Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Vai trò của chính quyền đối với việc phát triển nguồn nhân lực người raglai ở tỉnh ninh thuận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.25 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ NAM LỮ

VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGƯỜI RAGLAI Ở
TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ VĂN VIÊN

HÀ NỘI - 2016
MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
Chương 1..............................................................................................................................12


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC, TẦM
QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGƯỜI RAGLAI Ở
TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY......................................................................................12

1.1. Nguồn nhân lực và thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay...............................................................................................................................12
1.2. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực người Raglai ở tỉnh ninh
thuận hiện nay.............................................................................................................33
Chương 2..............................................................................................................................46


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGƯỜI RAGLAI Ở
TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY......................................................................................46

2.1. Khái quát về vai trò của chính quyền trong phát triển nguồn nhân lực đồng bào
Raglai ở ninh thuận.....................................................................................................46
2.2. Thực trạng vai trò của chính quyền đối với sự phát triển nguồn nhân lực người
Raglai ở tỉnh ninh thuận hiện nay..............................................................................52
Bảng 2.1: Bảng thống kê cán bộ công chức là người dân tộc Raglai..................................57
Bảng 2.2: Thống kê số liệu cán bộ, công chức viên chức là người dân tộc Raglai hiện công
tác trong ngành giáo dục......................................................................................................57
Bảng 2.3: Thống kê số liệu học sinh, sinh viên là người dân tộc Raglai.............................58

2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của chính quyền trong phát
triển nguồn nhân lực người Raglai ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay...............................67
KẾT LUẬN..........................................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, để phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước,
nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố chủ đạo quyết định các
nguồn lực khác. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở
thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm
lo đầy đủ đến con người, đến sự phát triển toàn diện của con người là chăm lo cho
phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, là yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho
sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước. Cũng chính vì vậy, phát triển nguồn nhân
lực luôn chiếm vị trí trung tâm và là đối tượng nghiên cứu quan trọng của các ngành
khoa học xã hội.

Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong thời kỳ mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã quan tâm sâu sắc đến việc phát triển nguồn nhân lực. Trải
qua các kỳ đại hội khác nhau, vấn đề con người, phát huy nhân tố con người, phát
triển nguồn nhân lực luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta. Đại hội IX (2001)
Đảng ta đã nêu rõ: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố
quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đến
Đại hội XI (2011) Đảng ta tiếp tục xác định một trong ba khâu đột phá để thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 là “phát triển nhanh
nguồn nhân lực cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học công nghệ”.
Ninh Thuận là một tỉnh ven biển duyên hải Nam trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh
Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía
Đông giáp Biển Đông. Tỉnh được tái lập tỉnh từ ngày 01/4/1992 từ tỉnh Thuận Hải,
là một vùng đất có rất nhiều tiềm năng về du lịch, thủy hải sản, nông nghiệp. Tuy
nhiên, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa khai thác có hiệu quả các lợi thế mà thiên
nhiên mang lại này, một trong những lý do là nguồn nhân lực vẫn còn nhiều hạn
chế. Hiện nay, Ninh Thuận có 34 dân tộc ít người cùng sinh sống với tổng số
3


33.538 hộ/150.768 khẩu, chiếm 22,79% dân số toàn tỉnh. Trong đó, dân tộc Raglai
là dân tộc chiếm số lượng đông thứ ba (sau dân tộc Kinh chiếm 76,5%, dân tộc
Chăm chiếm 11,9%, dân tộc Raglai chiếm 9,95%, còn lại là các dân tộc khác) trên
địa bàn tỉnh. Đồng bào dân tộc Raglai tập trung sinh sống chủ yếu ở các xã miền núi
còn nhiều khó khăn, một số ít ở huyện Ninh Hải, huyện Ninh Phước, huyện Thuận
Nam, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm,... Chính điều này, việc khai thác những
tiềm năng, thế mạnh của Ninh Thuận để đưa đồng bào các dân tộc nói chung và
đồng bào dân tộc Raglai nói riêng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, từng bước xây
dựng đời sống văn minh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần góp phần cùng cả

nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ vô cùng khó khăn đặt ra trước Đảng và
nhân dân, mà trực tiếp là Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Ninh Thuận nói
chung và dân tộc Raglai nói riêng. Song, để làm được điều này, vấn đề phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh, trong đó có phát triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Và việc phát triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai như
thế nào để đáp ứng những yêu cầu của khoa học kỹ thuật hiện đại, đủ về số lượng,
chất lượng và cơ cấu, đa dạng hóa ngành nghề đang là đòi hỏi cấp bách mà thực tiễn
đạt ra. Trên thực tế, nguồn nhân lực đồng bào Raglai ở nước ta hiện nay cũng như
nguồn nhân lực đồng bào Raglai tỉnh Ninh Thuận vẫn còn yếu và thiếu về chất
lượng, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ còn hạn chế. Mặt khác,
chúng ta chưa tìm ra được giải pháp cơ bản nhằm tháo gỡ khó khăn về phát triển
nguồn nhân lực đồng bào Raglai một cách hiệu quả.
Trước những nhận thức như trên và tình hình thực tế địa phương, tác giả
mạnh dạn chọn đề tài: “Vai trò của chính quyền đối với việc phát triển nguồn
nhân lực người Raglai ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển nguồn nhân
lực đồng bào các dân tộc cùng sinh sống trong tỉnh nói chung và đồng bào Raglai
nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
4


Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn
hóa của các quốc gia. Đến nay đã có không ít tài liệu trong và ngoài nước nghiên
cứu về vấn đề này ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin đề
cập đến các tài liệu có liên quan đến đề tài luận văn:
- Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về nguồn nhân lực:
+ Thành Duy "Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tác giả đã

phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và việc xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, vận dụng tư tưởng đó vào Việt Nam.
+ Công trình KHCN cấp nhà nước KX - 07, “Con người Việt Nam - Mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, năm 1995.
+ Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, (2), tr.29-35.
+ Hoàng Chí Bảo (1998), “Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu về con
người”, Tạp chí Triết học, (4), tr.19 – 26.
+ Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (1), tr.20 – 24.
+ Phạm Ngọc Anh (1995), “Nguồn lực con người, nhân tố quyết định của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận.
+ Nguyễn Như Diệm (1989), “Tổng thuật: Nhân tố con người và tính tích
cực hòa nhân tố con người. Khái niệm và vấn đề”, Thông tin khoa học - xã hội,
tháng 1.
+ Lê Khả Phiêu (1998), “Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp
tục thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam”,
Tạp chí Phát triển giáo dục.
+ Viện thông tin khoa học xã hội (1995), Con người và nguồn lực con người
trong phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề phát triển con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5


+ Nguyễn Đình Hòa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tạp chí Triết học, (1).
+ Đoàn Văn Khái (1995), “ Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”, tạp chí Triết học, (4).
+ Nguyễn Thế Kiệt (2008) "Xây dựng và phát triển con người, nâng cao

chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay" Tạp chí Triết học số 6.
+ Đặng Xuân Kỳ ( 2002), "Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản
chất con người" - Tạp chí Triết học số 10.
+ Bùi Thị Ngọc Lan (2011), “Nguồn nhân lực chất lượng cao Việt Nam - xu
hướng và giải pháp phát triển”, tạp chí Lý luận chính trị, số 11.
+ Nguyễn Văn Thanh, Lê Trọng Tuyến (2011), “Quan điểm của Đảng về
con người và phát huy nhân tố con người trong Nghị quyết đại hội XI”, tạp chí Triết
học, số 7.
+ Hà Đức Long (2012), “Quan điểm của Đảng về con người trong văn kiện
đại hội XI”, tạp chí Triết học, số 2.
+ Lê Thị Hương (2012), “Sự phát triển con người trong Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số
11.
+ Đặng Hữu Toàn (2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - một
“đột phá chiến lược” trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020, Tạp chí Triết học, số 8.
+ Luận án Tiến sĩ Triết học “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo
dục – đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Thanh (2001), tác giả khẳng định vai trò của nguồn
nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò của giáo dục – đào tạo
đối với phát triển nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam.
+ Luận án Tiến sĩ Triết học “ Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), luận án đề
6


cập đến vai trò quan trọng của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao trong giai đoạn
hiện nay.
+ Luận văn Thạc sĩ triết học Tạ Văn Tú (2008), Phát huy nguồn nhân lực trí
thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng Ninh hiện nay. Luận

văn đề cập và làm rõ thực trạng nguồn nhân lực trí thức và việc phát huy nguồn
nhân lực trí thức ở Quảng Ninh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay.
+ Luận văn thạc sĩ Triết học "Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay" của Phùng Danh Cường (2009) tác giả khẳng định bản chất cách
mạng và khoa học trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, đề xuất một số giải
pháp có khả năng thực hiện nhằm phát triển con người Việt Nam hiện đại đáp ứng
những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước.
+ Luận văn thạc sĩ triết học Đỗ Tài (2007) “Phát huy nguồn lực con người
trong giáo dục phổ thông tỉnh Bắc Kạn hiện nay” tác giả làm rõ vấn đề phát huy
nguồn lực con người trong giáo dục phổ thông, bao gồm có rất nhiều đối tượng
khác nhau. Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực này.
- Một số công trình nghiên cứu liên quan tới đồng bào Raglai:
+ Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Nam) do Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội ấn hành vào năm 1984. Trong đó, có giới thiệu về tộc người
Raglai từ trang 266-276. Nội dung mà tác phẩm đề cập là những lược khảo về
người Raglai như địa bàn phân bố, hoạt động kinh tế, tổ chức gia đình, cấu trúc xã
hội, nghi lễ và phong tục tập quán.
+ Nguyễn Tuấn Triết với công trình khảo cứu Người Raglai ở Việt Nam do
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành vào năm 1991. Nội dung chính của tác
phẩm gồm có 151 trang chia làm 3 chương. Tác giả đã làm nổi bật lên đặc điểm môi
trường sinh sống và sự hình thành nên khu vực cư trú đặc trưng của người Raglai
+ Văn hoá và xã hội người Raglai ở Việt Nam của tập thể tác giả Phan Xuân
Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện và Nguyễn Văn Huệ thực hiện do
7


Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành vào năm 1998. Nội dung chính của công
trình gồm có 346 trang, được chia ra làm 6 chương. Trên cơ sở tổng hợp những

thành quả nghiên cứu về người Raglai trong nước và trên thế giới kết hợp với nguồn
tài liệu điều tra, nghiên cứu điền dã, các tác giả hệ thống hoá và làm rõ lịch sử phát
triển tộc người Raglai, các loại hình kinh tế, đời sống văn hoá vật chất và tinh thần
cùng với cấu trúc xã hội truyền thống của người Raglai.
+ Phan Quốc Anh với công trình Văn hoá Raglai những gì còn lại do Nhà
xuất bản Văn hoá Dân tộc phát hành vào 2007. Nội dung chính của tác phẩm gồm
có 2 phần (Văn hoá truyền thống và Văn hoá đương đại) chia làm 12 chương. Trong
phần Văn hoá truyền thống, tác giả đã trình bày, giới thiếu khái quát về quá trình
phát triển tộc người Raglai, văn hoá làng, tộc họ và gia đình, lễ hội, văn học dân
gian, âm nhạc, trò chơi dân gian, ẩm thực, trang phục, nhà ở, nhà mồ và nghề thủ
công truyền thống. Trong phần Văn hoá đương đại, tác giả trình bày về giáo dục
của người Raglai từ bậc tiểu học đến đại học và công tác xây dựng đời sống văn hoá
cơ sở cùng kết quả của nó.
+ Văn hoá Raglai của tập thể tác giả Phan Quốc Anh, Nguyễn Hải Liên,
Đình Hy, Sử Văn Ngọc, Thập Liên Trưởng, Văn Món, Lê Xuân Lợi, Nguyễn Tuấn
Triết, Phú Văn Hẳn do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội phát hành vào năm 2010,
gồm có 341 trang được chia thành 10 chuyên đề tương đương với 10 chương. Để
hoàn thành công trình nghiên cứu của mình, tác giả. Với một lực lượng nghiên cứu
có nhiều uy tín, công trình “Văn hoá Raglai” đã khái quát được lịch sử hình thành
và phát triển tộc người Raglai ở tỉnh Ninh Thuận. Đặc biệt, công trình đã đề cập
chuyên sâu vào văn hoá làng, tộc họ, gia đình, lễ nghi, văn học, âm nhạc, ẩm thực,
trang phục, tang ma và nghề thủ công truyền thống
Phần lớn các công trình nghiên cứu nêu trên đã phân tích đến vấn đề phát
huy, phát triển nhân tố con người, nguồn nhân lực dưới nhiều góc độ khác nhau.
Hay những luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ có liên quan đến đồng bào dân tộc
Raglai như tìm hiều về văn hóa, phong tục, tập quan, lễ hội, ảnh hưởng của tín
ngưỡng, luật tục, giáo dục pháp luật… của đồng bào Raglai. Nhưng cho đến nay
8



vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học. Vì
vậy, việc chọn nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai ở
nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Ninh Thuận) vẫn rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc đối với tỉnh Ninh Thuận trong việc phát triển nguồn nhân lực
đồng bào Raglai đối với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh nhà trong những năm tiếp theo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng phát triển nguồn
nhân lực đồng bào Raglai ở tỉnh Ninh Thuận, tác giả đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển hơn nữa nguồn nhân lực này.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn tập trung làm sáng tỏ một số nội
dung chủ yếu sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực đồng bào
Raglai ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai ở tỉnh Ninh
Thuận hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực đồng bào
Raglai ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát
triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai tỉnh Ninh Thuận và đưa ra những giải pháp
cơ bản để phát triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Điều tra khảo sát tình hình thực tế nguồn nhân lực đồng bào Raglai ở tỉnh
Ninh Thuận, nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực đồng bào Raglay thông qua các

9



số liệu hiện có trong báo cáo tổng kết và số liệu thống kê của các tổ chức chính
quyền giai đoạn từ năm 2011 đến 2015.
Về không gian, phân bố của đồng bào Raglai rải rác trên các huyện, thành
trong tỉnh. Song, đồng bào Raglai sống chủ yếu tập trung ở huyện Bác Ái và huyện
Thuận Bắc là đông nhất. Với điều kiện và quy mô có hạn, luận văn tập trung nghiên
cứu nguồn lực đồng bào Raglai ở hai huyện này là chủ yếu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Là công trình nghiên cứu triết học, luận văn dựa trên nền tảng thế giới quan,
phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về phát triển nguồn nhân lực.
Luận văn vận dụng quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề con người, về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phương pháp khác như: phương pháp điều
tra xã hội học (khảo sát thực tế) để xử lý các số liệu, trao đổi, phỏng vấn, phân tích tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, lịch sử logic.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn những quan điểm lý luận về nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng ta trong quá trình hội nhập quốc tế.
* Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng phát triển nguồn nhân lực đồng bào
Raglai ở tỉnh Ninh Thuận, đồng thời đề xuất những giải pháp có tính gợi mở nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng, có chính sách đãi ngộ phù hợp nguồn nhân lực
đồng bào Raglai. Các kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho


10


những ai quan tâm nghiên cứu và giảng daỵ về con người, nguồn nhân lực nói
chung, phát triển nguồn nhân lực đồng bào Raglai nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 02 chương, cụ thể là:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực, tầm
quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực cho đồng bào Raglai ở tỉnh Ninh
Thuận hiện nay.
-

Chương 2: Vai trò của chính quyền đối với phát triển nguồn nhân lực

đồng bào Raglai ở tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn hiện nay.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC NGƯỜI RAGLAI Ở TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY
1.1. Nguồn nhân lực và thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta hiện nay
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và những đặc trưng cơ bản của
nguồn nhân lực
1.1.1.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về "nguồn nhân lực" nhưng chủ

yếu được các nhà khoa học nghiên cứu tiếp cận trên các góc độ sau:
Lý luận về lực lượng sản xuất (LLSX), con người được coi là LLSX hàng
đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của LLSX,
quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã
hội. Trong lý luận về LLSX, con người được xem xét từ góc độ là lực lao động cơ
bản của xã hội.
Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn nhận như một phương
tiện chủ yếu, bảo đảm tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ.
Lý luận về vốn, con người được đề cập dưới góc độ như một loại vốn (vốn
người, "tư bản người"), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất và kinh
doanh. Dưới cách tiếp cận lý luận về vốn, Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng,
nguồn lực con người được hiểu là toàn bộ vốn người (bao gồm thể lực, trí tuệ, kỹ
năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu.
Theo đó Tổ chức Liên Hiệp quốc cũng có cách tiếp cận và nhìn nhận tương
tự khi cho rằng nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực
của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Quan niệm này xem xét
nguồn lực con người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển của xã hội.
Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại
vốn vật chất khác như: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. . .
12


Theo Tổ chức Lao động quốc tế thì nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao
động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó,
nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa
hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội là nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng
tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức càn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào

quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động
vào quá trình lao động.
Tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu rằng: nguồn nhân là
tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội một quốc
gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân
tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ
cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - công nghệ
cấp nhà nước: Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế
- xã hội mang mã số KX - 07 do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Phạm Minh Hạc làm chủ
nhiệm, cho rằng nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng con người,
bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất [25,
tr.328].
Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ các
tỉnh, thành phố phía Bắc, khi đề cập đến vấn đề tăng cường sự hợp tác giữa các
doanh nghiệp với các nhà khoa học - công nghệ và các cơ quan chính phủ để nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong lời phát biểu của mình, Thủ
tướng Phan Văn Khác cũng khẳng định: "Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao
động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của tộc ta". Điều khẳng định trên có
ý nghĩa rất quan trọng, định hướng trong nhận thức và phát triển tiềm năng nguồn
nhân lực [38, tr.3].
13


Bộ Lao động và Thương binh xã hội nước ta cũng xác định: "Nguồn nhân
lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định trên một địa phương, một
ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã
hội [11, tr.3].
Theo P.GS Trần Xuân Cầu "Nhân lực là sức lực con người nằm trong mỗi
con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng được phát triển

với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ
điều kiện tham gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động" [13, tr.12].
Hay như GS.TS Hoàng Chí Bảo định nghĩa: "Nguồn lực con người là sự kết
hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả động và
triển vọng mới phát triển của con người [7, tr.14 - 15 ].
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, nguồn lực con người được cập
đến như một "nguồn vốn" tổng hợp với hệ thống các yếu tố hợp thành đó là sức
lực và trí tuệ, khối lượng cùng các đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ
văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ và phong cách làm việc. . . Ở
đây, nhân tố con người được xem xét với một tư cách là yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất, một nguồn lực chủ yếu để phát triển kế - xã hội.
Quan niệm về "nguồn nhân lực" trong tư tưởng phát triển con người của tư
tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc đào tạo những người con ưu tú,
làm thay đổi căn bản vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Theo Người, con
người toàn diện phải được tự do, được hạnh phúc, con người phải được giải phóng,
được giáo dục - đào tạo và được sống trong xã hội hòa bình ổn định. Để phát triển
con người toàn diện, ắt phải tiến tới chủ nghĩa xã hội. Theo Người: "Nói một cách
tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được
sống một đời hạnh phúc" [34, tr.415] và: Con người vừa là mục tiêu, đồng thời vừa
là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con
người.

