Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

giao duc tham my cho hoc sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.49 KB, 29 trang )

VÀI SUY NGHĨ VỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ
CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG
Ths. Nguyễn Thuý Bình
Trưởng bộ môn Tâm lý – Giáo dục - Khoa GDĐC
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW
Trong thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của cái đẹp, cái thẩm
mỹ. Các nhà Triết học duy tâm chủ quan, khách quan quan niệm cái đẹp là một loại cảm
giác đặc biệt của một cá nhân nào đó, là trò chơi cầu kỳ của trí tưởng tượng, là những
phán đoán thuần tuý của đầu óc con người hoặc là hình ảnh của một ý niệm tuyệt đối, là
hồi quang của cái đẹp vĩnh cửu và siêu nhiên, không liên hệ gì với hiện thực, là sự linh
cảm thần bí. Với quan niệm như vậy thì vai trò của giáo dục thẩm mỹ hoặc đã bị phủ nhận
hoặc nó chỉ là nhân tố bên ngoài có tác dụng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc
lộ những phẩm chất tự nhiên bị chế ước bởi tính di truyền mà thôi.
Đối lập với các quan điểm trên, mỹ học Mác – Lê nin với tư cách là một ngành
khoa học triết học, nghiên cứu lĩnh vực cái thẩm mỹ như là biểu hiện chuyên biệt của các
quan hệ giá trị của con người đối với thế giới và lĩnh vực hoạt động nghệ thuật của con
người.
Mỹ học Mác – Lê nin đã vạch ra bản chất của cái thẩm trong đời sống, trong nghệ
thuật, đề ra nguyên tắc chung của việc chiếm lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ, phát hiện các
quy luật hoạt động thẩm mỹ của con người. Cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái cao
cả và cái thấp hèn, cái anh hùng và cái đê tiện – đó là những thuộc tính có thực của mọi
sự vật, hiện tượng và tình huống trong hiện thực, được cảm nhận bằng tình cảm thẩm mỹ
và được biểu hiện trong những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ.
Mỹ học Mác – Lê nin còn khẳng định cái đẹp là một giá trị, nguồn gốc của cái đẹp
là cuộc sống, là hiện thực xã hội với toàn bộ tính đa dạng của nó, nó tồn tại một cách
khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai. Và cuộc sống cao hơn nghệ thuật,
nhưng nghệ thuật là lĩnh vực tập trung một cách cô đọng cái đẹp của hiện thực, đồng thời
cũng là công cụ để xã hội tác động đến những khía cạnh thầm kín và sâu xa trong tâm hồn
con người, nghệ thuật phản ánh chân thành cuộc sống đồng thời phê phán, đánh giá và
làm lại cuộc sống theo lý tưởng thẩm mĩ của người nghệ sĩ, xây dựng một mô hình – hình



tượng cao hơn cuộc sống. Nghệ thuật chân chính kích thích “người nghệ sĩ” trong mỗi
con người, nghĩa là xây dựng trong mỗi con người sự nhạy cảm về cái đẹp và lòng mong
muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống hiện thực. Nghệ thuật có khả năng mạnh mẽ thống nhất
tình cảm, tư tưởng – ý chí của quần chúng theo phương hướng của lý tưởng cách mạnh.
Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở của quan hệ thẩm mĩ đối với hiện
thực. Chính trong hoạt động mang tính xã hội này đã hình thành nên năng lực sáng tạo
theo quy luật cái đẹp và xem xét mọi sự vật, hiện tượng với cái “độ thẩm mỹ”. Nhờ đó
con người đã tìm thấy trong thế giới tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật cái
thẩm mĩ đa dạng.
Cái đẹp là một giá trị, bằng hành động của chính mình con người mới nhận thức
được cái giá trị đó.
Nhưng học sinh - thế hệ đang lớn không tự lớn lên giữa môi trường, nó chỉ có thể
lĩnh hội, chiếm lĩnh và thể hiện được cái đẹp khi có vai trò trung gian của người lớn giáo dục.
Các luận điểm cơ bản này của mỹ học Mác – Lê nin đã chỉ rõ vai trò vô cùng lớn
của giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ. Đồng thời là chỗ dựa về mặt lý luận, là điểm xuất
phát để xây dựng mục tiêu, kế hoạch, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục
thẩm mĩ cho học sinh
Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trong của nền giáo dục phổ thông, đó là
quá trình hoạt động chung của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hình thành và
phát triển ở người được giáo dục những quan hệ thẩm mỹ đúng đắn với hiện thực bằng
cách thông qua các phương tiện thẩm mỹ, đặc biệt là phương tiện nghệ thuật nhằm góp
phần phát triển nhân cách toàn diện hài hoà cho người được giáo dục.
Nói cách khác, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thực chất là quá trình nhà giáo dục
giúp đứa trẻ biến đổi mình trở thành một chủ thể thẩm mỹ đích thực với quan hệ thẩm mỹ
đúng đắn được biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau:
1. Hình thành và phát triển được những tình cảm thẩm mỹ trong quá trình cảm thụ
và lĩnh hội cái đẹp trong nghệ thuật, trong tự nhiên, trong các mối quan hệ xã hội, tạo
được hứng thú đối với các khía cạnh thẩm mỹ của hiện thực, cảm nhận và hiểu biết được
cái đẹp trong những biểu hiện đa dạng của nó.



2. Có những quan niệm, chuẩn mực, niềm tin thẩm mỹ, phát triển năng lực phán
đoán và đánh giá thẩm mỹ, hình thành thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn.
3. Hình thành năng lực sáng tạo nghệ thuật, lòng ham muốn và khả năng đem cái
đẹp vào đời sống học tập, lao động và ứng xử.
4. Có thái độ không khoan nhượng đối với những cái xấu xa, phản thẩm mỹ trong
tâm hồn, trong hành vi ứng xử, trong hình dáng, trang phục cũng như đối với những cái
phi thẩm mỹ trong các tác phẩm nghệ thuật.
Từ lý luận và thực tiễn giáo dục thẩm mỹ cho học sinh đã chỉ rõ:
- Giáo dục thẩm mỹ chủ yếu hướng vào việc phát triển tình cảm của con người, tạo
nên sự lớn mạnh và phong phú về tâm hồn của con người, tổ chức và điều khiển hành vi
ứng xử của con người theo tiêu chuẩn cái đẹp. Nếu trẻ có khả năng cảm nhận cái đẹp của
những cử chỉ cao thượng, cái thi vị của các hoạt động sáng tạo, thì điều đó đã biểu hiện
trình độ phát triển nhất định về mặt thẩm mỹ của trẻ. Trái lại, nếu trẻ ham đọc tiểu thuyết,
thơ ca, thích nghe âm nhạc, ham xem phim ảnh, biết nhiều sự kiện trong đời sống nghệ
thuật, nhưng lại có những hành vi thô lỗ, thấp hèn, có những ham muốn tầm thường, nhỏ
nhen, vị kỷ thì khó mà nói được rằng trẻ đã có được một trình độ văn hoá thẩm mỹ chân
chính, đã có quan hệ thẩm mỹ đúng đắn được.
- Mặt khác trong những điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay trong những điều kiện
thuận lợi nhất của việc giáo dục thì những dấu hiệu cơ bản kể trên trong trẻ cũng không
thể phát triển ở mức độ như nhau mà nó sẽ phát triển theo quy luật “không đồng đều”,
“Tính toàn vẹn”, “tính mềm dẻo và khả năng bù trừ”.
Do đó trong từng độ tuổi, trong từng hoàn cảnh sống và giáo dục, nhà giáo dục cần
đặc biệt chú ý đến những mặt phát triển không đồng đều, mất cân đối, thậm chí mâu thuẫn
giữa các thành phần trong cấu trúc quan hệ thẩm mỹ khi hình thành cho các em. Ví dụ:
- Khả năng cảm thụ khác nhau giữa cái anh hùng, cái cao cả và cái hài hước, cái bi,
giữa cái đẹp trong trong tự nhiên và cái đẹp trong các mối quan hệ xã hội và trong nghệ
thuật
- Khả năng hiểu biết và thưởng thức khác nhau đối với các loại hình nghệ thuật

như Văn học, Sân khấu điện ảnh, Âm nhạc, Hội hoạ, Điêu khắc, Kiến trúc cũng như đối
với các loại hình khác nhau trong Văn học, trong Âm nhạc, trong Hội hoạ…


- Sự phản ứng và mối quan tâm khác nhau đến mặt hình thức, các sự kiện trong các
tác phẩm nghệ thuật và mặt nội dung các vấn đề đạo đức - thẩm mỹ trong các tác phẩm
đó…
Nhà giáo dục không thể nóng vội với tư tưởng hoặc bi quan, hoặc bình quân san
bằng sự phát triển các mặt đó để đưa ra những nhận định, phán xét lớp trẻ (học sinh) bây
giờ thế này thế khác được, mà phải thận trọng, thật bình tĩnh, kiên trì trước hết là trong
vai trò chủ đạo của mình để lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của các em
trong các giờ học, đặc biệt, giờ học các môn nghệ thuật để các em thích thú với các giờ
học đó, chính sự thích thú này đã động viên kích lệ các em tìm tòi, phát hiện và hiểu ra
được cái đẹp về hình thức và nội dung trong các tác phẩm nghệ thuật, đã đánh thức được
“người nghệ sĩ” trong các em.
Cùng với các giờ học chính khoá nhà giáo dục tạo cơ hội cho các em được tham
gia vào các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, ngoài trường và tiếp xúc với các mặt
của đời sống con người bằng cách nhà giáo dục sử dụng khéo léo các phương tiện nghệ
thuật cũng như các phương tiện thẩm mỹ khác trong hiện thực (thiên nhiên, lao động, đời
sống xã hội, quan hệ giao tiếp, các hành vi ứng xử…) để các em bộc lộ quan hệ thẩm mỹ
của mình trong các hoạt động đó. Khi bộc lộ các em sẽ dễ dàng nhận ra điểm mạnh, điểm
yếu của mình một cách tinh tế. Đây lại chính là động lực thúc đẩy các em bước những
bước tiếp theo trong quá trình hoàn thiện mình về mặt quan hệ thẩm mỹ dưới vai trò chủ
đạo của nhà giáo dục
Từ những trình bày trên cho thấy nghệ thuật là phương tiện giáo dục thẩm mỹ quan
trọng bậc nhất nhưng không duy nhất. Điều này một lần nữa nhắc chúng ta những người
làm công tác giáo dục phải luôn tỉnh táo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phân viện báo chí và tuyên truyền – khoa triết học, Mỹ học, bài giảng cho các lớp
không chuyên Triết, Hà nội 1996

