Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đề tài "Nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.47 KB, 39 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong lý luận giáo dục chung của con người, từ xưa cho đến nay, mối
quan hệ giữa con người với con người vẫn luôn là một đề tài khiến không ít các
nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm, bởi con người là tổng hòa của các mối quan
hệ xã hội và để thực hiện sứ mệnh thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội thì
con người phải thực hiện rất nhiều hoạt động trong đó có hoạt động giao lưu,
giao tiếp. Nhìn một cách toàn diện, để hoạt động giao lưu, giao tiếp của con
người có được hiệu quả cao thì mỗi người phải tự mình cố gắng vươn lên làm
chủ hoạt động giao lưu, giao tiếp của mình với người khác. Tuy nhiên hoạt
động đó muốn đi tới sự hoàn mỹ và toàn diện thì mỗi người phải biết tạo ra cho
mình một sự hứng thú khi tham gia trong tất cả các mặt hoạt động của đời sống,
bởi vì hứng thú có ý nghĩa rất lớn trong việc kích thích hoạt động đi tới hiệu
quả cao. Có rất nhiều loại hứng thú : hứng thú làm việc, hứng thú vui chơi,
hứng thú trong tình cảm, hứng thú trong học tập… Hứng thú trong học tập là
một trong những hứng thú rất quan trọng trong cuộc đời mỗi con người bởi
phần lớn tuổi trẻ của chúng ta là dành cho việc học tập. Có hứng thú trong học
tập thì kết quả học tập của mỗi người mới cao hơn, có hứng thú học tập sẽ có
tác động đến sự phát triển về mọi mặt.
Hiện nay trong hệ thống giáo dục, trong các nhà trường thì việc khơi gợi
hứng thú học tập nói chung cho học sinh đã và đang được quan tâm đáng kể.
Trong số các môn học thì môn Ngữ văn là môn học mang tính nhân văn khá
cao. Đây không chỉ là môn học có tính nghệ thuật, thẩm mỹ mà nó còn là bộ
môn phản ánh hiện thực cuộc sống một cách sinh động và chân thực nhất thông
qua ngôn ngữ. Đồng thời nó cũng là môn học có giá trị bồi dưỡng những tình

1


cảm cao đẹp của con người như: lòng yêu quê hương, đất nước, lòng tự tôn dân
tộc, tình yêu thương đồng loại…Và hơn thế nữa nó hình thành những kỹ năng


giao tiếp, ứng xử làm cho tâm hồn các em thêm phong phú và trong sáng hơn
thông qua ngôn ngữ.
Với xu thế của xã hội ngày nay khi Công nghệ thông tin, khoa học kỹ
thuật ngày càng chiếm lĩnh và đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế, khi đời
sống con người trong nền kinh tế thị trường ngày càng cao thì những nguy cơ
về vấn đề đạo đức ngày càng khiến những nhà quản lý quan ngại. Chính vì vậy
vai trò của môn Ngữ văn trong nhà trường cần phải được quan tâm đúng mức
bởi “văn học là nhân học”, dạy văn là dạy cách làm người ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường.
Từ năm 2002, thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta, cùng với xu
hướng chung, ngành Giáo dục đã có những đổi mới căn bản và toàn diện đặc
biệt là chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học mới. Tuy nhiên có
một thực trạng là các em học sinh thích học các môn Tự nhiên và Ngoại ngữ
hơn là các môn Xã hội trong đó có môn Ngữ văn vẫn khá phổ biến. Phải chăng
đó là xu thế, là nhu cầu do xã hội mang lại. Hầu hết các em học sinh đều cho
rằng môn Ngữ văn học khó và nhàm chán, nếu có phải học thì cũng chỉ để phục
vụ cho việc thi vào THPT mà thôi. Cùng với chính bản thân các em thì ngay cả
các bậc phụ huynh cũng có xu thế định hướng cho con em mình học các môn
khoa học tự nhiên để có định hướng cho tương lai.
Chính vì vậy, việc nâng cao hứng thú học tập cho các em trong môn Ngữ
văn là vô cùng quan trọng. Các thầy cô phải làm cho các em cảm nhận được cái
hay, cái đẹp của ngôn ngữ được gửi gắm trong những trang văn, từ đó khơi gợi
hứng thú cho các em trong học tập môn học đặc biệt này bởi nếu học chỉ để
phục vụ cho việc thi vào THPT thì tương lai ngôn ngữ của các em sẽ vô cùng

2


nghèo nàn. Các thầy cô phải làm cho các em hiểu rằng “biết mà học không
bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”, đó chính là sự say

