MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề
Hiện nay thế giới đang diễn ra sự chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội, kinh tế, văn hoá, khoa học,... trong đó sự giao thoa giữa các nền văn
hố giữa các nước trong khu vực và trên thế giới là một tất yếu. Đại hội Đảng VIII
khẳng định "Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội,. ...phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm
hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã
hội". Điều này được cụ thể hoá trong xác định mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục
và đào tạo của nước ta trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước khẳng định “Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá,
tinh thần của nhân d ân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại".
Giáo dục trang bị cho thế hệ trẻ một hệ thống giá trị, năng lực và khả năng phù
hợp với sự phát triển của một xã hội hiện đại đồng thời đảm bảo phát huy những giá trị
truyền thống của người Việt Nam, điều này đã được khẳng định trong chiến lược xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội đồng thời là nhiệm vụ, nội dung công tác giáo dục thế
hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề giáo dục năng lực, phẩm chất đạo đức của con
người mới, đặc biệt là nét văn hoá mang bản sắc dân tộc cho thế hệ trẻ trong xu thế
phát triển tồn cầu hiện nay là vơ cùng quan trọng, cần thiết đồng thời là sứ mạng của
sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà được khẳng định trong mục tiêu giáo dục
"đào tạo con người phát triển tồn diện, có đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý
thức trách nhiệm, niềm tự hào về việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hố dân
tộc, ... tơn vinh bản sắc văn hố dân tộc..." ngày 17/11/2008 Thủ tướng chính phủ đã ra
quyết định về ngày văn hoá các dân tộc Việt Nam là ngày 19/ 04 hàng năm.
+ Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai
trị quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách con
người.Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo, tổ chức thực hiện việc ni dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục
mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành..
Vấn đề mà giáo dục mầm non đang hướng tới là giúp trẻ phát triển về các mặt
như: Thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức
năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần
thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tố đa những khả năng tiềm ẩn, đặt
nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.
2
Giáo dục Mầm non là bước đệm đầu tiên cho các cấp học, giúp trẻ có điều kiện
hình thành và phát tiển nhân cách cũng như trí tuệ. Chính vì thế cấp học này có vai trị
rất quan trọng buộc giáo dục phải quan tâm.
- Kỹ năng hợp tác có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của con
người nói chung và trẻ em nói riêng. Bởi sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng hòa nhập cuộc sống, xã hội hóa của cá nhân đó. Đối với trẻ em, kỹ
năng hợp tác là điều kiện quan trọng để hình thành và phát triển tồn diện nhân cách,
trí tuệ, tình cảm, ý chí, ngơn ngữ. Đặc biệt khi tham gia vào các hoạt động chung thì
các hành vi xã hội của trẻ cũng được cải thiện và thử thách. Mục tiêu chiến lược về
phát triển giáo dục mầm non đến năm 2020 được xác định: “Hướng tới việc đặt nền
móng, tiền đề nhân cách con người mới phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình
cảm đạo đức- xã hội và thẩm mĩ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Giáo dục mầm non tạo
ra sự khởi đầu cho sự phát triển toàn diện cho trẻ, đặt nền tảng cho việc học tập ở các
bậc học tiếp theo và việc học tập suốt đời”. Để đáp ứng xu hướng phát triển của thời
đại, mục tiêu giáo dục mầm non nhấn mạnh vào việc hình thành những giá trị, kĩ năng
sống cần thiết cho bản thân, gia đình và cộng đồng như: tự tin, mạnh dạn, tự lực, linh
hoạt, sáng tạo, chia sẻ, hợp tác, nhân ái, hội nhập. Như vậy, việc giáo dục kỹ năng hợp
tác cho trẻ là một trong những nhiệm vụ ngành giáo dục mầm non hiện nay đang
hướng đến. Có rất nhiều phương tiện để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ và trò chơi
dân gian là một trong những phương tiện đó. Bởi thơng qua trị chơi dân gian trẻ được
tiếp xúc với cuộc sống và xã hội của con người Việt Nam, giúp trẻ lĩnh hội được
những kinh nghiệm lịch sử xã hội của nền văn hóa người. Mặt khác, trị chơi dân gian
mang tính cộng đồng rõ nét, trong khi chơi trẻ phải biết hợp tác cùng nhau để thực
hiện nhiệm vụ chơi chung. Đây chính là mơi trường để rèn luyện kỹ năng hợp tác, tập
cho trẻ biết ứng xử và tham gia vào hoạt động cộng đồng với tư cách là con người xã
hội.
- Hoạt động ngoài trời là một hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh hoạt
hàng ngày của trẻ. Bởi thơng qua đó, tạo cơ hội cho tất cả các trẻ được tiếp xúc, gần
gũi với thiên nhiên, hít thở bầu khơng khí trong lành, được thực hành, trải nghiệm .
Đồng thời trẻ được khám phá, thoả mãn trí tị mị của trẻ khi tham gia vào các trò chơi
dân gian.
Ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) đây là giai đoạn phát triển quan trọng trong
cuộc đời của bé. Ở giai đoạn này, trẻ đã hình thành nhận thức, phát triển các kỹ năng
giao tiếp xã hội, phát triển về mặt tư duy, trí tuệ, thể chất và nhiều kĩ năng khác. Nếu
khơng được tham gia các hoạt động ngồi trời, sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến tâm lý,
tình cảm, kỹ năng giao tiếp của trẻ, có thể khiến trẻ mất tự tin, thiếu sự linh hoạt, khó
hịa đồng… Hoạt động ngồi trời được tổ chức hằng ngày từ 10h – 10h35 phút.