2. Iu.A. Lu Kin, V.C.XCA.CHE- RƠ- SIC- CÔP, người dịch Hoài Lam, Nguyên lý
mỹ học Mác – Lê Nin, NXBSGK Mác – Lê Nin, Hà Nội 1985


3. Đỗ Huy, Cái đẹp - một giá trị, NXBTTLL, Hà Nội 1985 Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế
Ngữ, Giáo dục học tập2, NXBGD, Hà Nội 1987

CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT
Ths. Giáo dục học Đinh Thị Hà
Phó Trưởng Khoa GDĐC
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW
Khát vọng vươn tới cái đẹp là nhu cầu quan trọng của con người. Nhìn thấy cái
đẹp, tạo ra cái đẹp và thưởng thức cái đẹp là một đặc điểm chỉ có ở con người. Cái đẹp
tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và thể hiện tập trung nhất, cô đọng nhất trong nghệ
thuật. Nghệ thuật là cái hay cái đẹp để người ta chiêm ngưỡng, làm người ta rung động,
cảm xúc. Muốn cho con người, trong đó có trẻ em, tiếp nhận và cảm thụ được đầy đủ cái
đẹp, nhất là cái đẹp trong nghệ thuật rất cần có sự hỗ trợ của người lớn, của nhà trường,
của các thiết chế văn hóa- nghệ thuật, đặc biệt là của các nhà giáo dục.
Giáo dục nghệ thuật có chức năng định hướng giá trị nghệ thuật cho thế hệ trẻ và
phát triển tiềm năng sáng tạo nghệ thuật cho giới trẻ. Định hướng giá trị nghệ thuật tức là
giúp cho thế hệ trẻ phân biệt được cái nghệ thuật và cái phi nghệ thuật, có xúc cảm trước
các tác phẩm nghệ thuật, biết thưởng thức và đánh giá.
Hiện nay chức năng định hướng này rất quan trọng. Có nhiều hiện tượng trong đời
sống xã hội khiến ta phải nhíu mày tự hỏi “sao lại thế”. Hiện nay ca khúc mới ngày càng
nhiều, ra đời rất nhanh nhưng lại hạn chế về chất lượng; Một bộ phim rất Việt nam, đậm
tính nhân văn, đưa nhiều thông điệp vào lòng người như phim “Đừng đốt” của đạo diễn
NSND Đặng Nhật Minh, đã đoạt giải Bông sen vàng liên hoan phim lần thứ XVI nhưng
tại các rạp chiếu phim lại vắng khách. Bộ phim chính là lời tri ân với quá khứ, là hạnh
phúc của thực tại, là niềm hy vọng ở tương lai, phải chăng là vấn đề thị hiếu, là tư tưởng,
tình cảm cần sự điều chỉnh, tác động…

Việc việc lựa chọn các tác phẩm âm nhạc; việc trôi nổi loại nhạc sến, nhạc mì ăn
liền, nhạc ngoại lai trộm cắp… việc người xem đến với sân khấu ca nhạc nhiều hơn, đông
hơn mặc dù giá vé không rẻ, nhưng lại ít đến với các Galery, các triển lãm mỹ thuật
không mất vé…Tất cả đều rất cần một sự định hướng.
Vậy vấn đề định hướng nghệ thuật ra sao để giới trẻ nhận thức đúng được giá trị
nghệ thuật đích thực của các tác phẩm nghệ thuật và có thị hiếu đúng đắn, lành mạnh.
Điện ảnh là một loại hình nghệ thuật, những người thưởng thức điện ảnh cũng không thể
tùy tiện, họ phải có kiến thức, họ phải được giáo dục về thị hiếu, về nhu cầu… Để có
được một bộ phim là cả một quá trình lao động vất vả của cả đoàn làm phim, từ biên kịch,


đạo diễn, diễn viên, quay phim, đạo cụ…Người xem cần phải học để biết trân trọng và
đón nhận nó.
Không chỉ định hướng cho giới trẻ thưởng thức nghệ thuật mà giáo dục nghệ thuật
còn phát triển tiềm năng sáng tạo nghệ thuật cho giới trẻ. Khi thưởng thức nghệ thuật, để
hiểu được giá trị của tác phẩm, để hiểu được ý tưởng của tác phẩm, người thưởng thức đã
đồng sáng tạo, đã nhận xét, đánh giá và đó sẽ là cơ sở để họ có sáng tạo trong nghệ thuật.
Giáo dục nghệ thuật là công việc của mọi cấp, mọi ngành, từ gia đình đến nhà
trường và xã hội.
Ngay từ trong gia đình, người lớn hướng dẫn con trẻ từ việc nhỏ như lựa chọn
chương trình ti vi, cùng trao đổi với chúng nội dung vừa xem, vừa nghe; đưa con đến các
trung tâm văn hóa - nghệ thuật trong lúc rảnh rỗi; cho con tham gia các lớp học nghệ thuật
ở cung văn hóa không chỉ nhằm định hướng nghề nghiệp mà cái quan trọng hơn là xóa
mù nhạc, xóa mù họa nâng cao chỉ số người cho con; cùng con thưởng thức các lễ hội văn
hóa truyền thống của từng vùng miền, như Lễ hội hoa của người Hà Nội, lễ hội Đền
Hùng; lễ hội đua thuyền…con trẻ sẽ được tắm mình trong không gian văn hóa- nghệ
thuật, con trẻ được định hướng để có thị hiếu, tình cảm lành mạnh biết cảm thụ, quý
trọng, lưu giữ và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ.
Định hướng nghệ thuật cũng là công việc của các nhà lý luận, phê bình, các nhà tài
trợ, các nhà sản xuất các chương trình văn hóa-nghệ thuật…Ví dụ chương trình “Bài hát

Việt” , chương trình “Trò chơi âm nhạc”, chương trình Giáo dục môi trường bằng nghệ
thuật tạo hình…hiện nay đang là sân chơi thú vị thu hút mọi người tham gia và cũng là
nơi để thẩm định các tác phẩm âm nhạc. mỹ thuật và định hướng cho giới trẻ.
Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường được xem là con đường cơ bản, có giá trị lâu
dài có tác dụng định hướng thẩm mỹ đúng đắn cho thế hệ trẻ, phát hiện, ươm mầm, bồi
dưỡng tài năng nghệ thuật.
Giáo dục nghệ thuật trong nhà là một quá trình hoạt động chung của nhà giáo dục
và người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục có rung cảm trước cái đẹp trong
nghệ thuật, có kiến thức, quan điểm nhìn nhận cái đẹp trong nghệ thuật, biết lựa chọn và
chiêm ngưỡng nghệ thuật, có khả năng đồng sáng tạo và sáng tạo nghệ thuật.
Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường không phải chỉ dành cho những học sinh có
năng khiếu nghệ thuật mà giáo dục nghệ thuật cho mọi người, tạo dựng cho mọi người
nền tảng văn hóa thẩm mỹ.
Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học
sinh các hứng thú và nhu cầu cao đối với các giá trị nghệ thuật, làm cho học sinh làm
quen với quá trình sáng tạo nghệ thuật, thức tỉnh và bồi dưỡng người nghệ sĩ trong mỗi
con người học sinh.


Giáo dục nghệ thuật góp phần phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách của con
người.
Các tác phẩm nghệ thuật hiện thực XHCN phản ánh nhiều mặt của cuộc sống góp
phần to lớn trong việc xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan cho học sinh. Các nhân vật
trong tác phẩm, tình tiết, diễn biến tâm lý, kết cục câu chuyện…đều là những tác nhân
trong giáo dục đạo đức cho học sinh. Các giá trị nghệ thuật chân chính, được tạo ra bởi
nền văn hóa tiên tiến, có tác dụng hết sức to lớn trong việc giáo dục những tư tưởng tiến
bộ, những tình cảm đạo đức cao cả, những tâm hồn trong sáng và phong phú.
Giáo dục nghệ thuật không những làm phát triển tư duy hình tượng mà còn có tác
dụng nâng cao hiệu quả của hoạt động trí tuệ, thúc đẩy lao động trí óc, nâng cao hiểu biết
cái đẹp của lao động đồng thời kích thích mạnh mẽ hoạt động lao động. Trong các tác

phẩm nghệ thuật hiện thực XHCN, tinh thần anh dòng và vẻ đẹp của người lao động
chiếm một vị trí quan trọng. Sự phát triển của các chủ đề đó giúp học sinh thể nghiệm
những thành công và thất bại trong lao động sản xuất cùng với các nhân vật trong tác
phẩm.
Giáo dục nghệ thuật và giáo dục thể chất hòa quyện với nhau trong nội dung cũng
như trong hình thức hoạt động, đặc biệt là trong các loại hình thể dục thể thao như thể dục
nghệ thuật, thể dục nhịp điệu, điền kinh nhẹ … Hoạt động thể dục và thể thao tạo nên
những cảm giác thán phục về sự nhanh nhẹn, khéo léo, trang nhã, duyên dáng, dũng cảm,
tự tin, vẻ đẹp của thân thể, vóc dáng của con người, tinh thần lạc quan, yêu đời …
Nhà bác học nổi tiếng S. Đacuyn đã nói lên vai trò của nghệ thuật trong phát triển
nhân cách con người như sau: “Nếu tôi phải trải qua lần thứ hai cuộc sống của mình, thi
tôi sẽ tự đặt cho mình quy tắc là đọc các tác phẩm thi ca và nghe âm nhạc, dù cho chỉ là
một lần trong tuần lễ. Mất mát những thị hiếu đó là sự mất mát một phần hạnh phúc của
đời người và có thể là ảnh hưởng tai hại khụng chỉ đến những năng lực trí tuệ và mà còn
có thể đến tính cách đạo đức nữa, vì rằng sự mất mát đó đã làm yếu đi mặt xúc cảm của
bản chất người trong chúng ta”.
Như vậy, giáo dục nghệ thuật chủ yếu hướng vào việc phát triển tình cảm của con
người, tạo nên sự lớn mạnh và phong phú về tâm hồn của con người, tổ chức và điều
chỉnh hành vi ứng xử của con người.
Trong nhà trường, việc giáo dục nghệ thuật cho học sinh thông qua việc giảng dạy
các môn học, đặc biệt các môn học nghệ thuật như âm nhạc, mỹ thuật. Trong từng giờ âm
nhạc, mỹ thuật giáo viên cho học sinh tiếp xúc với các tác phẩm âm nhạc, mỹ thuật, đó
chính là con đường hình thành cho học sinh xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ chân chính với
từng tác phẩm, với nghệ thuật; hình thành năng lực quan sát, năng lực nhận xét, đánh giá
và khêu gợi lòng ham muốn sáng tạo cái đẹp. Trong từng giờ học, giáo viên cung cấp cho
học sinh kiến thức cơ bản của âm nhạc, mỹ thuật, như nhạc lý, tập đọc nhạc, âm nhạc


