp tính chỉ

tiêu tiết kiệm, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 10/2002.
Như vậy, trong giai đoạn 1994 - 2000, tiết kiệm quốc gia có xu hướng
tăng lên rõ rệt. Nếu như năm 1994, tiết kiệm/ GDP chỉ chiếm 21,21% thì sau
7 năm (năm 2000), con số này tăng lên 31%, trong đó, tích lũy vốn trong
nước có bước phát triển mới.
Biểu 2: Tích lũy vốn giai đoạn 1996 - 1998
Đơn vị tính: %
Các chỉ tiêu

1996

1997

1998

100

100

100

73,12

76,44

82,27

- Tiết kiệm thuần

41,65


45,59

53,01

- Khấu hao tài sản cố định

31,47

30,85

29,26

26,88

23,56

17,73

Tổng số vốn cho tích lũy
1. Nguồn vốn trong nước cho tích lũy:
Trong đó:

2. Nguồn vốn từ ngoài nước (chuyển nhượng


17

vốn, đi vay...)


Nguồn: Bùi Bá Cường và Bùi Trinh, Bàn về phương pháp tính chỉ
tiêu tiết kiệm, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 10/2002.
Qua số liệu trên đây, có thể thấy, nguồn vốn trong nước cho tích lũy
có xu hướng tăng dần, từ 73,12% năm 1996 tăng lên 82,27% năm 1998.
Trong đó: tiết kiệm thuần tăng từ 41,65% (1990) lên 53,01% (1998); khấu
hao tài sản cố định giảm từ 31,47% (1996) xuống còn 29,26% (1998). Tích
lũy vốn từ nguồn vốn ngoài nước lại có xu hướng giảm dần, từ 26,88% năm
1996 giảm xuống còn 17,73% năm 1998. Thực trạng đó phản ánh đúng quan
điểm, mục tiêu, đường lối và chủ trương phát huy nội lực nhằm huy động
vốn, tích lũy vốn cho phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên,
đánh giá khách quan phải thấy rằng, đó là chỉ là kết quả bước đầu trong quá
trình tích lũy vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thực tế, quy mô tích
lũy vốn trong nước còn nhỏ bé đã hạn chế khả năng đầu tư cho phát triển kinh
tế nói chung, nông nghiệp nói riêng.
Tiết kiệm trong nước bao gồm: tiết kiệm của ngân sách nhà nước
(NSNN), tiết kiệm của doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư (hộ gia đình).
- Tiết kiệm của NSNN, là phần vốn dành để chi cho đầu tư phát triển,
lấy từ thu NSNN, không tính các khoản: Viện trợ không hoàn lại của chính
phủ các nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài; các khoản vay trong nước
và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp bội chi NSNN.
Tiết kiệm NSNN chi cho đầu tư phát triển thông qua cấp phát vốn trực
tiếp (nhà nước đầu tư trực tiếp) và cung ứng tín dụng nhà nước (nhà nước đầu
tư gián tiếp). Đầu tư gián tiếp của Nhà nước qua tín dụng là rất cần thiết trong
nền kinh tế thị trường và đó cũng là cơ sở quan trọng để hình thành các loại
vốn có nguồn gốc từ NSNN. Đối với khu vực nông thôn, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT), Ngân hàng phục vụ người
nghèo (nay là Ngân hàng chính sách xã hội - NHCSXH), Quỹ tín dụng nhân