mê . Đồng thời các thầy cô phải giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, tìm
mọi cách không chỉ là phát huy tính tích cực mà còn khơi gợi được hứng thú
cho học sinh, phải làm cho học sinh tiếp cận tác phẩm văn chương nhìn từ góc
độ xã hội và truyền thống. Đó là một nghệ thuật khó khăn mà yêu cầu người
làm thầy dạy môn Ngữ văn phải làm cho được.
Như vậy có thể nhìn nhận lại vấn đề là việc tạo hứng thú học tập nói
chung và học tập môn Ngữ văn nói riêng là một đòi hỏi cần thiết của lý luận và
thực tiễn dạy học. Với những vấn đề trên, qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy
môn Ngữ văn, cùng với mong muốn trao đổi, đóng góp một chút kinh nghiệm
dạy học, tôi đã nghiên cứu và trình bày đề tài:
“Nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh ở trường THCS”
Với đề tài này, dù không phải là một vấn đề mới mẻ nhưng tôi cũng hy
vọng góp thêm vào việc hình thành nên hứng thú học tập môn Ngữ văn trước
tình hình thay đổi của xã hội nói chung và nhu cầu học tập của học sinh nói
riêng trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện đề tài này, tôi chủ yếu vẫn dựa trên
những kinh nghiệm cá nhân được đúc kết trong quá trình giảng dạy mà tôi đã áp
dụng trong những năm học vừa qua tại trường THCS Đông Phú, huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang và đã đem lại những kết quả tốt.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Thực hiện mục đích là đem tới cho học sinh hứng thú khi học tập môn
Ngữ văn, từ đó thấy được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để tìm ra
những điều kiện tốt nhất, đề ra những biện pháp hữu hiệu nhất giúp tất cả các
em học sinh tìm ra hứng thú học tập môn học này cho mình, nâng cao chất
lượng bộ môn nói riêng và thành tích học tập của các em nói chung. Đồng thời,

3


thông qua việc nghiên cứu đề tài này, tôi hy vọng sẽ mang đến những ý tưởng
tốt đẹp để bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em học sinh, để cho tâm hồn

các em sẽ phong phú, thanh cao và yêu đời hơn, làm cho các em có ý thức trở
thành những người văn minh, lịch sự, tế nhị, biết yêu, ghét phân minh.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu những cơ sở khoa học và thực tiễn dạy học nhằm nâng cao
hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh THCS.
2. Phân tích và đánh giá thực trạng dạy và học môn Ngữ văn cũng như
hứng thú học tập môn Ngữ văn ở trường THCS Đông Phú, huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang.
3. Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hứng thú học
tập môn Ngữ văn cho học sinh THCS.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1.Tìm hiểu về hứng thú học tập và những phương pháp tạo hứng thú
trong việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS Đông Phú, huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang.
2. Học sinh trường THCS Đông Phú, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Nghiên cứu các văn kiện của ngành.
- Nghiên cứu các tài liệu của các nhà phê bình và các tác giả văn
học.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm quản lý giáo dục.

4


- Phương pháp quan sát.
3. Nhóm phương pháp hỗ trợ:

- Phương pháp thống kê
- Phương pháp đối chứng.
- Phương pháp kiểm tra.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về các biện pháp nâng cao hứng thú học
tập môn Ngữ văn ở trường THCS với những nội dung chính:
+ Những biểu hiện của hứng thú học tập môn Ngữ văn.
+ Các biện pháp gây hứng thú cho học sinh.
+ Nghệ thuật lên lớp của giáo viên.
+ Lồng ghép một số hoạt động tổ chức các hoạt động dạy và học môn
Ngữ văn ở trường THCS.
VII. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này được thực hiện tại trường THCS Đông Phú, huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang từ năm học 2013-2014. Sau khi đề tài được hoàn thành, tôi đã
thông qua tổ chuyên môn và Ban giám hiệu nhà trường để xem xét và đóng góp
ý kiến từ đó điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường. Từ
năm học 2013-2014, đề tài của tôi đã được tổ chuyên môn triển khai đến toàn
thể giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn để áp dụng thực hiện. Qua hơn một năm
thực hiện, kết quả học tập môn Ngữ văn của các em học sinh trường THCS
Đông Phú, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã tăng lên đáng kể, đặc biệt các
em đã có hứng thú học tập môn học này.
VIII. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI:
* PHẦN I: MỞ ĐẦU.
* PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ.

5


Gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
CHƯƠNG II. NHỮNG BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ TRONG
GIỜ HỌC MÔN NGỮ VĂN.
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN.
* PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ:
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trong Nghị quyết TW II/ khóa VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục
là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục”. Như vậy có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh tới
vai trò của giáo dục khi mà cả nhân loại đang tiến vào thế kỉ 21 với những
thành tựu lớn về mọi mặt, ánh sáng của tri thức, văn minh tiến bộ ngày càng soi
tỏ con đường đi lên của mỗi dân tộc. Và như Jacques Delors đã khẳng định
rằng: “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà chúng ta có trong
tay để đào tạo nên tương lai” thì sự nắm bắt thời cơ giáo dục để đi kịp thời đại
có tầm quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong luật giáo dục sửa đổi, điều 28, mục 2 nhấn mạnh: “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào

6


thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm
1998, “Hứng thú” có hai nghĩa, đó là “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ

thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố
gắng thực hiện” và “Hứng thú là sự ham thích”.
Qua cách định nghĩa về khái niệm trên ta có thể thấy rằng: Hứng thú có
nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích thú, hào hứng của con người đối với một hoạt
động nào đó.
Như vậy có thể thấy rằng khi một người nào đó tìm được cho mình một
niềm say mê, một sự thích thú thì người ấy sẽ trở nên phấn chấn trong tâm trạng
và đương nhiên những việc làm của họ sẽ có hiệu quả cao hơn, dễ đi đến thành
công và có thể thành công nhanh hơn. Có thể dễ dàng hiểu được điều này đó
chính là hứng thú đã tạo ra động lực để thúc đẩy hoạt động của con người, nó đi
vào nhận thức của con người một cách tự nhiên, thấm sâu vào bên trong chứ
không phải chỉ dừng lại ở bên ngoài hời hợt, nó khiến cho con người phải chủ
động, tích cực tìm tòi và sáng tạo ra những tri thức mới hoặc sâu sắc hơn. Trong
mỗi một lĩnh vực khác nhau, hứng thú cuãng mang lại những tác dụng khác
nhau:
+ Trong đời sống hàng ngày:
- Hứng thú mang lại niềm vui, nó xóa đi những mệt nhọc, ưu tư hay đúng
hơn là những xúc cảm mang tính tiêu cực trong con người, nó ổn định tâm lý
con người thông qua việc duy trì những trạng thái tâm lý tỉnh táo của con
người.
- Hứng thú góp phần xác định và duy trì tâm lý, đặc biệt là ổn định trạng
thái tích cực trong con người, khiến con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo.