thường thức; như đường nét, hình khối, bố cục, màu sắc, như cách vẽ một bài trang trí,
bài vẽ theo mẫu, bài vẽ tranh theo đề tài, kiến thức về lịch sử mỹ thuật…Đây chính là cơ

sở, là nền tảng để học sinh biết cảm thụ tác phẩm âm nhạc, mỹ thuật, biết nhận xét, đánh
giá và sáng tác. Ngoài giờ học, trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh
được tổ chức tham gia các hoạt động âm nhạc và mỹ thuật như các chương trình văn
nghệ, vẽ tranh chào mừng các ngày lễ lớn trong năm; chào đón các sự kiện chính trị nổi
bật… đó chính là con đường hình thành năng lực sáng tạo cho học sinh.
Có thể thấy, giáo dục nghệ thuật trong nhà trường sẽ là biện pháp hữu hiệu, lâu dài
để định hướng thẩm mỹ và phát triển năng lực sáng tạo thẩm mỹ trong nghệ thuật nói
riêng và trong cuộc sống nói chung.
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW nơi đào tạo các giáo viên âm nhạc và mỹ thuật cho
các trường chuyên nghiệp và các trường phổ thông, nơi đào tạo các nhà giáo dục nghệ
thuật, càng phải ý thức sâu sắc nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề của mình trong định
hướng nghệ thuật cho thế hệ trẻ. Người giáo viên âm nhạc, mỹ thuật tương lai phải trau
dồi phẩm chất, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để góp phần bảo tồn, xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Xuân Hà. Giáo dục thẩm mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ. Nhà xuất bản giáo
dục – 1998
2. Trần Thị Tuyết Oanh (2006), Giáo trình giáo dục học, Nhà xuất bản Hà Nội.

RÈN LUYỆN SỨC SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
Trịnh Thị Thu Hiền
GV môn Tiếng Anh - Khoa GDĐC
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW
1. Đặt vấn đề
Nghệ thuật là một lĩnh vực dành được sự quan tâm lớn lao trên toàn thế giới. Chính
vì vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau tùy theo cách nhìn nhận của mỗi người. Có những
định nghĩa nghệ thuật theo các loại hình, có định nghĩa xem xét nghệ thuật theo các tác
phẩm do người nghệ sĩ sáng tạo nên và có cả những định nghĩa được khái quát qua các tài
lẻ của con người.

Thời Cổ đại, người ta chia nghệ thuật ra làm bảy loại hình nghệ thuật tự do. Thời
Trung cổ, nghệ thuật chỉ còn là những gì mà người xưa coi là nghề thủ công, nó đòi hỏi


một cái gì đó được tạo nên một cách khéo léo bởi người nghệ sĩ. Ngày nay, thật khó định
nghĩa được nghệ thuật bởi vì rất khó có thể chỉ ra được cái gì là nghệ thuật, cái gì không
phải là nghệ thuật. Tuy nhiên, nghệ thuật có thể được thể hiện cụ thể như trong định nghĩa
sau:
“Nghệ thuật là cái hay, cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác quan từ đó
ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng, kỹ xảo cao vượt lên trên mức thông thường phổ biến”.
Nghệ thuật là thể hiện của trình độ, tài năng sáng tạo của con người. Do đó, việc
rèn luyện và phát triển sức sáng tạo nghệ thuật là một vấn đề cần thiết. Sức sáng tạo của
con người có được do trí tuệ sáng tạo mang lại. Theo tác giả Tony Buzan trong cuốn 10
cách đánh thức bản đồ tư duy sáng tạo thì “Trí tuệ sáng tạo” chỉ khả năng đưa ra kiến
giản mới, khả năng giải quyết vấn đề bằng phương pháp sáng tạo, cũng như biểu hiện
trước những phát minh và phẩm chất vượt trội ở các phương diện tưởng tượng, hành vi,
hiệu quả sáng tạo”. Thông qua rèn luyện, con người có thể phát triển và nâng cao sức
sáng tạo của mình ở mọi phương diện.
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW là một loại hình trường nghệ thuật với hai chuyên
ngành chính Mỹ thuật và Âm nhạc. Đối tượng sinh viên của nhà trường có đặc điểm khác
biệt với các trường chuyên nghiệp khác ở chỗ các em vốn có năng khiếu về hội họa và âm
nhạc. Từ góc độ này, sinh viên vốn là các nhà nghệ thuật có sức sáng tạo bẩm sinh. Nếu
như trong cuộc sống hàng ngày, sinh viên không được động viên, khích lệ và bồi dưỡng
thì khí chất nghệ thuật sẽ ẩn đi. Điều đó còn có nghĩa là những ước mơ sáng tạo, những
khí chất nghệ thuật sẽ được cất cánh khi sinh viên kiên trì rèn luyện không ngừng.
2. Phương pháp rèn luyện sức sáng tạo
2.1. Xác định lĩnh vực rèn luyện
Tài năng của con người được thể hiện ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó có
thể là khả năng về hội họa, ca hát hay sáng tác thơ ca… Một đứa trẻ thích vẽ tranh hay
thích quan sát các tác phẩm hội họa nên được cha mẹ hay người thân khuyến khích, động

viên và tạo điều kiện để có thể phát huy khả năng đó. Điều đó chứng minh rằng khi xác
định đúng lĩnh vực rèn luyện thì tài năng được nhân lên từng ngày. Ngược lại, nếu cha mẹ
hay người thân mong muốn đứa trẻ đó lớn lên phải là một ca sĩ, một nhà soạn nhạc hay
một nhà thơ thì tất cả mọi hoạt động rèn luyện sẽ tập trung theo một cách thức khác. Mọi
hoạt động liên quan đến hội họa bị lãng quên và dần dần tài năng sẽ lu mờ. Vì thế, cần
định hướng chính xác lĩnh vực thể hiện tài năng và tạo điều kiện thuận lợi để chắp cánh
cho những tài năng nghệ thuật đó.
Với sinh viên trường ĐHSP Nghệ thuật TW, khi bước chân vào trường các em đã
được định hướng xác định rõ lĩnh vực cũng như động cơ học tập của bản thân. Nhiệm vụ
thiết yếu của sinh viên đó là học tập, rèn luyện để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.
2.2. Hình thành thói quen luyện tập


Để có thể thực hiện được ước mơ sáng tạo nghệ thuật, việc luyện tập là điều không
thể thiếu được và nó chính là cốt lõi của sự thành công mỗi người đạt được. Hãy sắp xếp
thời gian biểu khoa học để việc luyện tập của bản thân được diễn ra thường xuyên, đều
đặn tạo thành thói quen sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên hãy nhớ nuôi dưỡng “chồi non
nghệ thuật” của mình.
2.3. Tham gia các hoạt động nghệ thuật
Khi sinh viên đã xác định con đường đi đúng đắn cho bản thân, một phần không
thể thiếu được trên con đường đó chính là tham gia vào các hoạt động nghệ thuật. sinh
viên có thể tham gia vào các câu lạc bộ hoặc thành lập câu lạc bộ của riêng mình. Với sự
tiến bộ của công nghệ thông tin như ngày nay họ có thể tạo ra các trang web hoặc blog cá
nhân để giới thiệu các sáng tác của mình với mục đích trao đổi học hỏi trên diện rộng và
tìm các nguồn tài liệu hữu ích phục vụ cho mục đích sáng tạo của mình….Họ có thể vừa
tìm hiểu vừa đóng góp các sáng tác của chính mình trên các trang web đó.
Sinh viên cũng có thể tạo cho mình cơ hội tham vào các lớp học nghệ thuật như
các lớp khiêu vũ, vẽ tranh, ca hát, chơi nhạc cụ… Với lòng say mê và kiên trì thì “chồi
non nghệ thuật” của họ sẽ dần dần lớn lên hàng ngày.
Hãy luôn nhớ tham gia vào các hoạt động nghệ thuật và coi đó như là một phần