3
- Thực tiễn giáo dục Mầm con cho thấy, việc sử dụng trò chơi dân gian như một
phương tiện giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ hợp tác cho trẻ 5- 6 tuổi chưa được một
số trường quan tâm, quan tâm một cách sơ sài mang tính hình thức hoặc chỉ quan tâm
khi có đồn thanh tra về khảo sát. Phần lớn các trường Mầm non đều có xu hướng
thiên về sử dung các trị chơi có sẵn trong chương trình khiến trẻ phải chơi đi chơi lại
một trị chơi dẫn đến nhàm chán, không hứng thú tham gia chơi. Điều này hạn chế sức
hấp dẫn và tính giáo dục của trò chơi dân gian đối với trẻ em. Vì vậy, việc sưu tầm và
tìm ra các biện pháp để tổ chức trò chơi dân gian nhằm giáo dục kỹ năng hơp tác nhóm
cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng là một vấn đề cần được
quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên, tơi quyết định chọn đề tài “Sử dụng trị chơi dân
gian nhằm phát triển kỹ năng hợp tác nhóm cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi qua hoạt động
ngoài trời” để nghiên cứu.
2. Lý luận chung
2.1. Một số vấn đề trò chơi dân gian của trẻ mầm non 5 - 6 tuổi
2.1.1. Khái niệm trò chơi dân gian
- Trò chơi dân gian là một hoạt động đặc thù chỉ trong xã hội loài người, được
nhân dân sáng tạo ra từ thực tiễn cuộc sống của họ, được lưu truyền tự nhiên qua nhiều
thế hệ và luôn được cải biên, bổ sung cho phù hợp với từng nơi, từng lúc, nhằm thỏa
mãn về nhu cầu vui chơi giải trí, giao lưu văn hóa và phát triển các mặt thể chất, tinh
thần của con người.
2.1.2. Đặc điểm của trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian xưa được xem là hình thức giáo dục đơn giản giúp hình thành
nhân cách cũng như phát triển thể chất cho trẻ nhỏ, nó thường được thể hiện là hành vi
bắt chước của trẻ nhỏ từ các hoạt động của người lớn hay là sự truyền dạy của người
lớn cho trẻ nhỏ. Cứ như thế các trò chơi dân gian thường được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác như một di sản văn hóa dân tộc.
Do khơng lệ thuộc vào hình thức lễ hội như trò chơi của người lớn nên trò chơi
dân gian trẻ em có những nét đặc trung cơ bản như: Trò chơi dân gian thường đơn
giản, dễ chơi, phổ biến rộng rãi, không chịu sự ràng buộc một cách nghiêm ngặt về số
lượng, không gian và thời gian. Dù bất cứ nơi đâu, trong gia đình, tại trường học hay
trên đường làng đều có thể tổ chức được các trị chơi dân gian phù hợp. Nếu sân nhà
nho nhỏ thì các em chơi ô ăn quan, chơi cờ, đánh chuyền, chặt cây dừa chừa cây mận,
bắt ve… Nếu diện tích rộng hơn thì có thể chơi rồng rắn lên mây, đá cầu, trốn tìm, bịt
mắt bắt dê… Ở những bãi cỏ lớn thì có thể tổ chức các trị cướp cờ, đánh đu, đá gà,
chồng bông sen, cờ chém…Người chơi thường là những trẻ em ,túm tụm ngoài bãi cỏ,
4
ngoài sân,… ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, còn thể hiện nỗi khát khao chiến
thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ.
2.1.3. Phân loại trò chơi dân gian
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam có nhiều trò chơi dân gian cổ
truyền dành cho trẻ em. Trò chơi dân gian trẻ em phong phú, không chỉ nhiều về số
lượng mà còn đa dạng về thể loại. Trò chơi dân gian được phân loại như sau:
- Trò chơi vận động
Gồm các trò chơi trẻ em vận động chân tay, chạy, nhảy, gây khơng khí vui nhộn
và sinh động như: "Bịt mắt bắt dê", "Rồng rắn lên mây",... Những trị chơi này thường
được chơi ở ngồi trời để tiếp xúc với thiên nhiên, nhằm tăng cường sức khỏe và các
tố chất về thể lực cho trẻ.
- Trị chơi trí tuệ
Đó là những trị chơi nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ, dạy cho các cháu biết quan
sát, tính tốn. Có khi chỉ là một bài đồng dao, trẻ ngồi bên nhau cùng hát, cùng đối
thoai để giới thiệu các sự vật, hiện tượng xung quanh. Cách chơi này giúp cho trẻ hiểu
về con người và hiện tượng thiên nhiên xung quanh mình, tiếp thu tri thức về cuộc
sống. Có khi là những trị chơi bày cách tính tốn như: "Ơ ăn quan" giúp phát triển trí
tuệ cho trẻ.
- Trị chơi sáng tạo
Có những đồ chơi trong đó trẻ em tự tay làm nên những đồ vật bằng vật liệu tự
nhiên (xếp lá dừa thành cái chong chóng, xé lá chuối làm con cào cào, xếp cọng rơm
thành hình người). Những trị chơi này giúp cho đơi bàn tay trẻ khéo léo hơn, phát huy
trí tưởng tượng, óc sáng tạo, khơi dậy khiếu thẩm mỹ cần thiết cho cuộc sống và lao
động sau này.
- Trị chơi mơ phỏng
Là những trị chơi mà trẻ mô phỏng, bắt chước các hoạt động sinh hoạt hàng
ngày của người lớn như cày ruộng, nấu ăn... Những trị chơi này có tác dụng phát huy
mạnh trí tưởng tượng của trẻ em. Đối với trị chơi của trẻ thì một mẫu lá cũng được coi
là món ăn ngon, một chiếc vỏ hến cũng được coi là chiếc nồi, chiếc bát... Trong trị
chơi này, trẻ hóa thân ,nhập vai thành những người lớn mà trẻ thích. Nhờ đó trẻ nhập
vai vào các mối quan hệ xã hội, học cách ứng xử giữa con người với nhau.