7


- Hứng thú còn có một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách con người, nó làm cho khả năng hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ
và các hoạt động khác cũng được gắn kết và phát triển một cách tích cực.
- Hứng thú trong cuộc sống cũng là cơ hội để con người gắn bó và gần

gũi nhau hơn, tạo nên những mối quan hệ tốt đẹp mà không phải khi nào cũng
dễ dàng tạo dựng được.
+ Trong các hoạt động dạy học:
Trong sự đa dạng của các ngành nghề, mỗi ngành, mỗi nghề có những ưu
điểm và nhược điểm riêng, nhược điểm hình thành khi chúng ta làm sai ở một
khâu nào đó. Tuy nhiên chúng ta có thể sửa sai khắc phục tức thì hoặc qua một
thời gian nhất định. Nhưng trong nghề dạy học thì hoàn toàn khác, bởi dạy học
là một nghệ thuật không giống như như những ngành nghề kia có thể sửa sai
được ngay. Dạy học mà dẫn tới sai lầm thì sẽ để lại những hậu quả vô cùng to
lớn, nó ảnh hưởng tới cả một thế hệ tương lai, đem tới cho xã hội cả một lớp
người dốt về tri thức, lạc về tâm hồn, trở thành gánh nặng cho xã hội và trở
thành nỗi ám ảnh suốt cuộc đời người làm thầy. Chính vì lẽ đó người giáo viên
phải thật sự giỏi về chuyên môn, đẹp về tâm hồn, nó không chỉ cần cho chính
người thầy mà còn cho cả tương lai của một dân tộc.
Theo William A. Ward thì:
“ Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”
Người thầy giỏi là người biết đem đến hứng thú, sự yêu thích trong quá
trình học tập cho học sinh, đó là việc làm cần thiết và không thể thiếu trong quá
trình dạy học. Bởi như chúng ta đã biết, chúng ta rất khó có thể dạy ai đó làm

8


bất cứ điều gì nhưng chúng ta có thể truyền cảm hứng cho họ để họ tự khám
phá về điều đó. Vì vậy, trong quá trình dạy học nếu giáo viên làm khơi dậy
được cảm hứng, sự say mê cho các em thì đó chính là mang đến cho học trò
động cơ học tập giúp những tâm hồn non trẻ ấy tự lực khắc phục mọi khó khăn,

vất vả trong cuộc sống cũng như trong học tập để vươn lên đạt được những kết
quả tốt nhất trong học tập và trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện. Có được
nguồn động lực đó, các em sẽ tích cực, chủ động tìm và tiếp nhận tri thức trong
sự hào hứng mà không có một rào cản hay sự ép buộc nào.
Những biểu hiện của học sinh khi có được hứng thú trong học tập:
- Trong các giờ học, các em tích cực, hăng hái phát biểu xây dựng bài
thông qua việc trả lời các câu hỏi của thầy cô, đồng thời, khi câu trả lời của các
bạn trong lớp chưa đúng hoặc còn thiếu, các em sẽ chủ động phát biểu bổ sung
câu trả lời của bạn. Tóm lại, các em thích được phát biểu ý kiến của mình trước
lớp và trước những vấn đề mà bài học và thầy cô nêu ra.
- Các em thường xuyên chủ động nêu ra những thắc mắc về những vấn
đề còn chưa hiểu một cách thấu đáo và có những yêu cầu, đòi hỏi phải được
thầy cô, bạn bè giải thích một cách cụ thể, rõ ràng mới thôi.
- Có ý thức vận dụng những kiến thức kỹ năng đã được học vào việc tìm
hiểu các kiến thức mới, luôn chú ý quan tâm vào những vấn đề đang học, đang
tìm hiểu.
- Dù ở trên lớp hay ở nhà, các em luôn kiên trì hoàn thành những bài tập
đã được giao hoặc những bài tập khó.
Khi có hứng thú học tập, học sinh sẽ chủ động, tích cực học tập theo
những cấp độ từ thấp đến cao:
- Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy cô, bạn bè.

9


- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải
quyết khác nhau về một vấn đề...
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Có thể nói, làm khơi dậy hứng thú cho học sinh là một việc làm khó
nhưng khi các em đã có hứng thú với học tập thì giờ học sẽ có được một không

khí thi đua học tập sôi nổi, các em sẽ tích cực, hăng say nghiên cứu, tìm tòi và
học hỏi. Đó chính là khởi nguồn cho sáng tạo và đương nhiên kết quả của hoạt
động giáo dục sẽ nằm trong ý muốn của người thầy. Bởi một lý do đơn giản:
“Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của
việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”
(Viện KHGD - “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.)
Từ những lý luận trên đây có thể khẳng định rằng hứng thú là một phương
tiện dạy học có hiệu quả đem đến lợi ích hai mặt đó là kết quả giáo dục của thầy
và kết quả học tập của thầy. Vì vậy cũng có thể khẳng định rằng người thầy
đóng vai trò trung tâm, quyết định trong việc tạo ra hứng thú cho học sinh trong
quá trình học tập. Trên cơ sở đó, chúng ta cần phải nhấn mạnh vai trò của người
thầy nói riêng và những người làm công tác giáo dục nói chung, kể cả các cấp
quản lý phải không ngừng nghiên cứu tìm ra các biện pháp nâng cao hứng thú
học tập cho các em học sinh khi các em tham gia vào các hoạt động học tập.
Nếu làm được như vậy, các em học sinh sẽ có cơ hội phát huy tính tích cực, chủ
động, độc lập, sáng tạo trong học tập nói riêng và đem kiến thức kỹ năng ấy vận
dụng vào trong mọi mặt của đời sống.