không thể thiếu được trong cuộc sống của mình.
2.4. Tạo cho mình cơ hội thể hiện tài năng nghệ thuật
Tài năng của chúng ta chỉ được mọi người biết đến và công nhận khi nó được thể
hiện ra. Vì vậy, trước hết chúng ta hãy là một con người tự tin và mạnh dạn. Khi người
thân hoặc bạn bè tổ chức các hoạt động mừng sinh nhật, ngày cưới, ngày lễ tết hay một kỷ
niệm một dịp quan trọng nào đó, sinh viên hãy chủ động chuẩn bị trước và nắm lấy cơ hội
để thể hiện tài lẻ của bản thân qua các bài hát, các bài thơ, bức vẽ hay tác phẩm nghệ
thuật độc đáo nào đó. Tuy nhiên, các em không nên tự thỏa mãn với hiện tại vì tiềm năng
của họ cùng với sự nỗ lực rèn luyện chắc chắn sẽ còn tiến xa hơn thế. Khi có nhiều cơ hội
tham gia cùng mọi người, sinh viên sẽ phát hiện quá trình này có thể giúp bạn tiến bộ
không ngừng và thay đổi cuộc sống của mình.
2.5. Không ngừng luyện tập
Trí tuệ sáng tạo sẽ không ngừng vươn xa nếu chúng ta biết cách luyện tập thường
xuyên, đều đặn. Do vậy,bất cứ lúc nào sinh viên cũng có thể rèn luyện khả năng của
mình, ví dụ như khi đang ở trên phố, các em có cơ hội được ngắm thế giới tươi đẹp với
những ngôi nhà xinh xắn được kiến trúc theo lối cổ xưa hay hiện đại, ngắm những tấm
biển quảng cáo rực rỡ sắc màu hay những khuôn mặt rạng ngời của mọi người, và họ có
thể tái hiện lại những hình ảnh đó qua óc tưởng tượng phong phú của mình - đó chính là
cách luyện tập tuyệt vời. Một ví dụ khác cũng thể hiện thái độ cầu thị của sinh viên khi
ngày này qua ngày khác họ cố gắng luyện giọng để có thể trình bày tốt và truyền cảm một


ca khúc nào đó. Sinh viên hát khi ở phòng thu hay khi đang nấu cơm, khi đang tắm hoặc
khi đang ngồi chờ xe buyt. Mục đích chính họ muốn đạt được chính là có thể biểu diễn
thật hoàn hảo bài hát đó đã khích lệ bạn và giúp họ có sức mạnh luyện tập không ngừng.
2.6. Mở rộng lĩnh vực thể hiện tài hoa của bạn
Một lời khuyên cho sinh viên đó là đừng bao giờ nghĩ rằng mình không thể làm
được cái này hay cái khác. Trong mỗi lĩnh vực, chúng ta chỉ bỡ ngỡ lúc ban đầu khi mọi
việc đều là mới lạ. Hãy cố gắng rèn luyện để khẳng định chúng ta có thể làm được điều
đó vì thế mà lĩnh vực thể hiện tài năng của sinh viên sẽ trở nên rộng lớn vô hạn.

3. Kết luận
Sức sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi con người đặc biệt là sinh viên - những chủ nhân
tương lai của đất nước, cần phải được phát huy để công hiến cho xã hội loài người với
những tiến bộ không ngừng. Trên con đường sáng tạo tương lai, Sinh viên với sức sống
dồi dào, lòng nhiệt huyết tuổi trẻ và trí tuệ sáng tạo đang phát triển mạnh mẽ sẽ thực hiện
tốt các mục tiêu đã đề ra góp phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiến tạo
nên các công trình nghệ thuật có tầm cao thế giới.

Tài liệu tham khảo
1. Tony Buzan. 10 cách đánh thức bản đồ tư duy sáng tạo.
(Gia Linh biên dịch), Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, 2007.
2. />option=com_content&task=view&id=44&Itemid=30
3. />4. />mid=39&mzid=281&ID=789

VÀI SUY NGHĨ VỀ GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT
VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN DẠY NGHỆ THUẬT
Nhạc sĩ Hoàng Long
Nghệ thuật và giáo dục nghệ thuật
Có thể hiểu nghệ thuật là một phạm trù bao gồm nhiều lĩnh vực mang tính đặc thù
như các loại hình: âm nhạc, mĩ thuật, vũ đạo, sân khấu, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh,
xiếc, múa rối… Có cuộc sống của con người là có nghệ thuật và nghệ thuật luôn phát
triển để đáp ứng những nhu cầu về đời sống tinh thần và thẩm mĩ của con người. Đời


sống vật chất càng cao thì nhu cầu về hưởng thụ và thưởng thức nghệ thuật càng đòi hỏi
nhiều hơn.
Trong nền giáo dục của nhiều quốc gia, người ta đặc biệt quan tâm đến ảnh hưởng
của nghệ thuật với sự hình thành nhân cách và trí tuệ của lớp người trẻ tuổi. Chính vì thế
họ đã đưa một số loại hình nghệ thuật vào nhà trường làm một phương tiện để giáo dục
và tác động vào thế giới tinh thần của thế hệ trẻ.

Ở nước ta, nhiều thập kỉ trước đây người ta cũng đã nghĩ đến việc giáo dục nghệ
thuật trong trường phổ thông nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà công việc này
gần như bị xem nhẹ và sự phát triển hết sức chậm chạp. Cho đến những năm 90 của thế kỉ
trước và nhất là khi bước vào công cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ năm
2002 thì các môn nghệ thuật (cụ thể là 2 môn Âm nhạc và Mĩ thuật) mới chính thức có
chỗ đứng trong toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông, tuy mới dừng lại ở cấp tiểu học và
trung học cơ sở. Từ việc có môn học Âm nhạc, Mĩ thuật được qui định dạy trong các
trường phổ thông thì vấn đề giáo viên trở nên cấp bách. Hàng loạt cơ sở đào tạo văn hóa
nghệ thuật và các trường sư phạm gấp rút xin mở mã ngành sư phạm âm nhạc, mĩ thuật để
đáp ứng cung cấp giáo viên âm nhạc và mĩ thuật cho hàng vạn trường tiểu học và trung
học cơ sở trên mọi miền đất nước. Từ việc ào ạt mở ra các hệ đào tạo này tuy có đáp ứng
được một số lượng giáo viên khá lớn nhưng dẫn đến tình trạng chất lượng đào tạo ở một
số nơi rất hạn chế, nếu không nói rằng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của
không ít giáo viên âm nhạc và mĩ thuật hiện nay còn nhiều bất cập. Trong số này nhiều
người cũng được đào tạo bồi dưỡng thêm để nâng cấp nhưng xem ra trình độ thực của họ
cũng không nâng được bao nhiêu bởi cách học tại chức và đào tạo từ xa phải chăng ít
thích hợp với đào tạo nghệ thuật! Trước mắt chúng ta vẫn tạm phải chấp nhận vì quá
nhiều lẽ, cả về khách quan lẫn chủ quan.
Để thấy rõ hơn về chất lượng đào tạo của các lớp Sư phạm Âm nhạc tại chức theo
mô hình liên kết của một trường đại học nọ, thầy giáo được thỉnh giảng một môn ở trường
đó cho biết: thày cho học viên làm bài kiểm tra hết môn, bài làm tại nhà. Sau đó thày
nhận được bài kiểm tra qua đường bưu điện. Thày xem, thấy trong số mấy chục bài thì cứ
10 đến 15 bài giống nhau như hệt, chỉ khác tên của học viên là "tác giả" của bài đó. Thày
nói, xem ra không chỉ môn của thày mới có hiện tượng như thế, và không chỉ thi hết môn
mà cả các tiểu luận tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp cũng có tình trạng viết thuê, sao chép
để cuối cùng vẫn có văn bằng, chứng chỉ .Không phải 100% đều như vậy nhưng hiện
tượng đó không ít. Một thực tế thật đáng buồn về sự học!!! Biết thực tế này nhưng khắc
phục được vẫn còn là câu chuyện dài dài.
Nhìn ra một vài nước.



Ở Liên Xô trước đây và ngày nay ở Nga có Viện hàn lâm Khoa học Giáo dục. Tại
Viện hàn lâm này có nhiều Viện nhỏ trong đó có Viện Giáo dục nghệ thuật. Viện GDNT
có các Ban nghiên cứu các lĩnh vực giáo dục gồm: Âm nhạc, Mĩ thuật, Sân khấu, Điện
ảnh, Múa và Ban nghiên cứu các vấn đề chung về giáo dục thẩm mĩ.
Chính tại Viện này đã đào tạo các nghiên cứu sinh Việt Nam như: TS. Trần Tuấn Lộ
về lí luận giáo dục thẩm mĩ, TS. Nguyễn Huy Diễm về giáo dục học sân khấu, TS. Ngô
thị Nam về giáo dục học nghệ thuật… Như vậy chúng ta thấy, bạn không chỉ quan tâm
đến giáo dục thông qua có 2 loại hình là âm nhạc và mĩ thuật. Ở một số bang của Mĩ, Úc,
giáo dục nghệ thuật tại các trường có tới 4 đến 6 loại hình. Một số nước khác, ngoài âm
nhạc, mĩ thuật còn có các môn học tự chọn dành cho học sinh học các nghệ thuật khác
như múa, sân khấu, nhạc cụ,…Một số nước Đông Âu có dạy âm nhạc, mĩ thuật, điêu khắc
cho học sinh trung học qua các lớp học nhạc cụ, đội hợp xướng, vẽ tranh, nặn tượng…
nhưng không bắt buộc tất cả thường chỉ dành riêng cho HS có năng khiếu, ham thích say
mê nghệ thuật.
Dạy các môn nghệ thuật trong trường Phổ thông ở nước ta.
Hiện nay ta chỉ dạy âm nhạc và mĩ thuật trong trường phổ thông (ở bậc THPT chưa
có). Chỉ riêng với 2 loại hình này, ngành giáo dục đã phải tăng hàng vạn biên chế GV. Vì
vậy muốn đưa các loại hình nghệ thuật khác vào nhà trường quả không phải là việc dễ
dàng, nếu không nói là cực kì khó khăn. Chúng ta phải tìm một hướng đi khác mới có thể
khả thi với nhiều lĩnh vực giáo dục nghệ thuật trong tương lai.
Rất nhiều năm trước đây, khi số trường cấp 2, cấp 3 không nhiều như bây giờ, ở các
trường học, nhất là trường cấp 3, dù không có GV nghệ thuật chuyên ngành, người ta vẫn
tổ chức được các đội đồng ca, ban nhạc, đội múa, đội kịch, có trường còn có cả đội nghệ
thuật múa rối, dĩ nhiên không phải trường nào cũng cũng có đầy đủ các loại hình như
vậy. Ngày nay, phải chăng vì áp lực của việc học chữ để thi cử quá nặng nề nên người ta
quên đi các hoạt động đó!
Trong thời gian tới, chúng ta cần kiến nghị với Bộ Giáo dục – Đào tạo, khi chuẩn bị
làm chương trình - sách giáo khoa mới sẽ thực hiện vào khoảng năm 2015 - 2016 phải cố
gắng đưa một số môn nghệ thuật vào chương trình giáo dục , kể cả ở bậc THPT. Ở THPT

có thể qui định dưới hình thức bắt buộc hay tự chọn nhưng nhất định phải có một số môn
học hoặc hoạt động nghệ thuật trong chương trình giáo dục chung.
Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học trong đào tạo giáo viên nghệ thuật
Đổi mới nội dung: Đổi mới nội dung không có nghĩa là thay đổi toàn bộ những nội
dung đang dạy và học mà ta phải kế thừa có thay đổi và cải tiến, nâng cao.