2.1.4. Cách tổ chức, tiến hành trò chơi dân gian
* Một số vấn đề cần lưu ý khi tổ chức trò chơi dân gian
Khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo lớn, chúng tôi thực hiện
theo các tiêu chí sau:
- Lựa chọn các trị chơi dân gian phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
+ Trị chơi khơng q đơn giản nhưng cũng không quá phức tạp.
5
+ Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi dễ kiếm, dễ tìm.
+ Giúp củng cố tư duy, ngơn ngữ, vận động, kỹ năng cho trẻ.
+ Gây được hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ.
+ Có sự tham gia của tập thể lớp hoặc nhóm trẻ trong lớp.
Từ những tiêu chí trên, chúng tơi đã lựa chọn các trò chơi sau cho trẻ lớp MGL:
“Thả đỉa ba ba”, “Ô ăn quan”, “Chuyền thẻ”, “Hát chuyền sỏi”, “Trốn tìm”, “Đếm
sao”, “Kéo co”, “Rồng rắn lên mây”, “Chồng đống chồng đe”, “Trồng nụ trồng hoa”,
“Ném còn”, “Cướp cờ”…
- Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho các trò chơi dân gian:
Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi dân gian cũng vơ cùng đa dạng và phong phú,
mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò chơi.
Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại đồ dùng đồ chơi tương ứng mà thiếu nó
thì trị chơi khơng thể tiến hành được.
Ví dụ như trị: “Chơi chuyền” địi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ vật có
dạng khối cầu như quả bóng, quả bưởi non…Trị chơi “Ném cịn” khơng thể diễn ra
nếu thiếu quả còn – đồ chơi truyền thống của trị chơi đó. Hay đơn giản như trị chơi
“Bịt mắt bắt dê” cũng không thể được tổ chức nếu khơng có dải vải hoặc dải khăn bịt
mắt…
Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó, giáo
viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay khơng có đồ
dùng đồ chơi phục vụ cho trị chơi để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết
cho trò chơi.
- Dạy trẻ đọc thuộc lời ca (Đối với những trị chơi có lời đồng dao)
Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian đó là khi chơi trẻ khơng bao giờ chỉ
hùng hục thực hiện các vận động của mình mà chúng thường vừa chơi vừa hát hoặc
đọc lời đồng dao nào đó. Các bài đồng dao đó khiến cho khơng khí chơi vui vẻ, nhộn
nhịp hơn. Mặc dù không phải bài đồng dao nào cũng có ý nghĩa, song bài nào cũng
phù hợp với tư duy hồn nhiên của trẻ. Ví dụ như: Trò chơi “Chi chi chành chành”, trẻ
hát “Chi chi chành chành – Cái đanh thổi lửa – Con ngựa chết trương – Tam vương
ngũ đế…”. Câu hát dường như chẳng có mạch ý nào rõ ràng, nhưng thiếu nó thì trị
chơi khơng thể tiến hành. Hay như chơi “Rải ranh” trẻ hát “Rải ranh – Bẻ cành – Hái
ngọn – Chọn đôi”. Cùng với lời hát trong trẻo là bàn tay rải những viên sỏi một cách
khéo léo, tung viên cái lên, nhặt một hoặc hai viên con dưới đất, rồi lại giơ tay đỡ viên
cái vừa rơi xuống.
Trị chơi chỉ có thể được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao. Chính vì vậy, tơi
thường cho trẻ làm quen với lời đồng dao của các trò chơi dân gian trước khi hướng
dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ như: hoạt động chiều, hoạt động
6
ngồi trời…Khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, tơi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi tương
ứng với lời đồng dao đó. Vì thế, trẻ chơi rất hứng thú và tích cực tham gia chơi.
* Chuẩn bị địa điểm để tổ chức trị chơi:
Mỗi trị chơi dân gian có một cách chơi và luật chơi khác nhau. Có những trị
chơi vận động mang tính tập thể rất cao, thường có số lượng người tham gia chơi lớn
và địi hỏi địa điểm chơi phải có diện tích rộng như “Kéo co”, “Rồng rắn lên mây”,
“Thả đỉa ba ba”, “Trồng nụ trồng hoa”…
Nhưng lại cũng có những trị chơi tĩnh, trẻ hay chơi theo các nhóm nhỏ như: “Chi
chi chành chành”, “Tập tầm vơng”, “Rải ranh”, “Chuyền thẻ”, “Ơ ăn quan”…
Chính vì vậy, giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng trị chơi
để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi.
- Tổ chức các trò chơi phù hợp với tính chất của hoạt động ngồi trời.
Mỗi hoạt động của trẻ đều nhằm đạt được một mục đích nhất định. Vì thế, hoạt động
nào cũng có tính chất riêng của nó. Nếu như hoạt động chung được tổ chức nhằm cung
cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ được gần gũi với thiên
nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể chất; hay như ở hoạt động
góc trẻ lại được mở rộng thêm về kinh nghiệm sống và kỹ năng chơi theo nhóm. Chính
vì vậy, giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ chức các trò chơi dân gian cho phù hợp với
tính chất của từng hoạt động.
Với hoạt động ngồi trời: Tận dụng khơng gian rộng và thống, giáo viên nên tổ
chức cho trẻ chơi các đồ chơi ngoài trời vận động nhằm rèn luyện và phát triển thể lực
cho trẻ như: “Rồng rắn lên mây”, “Bịt mắt bắt dê”, “Nhảy dây”, “Nhảy lò cò”, “Thả
đỉa ba ba”…
- Động viên tất cả các trẻ tham gia vào trò chơi. Một ưu thế của trị chơi dân gian
chính là kở chỗ nó có thể dung nạp tất cả những ai muốn chơi. Khơng bao giờ trị chơi
dân gian quy định số người chơi nhất định. Vì vậy tơi ln khuyến khích, động viên tất
cả các trẻ tham gia chơi càng đông càng vui. Nếu chơi ” Bịt mắt bắt dê”, mỗi khi có
một người vào thêm, vịng chỉ rộng ra một chút chứ trị chơi khơng thay đổi. Cịn trị
chơi ” Rồng rắn lên mây” thì thêm một người, “Cái đuôi” sẽ dài ra một chút và tất cả
mọi người đều được chơi, được chạy như nhau.