10


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Như chúng ta đã biết, từ năm 2002 khi chương trình sách giáo khoa được
đổi mới và sau đó là rất nhiều các chương trình về đổi mới phương pháp dạy
học thì có thể nói chất lượng giáo dục đã không ngừng tăng lên mang lại những
kết quả khả quan và những tín hiệu đáng mừng. Song do những yêu cầu của đặc
trưng bộ môn Ngữ văn và đặc trưng vùng miền cũng như bản thân người thầy
nên trong những năm gần đây, vấn đề dạy học môn Ngữ văn ở một số trường
THCS chưa đạt được những yêu cầu về chất lượng và hiệu quả. Có thể tìm hiểu
những nguyên nhân cơ bản của vấn đề này, có cả khách quan và chủ quan dẫn

tới tình trạng trên. Cụ thể có thể tóm lược trong những nguyên nhân cơ bản
sau:
+ Về chương trình sách giáo khoa:
Hiện nay mặc dù chương trình sách giáo khoa đã có sự đổi mới đáng kể
so với trước kia, học sinh đã được tiếp cận với những nội dung rất mới, phong
phú về thể loại và phương thức biểu đạt nhưng trong quá trình giảng dạy nhiều
năm, tôi nhận thấy (và đây cũng là ý kiến của rất nhiều đồng nghiệp thông qua
các buổi sinh hoạt chuyên môn trường, cụm, huyện.): chương trình sách giáo
khoa của chúng ta còn có những phần hơi nặng so với lứa tuổi học sinh THCS
hoặc so với đặc trưng vùng miền. Ví dụ trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn 7, toàn bộ phần văn nghị luận, phần văn học với các tác phẩm Thơ Đường,
đây là phần kiến thức mà khi chuyển tải đến học sinh, giáo viên rất vất vả cũng
như học sinh, các em phải khó khăn lắm mới tiếp nhận được nội dung của các
tri thức trên, đó là chưa kể đến các em học sinh ở các vùng nông thôn, trung du,
miền núi. Cũng có những tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, Sở
GD&ĐT Bắc Giang đã có những kế hoạch xây dựng khung chương trình và
phân phối chương trình cho phù hợp với từng địa phương, nhà trường, tạo điều

11


kiện tốt nhất để giáo viên và học sinh chủ động tìm ra những điểm hợp lý trong
chương trình giáo dục và sắp xếp cho giờ dạy đảm bảo kiến thức và đảm bảo
yêu cầu giảm tải.
+ Về phía địa phương, nhà trường và đồ dùng dạy học:
Trường THCS Đông Phú là một trường nằm trên địa bàn xã Đông Phú,
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Dù chỉ cách trung tâm huyện khoảng 8km
nhưng đời sống nhân dân trong xã vẫn còn rất khó khăn. Cả xã có 3 thôn nằm
trong diện đặc biệt khó khăn, các thôn khác trên 90% nhân dân sống chủ yếu
nhờ sản xuất nông nghiệp nên kinh tế chưa thực sự phát triển, văn hóa, giáo dục

còn hạn chế. Đối với trường THCS Đông Phú, mặc dù trong những năm qua
với sự đầu tư của Nhà nước và địa phương, cùng với sự cố gắng nỗ lực phấn
đấu của tập thể giáo viên, nhà trường đã đạt trường chuẩn Quốc gia giai đoạn II.
Nhà trường rất chú trọng đến việc đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy học, song ở
một số bộ môn số lượng còn ít, trong đó có môn Ngữ văn. Hiện nay, ngoài bộ
tranh chân dung các tác giả văn học (đã có từ năm 2001, nhưng còn thiếu nhiều
tác giả so với chương trình sách giáo khoa mới) còn có một số bộ tranh lớp 6, 7
được cấp từ năm 2004 thì hầu hết các đồ dùng học tập khác đều do giáo viên tự
sưu tầm và làm nên chất lượng chưa cao.
+ Về phía giáo viên:
Trong những năm qua được sự quan tâm của ngành, cùng với sự hướng
dẫn của các cấp quản lý giáo dục, hầu hết các đồng chí giáo viên đều được cử đi
học các lớp bồi dưỡng về chương trình sách giáo khoa, về đổi mới phương pháp
dạy học…Song tình trạng dạy học vẫn còn thiên nhiều về lý thuyết và thuyết
trình đã gây nên chưa gây được hứng thú học tập cho các em, không phát huy
sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ của học sinh; cùng với việc thiếu thốn
về trang thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực quan, dụng cụ

12


nghe nhìn, tài liệu tham khảo... cho giáo viên cũng như học viên khiến cho việc
áp dụng dạy học theo phương pháp mới gặp nhiều khó khăn và một trong
những nguyên nhân quan trọng nữa là việc vận dụng đổi mới phương pháp vào
giảng dạy ở môn Ngữ văn chưa đáp ứng yêu cầu. Chính vì thế, dẫn đến việc dạy
- học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép
rồi học thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ động đó không gây được sự hào
hứng tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ trong mỗi giờ học. Vì thế, những
kiến thức thu nhận được trở nên hời hợt, vay mượn, không thấm sâu vào trí tuệ,
tâm hồn người học.