Kiên quyết bớt đi những môn, những học phần, học trình không thiết thực, thêm vào
những nội dung có tác dụng tích cực với sinh viên sau khi tốt nghiệp ra công tác thực tế.
Phải qui định trong chương trình đào tạo chính qui những môn học bắt buộc- coi như
"phần cứng" và những môn học tự chọn - coi như "phần mềm".
Ví dụ: Trong chương trình đào tạo sư phạm âm nhạc không nên có môn Sáng tác ca
khúc trong "phần cứng" bởi không phải Sinh viên nào cũng có năng khiếu hoặc khả năng
sáng tác nhạc. Hơn nữa nếu một người đã tinh thông nhạc lí, kí xướng âm, đã được học
môn phân tích tác phẩm mà có xu hướng sáng tác thì chắc không cần phải học các học
trình về sáng tác ca khúc mới có thể viết được bài hát.
Còn có thể đề cập đến việc thêm, bớt một vài môn học khác nhưng có lẽ vấn đề này
dành cho các nhà nhà hoạch định chương trình đào tạo từng loại hình giáo viên nghệ
thuật. Cũng phải tính đến việc tích hợp một số môn riêng trong chương trình đào tạo hiện
nay thành một số môn chung để giảm bớt môn học, giống như cách làm của các trường
đào tạo sư phạm âm nhạc ở Hunggari đã thực hiện.
Đổi mới phương pháp: Đổi mới PPDH là một trào lưu chung không chỉ ở các trường
phổ thông mà ở tất cả các trường Đại học, Cao đẳng. Đào tạo giáo viên nghệ thuật cũng
không ngoài phạm vi đó. Lâu nay nhiều người cho rằng dạy học ở một số ngành nghệ
thuật, ở đây chỉ xin nói riêng về âm nhạc, cách dạy học ít có sự cải tiến, thay đổi. Vẫn là
phương pháp thày lên lớp diễn giảng, sinh viên ghi chép rồi làm bài tập, đó là với những
môn học mang tính lí thuyết nhiều. Với những môn học mang tính thực hành nhiều thì đã
có sự cải tiến, đổi mới nào chưa? Và nếu cải tiến, đổi mới thì đã làm như thế nào? Rất cần
có những thảo luận mang tính chuyên đề của từng bộ môn ở từng khoa, để tổng kết và
trao đổi kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học của riêng mỗi bộ môn. Những

chuyên đề này cần chỉ ra được những gì là cách dạy mang tính truyền thống và những gì
đã được cải tiến, bổ sung và cần so sánh cách thức dạy học quen dùng với phương pháp
đã có những sự đổi mới để thấy những ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp cụ
thể. Giống như về nội dung của mỗi môn học, cải tiến hoặc đổi mới phương pháp trên cơ
sở kế thừa, bổ sung, phát triển vẫn là định hướng đúng đắn, vì không có sự đổi mới nào
lại không xuất phái từ những cái sẵn có, đã có, cần loại bỏ những yếu tố chưa có hiệu quả,
thêm vào những sáng kiến có hiệu quả cao, tích cực và hấp dẫn người học hơn, đó chính
là đổi mới vậy .
Cách học của sinh viên cũng phải thay đổi. Tự tìm hiểu, khám phá kiến thức, tự học,
tự đọc sách và làm bài tập, tích cực chuẩn bị tham gia các xêmine … là cách học của bậc
cao đẳng, đại học. Muốn vậy, thư viện của trường phải có nhiều sách vở, tài liệu, băng/đĩa
cho sinh viên tham khảo. Giáo viên cần giới thiệu cho sinh viên những tư liệu tham khảo,
đọc thêm cần thiết. Cần thường xuyên tổ chức các xêmine cho sinh viên được thể hiện
năng lực của mình.


Nghiên cứu về dạy học, ai đó đã từng tổng kết thành một mệnh đề đầy sức thuyết
phục, đại ý: Tôi nghe thì tôi biết, tôi nhìn thì tôi hiểu và tôi làm thì tôi nhớ. Từ đó, chúng
ta thấy việc dạy học phải cho người học được nghe (tức là lời giảng), sau đó là nhìn (tức
là được xem thông qua những phương tiện trực quan) và cuối cùng phải được làm (tức
là thực hành). Ngày nay,đổi mới PHDH ta có thể sử dụng công nghệ thông tin qua việc
trình chiếu hết sức tiện ích nhưng đó cũng chỉ là nghe - nhìn mà vẫn thiếu khâu thực
hành. Vì vậy, dù có phương tiện hiện đại gì chăng nữa, có đổi mới phương pháp đến đâu ,
nếu không đặc biệt quan tâm đến thực hành cũng khó có thể đạt chất lượng cao trong dạy
học. Trong đào tạo âm nhạc và mĩ thuật thì thực hành phải chiếm vị trí hàng đầu là thế.
Một vài lời kết và kiến nghị
Trên đây, chúng tôi đã trình bày vài suy nghĩ nhỏ về một số vấn đề lớn, chắc rằng còn
hết sức sơ lược, chỉ mong khơi gợi một đôi điều để những ai quan tâm cùng tham khảo
và rộng đường trao đổi. Với trường Đại học Sư Phạm Nghệ thuật TW, xin mạnh dạn đề
xuất mấy ý kiến :

- Hiện nay, trường ta là trường Đại học duy nhất trong cả nước đào tạo giáo viên dạy
nghệ thuật cho ngành giáo dục có trình độ Đại học. "Duy nhất" vì chúng ta là đơn vị cấp
trường, trong khi đó ở các đơn vị khác chỉ ở cấp độ là một khoa hoặc một vài lớp. Kế thừa
trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ thuật TW đã nhiều năm đào tạo giáo viên âm nhạc, mĩ
thuật, trước hết trường chúng ta phải khẳng định "thương hiệu" là một trường đào tạo GV
âm nhạc, mĩ thuật có chất lượng cao, đặc biệt phải quan tâm đến hệ đào tạo chính qui.
Phải làm sao để các Sinh viên âm nhạc, mĩ thuật khi ra trường luôn tự hào về cái nôi đào
tạo mình với những thày cô có trình độ cao, có phương pháp sư phạm tốt, có cơ sở trang
thiết bị cho học tập đầy đủ, hiện đại và bản thân mình có trình độ chuyên môn chuyên
ngành tốt, có khả năng hiểu biết về giáo dục và tay nghề sư phạm vững vàng.… Vì thế
trường ta phải tập trung nâng cao chất lượng đào tạo âm nhạc, mĩ thuật ở tất cả các khâu
từ tuyển sinh tới mọi vấn đề khác liên quan. Mở rộng các mã ngành đào tạo, mở rộng qui
mô đào tạo các loại hình nghệ thuật là cần thiết nhưng chúng tôi cho rằng đó chưa phải là
cái đích trước mắt của nhà trường.
- Chúng ta phải có những đoàn công tác đi nghiên cứu nội dung và phương pháp
giảng dạy ở các trường Đại học các nước có đào tạo loại hình giáo viên âm nhạc, mĩ thuật
cho ngành giáo dục, cho trường phổ thông. Cử những giảng viên, sinh viên xuất sắc đi các
nước tu nghiệp hoặc đào tạo thêm về sư phạm âm nhạc, mĩ thuật ở nước ngoài. Tầm nhìn
xa có lẽ phải như vậy chăng?
- Xây dựng bộ chương trình đào tạo Đại học sư phạm mĩ thuật, âm nhạc mang tính
độc lập, thoát khỏi ảnh hưởng của chương trình đào tạo chuyên ngành của các học viện


âm nhạc, Đại học Mĩ thuật, bởi mục tiêu đào tạo của mỗi nơi hoàn toàn khác nhau. Tất
nhiên không thể không tham khảo học tập có chọn lọc từ các chương trình đó.
- Tập trung biên soạn những bộ giáo trình, tài liệu để xuất bản phục vụ cho giảng dạy
và học tập trong và ngoài trường (Không biết hiện nay ở bậc Đại học của trường đã có
được bao nhiêu cuốn giáo trình, tài liệu phục vụ cho Sinh viên Đại học sư phạm âm nhạc,
mĩ thuật?)
Rất nhiều công việc ngổn ngang của một trường ĐHSP Nghệ thuật non trẻ đang

cần chúng ta quyết định làm việc nào trước, làm việc nào sau? Hay tất cả cùng dàn hàng
ngang đều bước trên một cái nền tuy đã được bồi đắp khá tốt nhưng chưa thực sự hoàn
toàn kiên cố vững chắc!?

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN MĨ THUẬT VÀ ÂM NHẠC
NHẰM ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU GIÁO DỤC TOÀN DIỆN
CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Trịnh Đức Minh
Phó trưởng phòng Giáo dục Tiểu học
Chỉ đạo chuyên môn Nghệ thuật
Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội
Trong kì họp thứ 7, ngày 20 tháng 5 năm 2005 Quốc hội khoá XI nước ta đã thông
qua Luật giáo dục, tại Điều 27 quy định:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.
Trong những năm qua, học tập nghệ thuật trong môi trường giáo dục phổ thông
(GDPT), cho dù thời lượng chưa được nhiều, nhưng những bài học mĩ thuật (MT) và
âm nhạc (ÂN) cùng với những hoạt động nghệ thuật của nhà trường đã đem lại những
tri thức bổ ích cho học sinh (HS) và tạo điều kiện cân bằng tâm lý, bớt đi sự căng
thẳng cho các em trong các buổi đến trường. Không những thế, các môn học nghệ
thuật đã giúp cho đời sống văn hóa học đường thêm phong phú, sinh động, góp phần
tươi trẻ cho thế hệ măng non đất nước.