18


dân (QTDND), ... là những tổ chức tín dụng quan trọng bậc nhất trong việc
cung ứng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này.
Quy mô tiết kiệm của NSNN, về cơ bản phụ thuộc vào sự thay đổi của
tổng thu và tổng chi thường xuyên của NSNN.
Tổng thu NSNN phụ thuộc vào quy mô và chất lượng tăng trưởng của
nền kinh tế; chính sách động viên thu nhập vào NSNN của Chính phủ (chủ
yếu thông qua hệ thống thuế, phí, lệ phí); hiệu lực và hiệu quả của việc thu nộp thuế, phí, lệ phí trên thực tế. Thu NSNN tăng sẽ đẩy mạnh tích lũy vốn,
tăng chi cho đầu tư phát triển và ngược lại.
Chi NSNN cũng là nhân tố quan trọng tác động đến việc mở rộng hay
thu hẹp qui mô tiết kiệm NSNN. Cơ cấu, nội dung và quy mô chi NSNN, về cơ
bản, phụ thuộc vào thu NSNN, đường lối phát triển kinh tế và phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử cụ thể. Song, nếu tăng chi cho đầu tư phát triển, cắt giảm hợp
lý chi tiêu thường xuyên sẽ tạo thuận lợi để tăng tiết kiệm NSNN và ngược
lại.
Ở Việt Nam, từ 1992 trở về trước, tiết kiệm NSNN còn nhỏ bé. Từ
1995 trở lại đây, thu nhập cuối cùng đã vượt tiêu dùng cuối cùng nên phần tiết
kiệm từ nội bộ NSNN tăng lên đáng kể. Tiết kiệm NSNN tăng, tạo điều kiện
để tăng chi đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, phát triển nông
nghiệp nói riêng.
Trên thực tế, vốn NSNN dành để phát triển nông nghiệp, nông thôn có
xu hướng tăng lên rõ rệt. Nếu như cả giai đoạn 1991 - 1995 chỉ huy động
được 756 tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng 45,2%, thì sang giai đoạn 1996 2000, tăng lên 35.955 tỷ đồng, chiếm 8,2% tổng dư nợ NSNN, bình quân
hàng năm tăng 36,9%. Trong đó, phần vốn NSNN huy động vào phát triển
nông nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn là 82%; lâm nghiệp 10%; ngư
nghiệp 6,2%; doanh nghiệp 1,8%. Bên cạnh đó, NSNN còn thực hiện đầu tư
vốn gián tiếp thông qua việc hỗ trợ vốn cho các tổ chức tín dụng nhà nước,


19


quỹ hỗ trợ phát triển... để các trung gian tài chính này có thêm nguồn vốn cho
nông dân vay với mức lãi suất ưu đãi. Thời kỳ 1996 - 2000, vốn tín dụng ưu đãi
của Nhà nước huy động vào phát triển nông, lâm, ngư nghiệp khoảng 3.000 tỷ
đồng, chiếm 5% tổng vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước; khoanh nợ 1.200 tỷ
đồng; xóa nợ gần 800 tỷ đồng cho nông dân ở vùng bị thiên tai, lũ lụt, dịch
bệnh v.v...1
- Tiết kiệm của doanh nghiệp, bao gồm: Tiết kiệm của DNNN và tiết
kiệm của doanh nghiệp tư nhân, là phần lãi sau thuế (lãi thuần) được doanh
nghiệp để lại dành cho đầu tư phát triển. Trên thực tế, nguồn tự tài trợ cho
hoạt động tái đầu tư, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp còn cộng với khoản
thu được từ khấu hao tài sản cố định.
Qui mô và tốc độ tăng trưởng của tiết kiệm doanh nghiệp phụ thuộc vào:
+ Quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp;
+ Chính sách của Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp, mà
trước hết là chính sách thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp);
+ Chính sách khuyến khích đầu tư;
+ Chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với DNNN,
vấn đề phân phối lợi nhuận còn chịu sự chi phối bởi chính sách phân phối lợi
nhuận của Nhà nước.
Ở Việt Nam hiện nay, trong khu vực doanh nghiệp, thu nhập cuối
cùng đã vượt tiêu dùng. Phần vốn tiết kiệm của doanh nghiệp chiếm khoảng
20% thu nhập cuối cùng1. Đây cũng là một trong những nguồn vốn góp phần
mở rộng quy mô phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa tập trung. Nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản bước đầu đã tìm đến với
. Võ Minh Điều, Đầu tư tài chính phát triển nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Tài chính, Số 4/2002, tr.
11.
1
. Trần Đào, Gia tăng tiết kiệm đầu tư để tăng trưởng kinh tế, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 10/2002, tr.
34.