+ Về phía học sinh:
Do thực tế địa phương, một số học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số
trình độ nhận thức chưa cao nên dù đã học đến bậc THCS nhưng nhiều em chữ
viết còn xấu, viết còn chậm, sai lỗi chính tả, đọc còn ngọng, thậm chí còn yếu
về việc đọc. Đây được xem như một rào cản không chỉ làm các em thiếu tự tin
trước bạn bè mà còn thiếu tự tin trong giờ học. Đó là trở ngại lớn cho việc học
môn Ngữ văn, bởi học văn là phải đào sâu, tìm tòi, khám phá những kiến thức
ẩn sâu trong những văn bản, phải thực hành hình thành nên văn bản. Vậy với
nhận thức của các em như thế việc học môn Ngữ văn vô cùng khó khăn. Một
thực tế nữa là hầu hết các em khi được hỏi đều nói không thích hoặc ngại học
môn văn, trong giờ học môn Ngữ văn các em cảm thấy không có hứng thú.
Đối với học sinh trường THCS Đông Phú, so với các đơn vị bạn, các em
được đánh giá ngoan ngoãn, có ý thức tốt nhưng do đặc điểm địa phương và gia
đình nên sau giờ học hầu hết các em đều phải phụ giúp gia đình công việc đồng
áng do đó có phần nào ảnh hưởng đến việc học tập. Đa số các em còn hạn chế
về tư duy logic, tư duy sáng tạo. Việc học các môn học khác trong nhà trường
đối với các em đã khó khăn chưa kể đến môn học nghệ thuật kích thích trí

13


tưởng tượng, sáng tạo như môn Ngữ văn. Bởi môn học này sử dụng thứ chất
liệu đặc biệt đó là ngôn từ với những hàm nghĩa sâu xa nên việc tiếp nhận đối
với các em càng khó khăn hơn. Ngoài ra, các em có thói quen thụ động, quen
nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc những gì giáo viên
truyền đạt. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của các em, biến mình
thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng
những lời có sẵn của người khác trong các sách tham khảo. Do đó, học sinh trở
thành những con người lệ thuộc vào sách vở, các em không hào hứng và không
quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, cho nên khi nói

và viết gặp rất nhiều khó khăn.
Trong những năm qua là người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, tôi luôn
trăn trở và tìm ra những phương pháp nhằm khơi gợi cho học sinh hứng thú và
sự yêu thích môn học này, làm sao để chất lượng môn Ngữ văn được nâng cao,
giúp các em tự tin về ngôn ngữ, biết nói và bộc lộ những suy nghĩ và tình cảm
cũng như quan điểm của mình trước tập thể và ngay trong những bài viết của
mình. Điều quan trọng hơn, tôi muốn mỗi giờ học văn là một khoảnh khắc đáng
nhớ, để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng các em bởi các em chính là người
đã khám phá ra những cái hay, cái đẹp của những giá trị văn chương.
Xuất phát từ thực trạng học tập môn Ngữ văn, từ thực tế giảng dạy của
bản thân mình, tôi mong rằng đề tài này sẽ được sự đón nhận của đồng nghiệp
và hy vọng phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay.

14


CHƯƠNG II: NHỮNG BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ TRONG GIỜ
HỌC MÔN NGỮ VĂN.
1. Biện pháp gây hứng thú bằng nghệ thuật lên lớp của giáo viên:
1.1. Tác động vào tình cảm học sinh là biện pháp rất quan trọng để
gây hứng thú học tập Ngữ văn.
Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò
bằng những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng
tất cả tâm hồn mình”.
Đúng vậy, để học sinh có thể chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có
hứng thú với môn học thì trước hết giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất
cả trái tim và lòng tâm huyết của mình, phải để học sinh cảm nhận được tâm
hồn mình trong mỗi bài giảng. Sự quan tâm, lòng nhiệt tình của giáo viên nhất
định sẽ được học trò đáp lại một cách xứng đáng mà trước tiên là thái độ hứng
thú trong việc học tập môn này, là sự nỗ lực vượt khó (vượt qua chính mình,

những mặc cảm, tự ti, những khó khăn trong cuộc sống...) và cuối cùng là đạt
kết quả cao trong học tập. Do đó, mỗi giáo viên cần tâm niệm: Một giáo viên
mãi cũng chỉ là một giáo viên, nhưng sẽ là một thầy giáo, một nhà giáo vĩ đại
nếu có thể làm thay đổi được cuộc đời của học sinh theo hướng tích cực.
Muốn vậy giáo viên phải thường xuyên học tập và rèn luyện về tri thức,
phương pháp, kĩ năng dạy học và nhân cách, tâm hồn của mình. Đó là những
điều tối cần thiết cho sự nghiệp trồng người để xứng đáng với nghề nghiệp
"Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý".
1.2. Gây hứng thú học Ngữ văn bằng cách xây dựng không khí lớp học
Ngạn ngữ Đức có câu “Bắt đầu làm việc bằng sự nghỉ ngơi”