Nhân đây, cũng cần khẳng định rằng: trong quá trình phát triển Giáo dục & Đào tạo
việc dạy học MT và ÂN ở trường TH và THCS của nhiều địa phương ngày càng
chuyển biến mạnh mẽ và dần đi vào nền nếp. Có được kết quả này, một mặt do có sự

quan tâm, chú trọng hơn trước của các cấp quản lý giáo dục, với sự chỉ đạo thống nhất
theo hệ thống về chương trình dạy học, sách giáo khoa (SGK), sách giáo viên (SGV)
và hệ thống văn bản hướng dẫn chuyên môn trong phạm vi cả nước. Mặt khác, không
thể phủ nhận nguyên nhân của những kết quả đã đạt được có yếu tố cơ bản là sự cố
gắng của các nhà trường, của đội ngũ giáo viên (GV) MT, ÂN trong dạy học và hoạt
động giáo dục thẩm mĩ.
Hiệu quả giáo dục nghệ thuật cho HS phổ thông trong những thập kỷ vừa qua, cần
phải nói đến công sức, thành quả đào tạo của các trường (khoa) sư phạm nghệ thuật,
với “vị trí đầu đàn” trên 40 năm truyền thống của trường Cao đẳng sư phạm (CĐSP)
Nhạc-Họa Trung ương (nay là trường ĐHSP Nghệ thuật TƯ), Khoa giáo dục Nghệ
thuật của trường ĐHSP Hà Nội 1 và một vài trường CĐSP địa phương, trong đó phải
kể đến trưòng CĐSP Hà Nội với 40 năm đào tạo GV MT, ÂN tại Thủ đô (tiền thân là
khoa Họa-Nhạc-Thể dục trường SP cấp II - 10+3 HN thành lập từ năm 1969).

Nói đến chất lượng giáo dục, yếu tố tiên quyết và vô cùng quan trọng là vai trò đội
ngũ nhà giáo, (tất nhiên phải tính đến cả các yếu tố về: quản lý GD, bồi dưỡng, điều
kiện dạy học cũng như về chương trình và nội dung dạy học-NDDH). Tuy nhiên với
mục đích và khuôn khổ của Hội thảo, chúng tôi xin đặt vấn đề về công tác đào tạo GV
MT, ÂN ở nước ta hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu của GD-ĐT trong thời kỳ đổi mới
và góp phần thực hiện Mục tiêu giáo dục toàn diện cho HS ở trường phổ thông.
Chất lượng và hiệu quả đào tạo, lý luận và thực tiễn đã chỉ ra: vấn đề “đào tạo”, cần
phải quan tâm đến “sử dụng”, hay nói một cách cụ thể là “hiệu quả của đào tạo GV”
không thể chỉ dừng lại trong phạm vi nhà trường sư phạm, mà cần phải xác định rõ:
- Một là: Mục tiêu đào tạo nhằm đáp ứng vấn đề gì ? Để trả lời cho câu hỏi:
+ Sinh viên sẽ được sử dụng trong môi trường như thế nào ?
+ Sau khi ra trường, sinh viên (Sinh viên) sẽ phải làm gì ?
- Hai là: Trường sư phạm phải giải quyết những nội dung gì để sau khi ra trường, Sinh
viên sẽ đảm đương được nhiệm vụ của môi trường công tác mới.
Từ đó, vấn đề được đặt ra: để sản phẩm đào tạo có chất lượng và hiệu quả, các trường
(khoa) Sư phạm Nghệ thuật, cần trao đổi kinh nghiệm về những vấn đề gì cụ thể trong

công tác đào tạo GV MT, ÂN.


Trước tiên, chúng tôi cho rằng: nhà trường sư phạm cần phải nắm vững nhiều hơn nữa
về thực tế GDPT trong giai đoạn mới, sự gắn kết hữu cơ giữa trường sư phạm với nhà
trường phổ thông là vấn đề quan trọng. Không bám sát và nắm vững môi trường phổ
thông sử dụng Sinh viên khi ra trường, trường sư phạm không thể có quá trình đào tạo
đúng hướng và hiệu quả. Sản phẩm đào tạo không phù hợp hoặc kém chất lượng sẽ
không đáp ứng yêu cầu sử dụng, ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục HS, hệ quả kéo
theo về công tác đào tạo không thể phát triển.
Vấn đề nêu ra tưởng chừng như lý thuyết “biết rồi, khổ lắm nói mãi”, nhưng thực tế
lại là những việc cần trao đổi và cần làm ngay, nhất là trong thời gian gần đây ở nước
ta có chiều hướng “Trăm hoa đua nở”, phát triển nhiều trường lớp sư phạm đào tạo
GV MT, ÂN tại các địa phương. Cũng như trong hoàn cảnh xã hội đang trên đà phát
triển như hiện nay, đã đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự nghiệp GD-ĐT, yêu cầu
về chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục nghệ thuật ở trường TH,
THCS nói riêng.
Do vậy để có thêm luồng thông tin, chúng tôi xin trao đổi về dạy học MT, ÂN ở
trường TH, THCS những nội dung liên quan đến công tác đào tạo của các trường,
khoa sư phạm nghệ thuật, là những đơn vị có nhiệm vụ xây dựng cơ sở nền móng về
kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho Sinh viên trở thành Giáo viên Mĩ thuật, Âm
nhạc và góp phần giải quyết những bất cập của GV trong những năm đầu mới nhận
công tác ở trường phổ thông.

1- Từ thực tế giáo dục phổ thông trong thời kỳ mới đến yêu cầu, nhiệm vụ của
GV Mĩ thuật và Âm nhạc ở trường phổ thông:
1.1. Những yêu cầu chung:
a- Trong thời đại ngày nay, xu hướng chung của thế giới là tiến tới toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa dựa trên nền tảng của sự phát
triển khoa học và công nghệ tiên tiến. Xu thế phát triển khách quan đã đặt ra thách

thức đối với các nước đang phát triển, đó là một quá trình hội nhập, hợp tác để phát
triển và đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Trước những thách thức của xã hội trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, Giáo dục & Đào
tạo có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển đất nước với “nhân tố con
người” nhằm thực hiện phương hướng của Đảng Cộng sản Việt nam là: “nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức,
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, có năng lực sáng tạo”.


Chính vì lẽ đó, hiện nay trong các nhà trường đang thực hiện mạnh mẽ đổi mới toàn
diện, trong đó Mục tiêu giáo dục toàn diện cho HS trong nhà trường phổ thông càng
trở lên cấp thiết, vai trò của giáo dục nghệ thuật thông qua hai môn học MT ÂN đã
được xác định là môn học bắt buộc với yêu cầu nhằm: Giáo dục HS tình cảm văn hóa
thẩm mĩ, giúp HS có kiến thức, kỹ năng cơ bản về MT, ÂN làm cơ sở cho tri thức văn
hóa nghệ thuật phổ thông góp phần hoàn thiện nhân cách của công dân trong tương
lai; như vậy mục tiêu môn học không có mục đích, yêu cầu giáo dục HS trở thành
người làm công tác nghệ thuật hay họa sĩ, nhạc sĩ.
b- Trong Điều 28 của Luật giáo dục (2005) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với từng đặc điểm của lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”
Do vậy, một yêu cầu cấp bách về đổi mới Giáo dục & Đào tạo trong các trường phổ
thông hiện nay, đó là việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo phương hướng
“Dạy học tích cực” mà bản chất phải là sự đổi mới từ nhận thức, quan niệm dạy học
theo xu thế mới của các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới. Trong quá trình
dạy-học: GV tổ chức, định hướng “hoạt động học” nhằm giúp HS tích cực, chủ động,
sáng tạo, chiếm lĩnh và vận dụng kiến thức, kỹ năng bài học. Việc đổi mới này hướng
tới quyền lợi học tập của HS với những đổi mới các hoạt động sư phạm của GV về:
mục tiêu, NDDH, PPDH, hình thức tổ chức DH, thiết bị DH và đánh giá học tập. Dạyhọc MT, ÂN cho dù với đặc thù của môn học nghệ thuật phổ thông, kế hoạch dạy học

chỉ có 1 tiết/tuần ở mỗi khối lớp (từ lớp 1 đến học kỳ I lớp 9) nhưng cũng không thể
tách rời tổng thể chung của hoạt động giáo dục trong nhà trường.
c- Mặt khác, để đáp ứng sự nghiệp đổi mới của toàn ngành, một vấn đề cụ thể nhằm
nâng cao chất lượng của đội ngũ nhà giáo, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ban hành Quy
định về “Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học” (Quyết định số: 14/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 04-5-2007) và tất nhiên sẽ là “Chuẩn nghề nghiệp giáo viên” của các cấp học,
ngành học khác trong thời gian tới. Các yêu cầu đối với GV được quy định rõ với ba
lĩnh vực:
(1). Phẩm chất nhà giáo;
(2). Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và các vấn đề khác của xã hội;
(3). Kỹ năng sư phạm.
Yêu cầu đặt ra là ngay sau khi ra trường, mỗi Sinh viên đã phải tự phấn đấu để khẳng
định mình để hoàn thành nhiệm vụ viên chức nhà giáo trong cương vị mới, trong đó