* Cách tiến hành.
Bước 1: Ổn định tổ chức, giới thiệu tên trò chơi, tác dụng của trò chơi.
Sử dụng các thủ thuật nhằm kích thích sự chú ý của trẻ vào trị chơi.
Bước 2: Phổ biến nội dung, cách chơi, luật chơi.
Hướng dẫn cho trẻ cách chơi, luật chơi.
Bước 3: Tổ chức cho trẻ chơi.
Giáo viên quan sát, bao quát trẻ chơi, giải quyết khi xảy ra mâu thuẫn.
7
Bước 4: Nhận xét quá trình chơi, kết quả chơi (Khen thưởng đội thắng, phạt và
khích lệ đội thua).
2.1.5. Vai trò của trò chơi dân gian đối với sự phát triển khả năng hợp tác nhóm của
trẻ 5-6 tuổi
Kỹ năng hợp tác nhóm có vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
con người nói chung và trẻ em nói riêng. Bởi sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc
rất nhiều vào khả năng hòa nhập cuộc sống, xã hội hóa của cá nhân đó. Đối với trẻ em,
kỹ năng hợp tác nhóm là điều kiện quan trọng để hình thành và phát triển tồn diện
nhân cách, trí tuệ, tình cảm, ý chí, ngơn ngữ. Đặc biệt khi tham gia vào các hoạt động
chung thì các hành vi xã hội của trẻ cũng được cải thiện và thử thách. Mục tiêu chiến
lược về phát triển giáo dục mầm non đến năm 2020 được xác định: “Hướng tới việc
đặt nền móng, tiền đề nhân cách con người mới phát triển tồn diện cả về thể chất, trí
tuệ, tình cảm đạo đức- xã hội và thẩm mĩ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Giáo dục mầm
non tạo ra sự khởi đầu cho sự phát triển toàn diện cho trẻ, đặt nền tảng cho việc học
tập ở các bậc học tiếp theo và việc học tập suốt đời”. Để đáp ứng xu hướng phát triển
của thời đại, mục tiêu giáo dục mầm non nhấn mạnh vào việc hình thành những giá trị,
kĩ năng sống cần thiết cho bản thân, gia đình và cộng đồng như: tự tin, mạnh dạn, tự
lực, linh hoạt, sáng tạo, chia sẻ, hợp tác, nhân ái, hội nhập. Như vậy, việc giáo dục kỹ
năng hợp tác nhóm cho trẻ là một trong những nhiệm vụ ngành giáo dục mầm non
hiện nay đang hướng đến. Có rất nhiều phương tiện để giáo dục kỹ năng hợp tác nhóm
cho trẻ và trị chơi dân gian là một trong những phương tiện đó. Bởi thơng qua trị chơi
dân gian trẻ được tiếp xúc với cuộc sống và xã hội của con người Việt Nam, giúp trẻ
lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử xã hội của nền văn hóa người. Mặt khác, trị
chơi dân gian mang tính cộng đồng rõ nét, trong khi chơi trẻ phải biết hợp tác cùng
nhau để thực hiện nhiệm vụ chơi chung. Đây chính là mơi trường để rèn luyện kỹ năng
hợp tác nhóm, tập cho trẻ biết ứng xử và tham gia vào hoạt động cộng đồng với tư
cách là con người xã hội.
2.2. Một số vấn đề về kĩ năng hợp tác nhóm
2.2.1. Khái niệm “hợp tác nhóm”
* Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học quan
tâm. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên
cứu nhiều tài liệu khác nhau chúng tơi quy về hai quan điểm chính sau:
+ Quan điểm thứ nhất
Quan điểm thứ nhất xem xét kỹ năng từ gốc độ kỹ thuật của hành động, của
thao tác mà ít quan tâm đến kết quả của hành động.
8
- V.A. Kruchetxki cho rằng: “Kỹ năng là thực hiện một hành động hay một hoạt
động nào đó nhờ sử dụng những kỹ thuật, những phương thức đúng đắn”.
- A.G.Covaliop: Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động thích hợp với
mục đích và điều kiện hành động. Ở đây ông không đề cập đến kết quả của hành động.
Theo ông kết quả hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là
năng lực của con người chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì
đem lại kết quả tương ứng.
- PGS Trần Trọng Thủy cho rằng: Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con
người nắm được hành động tức là kỹ thuật hành động có kỹ năng.
- PGS.TS Hà Nhật Thăng cho rằng: “Kỹ năng là kỹ thuật của hành động thể
hiện các thao tác của hành động.
Như vậy, theo quan điểm này kỹ năng là phương tiện thực hiện hành động phù
hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững. Theo các tác giả
trên, người có kỹ năng hoạt động nào đó là người nắm được các tri thức về hoạt động
đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà khơng cần tính đến kết quả
của hành động.
+ Quan điểm thứ 2:
Quan điểm xem xét kỹ năng từ gốc độ không đơn thuần chỉ là mặt kỹ thuật của
hành động mà còn là biểu hiện của năng lực của chủ thể hành động và nhấn mạnh đến
kết quả của hành động.
- Các tác giả K.K. Platonop và G.G.Golubev cho rằng: kỹ năng là năng lực của
con người thực hiện cơng việc có kết quả là một chất lượng cần thiết trong những điều
kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng.
- X.I. Kiêgóp cho rằng: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có hiệu quả hệ thống
các hành động phù hợp với các mục đích và điều kiện của hệ thống này”.
- Theo P.A. Ruđích: “Kỹ năng là tác động mà cơ sở của nó là sự vận dụng thực
tế của kiến thức đã tiếp thu được để đạt được kết quả trong một hình thức hoạt động cụ
thể”.