15


Đúng vậy, trong mọi công việc, 40 phút làm việc và 5 phút để thư giãn
sẽ mang lại kết quả lớn so với 45 phút làm việc liên tục bị gò bó. Huống chi đối
với việc học - công việc liên quan đến trí óc và thường làm chúng ta mệt mỏi về
tinh thần. Chỉ có sự nhiệt tình, tổ chức điều khiển giờ dạy một cách khoa học,
sinh động của giáo viên mới kích thích sự hứng thú học tập trong học sinh. Từ
đó, tạo ra bầu không khí tích cực thi đua giữa các học sinh. Bầu không khí
chung của lớp học đầy tinh thần bác ái, hài hòa và say sưa cũng góp phần rất
lớn tạo ra sự thành công của tiết học.
Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao
chất lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận
thức trong học sinh.
Cho nên, giáo viên phải biết cách mang một không khí thoải mái vào lớp
học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp học bằng các chuyện vui, các câu thơ,
câu văn hay hình thức đố vui có liên quan đến nội dung bài học; bằng các tranh
vẽ, sơ đồ... để gợi hứng thú, trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh.
Vì thế, trong một tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng,

một mẩu chuyện về nhà văn...sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi ngay;
học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại mà giáo viên kể.Và như thế lớp
học sẽ sôi động hẳn lên, học sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích học
sinh tích cực làm việc hơn, quá trình tư duy sẽ được thúc đẩy. Nhờ đó kiến thức
của học sinh sẽ được mở rộng và đi sâu vào bản chất của vự việc, hiện tượng;
kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn.
1.3. Tạo cho học sinh cảm giác hưng phấn, thoải mái trong học Ngữ văn
bằng sự phong phú đa dạng, luôn thay đổi về phương pháp.

16


Giáo viên luôn thay đổi về phương pháp và các hình thức tổ chức dạy
học, tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ
làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự
nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt.
Ví dụ: Khi dạy phần Đọc- hiểu chú thích, phần chú thích về tác giả của
bài “ Tiếng gà trưa” - Xuân Quỳnh, sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập II, thay vì
dùng phương pháp vấn đáp (hỏi và ghi chép), giáo viên ghi sẵn trên bảng phụ
hoặc trên máy chiếu và bỏ ngỏ những ý chính sau:
1.Tác giả:
a. Cuộc đời:
- Năm sinh: ................, năm mất.............
- Tên khai sinh:...............................
- Quê quán:...............................
- Xuất thân trong gia đình:.................................
- Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời:....................
.............................................................................
b. Sự nghiệp sáng tác:

- Các tác phẩm chính:.......................................
- Phong cách nghệ thuật thơ:............................
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ:................
Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau
làm theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động và học sinh có hứng thú
học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các em sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn nếu trong
giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy học.

17


1.4. Kích thích hứng thú học sinh học Ngữ văn bằng các tình huống có
vấn đề.
Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung
bài học mà sắp xếp lại tài liệu dạy sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được
chia thành một số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích
hứng thú cho học sinh và khéo léo đưa các em vào những tình huống có vấn đề.
Từ đó mà bắt đầu những phần của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy
trì đến khi nào chưa tìm ra được câu trả lời.
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Làng”- Kim Lân, sách Ngữ văn 9, tập I, giáo
viên đặt ra những tình huống có vấn đề:
- Tại sao Kim Lân lại để cho ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo
Tây?
- Tại sao Kim Lân lại xây dựng nhân vật ông Hai có tính hay khoe làng
như vậy?
Tập luyện cho học sinh biết giải quyết các vấn đề từ đơn giản đến phức
tạp trong học tập không những tạo nên sự hưng phấn mà chính là chuẩn bị cho
các em khả năng sáng tạo, giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống.
1.5. Gắn bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện

pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn.
Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những
biện pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ giáo viên chỉ mải mê với
những lí thuyết khô khan mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn,
mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn, không kích thích được hứng thú học tập
của học sinh. Lúc này, Ngữ văn đối với học sinh chỉ còn là một môn học bắt
buộc, xa lạ....Trong khi đó, Ngữ văn lại có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn,

18


với tâm hồn học sinh. Vì vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những
có tính chất bắt buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng
thú học tập cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh” - sách
Ngữ văn 8 , ngoài những bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên yêu cầu học
sinh thuyết minh về những di tích có ở địa phương sẽ làm các em tò mò muốn
tìm hiểu sâu sắc hơn về những kiến thức tưởng chừng như rất gần gũi mà các
em không hề biết.
1.6. Ứng dụng tin học vào dạy học Ngữ văn để gây hứng thú.
“Văn học là nhân học”, môn Ngữ văn không chỉ cung cấp cho học
sinh kiến thức về văn chương mà còn mang một sứ mạng cao cả là bồi dưỡng
tâm hồn, nhân cách cho học sinh. Vậy mà trên thực tế, học sinh ngày nay lại thờ
ơ với môn Văn. Điều đó khiến cho giáo viên môn Ngữ văn không tránh khỏi
những suy nghĩ trăn trở. Vấn đề đổi mới phương pháp đã được đặt lên hàng đầu
để giải quyết tình trạng nói trên. Tuy nhiên, nếu giáo viên biết ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học thì chắc hẳn môn Ngữ văn sẽ tác động mạnh mẽ đến
tâm hồn các em hơn. Những đoạn phim, những tranh ảnh, những lời ca tiếng
hát...không những nói hộ giáo viên nhiều điều mà còn làm cho các em say mê,
hứng thú hơn môn học này.