14


Do đó, nguồn lực con người được coi là một thứ tài nguyên vô cùng quý
giá, là một nguồn lực quan trọng nhất, là "nguồn lực của mọi nguồn lực". Nghị
quyết Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII có viết:
Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt

đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn
hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành
thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi
một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ
hiện đại [21, tr.9].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta coi phát triển nguồn nhân lực
là một trong ba khâu đột phá chiến lược: "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ" [23, tr.106].
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm
khác nhau, cách tiếp cận khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này
đều thống nhất ở những nội dung cơ bản như sau: nguồn nhân lực là nguồn cung
cấp sức lao động cho xã hội.
Theo chúng tôi, con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển
thì không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là
sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải
tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Do đó, dưới góc độ triết học, trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của các
quan điểm nêu trên, chúng tôi đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực như sau:
Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hòa các
tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng
15


lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào trình lao động
sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.

Như vậy, khi nói đến nguồn lực con người và vai trò của nó là phải xem xét
con người với tư cách là chủ thể, vừa với tư cách là khách thể của các quá trình
kinh tế - xã hội. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác hiện
có, đồng thời qua đó góp phần tạo ra các nguồn lực mới, để duy trì sự tồn tại và
phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác cả về
thể lực và trí lực cho mục tiêu phát triển xã hội. Dĩ nhiên, hai tư cách này tồn tại
không tách rời nhau, vì lẽ khi khai thác các nguồn lực khác con người tất yếu phải
sử dụng trí lực và thể lực của mình, chính con người với sức lực và trí tuệ của
mình quyết định mục tiêu, cách thức, nội dung và hiệu quả khai thác các nguồn lực
khác. Ngược lại, quá trình khai thác trí lực và thể lực ở con người đều có quan hệ
với các nguồn lực khác ở các mức độ khác nhau. Do vậy, nguồn lực con người giữ
vị trí trung tâm không chỉ trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội mà
còn của chính sự phát triển xã hội.
1.1.1.2. Đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực
Với khái niệm về nguồn nhân lực như trên thì có thể thấy rõ những đặc trưng
cơ bản của nguồn nhân lực như sau:
Thứ nhất, đặc trưng về mặt sinh học
Triết học Mác - Lênin đã khẳng định rằng: lao động là hoạt động bản chất
của con người. Đó chính là quá trình con người chế tạo ra công cụ lao và dùng nó
để tác động vào giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm để phục vụ cho cuộc sống, đồng thời
qua đó làm biến đổi giới tự nhiên sáng tạo ra thế giới của mình. Con người không
chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống môi trường xã hội, nên tự nhiên và
xã hội trong mỗi con người có sự gắn bó khăng khít với nhau. Yếu tố sinh học trong
mỗi con người không chỉ tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng còn hòa quyện
vào nhau và tồn tại trong yếu tố xã hội. Bản chất tự nhiên của con người được
chuyển vào bản tính xã hội của con người và được cải biến đi ở trong đó.

16



Con người là một tổng thể tồn tại bao gồm cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
Con người chính là "động vật xã hội", động vật biết chế tạo và sử dụng công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên làm biến đổi giới tự nhiên phục cho cuộc sống của
bản thân mình, một động vật tự nhận thức được mình và thế giới xung quanh và tự
cải tạo chính bản thân mình. Con người vừa là chủ thể của nhận thức, vừa là khách
thể của nhận thức. Con người là "con người hiện thực", con người hiện hữu trong
thế giới khách quan này, theo các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác, được thể hiện
thông qua hoạt động thực tiễn hết sức phong phú và đa dạng của nó. Bằng những
hoạt động thực tiễn, con đã hình thành nên những phẩm chất đặc thù của nó, mà
những phẩm này không một loài động vật nào có được đó là - phẩm chất xã hội. Từ
đó, các ông cho rằng bản chất đặc thù của con người không phải là ở thân xác trừu
tượng, máu thịt của nó hay ở yếu tố sinh vật (mặt sinh học) mà chính là ở phẩm chất
xã hội (mặt xã hội).
Ph. Ăngghen đã viết: Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người và như thế đến mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói:
Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người. Với quan niệm này, trong: “Vai trò của
lao động trong quá trình vượn biến thành người". Con người tồn tại gắn liền với lao
động, bởi nhờ có lao động mà con người thỏa mãn những nhu cầu của cuộc sống.
Vì thế, lao động không chỉ trở thành thuộc tính chung của con người, lao động còn
được xã hội hóa [46, tr.641].
Đó là những nhu cầu khách quan, thiết yếu để duy trì cuộc sống như ăn, ở, đi
lại… Mác lần đầu tiên "đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người,
nghĩa là tìm ra cái sự thật giản đơn… là: trước hết con người phải ăn, uống, ở và
mặc, trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,
.v.v.." [44, tr.198].
Vậy, để thỏa mãn được những nhu cầu này thì con người cần phải hành
động thông qua lao động. Tuy vậy, những hành động trong cuộc sống của con
không phải chỉ là những hoạt động mang tính bản năng, sinh vật đơn thuần như
sinh đẻ con cái - đây là một hoạt động bản năng để duy trì nòi giống, mà ngay ở đó
17