trình độ đào tạo ở trường sư phạm là cơ sở ban đầu của sự phát triển. “Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên” không những là những tiêu chuẩn đánh giá đối với GV trong năm
học, mà còn là định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng GV nhằm đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
1.2. Nhiệm vụ của người giáo viên nghệ thuật ở trường phổ thông:
Từ những vấn đề nêu trên đặt ra nhiệm vụ của người GV MT, ÂN ở trường
TH và THCS không thể là “người dạy vẽ, dạy nhạc” đơn thuần, cũng như yêu cầu
năng lực của họ chỉ là vẽ đẹp, hát hay đàn giỏi, mà đòi hỏi người GV phải có năng
lực, trình độ kiến thức chuyên môn và những kỹ năng nghiệp vụ của nghề dạy học MT
hay ÂN ở trường TH, THCS; những khả năng đó phải được dựa trên cơ sở tri thức văn
hóa cơ bản, những am hiểu nhất định về chính trị-kinh tế, văn hóa-xã hội... nói chung
và được cập nhật với sự phát triển của thời đại.
- Để đáp ứng nhiệm vụ GV, thực tế nhà trường phổ thông yêu cầu “người thầy nghệ
thuật” không những phải có “nghề dạy học” mà còn phải có khả năng chuyên môn:
sáng tác, biểu diễn (ở một mức độ nhất định, không yêu cầu cao như nghệ sĩ chuyên

nghiệp) và có hiểu biết rộng về kiến thức lý luận trong lĩnh vực chuyên môn của mình;
những năng lực cụ thể về tổ chức các hoạt động giáo dục nghệ thuật ngoại khóa cho
HS như: tổ chức vẽ tranh, triển lãm hoặc tay nghề trang trí đối với GV MT; cũng như
việc sử dụng nhạc cụ, dàn dựng tiết mục, chương trình biểu diễn hoặc tổ chức hội diễn
văn nghệ của nhà trường như đối với GV ÂN; không những thế còn phải biết tổ chức
và hướng dẫn một bộ phận HS sinh hoạt câu lạc bộ năng khiếu nghệ thuật (ngoài giờ
học).
Ngoài ra nhiều nhà trường còn cần đến bàn tay của người GV nghệ thuật trong công
tác Đội thiếu niên (thực tế nhiều GV sau khi ra trường được phân công nhiệm vụ Tổng
phụ trách Đội) và tổ chức tham quan, cắm trại cho HS ngoài nhà trường ...
Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với người GV MT và ÂN ở trường TH, THCS không
phải đợi đến khi ra trường sẽ “học thêm” hay được “bồi dưỡng” để hoàn thành nhiệm
vụ công tác, mà đòi hỏi ngay từ khi còn ở trường sư phạm Sinh viên đã cần phải được
học tập chuyên sâu ở nhiều lĩnh vực và có nội dung đã phải nắm vững những điều cơ
bản. Có như vậy mới tránh được sự lạ lẫm của Sinh viên trong những năm đầu làm
nghề dạy học. Thực tế cho thấy: có những Sinh viên giỏi khi ra trường, còn có những
hạn chế trong dạy học và thực hiện những yêu cầu, nhiệm vụ của nhà trường phổ
thông.
2- Một số tồn tại trong dạy học Mĩ thuật và Âm nhạc ở trường phổ thông:
21. Về quan niệm trong dạy học nghệ thuật:


- Nếu như trong các trường (khoa) sư phạm nghệ thuật MT, ÂN: đội ngũ
Sinh viên là tập hợp những người có năng khiếu (MT hoặc ÂN) với trình độ văn hóa
phổ thông cơ bản và có tình yêu nghề dạy học; về công tác đào tạo giảng dạy chuyên
môn mang đặc trưng nghệ thuật rõ ràng, có yêu cầu chuyên sâu của từng lĩnh vực.
Nhưng trong môi trường giáo dục phổ thông: môn MT, ÂN lại được thực hiện với các
chủ thể học tập là HS đại trà, trong trường học mọi HS đều phải học tập môn MT và
ÂN cùng với nhiều môn học khác, không phân biệt HS có năng khiếu hay không. Nếu
GV nhận thức về mục tiêu môn học không đúng và quan niệm dạy nghệ thuật ở

trường phổ thông là “dạy năng khiếu” sẽ dẫn đến sai lầm “chuyên nghiệp hóa” giờ
học, phức tạp hóa NDDH và PPDH không phù hợp, tất yếu kết quả giờ học sẽ không
có chất lượng. Nguy hại hơn, với quan niệm này GV sẽ bỏ quên một bộ phận lớn HS
trong lớp (vốn không được cho là có năng khiếu).
Về vấn đề nhận thức, đối với Sinh viên ngay từ trường sư phạm đã cần phải
phân biệt rõ sự khác nhau cơ bản giữa việc dạy học nghệ thuật ở trường phổ thông với
dạy học nghệ thuật ở trường chuyên nghiệp hay ở các lớp câu lạc bộ năng khiếu (cho
dù đối tượng học tập cùng một độ tuổi HS phổ thông). Cần phải hiểu rằng: mục đích
dạy học khác nhau dẫn đến NDDH, PPDH cũng như yêu cầu học tập phải khác nhau.
Cũng như theo chúng tôi suy nghĩ thì cũng phải có sự phân biệt giữa nội dung và
phương pháp đào tạo của trường sư phạm nghệ thuật với các trường MT, ÂN chuyên
nghiệp (vấn đề không phải là đối với trường sư phạm chỉ khác vì có học môn PPDH
và Tâm lý, Giáo dục học hoặc có hoạt động thực tập sư phạm cho Sinh viên). Cùng là
đào tạo chuyên môn MT, ÂN nhưng dạy cái gì và như thế nào là điều cần suy nghĩ
trong quá trình đào tạo sư phạm hiện nay.
Người xưa có câu: “Biết mười dạy một”, Sinh viên có trình độ, năng lực
chuyên môn giỏi sẽ có điều kiện để trở thành GV dạy giỏi. Nhưng khi ra trường,
những kiến thức, kỹ năng chuyên sâu được học tập trong trường sư phạm cần phải
được “phổ thông hóa” cùng với những hiểu biết về tâm, sinh lý lứa tuổi HS và năng
lực sư phạm sẽ đem đến cho HS những tri thức mới một cách hiệu quả nhất. Thực tế
trong nhiều giờ học môn MT, ÂN ở trường TH, THCS, GV đưa ra những NDDH xa
rời với khả năng nhận thức và kỹ năng của HS hoặc sử dụng quá nhiều những thuật
ngữ chuyên môn mà HS không thể hiểu hết ý nghĩa và khái niệm.
2.2. Về kiến thức, năng lực chuyên môn và sư phạm
Trước hết cũng xin khẳng định lại: nhiệm vụ giảng dạy MT, ÂN ở trường
TH, THCS đòi hỏi GV cần phải có kiến thức văn hóa; trình độ chuyên môn (bao gồm
sự hiểu biết, cập nhật kiến thức lý luận, kỹ năng chuyên môn); Năng lực sư phạm (bao
gồm kiến thức về giáo dục học và kỹ năng nghiệp vụ). Đây là những yêu cầu hội tụ



cần thiết đối với mỗi người làm nghề dạy học nói chung hay GV dạy nghệ thuật nói
riêng. Sự hạn chế ở một phương diện nào đấy, GV sẽ không thể đủ lý luận để giảng
dạy cái hay, cái đẹp của nghệ thuật và hướng dẫn cho HS tập thực hành hoạt động
nghệ thuật cho dù ở trường TH hay THCS. Cũng như có chuyên môn giỏi nhưng vốn
kiến thức văn hóa cơ bản, khả năng truyền đạt, sử dụng ngôn ngữ hạn chế cũng không
thể dạy học có chất lượng, mặc dù chỉ là dạy nghệ thuật phổ thông. Thực tế cho thấy
một bộ phận không nhỏ GV MT, ÂN hiện nay, còn những bất cập so với đòi hỏi của
yêu cầu giáo dục trong nhà trường, nguyên nhân chủ quan là do mỗi GV chưa hội tụ
đầy đủ những yêu cầu nêu trên.
Những tồn tại trong dạy học của đội ngũ GV MT, ÂN hiện nay có thể nêu
ra một số thực tế sau:
- Đầu tiên cũng cần nói đến đối tượng “chuyên môn yếu” là số GV đang
hiện diện trong nhiều trường TH còn tình trạng GV đứng lớp dạy tất cả các môn học,
hoặc ở một số trường THCS do không có GV chuyên nên sử dụng các GV dạy môn
văn hóa có tài lẻ “biết vẽ” dạy MT hoặc có “tay đàn, giọng hát” để dạy ÂN. Vấn đề
này, tại TP Hà Nội cơ bản đã được giải quyết, nhưng còn các địa phương khác vẫn là
điều nan giải. Vấn đề này giải quyết thực trạng trước mắt phải bằng hoạt động bồi
dưỡng thường xuyên, tuy nhiên cũng khó nâng được chất lượng bởi số GV này không
có gốc chuyên môn cơ bản, do vậy trong tương lai phải dần được thay thế bằng lực
lượng GV chuyên.
- Vấn đề cần bàn là GV chuyên nhưng chất lượng dạy học còn hạn chế.
a. Về trình độ chuyên môn:
Không thiếu những GV trẻ còn yếu về lý luận và kiến thức chuyên môn,
trong một số bài dạy lý thuyết hoặc phần lý thuyết của bài thực hành: thường chỉ nói
lại những nội dung có sẵn trong SGV và SGK hoặc “tràng giang đại hải” cả giờ học
những kiến thức không sát với NDDH của bài.
- GV dạy MT ở phổ thông, nhưng lại “chưa biết” về tranh thiếu nhi, về nghệ
thuật truyền thống như: tranh dân gian, nghệ thuật chạm khắc đình làng... hoặc về
những kiến thức chuyên ngành MT, những tồn tại này là thực tế phổ biến đối với GV
trong những năm đầu công tác. Khi giảng giải phân tích sản phẩm bài tập nghệ thuật

của HS (các bài: vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu), “cách nhìn” của GV lại theo kiểu
MT chuyên nghiệp. Sự thiếu hiểu biết về chất liệu tạo hình (lụa, sơn mài), về loại hình
điêu khắc, về lịch sử MT cũng là những điều bất cập trong các trường hợp GV phải
trao đổi về tác phẩm (giới thiệu nền MT qua các thời kỳ).