Ví dụ: Khi dạy bài “Nói với con”- Y Phương, Sách Ngữ văn 9, tập II, giáo
viên cho học sinh xem một vài đoạn phim nhỏ nói về hình ảnh của lễ hội Lồng
Tồng cùng với những lời giới thiệu về lễ hội này... chắc hẳn sẽ tác động trực
tiếp đến tâm hồn của các em, làm cho các em phải trăn trở suy nghĩ và từ đó sẽ
gây hứng thú hơn trong việc tìm hiểu nội dung lời nói của người cha trong bài.

19


Hoặc khi tìm hiểu về văn bản “Tức nước vỡ bờ- trích tiểu thuyết Tắt
đèn”- Ngô Tất Tố, sách Ngữ văn 8, tập I, kèm theo những lời giảng, giáo viên
cho học sinh xem một đoạn phim trong bộ phim Tắt đèn.... chắc hẳn niềm hứng
thú học văn chương sẽ tăng lên rất nhiều trong tâm hồn các học sinh.
1.7. Gây hứng thú học tập Ngữ văn qua các bước lên lớp.
Chỉ cần học sinh có hứng thú học tập thì các em sẽ vượt qua mọi khó
khăn, trở ngại ngăn cản bước chân các em tiến vào thế giới khoa học.
Vì thế, giáo viên cần duy trì được hứng thú học tập của các em trong tất
cả các bước lên lớp. Ở đây cần tập trung vào ba bước lên lớp:
1.7.1. Kiểm tra bài cũ:
Đây là khâu củng cố lại kiến thức đã học. Qua đó giáo viên có thể tự
đánh giá, rút kinh nghiệm phương pháp đã truyền đạt ở tiết trước, phát hiện
những lỗ hổng kiến thức của học sinh để chấn chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, trong
thực tế, học sinh rất sợ khâu này vì một số thầy cô có quan niệm hết sức sai lầm
khi đòi hỏi học sinh trả lời bài cũ phải thuộc lòng từng câu, từng chữ. Càng
thuộc bao nhiêu thì càng được điểm cao bấy nhiêu, kể cả những vấn đề không
phải là định nghĩa. Và khi học sinh trả lời, chỉ cần có vài yếu tố bên ngoài tác
động vào là học sinh không nhớ gì cả. Do đó, gây ra trong tâm hồn các em một
sự ức chế, chán học, mất đi sự hứng thú.
Do vậy, nếu giáo viên Ngữ văn cải tiến được khâu này, chắc hẳn học sinh
sẽ hứng thú hơn trong suốt tiết học và trong cả quá trình học tập môn Ngữ văn.

Ví dụ: khi kiểm tra bài cũ về phần Ca dao - Sách Ngữ văn 7, tập I, do đặc
điểm của ca dao là có thể diễn xướng nên giáo viên yêu cầu học viên diễn
xướng những bài ca dao đã học. Hoặc khi kiểm tra bài cũ bài thơ “Viếng lăng
Bác”- Viễn Phương, giáo viên cho các em hát một câu trong bài hát đã được

20


nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc vừa tạo được không khí vui vẻ, vừa rèn kĩ năng,
lại vừa kiểm tra được kiến thức.
Vì thế, áp dụng các biện pháp gây hứng thú trong kiểm tra đầu giờ sẽ góp
phần tạo không khí lớp học vui vẻ, sôi nổi, kích thích hứng thú và làm cho học
sinh say mê, tích cực tham gia vào hoạt động hơn.
1.7.2. Giới thiệu bài mới:
Đúng như Long Yellow đã nói: “Mở đầu là một nghệ thuật vĩ đại”, vì ấn
tượng đầu tiên là rất quan trọng. Mỗi bài đều có phần mở đầu thuyết phục, hai
đến ba phút mở đầu sẽ dẫn dắt cả tiết học; nó sẽ góp phần làm cho không khí
lớp học thêm hứng khởi, từ đó giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức một cách
thuận lợi nhất.
Bởi thế, ngay từ phút đầu của giờ học, giáo viên phải thu hút được sự
chú ý của học sinh bằng cách đặt ra tình huống có vấn đề hấp dẫn để huy động
trí não của cả lớp, tạo sự bất ngờ ngạc nhiên bằng các tranh ảnh, hình vẽ kèm
theo các câu chuyện “nóng hổi”, bằng lời ca, tiếng hát, bằng những lời nói nghệ
thuật...như vậy sẽ lôi cuốn các em vào “quỹ đạo học tập” do giáo viên dự kiến
sẽ tiến hành.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thạch Sanh” sách giáo khoa Ngữ văn 6, tập I
phần giới thiệu bài, giáo viên cho học sinh nghe một đoạn bài hát “Giọt đàn
Thạch Sanh”, sáng tác Tuấn Khanh. Với những ca từ mượt mà, làn điệu êm ái,
cùng với những lời giới thiệu đầy nghệ thuật của giáo viên sẽ tác động vào tâm
hồn các em những tình cảm tha thiết và có niềm hứng thú khám phá, tìm hiểu

về tác phẩm.
1.7.3. Củng cố bài:

21


Củng cố bài là khâu rất quan trọng, bài giảng dù hay, hấp dẫn đến đâu
nhưng không có củng cố thì chưa thể coi là tiết dạy tốt. Bởi lẽ trong công đoạn
này, giáo viên phải khắc sâu thêm kiến thức cho học sinh, hệ thống hóa những
tri thức, kĩ năng quan trọng, tập cho học sinh vận dụng kiến thức mới, nâng cao
tính tích cực, khả năng tư duy, sáng tạo.
Củng cố không đơn thuần là lặp lại nguyên si những vấn đề đã trình bày
vì như thế, học sinh sẽ chán nản và mất tập trung. Hơn nữa, thường ba đến năm
phút cuối tiết, học sinh hay có hiện tượng xao nhãng bài học, mệt mỏi...Cho
nên, khâu này sẽ đạt được hiệu quả cao hơn nếu học sinh tập trung chú ý, hào
hứng, hợp tác với giáo viên. Vì vậy rất cần thiết phải gây hứng thú khi củng cố
bài. Thay vì cách củng cố thông thường, giáo viên có thể kể một câu chuyện
vui, đọc một bài thơ hay của tác giả và nêu câu hỏi kèm theo. Hoặc cũng có thể
củng cố bằng những câu hỏi trắc nghiệm có kết hợp với những phần mềm của
công nghệ thông tin..., học sinh sẽ không còn cảm thấy gò bó, mệt mỏi trong
những phút cuối cùng của tiết học. Và như thế chất lượng học tập sẽ được nâng
cao. Dư âm của những buổi học sẽ in đậm mãi trong tâm hồn học sinh và các
em sẽ khao khát, chờ đón những tiết học sau.
2. Gây hứng thú bằng việc lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ
văn.
2.1. Bản chất:
Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục:
giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến
trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết
hợp với phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi

mới hiện nay. Giải pháp này sẽ thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ

22


học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn
trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất của mình, phát huy tư duy sáng
tạo..
Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt
kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn
Ngữ văn.
2.2. Một số hình thức lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn.
* Nguyên tắc:
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ
giữa trò chơi và hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lý, đúng mức và
đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp
học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt,
không vận dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng;
trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt
nhẹ nhàng cho vui (dí dỏm, tế nhị).
* Một số hình thức lồng ghép trò chơi:
+ Xem trò chơi là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ
trong giờ học, để triển khai ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu
chung, tìm hiểu ngữ liệu, phần đọc - hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố
bài...).
+ Tổ chức tiết học thành một trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc
khái quát.
* Một số trò chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn:
Giáo viên có thể tự sáng tác ra những trò chơi phù hợp với tiết học (trò
chơi phát động, trò chơi hoạt động, trò chơi luyện trí, trò chơi chú ý và quan sát,

trò chơi huy động kiến thức, trò chơi vận dụng kiến thức...), tự đặt tên một số

23


trò chơi (theo nguyên tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví
dụ: Ô chữ, Hùng biện, Tiếp sức, Điền bảng, Rung chuông vàng...
2.3. Lồng ghép trò chơi vào các phân môn Ngữ văn:
Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có
những điểm khác nhau.
* Văn học: Tùy thuộc dạng bài ( bài khái quát, ôn tập, đọc - hiểu văn
bản...), lượng kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò
chơi: trò chơi nhỏ dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết
học. Do đặc thù của phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác
phẩm văn chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò
chơi chỉ vừa phải.
* Tiếng Việt: Lồng ghép trò chơi đối với phân môn này là khá phù hợp,
đặc biệt là đối với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần phải gắn với
các bài tập hoặc các hình thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra.
Vận dụng tốt giải pháp này, giờ học Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học
sinh cảm thấy thoải mái, hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em,
quan trọng hơn là góp phần phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ ở học sinh.
Qua trò chơi, tư duy và khả năng ngôn ngữ của học sinh sẽ được bộc lộ tự
nhiên, giáo viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp thời những mặt còn hạn chế.
* Làm văn: Chính là phần thực hành Văn học và Tiếng Việt. Có thể vận
dụng trò chơi trong một số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong
cả tiết. Với phân môn này, việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế
được các phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực
hành, luyện tập,...hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ
năng...Do đó không nên gượng ép để cố tình đưa trò chơi vào tất cả các giờ học

làm văn.

24


2.4. Quy trình thực hiện:
* Bước 1: Giáo viên dự kiến chọn trò chơi cho phù hợp với nội dung của
từng bài học.
* Bước 2: Giáo viên nêu thể lệ trò chơi
* Bước 3: Học sinh tiến hành chơi trò chơi (với tư cách một cá nhân hoặc
một nhóm), dưới sự kiểm soát của giáo viên.
* Bước 4: Giáo viên đánh giá, cho điểm hoặc phát thưởng tùy theo sự
đóng góp của mỗi cá nhân hoặc mỗi nhóm.
2.5. Chuẩn bị:
Tùy theo mỗi trò chơi cụ thể sẽ có những phần chuẩn bị khác nhau.
2.6. Cách thức tổ chức:
Có rất nhiều trò chơi có thể gây hứng thú cho học sinh trong việc dạy và
học môn Ngữ văn. Tuy nhiên trong phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi
chỉ xin nêu một số trò chơi sau:
2.6.1.Trò chơi điền bảng ( kết hợp với thảo luận nhóm):
* Đặc điểm:
Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập, thay vì cho học sinh lập bảng
thống kê kiến thức bình thường, ta có thể chia lớp thành các nhóm khác nhau và
cho đại diện các nhóm lên bốc thăm để tìm công việc cho nhóm mình. Sau đó,
các nhóm sẽ thay phiên nhau giải quyết công việc của nhóm mình.
* Chuẩn bị:
- Về phía giáo viên:
+ Kẻ sẵn một bảng tổng kết bao gồm các đơn vị kiến thức, trong
đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống kê.
+ Các phiếu bốc thăm ứng với các nhóm.

+ Các thẻ kiến thức trắng đều nhau được cắt ra từ giấy Ao.

25


×