- H.D.Levitov thì cho rằng, kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một tác động nào
đó hay một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng đúng đắn các hình
thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả.
- Theo TS. Vũ Dũng: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức
về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ
tương ứng.
- Các nhà Tâm lý học Việt Nam như PGS.TS Ngơ Cơng Hồn, PGS.TS Nguyễn
Thị Ánh Tuyết, GS Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành cho rằng kỹ năng là một
mặt năng lực của con người thực hiện một công việc có hiệu quả.
9
Như vậy, hai quan điểm này tuy về hình thức diễn đạt có vẻ khác nhau nhưng
thực chất chúng khơng hoàn toàn mâu thuẫn hay loại trừ lẫn nhau. Dù theo quan điểm
nào thì khi nói đến kỹ năng chúng ta đều phải quán triệt một số điểm sau:
- Mọi kỹ năng đều dựa trên cơ sơ tri thức, muốn hành động, muốn thao tác
trước hết phải có kiến thức về nó dù cho tri thức có thể ẩn chứa ở nhiều dạng khác
nhau.
- Nói kỹ năng của con người là nói tới hành động có mục đích, tức khi hành
động, thao tác con người ln hình dung kết quả đạt tới.
- Để có kỹ năng con người cũng phải biết cách thực hiện hành động trong
những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự tập luyện nhất định.
- Kỹ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người. Nó là biểu hiện cụ
thể của năng lực.
Từ phân tích trên kỹ năng có thể hiểu như sau:
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động, cơng việc nào đó trên cơ
sở nắm vững phương thức thực hiện và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có phù
hợp với những điều kiện nhất định. Như vậy, kỹ năng không chỉ đơn thuần là mặt kỹ thuật
hành động mà nó cịn là biểu hiện của năng lực cá nhân.
* Khái niệm hợp tác
Nhân cách là tổng hòa các phẩm chất tâm lý của cá nhân được hình thành và
phát triển trong mối quan hệ xã hội. Nhân cách được hình thành bằng hoạt động, nhờ
hoạt động hệ thống xã hội. Con người khơng thể sống ngồi xã hội mà phải dựa vào
nhau, phải phối hợp với nhau để cùng tồn tại và phát triển thành con người xã hội.
Theo C.Mác “Sự phát triển của cá thể phụ thuộc vào sự phát triển của nhiều cá thể
khác mà nó đã giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp”. Thông qua giao tiếp với người khác
mà con người trưởng thành, xem xét mình qua thái độ để đánh giá họ và để điều chỉnh
hành vi tương ứng. Mặt khác, con nguời không chỉ phụ thuộc chịu ảnh hưởng trong
mối quan hệ xã hội mà còn tác động trở lại đến mối quan hệ xã hội, giúp nó trở nên
sinh động và phong phú hơn. C.Mác cũng chỉ cho chúng ta thấy: “Sự hợp tác của con
người trong mối quan hệ xã hội không phải dấu cộng về số lượng mà nhờ sự hợp tác
tạo nên một sức lao động chiến đấu có hiệu quả. Sức mạnh của con người cũng chính
là xã hội mà ở đó hợp tác với nhau trong cuộc sống để tồn tại và phát triển.
Như vậy, bất kỳ mỗi một cá nhân nào cũng có một nhóm xã hội là do xã hội
quy định và có vị trí nhất định trong nhóm. Trong nhóm xã hội, mỗi cá nhân đều có
mối liên hệ lẫn nhau và có vai trị của cá nhân trong đó nhóm xã hội là do xã hội quyết
định một cách khác quan. Các cá nhân phải thực hiện vai trị đó theo chức năng của
mình trong sự hợp tác với người khác. Vì thế, vai trị của xã hội tạo thành vai trò của
cá nhân cụ thể.
10
Trong các mối quan hệ xã hội, mỗi cá nhân đều có sự lệ thuộc lẫn nhau. Mỗi
người đều cần người khác để thực hiện mục đích của mình. Sự tham gia như là sự tìm
kiếm mối liên hệ với người khác mà trong đó sự hợp tác là cơ chế chính của sự tham
gia giai đoạn này. Theo quan niệm chung hợp tác là chung sức giúp đỡ nhau trong một
cơng việc, một lĩnh vực nào đó nhằm đặt mục đích chung.
Theo C.Mác định nghĩa: Hình thức lao động của nhiều người làm việc bên
nhau, với nhau trong cùng một quá trình sản xuất hay trong các quá trình sản xuất khác
nhau, nhưng liền với nhau theo kế hoạch gọi là hợp tác.. Theo nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học, việc tiếp thu khái niệm “Hợp tác” của kinh tế học đã dẫn đến “tương tác
xã hội” trong tâm lý học, nghĩa là “Sự tác động qua lại ít nhất là hai cá nhân trong một
hoạt động bất kỳ nào đó thuộc một hoạt động trong cuộc sống diễn ra trong hệ qua
chiều không gian, thời gian chung”.
Dựa trên kết quả phân tích trên chúng tơi thấy rằng hợp tác có thể hiểu như sau:
Hợp tác là q trình tương tác xã hội, trong đó con người chung sức hỗ trợ,
giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc nào đó nhằm đạt được mục đích chung.
* Khái niệm kỹ năng hợp tác
Dựa trên sự phân tích khái niệm “Kỹ năng” và “Hợp tác” chúng tôi xác định kỹ
năng hợp tác như sau:
Kỹ năng hợp tác là khả năng tương tác cùng thực hiện có hiệu quả một hành
động, một cơng việc nào đó của con người dựa trên những tri thức và vốn kinh nghiệm
đã có trong điều kiện nhất định.