1


20

nông dân, huy động và tập trung vốn phát triển ngành nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa. Phương thức đầu tư chủ yếu của doanh nghiệp là
ứng vốn cho nông dân, hỗ trợ kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư; bao tiêu nông sản phẩm để chế biến; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng phục
vụ phát triển nông nghiệp v.v... Song, qui mô tiết kiệm của khu vực doanh
nghiệp còn nhỏ bé (do hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp chưa cao) nên tác động của nguồn vốn doanh nghiệp đối với
phát triển nông nghiệp còn hạn chế.
- Tiết kiệm của dân cư, là phần thu nhập để dành, chưa tiêu dùng của
các hộ gia đình. Thu nhập của dân cư được hình thành từ kết quả lao động sản
xuất và dịch vụ của các gia đình, cá nhân người lao động; thu nhập do thừa kế
các loại thu nhập khác, như: Tiền trúng xổ số, tiền do thân nhân từ nước ngoài
gửi về... Nói cách khác, nguồn vốn của dân cư là khoản tiết kiệm, thu nhập
của họ.
Qui mô và tốc độ tăng trưởng tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu
nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Tỉ lệ tiết kiệm của dân cư có xu hướng tăng dần
khi thu nhập của các hộ gia đình tăng. Vì vậy, tiết kiệm của dân cư được coi là
biến số trực tiếp phụ thuộc vào thu nhập sau khi đã nộp thuế của dân cư.
Tâm lý và tập quán tiêu dùng của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Tâm lý ưa chuộng tiêu
dùng cao sẽ hạn chế tỉ lệ tiết kiệm và ngược lại, có ý thức tiết kiệm tiêu dùng
và tiêu dùng hợp lý sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Hiện tượng phổ
biến xảy ra ở trên thế giới là: "Với mức thu nhập như nhau thì dân nông thôn
để dành một tỷ lệ thu nhập cao hơn so với dân thành phố" 1. Bên cạnh đó, trình
độ động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế, phí, lệ phí và các đóng

góp xã hội cũng như những tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô, trực

. Malcolm Gillis, Dwight H. Perkins, Michael Roemer, Donald R.Snodgrass, Kinh tế học của sự phát triển, tập
2. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, TTTTTL, Hà Nội, 1990, tr. 40.
1


21

tiếp là chính sách tài chính - tiền tệ cũng có những tác động không nhỏ đến
việc gia tăng tiết kiệm của khu vực dân cư.
Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của dân cư là bộ phận chủ yếu
và ngày càng khẳng định được vị trí, tầm quan trọng của nó trong việc hình
thành tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của một quốc gia.
Ở Việt Nam, theo tính toán của các nhà kinh tế, khu vực hộ gia đình
và các tổ chức phi lợi nhuận, bao gồm: Cá thể, kinh tế hộ gia đình, hiệp hội,
các tổ chức xã hội khác... phần tiết kiệm đạt trên dưới 12% so với thu nhập
cuối cùng. Phần vốn tiết kiệm từ khu vực dân cư được động viên đáng kể vào
phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Trong thời kỳ 1991 - 1995 đã huy động được 50% số vốn tiết kiệm của dân
cư đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thời kỳ 1996 - 2000, đã huy
động được trên 8.000 tỷ đồng, chiếm 15% tổng đầu tư toàn xã hội từ nguồn
vốn tiết kiệm của tư nhân và dân cư đầu tư phát triển nông nghiệp, nông
thôn1, tập trung chủ yếu phát triển nông nghiệp theo mô hình trang trại, trồng
cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản v.v...
Như vậy, nguồn vốn trong nước gồm có: tiết kiệm NSNN, tiết kiệm
doanh nghiệp và tiết kiệm dân cư. Mỗi nguồn vốn trên có đặc điểm, tầm quan
trọng riêng, song, bản thân chúng là những yếu tố cấu thành tổng nguồn vốn
trong nước. Hiểu rõ cơ cấu nguồn vốn trong nước cho ta một cách nhìn tổng
thể, toàn diện cơ cấu nguồn vốn này, giúp ích cho việc khai thác, huy động,

quản lý và sử dụng nguồn vốn trong nước một cách hiệu quả.
3.2. Phương thức huy động vốn phát triển nông nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, để có đủ vốn kinh doanh, chủ đầu tư có
thể và cần phải huy động vốn thông qua thị trường tài chính.