con người cũng biết điều tiết sao cho sự sinh sản, duy trì nòi giống này phù hợp với
điều kiện sản xuất và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Trong công trình hợp tác:
"Con người - những ý kiến về một đề tài cũ”, của tác giả Liên Xô và Cộng hòa dân
chủ Đức đều cho rằng thông qua bản tính xã hội, bản tính tự nhiên của con người
được biến đổi về chất và thường gắn liền với quá trình biến đổi của con người về tự
nhiên. Các Mác đã chỉ rõ, cho dù tồn tại với hình thức nào đi chăng nữa, thì nó vẫn
cứ là sản phẩm của động qua lại giữa con người với con người.
Thứ hai, đặc trưng về mặt số lượng
Đặc trưng về mặt số lượng được xác định dựa trên quy mô, cơ cấu tuổi, giới
tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân cư.
Ở nước ta, theo ghi nhận tại điểm 1 điều 3 Luật lao động (Luật lao động số
10/2012/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/3/2013) thì số lượng nguồn nhân lực được
xác định là bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động được tính từ đủ 15 tuổi.
Trong khi đó tuổi nghỉ hưu được xác định như sau:
Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo
quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi nam 60 tuổi,
nữ đủ 55 tuổi.
Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao động làm
công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn
nhưng không quá 05 năm so với quy định tại khoản 1.
Như vậy, độ tuổi lao động là 15 - 60 tuổi đối với nam và 15 - 55 tuổi đối nữ.
Trường hợp người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt
khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 năm.
Những quy định trên cũng là một biện pháp đảm bảo quyền bình đẳng và
phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói
chung. Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng nguồn nhân lực. Chính
vì điều này, quan điểm chỉ đạo chung của Đảng về xây dựng con người được khẳng
định trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI là "chăm lo xây dựng con người Việt Nam

giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe,
18


lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính" [23,
tr.76 - 77]. Đây là vấn đề trọng tâm của sự phát triển đất nước và cũng là chiến
lược lâu dài xây dựng con người mới ở Việt Nam. Là tạo ra được những con người
vừa có đức, vừa có tài (tức phẩm và năng lực) dựa trên các chuẩn mực phổ biến là
dân tộc - quốc tế, truyền thống - hiện đại, cá nhân - cộng đồng. Đó là con người có
tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành vô hạn với Tổ Quốc, nhân
dân với Đảng; có đạo đức trong sáng, lành mạnh; có lòng nhân ái bao dung, hiếu
thảo, khiêm tốn, trung thực giản dị; đoàn kết cộng đồng, dễ thích nghi; dũng cảm,
mưu trí, sáng tạo, yêu lao động, có ý thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi; cầu tiến bộ,
có năng lực chuyên môn tốt; có tri thức hiện đại; có đời sống văn hóa - tư tưởng
lành mạnh, phong phú ...
Thứ ba, đặc trưng về mặt chất lượng
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện ở chỗ là nguồn nhân lực có
chuyên môn cao, kỹ năng lao động giỏi, có phẩm chất tốt đủ sức đáp ứng một cách
tối ưu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình sản xuất, tạo ra năng suất, chất lượng và
hiệu quả cao nhằm đạt tới sự phát triển nhanh và bền vững. Tại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI Đảng ta đã nhấn mạnh: "Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao" [23, tr.106]
Do đó, chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh
bản chất, tính đặc thù có liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất vật chất và phát
triển của con người. Bao gồm: trạng thái thể lực, trí lực, năng lực, phẩm chất, phong
cách, đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, cơ cấu nghề
nghiệp, thành phần xã hội… trong đó, trí lực (là toàn bộ năng lực của trí tuệ, tinh
thần) quyết định phần lớn khả năng lao động sáng tạo của con người. Trí tuệ được
xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con người bởi “tất cả những gì
con người hành động tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ” [49, tr.409] vì nó

không chỉ là cơ sở để quyết định những kỹ năng nghề nghiệp, tiếp thu có hiệu quả
những ứng dụng công nghệ tiên tiến mà còn là cơ sở để hình thành nên nhân cách,
phẩm chất và lối sống của mỗi con người.
19