Từ khái niệm “Kỹ năng hợp tác”, chúng tôi đưa ra khái niệm về kỹ năng hợp
tác của trẻ mầm non như sau:
Kỹ năng hợp tác của trẻ mầm non là khả năng tương tác cùng thực hiện hiệu
quả một hành động, một công việc nào của trẻ dựa trên những tri thức và vốn kinh
nghiệm đã có trong điều kiện nhất định.
Qua sự phân tích trên, một cách trực quan chúng tơi có thể quy kỹ năng hợp tác
về những hành động, hành vi quan sát được. Những kỹ năng hợp tác được biểu hiện
thành hành vi quan sát/kiếm sốt được cần hình thành cho trẻ em chúng tơi sẽ đưa ra ở
chương sau.
* Khái niệm nhóm
Nhóm là một tập thể từ hai người trở lên với những khả năng, năng lực, kinh
nghiệm và nền tảng giáo dục khác nhau cùng đến với nhau vì mục đích chung. Bên
cạnh sự khác biệt của mỗi cá nhân, mục tiêu chung ấy mang lại sợi chỉ xuyên suốt
khẳng định họ là một nhóm.
11
* Hợp tác nhóm
Hợp tác nhóm chính là một tập thể từ hai người trở lên với những khả năng, năng
lực, kinh nghiệm khác nhau cùng kết hợp lại, phân chia công việc, giúp đỡ lẫn nhau,
phối hợp với nhau tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh thần, thể chất để cùng vượt qua khó
khăn, đem lại kết quả cao hơn trong công việc chung.
2.2.2. Đặc điểm về kỹ năng hợp tác nhóm của trẻ 5-6 tuổi
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi, các kỹ năng hợp tác nhóm được thể hiện rất rõ trong tất
cả các hoạt động của trẻ. Trẻ đã biết quan tâm đến hành động của bạn, bắt đầu biết
điều chỉnh các hành động của mình phù hợp với yêu cầu chung của nhóm, khi có mâu
thuẫn xảy ra trẻ cũng đã biết tìm cách giải quyết để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ nhận
thức. Ở tuổi này, ý thức về bản thân của trẻ đã được phát triển, bước đầu có khả năng
tự khẳng định mình trong tập thể. Ý thức tập thể của trẻ cũng đang được hình thành,
trẻ đã biết cùng hành động với nhau, đặc biệt trẻ đã biết đưa ra các nhận xét, ý kiến về
hành động cùng như kết quả hoạt động của chính mình và các bạn trong lớp.
Với những nội dung và nhiệm vụ nhận thức, cách thức tổ chức, cách đánh
giá mới, là cơ hội để giúp trẻ duy trì hoạt động và thúc đẩy trẻ hợp tác với nhau bền
vững và hiệu quả hơn. Ở lứa tuổi này sự trao đổi, thoả thuận và thiết lập các mối
quan hệ giữa các thành viên trong nhóm hoạt động đã trở nên thành thục, sự phối
hợp hành động cùng trở nên nhịp nhàng hơn. Trẻ đã biết cùng nhau phân chia
nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm.
Như vậy, sự hợp tác của trẻ mẫu giáo được phát triển khơng chỉ phụ thuộc vào
lứa tuổi mà cịn phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức, hướng dẫn của người lớn.
Nếu như người lớn chúng ta không quan tâm, không tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ tham
gia vào các hoạt động chung của tập thể với những nội dung, cách thức, phương pháp
hấp dẫn thì sự hình thành và phát triển các kỹ năng hợp tác của trẻ sẽ bị hạn chế.
Hợp tác nhóm là một trong những kỹ năng rất cần thiết cho con người mới, đó
là một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển tồn diện nhân cách của một con
người. Vì vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, chúng ta cần phải quan tâm đến việc kích
thích nhu cầu và hình thành kỹ năng hợp tác cho trẻ.
2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành hợp tác nhóm của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
* Sự trưởng thành của bản thân trẻ
Sự lớn lên và phát triển của trẻ là một quá trình diễn ra liên tục theo một trình
tự và quy luật định sẵn. Những thay đổi trong quá trình trưởng thành của trẻ ở lứa tuổi
MGL cho phép trẻ giải quyết những tình huống phức tạp hơn. Thơng qua các hoạt
động hàng ngày trẻ tiếp tục được phát triển những kỹ năng cần thiết: kỹ năng vận
động, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hợp tác cùng chung sống...Những bước tiến trong
12
sự phát triển của cơ thể giúp cho trẻ trở nên độc lập, mạnh dạn và dễ dàng hoà nhập
vào cuộc sống cộng đồng hơn.
Trẻ càng lớn thì mơi trường hoạt động của trẻ càng được mở rộng, trẻ không chỉ
tiếp xúc với những người thân trong gia đình mà còn được tham gia vào các hoạt động
xã hội khác nhau, có nhiều cơ hội để tiếp xúc với những nguời xung quanh, đặc biệt là
được chơi, hoạt động với bạn. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động xã hội khác
nhau thì vốn kinh nghiệm của trẻ cũng được tăng lên, đồng thời trẻ cũng trở nên mạnh
dạn, tự tin hơn.
Các nhà tâm lý học cho rằng, sự tự ý thức về bản thân đóng vai trị điều chỉnh,
điều kiện quan trọng trong hành vi của con nguời. Nó quyết định đến thái độ của cá
nhân đối với bản thân và những người xung quanh. Khi trẻ biết tự ý thức về bản thân
thì trẻ khơng chỉ có khả năng tự đánh giá bản thân mà còn biết đánh giá người khác để
nhận thức được cái đúng cái sai, cái hay cái dở. Từ đó, trẻ biết điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với những quy tắc và yêu cầu chung. Như vậy, trẻ càng có nhiều cơ
hội được trải nghiệm xã hội thì càng có nhiều khả năng hợp tác.