Có lẽ đây cũng là sự khác nhau giữa họa sĩ sáng tác với GV MT ở trường
phổ thông, vì trình độ chuyên môn của GV không thể chỉ là “vẽ được tranh đẹp” mà
còn phải “biết nói về tranh”, cách vẽ tranh và những kiến thức về MT phổ thông.
Trong một số trường hợp “gu thẩm mĩ” của GV còn chưa ổn, nên cũng đã dẫn đến kết
quả dạy học và hiệu quả giáo dục thẩm mĩ còn hạn chế.
- Ca hát là nhu cầu của trẻ em, cũng như ÂN phổ thông vốn là những hoạt
động thường nhật trong trường TH, THCS. Tuy nhiên cũng không thiếu những giờ
dạy ÂN nói chung hoặc trong bài dạy “Phát triển khả năng ÂN” hay “Kể chuyện ÂN”,
GV không tạo được sự hấp dẫn và gây không khí ÂN trong lớp học, giờ học khô cứng,
nặng nề theo khuôn mẫu do trình độ chuyên môn của GV có hạn.
Hiện nay, phương tiện dạy học ÂN ở trường phổ thông đã được hỗ trợ bằng
các trang thiết bị dạy học khác nhau, trong đó có đàn Oocgan điện tử, nhưng rất tiếc
trên thực tế vẫn còn một số GV chưa thạo sử dụng; nhân đây chúng tôi cũng xin thông
báo: vừa qua một Công ty Hàn Quốc đã tặng Bộ GD-ĐT đợt 1: 3000 chiếc đàn Piano
điện tử để dạy ÂN ở trường TH. Vấn đề nêu ra để thấy sự cần thiết về nội dung đào
tạo Sinh viên phải có trình độ sử dụng nhạc cụ thành thạo, không những thế còn cần
phải biết đến kiến thức về nhạc cụ dân tộc để phục vụ dạy học khi ra trường.
- Về khả năng chuyên môn và tổ chức hoạt động ngoại khóa của GV của hai
môn MT, ÂN đều cần phải lưu tâm. Ban giám hiệu nhiều trường phàn nàn về chuyện
này khi có GV MT không thực hiện được một số yêu cầu như trang trí hội nghị, phòng
truyền thống..., GV ÂN không dàn dựng được chương trình văn nghệ, tổ chức hội diễn
...
- Những vấn đề tồn tại về trình độ văn hóa, kiến thức chuyên môn của GV
MT, ÂN còn bộc lộ ở năng lực sử dụng ngôn ngữ qua việc chuẩn bị giáo án hay khi

viết sáng kiến kinh nghiệm.
b. Về khả năng sư phạm:
Trên thực tế có một số GV trẻ ngay từ một hai năm đầu mới ra trường có
trình độ chuyên môn tốt. Nhưng do quan niệm chưa đúng hoặc không nắm vững
PPDH ở phổ thông nên chất lượng dạy học chưa đạt yêu cầu.
- Môn Mĩ thuật: hầu hết các bài học là hoạt động thực hành giúp HS tiếp cận
và hình thành kiến thức, kỹ năng cơ bản của hội họa. Một số GV có khả năng sáng tác
hội họa và làm đồ họa tốt (tham gia trang trí nhà trường, có thể làm quảng cáo, vẽ
tranh triển lãm ...); nhưng trong dạy học, những GV này vì có khả năng về hình họa
hoặc trang trí nên rất say mê vẽ minh họa trên bảng, thậm chí vẽ trọn vẹn cả bức tranh
hay hình trang trí, và còn thí dụ có nhiều lối bố cục khác nhau; vẽ đầy đủ hình của vật


mẫu từ một góc nhìn chủ quan của GV trong bài Vẽ theo mẫu... để HS tham khảo.
Nhưng hệ quả là GV đã biến giờ dạy học Mĩ thuật ở phổ thông thành giờ HS chép
theo hình vẽ trên bảng của GV; thay vì hướng dẫn gợi ý hoặc sử dụng đồ dùng dạy
học để HS thực hành theo khả năng sáng tạo, GV lại vẽ hộ, chữa trực tiếp vào bài vẽ
của HS và điều khiển HS vẽ màu theo ý mình ..., HS có thể hoàn thành bài vẽ nhưng
GV đã tạo ra tính thụ động và làm mất đi cái hay, cái đẹp của trẻ em. Về PPDH, có thể
thấy sự biểu hiện rõ nét về cách dạy truyền nghề thủ công của thợ cả với thợ phụ học
nghề, hoàn toàn không đúng với mục tiêu và yêu cầu dạy học MT ở phổ thông.
- Môn Âm nhạc: nhiều GV có khả năng sử dụng thành thạo đàn phím điện
tử, nhưng khi giảng dạy GV đã biến phương tiện dạy học thành công cụ biểu diễn, tài
năng phối âm phối khí của GV đã trổ tài không đúng chỗ. Không ít GV còn lẫn lộn
giữa việc dạy Tập đọc nhạc ở trường TH với dạy xướng âm ở trường chuyên nghiệp
(cũng như dạy phân môn Học hát như dạy thanh nhạc). Do vậy trong các giờ học này,
GV thiếu sự bao quát lớp, không phát hiện sửa chữa các lỗi sai của HS trong học tập
dẫn đến nhiều HS hát sai giai điệu, mặc dù bài hát thiếu nhi không quá khó. HS học
hát chưa xong (hát chưa đúng giai điệu, sai cao độ, tiết tấu...), GV đã hăng hái yêu cầu
HS tập gõ đệm, thậm chí cùng gõ đệm theo tiết tấu với nhịp hay phách của bài hát và

tiếp đến “múa phụ họa” (thực ra chỉ ở mức độ vận động theo giai điệu) để rồi còn biểu
diễn ở cuối giờ học. Gọi là tập biểu diễn, nhưng một số GV còn yêu cầu HS chuẩn bị
đạo cụ, trang phục và khi hát phải thể hiện sắc thái, tình cảm của bài hát... do cách dạy
như vậy nên ngay cả ở một số trường THCS (đặc biệt ở khu vực nông thôn) tình trạng
HS hát sai giai điệu hoặc nhận diện, đọc sai tên nốt trên khuông nhạc là điều thường
gặp. Ôm đồm những yêu cầu quá ngưỡng HS, trong khi những nội dung cơ bản của
bài học chưa giải quyết đến nơi đến chốn, những tồn tại này xuất hiện ở cả GV hát hay
biểu diễn tốt.
Những nhược điểm nêu trên chỉ là ví dụ cho những trường hợp GV còn yếu
về PPDH do chưa nắm vững dạy học nghệ thuật ở trường phổ thông với đối tượng học
tập đại trà, thời lượng học tập chỉ gói gọn trong một tiết học 40 phút ở TH và 45 phút
ở THCS.
c- Vấn đề thực hiện Đổi mới dạy học và kỹ năng dạy học:
Như phần trên đã trình bày về xu hướng đổi mới PPDH với quan điểm
“dạy học tích cực”, đã đặt ra những yêu cầu đòi hỏi mọi GV phải cố gắng thực hiện
trong các giờ lên lớp. Về vấn đề này, phần đông GV mới ra trường còn ngơ ngác khi
thực hiện. Nhìn chung GV thiếu hiểu biết về phương pháp luận của vấn đề cũng như
khả năng thực hiện thiếu hiệu quả (mặc dù không đòi hỏi cao đối với GV mới ra
trường).


- GV thực hiện “Đổi mới PPDH” theo lối bắt trước, thiếu chủ động. Trong
dạy học, GV cũng có đồ dùng trực quan, có thay đổi hình thức tổ chức dạy học bằng
việc cho HS hoạt động theo nhóm hay trò chơi trong học tập; về PPDH có hỏi đáp,
đánh giá nhận xét và một số GV còn ứng dụng công nghệ thông tin (sử dụng các hiệu
ứng của phần mềm tin học trình chiếu qua máy Prozeter), băng đĩa hình, tivi, cassete...
trong giờ dạy, nhưng vẫn thấy cách “đổi mới dạy học” chỉ dừng lại ở “hình thức” là
chính. Phương tiện dạy học và hoạt động sư phạm của GV chưa thể hiện được sự dẫn
dắt, gợi ý và tạo ra được “hoạt động học” thực sự để giúp HS tự chiếm lĩnh nội dung
bài học.

- Yếu tố nghề nghiệp còn nhiều bất cập, qua việc GV lúng túng nhiều khi
xây dựng “Kế hoạch dạy học bộ môn” cũng như hình thành bộ “Hồ sơ chuyên môn cá
nhân” hay trong việc soạn giáo án theo tinh thần đổi mới hoặc tổ chức dạy học theo
đặc trưng của môn học hoặc của từng phân môn.
Trong hoạt động dạy-học, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo SGV, SGK chỉ là tham
khảo vì các bộ sách được sử dụng trên toàn quốc, nhưng việc chuẩn bị bài dạy (soạn
giáo án) hay tổ chức dạy học (một tiết dạy), GV thực hiện máy móc, phụ thuộc hoàn
toàn vào SGV và SGK. Điều này có thể lý giải do trình độ văn hóa cơ bản cũng như
kiến thức chuyên môn và hiểu biết nghề nghiệp còn hạn chế đã làm GV thiếu chủ
động trong dạy học.

3- Một số ý kiến về công tác đào tạo GV Mĩ thuật, Âm nhạc
Nhằm đáp ứng yêu cầu của GDPT trong tình hình mới, từ những phân
tích trên đây về thực tế dạy học MT, ÂN ở trường TH và THCS, xin trao đổi một số
vấn đề về công tác đào tạo làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ GV Mĩ
thuật, Âm nhạc.
3.1. Công tác tuyển sinh, chọn đầu vào:
- Bộ GD-ĐT và các trường sư phạm (khoa) sư phạm Nghệ thuật cần quan
tâm hơn về tiêu chuẩn văn hóa cơ bản, nên nâng điểm chuẩn tối thiểu của các môn văn
hóa.
- Yêu cầu năng khiếu chuyên môn là tiêu chuẩn hàng đầu, tuy nhiên cũng
cần phải có biện pháp nhằm có kết quả thật sự khi tuyển sinh.
- Tiêu chuẩn năng khiếu: ngoài yêu cầu chuyên môn MT hoặc ÂN, nên
chăng cần có thêm yêu cầu về nghề dạy học.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×