. Võ Minh Điều, Đầu tư tài chính phát triển nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Tài chính, Số 4/2002, tr.
12.
1


22

Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền
sử dụng vốn. Hiện nay, có nhiều cách phân loại thị trường tài chính, song
nhìn chung người ta thường phân chia thị trường tài chính thành hai bộ phận:
Thị trường tài chính ngắn hạn (hay thị trường tiền tệ) và thị trường tài chính
dài hạn (hay thị trường vốn). Trong thị trường tài chính dài hạn có thị trường
vay nợ dài hạn (thông qua các trung gian tài chính) và thị trường chứng khoán.
Thông qua thị trường tài chính, các nguồn tiết kiệm được chuyển hóa thành
vốn đầu tư và phân bổ theo nguyên tắc thị trường (quan hệ cung cầu), theo hai
phương thức huy động:
- Phương thức huy động vốn gián tiếp. Đó là phương thức chuyển vốn
từ nơi có vốn và thừa vốn sang nơi thiếu vốn và cần vốn một cách gián tiếp,
thông qua các trung gian tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài
chính, các quỹ đầu tư phát triển, hiệp hội tổ chức tín dụng v.v...).
Với tư cách là cầu nối, các trung gian tài chính thực hiện gắn kết những
chủ thể cung vốn với những chủ thể cầu vốn trên thị trường tài chính. Các trung
gian tài chính tập hợp mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu mối của
mình, sau đó cho các chủ thể kinh tế (nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình...)
cần đầu tư vốn nhưng thiếu vốn vay. Nói cách khác, các trung gian tài chính

thực hiện "hút" vốn từ nơi có vốn và thừa vốn rồi "bơm" vốn vào nơi thiếu
vốn, đang cần vốn đầu tư, bôi trơn cỗ máy kinh tế, làm cho nó hoạt động trôi
chảy.
Để thực hiện luân chuyển vốn an toàn và hiệu quả, các trung gian tài
chính phải sử dụng hàng loạt công cụ của thị trường tài chính ngắn hạn. Đó là,
công cụ chiết khấu và công cụ mang lãi suất (chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, các
hợp đồng mua lại, tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngắn hạn và tín phiếu ngân hàng
v.v...). Trong nền kinh tế thị trường, các công cụ của chính sách tài chính trên thị
trường tài chính, nhất là công cụ mang lãi suất thường được sử dụng linh hoạt,


23

mềm dẻo và nhạy cảm đối với mọi biến động của nền kinh tế trong nước và quốc
tế.
Ở Việt Nam, trong những năm đổi mới đã từng bước đa dạng hóa các
tổ chức trung gian tài chính. Qua đó, các tổ chức này đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu vốn đầu tư phát triển. Việc sử dụng các công cụ của thị trường
tài chính ngắn hạn nhìn chung là có hiệu quả, tác động tích cực đến tiến trình
đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, việc huy
động vốn qua các trung gian tài chính vẫn còn hạn chế, đặc biệt, huy động
vốn qua các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các công ty tài chính... dường
như vẫn còn là rất mới mẻ đối với một nền kinh tế đang chuyển đổi ở nước ta.
Vì thế, nhìn tổng thể, hoạt động huy động vốn qua kênh gián tiếp chủ yếu
thông qua hệ thống ngân hàng, QTDND. Đối với khu vực nông nghiệp, nông
thôn, huy động vốn đầu tư phát triển tập trung ở các tổ chức tín dụng:
NHNo&PTNT, NHCSXH, QTDND...
- Phương thức huy động vốn trực tiếp. Đó là phương thức chuyển vốn
từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn một cách trực tiếp trên thị trường chứng
khoán. Các nhà sản xuất có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để huy động

vốn phục vụ mục tiêu sản xuất - kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Ngược lại, các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phiếu, trái phiếu của công
ty, trái phiếu của chính phủ hoặc tiến hành rút vốn thông qua việc bán lại cổ
phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Như vậy, với phương thức huy
động vốn trực tiếp, các nhà sản xuất có thể huy động vốn thông qua:
+ Phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty trên thị trường chứng khoán.
Trên thế giới, huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái
phiếu công ty là rất phổ biến đối với các nhà sản xuất nhằm tăng vốn, mở
rộng qui mô sản xuất - kinh doanh, đổi mới thiết bị - công nghệ...