Không những thế, chất lượng nguồn nhân lực còn liên quan đến rất nhiều
lĩnh vực khác nhau như: vấn đề đảm bảo chất dinh dưỡng, chăm sóc khỏe cho cộng
đồng, quan tâm tới giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng, lao động và tạo cơ hội có việc
làm cho lực lượng lao động gắn với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trả công
lao động, cách đối xử với người lao động và các mối quan hệ xã hội khác. Chất
lượng nguồn nhân lực ngày càng phát triển cao cả về yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội thì sẽ có tác động rất mạnh mẽ tới tăng năng suất lao động mà trên hết đó chính
là sự đón nhận vững vàng những tiến bộ vượt bậc của kỹ thuật, khoa học và công
nghệ, những thiết bị tiên tiến, cơ sở vật chất trong và ngoài nước để hòa nhập với
nhịp độ phát triển như vũ bão của nhân loại cả về kinh tế - xã hội lẫn văn hóa - giáo
dục, y tế.
Vì vậy, để thực hiện thành công CNH, HĐH cũng như những các văn kiện,
nghị quyết của Đảng đã ban hành về chiến lược xây dựng, phát triển đất nước đến
năm 2020 thì hơn lúc nào hết chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao năng lực trí
tuệ, vốn văn hóa, kỹ năng và trình độ chuyên môn nghề nghiệp cho người lao động,
đồng thời phải quan tâm đặc biệt đến đội ngũ lao động chất xám, khai thác tốt nhất
tiềm năng và sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc và thời đại.
1.1.2. Thực chất và nội dung của việc phát triển nguồn nhân lực ở nước
ta hiện nay
1.1.2.1. Thực chất phát triển nguồn nhân lực
Với bất cứ một quốc gia nào thì vấn đề con người và nguồn nhân lực luôn
giữ vị trí quan trọng. Đây là nhân tố có tính chất quyết định đến sự thành công hay
thất bại trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực có bước phát triển qua

từng kỳ đại hội và ngày càng trở nên hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn. Trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ năm 1991, Đảng ta đã chỉ rõ con người
chính là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự
hưng thịnh của đất nước. Kể từ đó, Đại hội VIII, IX, X, XI Đảng ta tiếp tục đưa ra

20


chiến lược phát triển con người và khẳng định sự cần thiết phải phát triển nguồn
nhân lực, đáp ứng những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước.
Trong thời đại ngày nay, con người và sự phát triển toàn diện của con người
đã được coi là một "tài nguyên đặc biệt", một nguồn nội lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành
vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các lực. Chăm lo đầy đủ đến
con người, đến sự phát triển toàn diện của con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn
nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Do đó, đầu tư cho con người
là đầu tư có tính chiến lược, là đầu tư có hiệu quả nhất để khai thác và sử dụng nội
lực cho phát triển, đây chính là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã
hội không chỉ ngày một nhanh mà còn bền vững, hiệu quả.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có cách
hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên
Hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm
năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hiệp quốc (UNIDO): phát triển con
người một cách hệ thống vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng của sự phát của một
quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội . Như nâng cao
khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức
năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên cứu và hoạt động thực tiễn.
Tổ Chức Lương thực Và Nông nghiệp Liên Hiệp quốc (FAO): Sự phát

nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng các khả năng tham gia hiệu quả vào
phát triển nông thôn, bao gồm cả tăng năng lực sản xuất.
Quan niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân lực
bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ không có sự chiếm lĩnh ngành nghề hoặc
ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức rằng, con
người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới có được việc làm hiệu quả,
cũng như những thỏa mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề
21


được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc,
nhằm đáp ứng kỳ vọng của con người.
Theo GS. Phạm Minh Hạc, phải qua ba khái niệm: cá thể, cá nhân và nhân
cách để định nghĩa con người: con người với tư cách là tột đỉnh tiến hóa của thế
giới sinh vật và tiếp tục phát triển con người là đại diện của loài, gọi là cá thể. Với
tư cách là thành viên của xã hội, gọi là cá nhân như là một thực thể độc lập và khi
nó có đủ khả năng để trở thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi
thì con người trở thành có nhân cách. Nhân cách con là hệ thống các thái độ của
mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của
người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội, độ phù hợp
càng cao thì nhân cách càng lớn, có tính độc lập càng cao. Phát triển nhân cách là
phát triển những phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống lành mạnh, tích cực hoạt
động, tinh thần trách nhiệm công dân. Tất cả những phương diện như trên có mối
quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời trong quá trình phát triển nguồn nhân
lực.
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho
con người trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực
làm cho con người trở thành những người lao động có những năng lực
phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự
phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [25,

tr.285].
PGS. TS Nguyễn Đăng Thành thì việc phát triển nguồn nhân lực được xác
định là phát triển "vốn người". Đây là khái niệm dùng để chỉ các năng lực có ích
của các thành viên trong xã hội. "Đó là các kỹ năng tay nghề, khả năng phán đoán,
kể cả công nghệ, phần mềm máy tính... được dùng vào quá trình sản xuất, gọi chung
là tri thức. . ." [58, tr.26]. Từ những quan niệm về vốn người, về nguồn nhân lực thì
vấn đề phát triển nguồn nhân lực được đề xuất như sau: 1 - Nguồn nhân lực là
nguồn lao động, tổng số nhân khẩu có khả năng lao động, bao gồm nhân khẩu ở độ
tuổi lao động và nhân khẩu ngoài độ tuổi lao động có thể tham gia lao động. 222