* Hứng thú đối với công việc chung
Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng, cơng việc nào
đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn tình cảm của chính nó. Hứng
thú có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống hoạt động của con người. Con người
cảm thấy sống đầy đủ và hạnh phúc khi họ có hứng thú. Hứng thú sẽ tác động làm con
người trở nên tích cực hơn, gần gũi, thân thiện với nhau hơn. Công việc nào phù hợp
với hứng thú thì được hình thành và phát triển một cách rõ ràng và có hiệu quả.
- Hứng thú với cơng việc chung có ảnh hưởng rất lớn đến sự hợp tác của trẻ, bởi
khi có hứng thú thì trẻ sẽ hợp tác với nhau dễ dàng hơn. Hứng thú với cơng việc chung
càng cao thì trẻ càng hợp tác với nhau. Trong hoạt động chung nếu thiếu hứng thú thì mối
quan hệ hợp tác của trẻ sẽ lỏng lẻo, khơng bền vững và việc hình thành kỹ năng hợp tác
cho trẻ cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Hứng thú với công việc chung như là một sự thúc đẩy bên trong làm biến đổi
một cách đáng kể mối quan hệ giữa các trẻ với nhau, trẻ trở nên thân thiện, dễ đồng
cảm và dễ chia sẻ với nhau hơn. Đồng thời, hứng thú sẽ làm giảm sự cằng thẳng, mệt
nhọc và nó mở ra con đường dẫn tới sự hợp tác, nó giúp cho trẻ tham gia vào hoạt
động hợp tác một cách thoải mái, say mê và hiệu quả hơn. Thậm chí, hứng thú với
cơng việc chung có thể làm thay đổi cả kết quả hoạt động của trẻ.
- Quá trình hoạt động khám phá giáo viên có thể hình thành, duy trì, điều khiển
được hứng thú với công việc chung mọi lúc bằng việc xây dựng mục tiêu, nội dung,
phương pháp, biện pháp, phương tiện dạy học phù hợp cho từng hoạt động.
13
- Hứng thú thường biểu hiện một cách chủ quan của các trạng thái xúc cảm của
cá thể trong quá trình tổ chức trị chơi dân gian, khi hứng thú với công việc chung đạt
đến cao độ sẽ tạo thành niềm đam mê, biểu hiện như một nhu cầu hoạt động do chính
hứng thú tạo nên. Đây là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự hợp tác của
trẻ trong tất cả các hoạt động chung.
* Môi trường giáo dục
Môi trường giáo dục là những điều kiện cần thiết như: nhà giáo dục, gia đình,
cơ sở vật chất…để tác động đến trẻ nhằm đặt được mục đích giáo dục. Mơi trường
giáo dục có vai trị hết sức quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển tồn
diện nhân cách cho trẻ nói chung và kỹ năng hợp tác cho trẻ nói riêng.
Sự hợp tác xuất phát từ gia đình, trong đó bố mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ.
Theo thống kê của nhiều nhà giáo dục: Nếu trong gia đình, người lớn biết quan tâm tạo
điều kiện cho trẻ được tham gia vào các hoạt động xã hội và luôn xem trẻ như một
thành viên thực thụ của gia đình, đối xử với trẻ một cách bình đẳng, cho phép trẻ được
nói lên ý kiến của mình về các vấn đề có liên quan đến trẻ, ln lắng nghe và tơn trọng
trẻ thì sẽ tạo cho trẻ có cảm giác mình được tin tưởng, mình có giá trị với tư cách là
một thành viên của gia đình. Từ đó trẻ rất tự tin, mạnh dạn và dễ dàng hoà nhập vào
các mối quan hệ xã hội.
Trẻ nhỏ học cách hợp tác qua việc quan sát người lớn xung quanh chúng như
cho trẻ thấy sự hợp tác bằng cách làm mẫu. Vì vậy, bố mẹ hãy tập trung việc của mình
thay vì tạo ra sự cạnh tranh bằng sự hợp tác. Sự tác động của bố mẹ sẽ phát huy cao độ
và triệt để những điều kiện bên trong, giúp trẻ dễ dàng hoà nhập vào cuộc sống xã hội
sau này.
Trường mầm non là gia đình thứ hai của trẻ, ở đó trẻ có cơ giáo, có rất nhiều
bạn và có khơng gian, thời gian để hoạt động khám phá thế giới bí ẩn xung quanh. Tất
cả những hành động của cô giáo, các bạn đều có tác động rất lớn đều phát triển tồn
diện nhân cách của trẻ nói chung và q trình hình thành kỹ năng hợp tác của trẻ nó
riêng. Vì vậy, để thúc đẩy trẻ hợp tác với nhau, cô giáo cần làm mẫu hợp tác cho trẻ
học theo và tạo cho trẻ cảm giác ấm áp, an tồn, được tơn trọng, được đối xử bình
đẳng như đang ở gia đình mình. Đồng thời, cho phép trẻ được cùng bạn giải quyết vấn
đề theo cách riêng của mình và phải tơn trọng ý kiến của trẻ, dù đó là ý kiến chưa
đúng.
Khơng gian lớp học cũng có ảnh hướng rất lớn đến sự hợp tác của trẻ. Vì vậy,
nơi hoạt động của trẻ cần được chia thành các diện tích nhỏ có độ cách biệt tương đối
để trẻ có thể hoạt động tập trung mà không bị ảnh hưởng phân tán sự chú ý, suy nghĩ
bởi các nhóm khác. Các giá đựng đồ dùng phục vụ cho hoạt động của trẻ cần để vừa
14
và ở trạng thái mở để có thể khuyến khích trẻ sử dụng phù hợp với ý tưởng và cách
làm của nhóm mình.
Như vậy, mơi trường giáo dục có hưởng rất lớn đến sự hình thành kỹ năng hợp
tác của trẻ nhỏ, người lớn có thể giúp trẻ học cách khơng bạo lực để làm được điều
mình muốn qua việc thực hiện nghệ thuật “đàm phán, thoả hiệp ngay chính trong mơi
trường sống của trẻ. Chính sự đàm phán, thoả hiệp đã giúp trẻ có sự mặc cả với nhau
và cùng hợp tác.