24

Ở nước ta, phương thức huy động vốn qua phát hành cổ phiếu và trái
phiếu công ty còn khá mới mẻ. Sau gần 10 năm chuẩn bị, ngày 20/7/2000
Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam được thành lập, đặt trụ
sở tại thành phố Hồ Chí Minh. Đó là bước ngoặt trong công tác huy động vốn
để phát triển nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, qua
gần 4 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang dừng
lại ở giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm nên hoạt động huy động vốn trên thị
trường này vẫn tiềm ẩn những nhân tố khó khăn.
+ Phát hành trái phiếu Chính phủ.
Ở nước ta, trái phiếu của Chính phủ được phát hành dưới các dạng:
Tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu kho bạc nhà nước và trái phiếu công
trình. Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể: "Chính phủ chủ
trương phát hành trái phiếu để thực hiện chức năng đi vay (thực hiện tín dụng
nhà nước) của Chính phủ nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ
chức kinh tế... tạo vốn bù đắp thiếu hụt ngân sách, tăng cường đầu tư phát
triển. Chính phủ cần phải huy động vốn, qua phát hành trái phiếu chính phủ
và giao cho Bộ Tài chính phát hành" 1.

Trong nền kinh tế thị trường, luôn luôn tồn tại song hành hai phương
thức huy động vốn gián tiếp và trực tiếp. Hai phương thức huy động vốn đó
luôn hỗ trợ, bổ sung, tác động lẫn nhau nhằm thu hút tối đa và phân bổ có
hiệu quả các nguồn vốn theo tiêu chuẩn thị trường, đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế, đồng thời, tạo ra những công cụ hữu hiệu quản lý hiệu quả các nguồn
vốn. Ở nước ta, hai phương thức huy vốn động gián tiếp và trực tiếp đã được
sử dụng trên thực tế trong công tác huy động vốn, song, phương thức huy
động vốn gián tiếp là phổ biến, giữ vai trò trọng tâm. Phương thức huy động
vốn trực tiếp còn mới mẻ nhưng theo đà phát triển của nền kinh tế thị trường,
. Chính phủ, Nghị định số 72/CP, Quy chế phát hành trái phiếu của Chính phủ, ngày 26/7/1994, tr. 3.

1


25

có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong
tương lai phương thức huy động vốn trực tiếp sẽ trở thành một kênh huy động
vốn quan trọng và có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về vốn đầu tư,
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
4. Vai trò của vốn đối với phát triển nông nghiệp
Các nhà kinh tế học từ cổ đại đến hiện đại đều khẳng định: vốn là
nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khi nghiên cứu địa tô tư bản chủ nghĩa, C.Mác chỉ rõ vai trò của tư
bản (vốn) trong quá trình phát triển nông nghiệp. Người viết: "... do những
quy luật tự nhiên chi phối trong nông nghiệp, nên khi việc canh tác đã đạt đến
trình độ nhất định và khi đất đai bị kiệt màu đi một cách tương ứng thì tư
bản... sẽ trở thành một yếu tố quyết định"2.
C.Mác còn khẳng định, địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II đều
là lợi nhuận siêu ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những

tư bản như nhau. Nếu địa tô chênh lệch I tương ứng với phương thức quảng
canh, khai hoang, mở rộng diện tích và không cần nhiều vốn đầu tư, rất phù
hợp với thời kỳ đầu phát triển một nền nông nghiệp bậc thấp thì địa tô chênh
lệch II tương ứng với phương thức đầu tư thâm canh, đòi hỏi phải có lượng
vốn đầu tư lớn. C.Mác khẳng định: "Về mặt kinh tế, chúng ta hiểu, thâm canh
không phải là cái gì khác hơn là sự tập trung tư bản trên cùng một thửa đất,
chứ không phải phân tán trên nhiều thửa đất song song với nhau"1.
Như vậy, theo C.Mác, cùng với đất đai và lao động, vốn trở thành
nhân tố nội sinh, thúc đẩy thâm canh tăng năng suất cây trồng, thúc đẩy việc
sử dụng đất đai ngày càng hiệu quả. Thâm canh là một yêu cầu cơ bản, một xu
hướng tất yếu đối với mọi nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, không phân
biệt chế độ chính trị - xã hội.

. C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 333.
. C.Mác và Ăngghen, Sđd, tr.331.

2
1


×