Nguồn nhân lực là nguồn lao động được chuẩn bị sẵn sàng tham gia lao động. Vốn
người khi được sử dụng, thành nguồn lực - yếu tố quan trọng trong nội lực đất
nước. 3 - Đội ngũ lao động là nguồn nhân lực đang được sử dụng vào lao động. 4 Lao động trở thành hàng hóa được đem ra trao đổi theo quy luật giá trị, quy luật
cung - cầu, cạnh tranh. Hàng hóa lao động chính là các kỹ năng, trí tuệ, sức lao
động chứ không phải là con người lao động. 5 - Trong nguồn nhân lực còn có vấn
đề nhân tài, bao gồm những nghệ nhân, công nhân bậc cao, người sản xuất giỏi, cán
bộ công nghệ - kỹ thuật, khoa học có trình độ cao, các nhà quản lý giỏi. Những
người xuất chúng, đạt hiệu quả sản xuất và công tác cao gọi là nhân tài. Nhân tài có
liên quan mật thiết với tiến bộ xã hội, thành tựu khoa học, công nghệ, kinh tế. Nhân
tài là một trong những động lực thúc đẩy tiến hóa nhân loại, dân tộc, cộng đồng.
Như nhà kinh tế học Mỹ Garibiko, giải thưởng Noben kinh tế năm 1992, đã kết luận
rằng: Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực.
TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển nguồn nhân lực được coi là quá
trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội [18, tr.13]. Quá trình này theo
tác giả bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến
thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người. Trong đó nền
văn hóa, truyền thống lịch sử dân tộc góp phần quan trọng trong việc hun đúc nên
bản lĩnh, ý chí của mỗi con người.

Như vậy, có thể hiểu rằng: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao
năng lực của mỗi con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ,
sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống
phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển xã hội.
Do đó, dưới góc độ triết học, trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của các quan
điểm nêu trên, chúng tôi cho rằng: Thực chất phát triển nguồn nhân lực là tổng thể
các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
chất lượng của sức lao động xã hội (trí tuệ, thể chất và phẩm chất - tâm lý xã hội)

23


nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn phát triển.
Vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến đổi về số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức
và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân
lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân chính là quá trình tạo lập
và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - tế xã hội và sự hoàn
thiện bản thân mỗi con người.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,
bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững [23, tr.130].
1.1.2.2. Nội dung của việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Nội dung phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, được
biểu hiện qua các khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhằm gia tăng chất lượng
nguồn nhân lực

Trong nhiều thập niên qua, nền giáo dục Việt Nam có nhiều bất cập và yếu
kém cùng với nhiều tiêu cực nảy sinh như hệ thống cơ sở đào tạo phát triển tràn lan,
nạn văn bằng giả, bệnh thành tích. . . đang làm nhức nhối xã hội, ảnh hưởng xấu
đến chất lượng của nguồn nhân lực. Do vậy, "chấn hưng nền dục Việt Nam", đổi
mới cơ chế quản lý trong giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ bức thiết
phải được tiến hành ngay. Đồng thời tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ và căn bản
về mô hình giáo dục: thay thế mô hình giáo dục khép kín, giáo dục một lần (đối với
mỗi cá nhân) với phương pháp thụ động bằng mô hình giáo dục mở, hiện đại, năng
động, tạo ra một xã hội học tập, học suốt đời và đào tạo liên tục.

24


Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ thuật thực hành. Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; tạo cơ hội và điều
kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Đồng thời, mạnh công tác xã hội hóa,
huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, mở rộng các hình thức đào tạo và
thực hiện tốt yêu cầu bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong
giáo dục; biến quá trình đào tạo thành quá tự đào tạo nhằm phát huy tính tích cực và
chủ động của con người… Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung đào tạo
nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Xây dựng hệ thống tiêu
chuẩn về đại học, cao đẳng quốc gia thống nhất, tương thích với quy định quốc tế
và đạt chuẩn tương đương với trình độ các nước có nền giáo dục phát triển. Đổi
mới khoa học, công nghệ quốc gia nhằm huy động nguồn nhân lực của mọi thành
viên xã hội ở trong nước và nước ngoài. Tăng cường đầu tư, triển khai việc dạy và
học bằng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Anh; chọn lọc các chương trình đào tạo
tiên tiến của thế giới. Mở rộng hợp tác quốc tế, đa dạng hóa hình thức, liên kết và
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển nguồn nhân lực, tăng cường

đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ.
Tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định để đẩy mạnh việc
phát triển kinh tế tri thức cần phải phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực và khoa học công nghệ " … gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao" [23, tr.220]. Đây chính là phương hướng tổng quát, vừa có định hướng trước
mắt, vừa có định hướng lâu dài trong mục tiêu phát triển kinh tế tri thức. Và giáo
dục, đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất thước, xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam "giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có
tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghiã tình, có tinh thần quốc tế
chân chính" [23, tr.76 - 77].
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Đất nước ta cần có nguồn nhân lực đủ về số lượng, có
25


×