* Quy mơ nhóm
Hợp tác là một kỹ năng là một trong những kỹ năng sống quan trọng, nó giúp
cho trẻ giải quyết các vấn đề một cách nhanh chóng và hợp lý. Qua q trình nghiên
cứu, nhiều nhà khoa học đã chứng minh trẻ chỉ hợp tác khi được hoạt động trong
nhóm và quy mơ nhóm lại có ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng hợp tác của trẻ.
Quy mơ nhóm đã tạo cho trẻ các tuyến quan hệ giao tiếp và công việc giữa các cá
nhân. Quy mơ nhóm cũng tạo ra mơi trường và tình huống xã hội hố trong học tập.
Đồng thời, quy mơ nhóm đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy trẻ hợp tác trong các mối
quan hệ giữa các học sinh như: thi đua, cạnh tranh, chia sẻ, đoàn kết, đấu tranh, phê
bình và tự phê bình, đánh giá và tự đánh giá.
TS. Trần Lan Hương cho rằng, hoạt động hợp tác là những hành động cần có ít
nhất một người bạn. Nếu nhóm q nhỏ (2 thành viên) thì trẻ sẽ có được ít cơ hội trẻ
trao đổi ý kiến và tham khảo ý tưởng của nhiều người. Nếu quy mơ nhóm q lớn sẽ
làm cho các mối quan hệ của trẻ trong nhóm trở nên quá phức tạp đối với trẻ. Và như
vậy các mối quan hệ cũng trở nên lộn xộn và phức tạp hơn, trẻ sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khi thảo luận, đàm phán, xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ và thống nhất
trong công việc.
Theo nghiên cứu của TS. Đặng Thành Hưng sự hợp tác của trẻ có hiệu quả nhất
khi trẻ được hoạt động trong nhóm nhỏ từ 3 đến 6 trẻ.
Dựa trên quan điểm của TS. Đặng Thành Hưng, để hình thành kỹ năng hợp tác
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua trị chơi dân gian, chúng tơi sẽ tổ chức hoạt động hợp
tác cho trẻ theo nhóm nhỏ từ 3 đến 6 trẻ.
* Yếu tố thi đua
Việc thành kỹ năng hợp tác cho trẻ chỉ mang lại hiệu quả khi trẻ được khuyến
khích cùng nhau trao đổi, đàm phán, thoả thuận, chia sẻ kinh nghiệm để cùng bạn trải
nghiệm khi tham gia vào trị chơi dân gian.
Khơng khí lớp học là rất quan trọng đối với tâm trạng của trẻ trong mối quan hệ
đối với việc học. Sự tự tin phát triển tốt khi tất cả sự khác biệt của cá nhân được tôn
trọng và chấp nhận. Các em phải hiểu được rõ cơ giáo muốn gì ở cả lớp, ở các hành vi
15
và ở các mối quan hệ của trẻ. Đồng thời, cơ giáo phải thừa nhận sự nỗ lực, sự đóng
góp tích cực của trẻ vào trong các hoạt động của lớp.
Việc thi đua với bạn khác để hoàn thành một sản phẩm giống nhau sẽ gây ra sự
chán nản, thất vọng nhiều ở trẻ. Trong trò chơi dân gian, trẻ có thể thi đua để làm ra
những sản phẩm khác nhau hoặc các sản phẩm thay thế phù hợp bằng nhiều cách khác
nhau mà khơng có sự thất vọng chán nản vì những tình huống xảy ra cho phép nhiều
sản phẩm ở mức độ khác nhau. Giáo viên có thể cung cấp cho trẻ cơ hội để trẻ có thể
vừa tạo ra sản phẩm như hướng dẫn của cô giáo vừa làm theo cách sáng tạo riêng của
mình. Trong lớp học, khi trẻ được kích thích tự đánh giá về thành quả của mình đã đạt
được, chúng sẽ phát triển được cảm giác thi đua lành mạnh với chính thành quả của
mình.
Việc tổ chức thi đua khơng phải là để xem ai nhanh hơn, mạnh hơn, ai làm
được nhiều sản phẩm hơn, ai thắng ai thua mà thi đua ở đây là để tìm ra ai tạo ra nhiều
sản phẩm sáng tạo bằng nhiều cách thức khác nhau. Trò chơi dân gian nếu giáo viên
biết tổ chức cho trẻ thi đua lành mạnh, công bằng, dân chủ với các bạn trong nhóm/
lớp thì sẽ kích thích ở trẻ hứng thú học tập và giúp trẻ hợp tác với nhau chặt chẽ và
bền vững hơn.
2.3. Một số vấn đề về hoạt động ngoài trời
2.3.1. Khái niệm hoạt động ngoài trời
Hoạt động ngoài trời là hoạt động được tổ chức cho trẻ vui chơi, tham quan ngoài
trời, nhằm tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc thường xuyên với môi trường tự nhiên,
qua đó giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu vận động, nhu cầu được tìm tịi, khám phá.
Hoạt động ngồi trời rất tốt đối với sức khỏe và việc học tập vui chơi của trẻ là
nhu cầu không thể thiếu được đối với trẻ mẫu giáo trong trường mầm non. Nó mang
lại cho trẻ khơng khí trong lành, trẻ được tắm nắng ban mai, thỏa mãn nhu cầu vận
động, tiếp cận thông tin, khám phá sự vật hiện tượng thiên nhiên, xã hội dưới sự
hướng dẩn của cô giáo.
2.3.2. Đặc điểm hoạt động ngoài trời
- Khi tham gia hoạt động ngoài trời trẻ được thay đổi môi trường hoạt động,
trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, được trực tiếp quan sát những hoạt động của xã
hội, khám phá những điều mới lạ qua các hoạt động như: Quan sát hiện tượng thiên
nhiên, môi trường sống của các sự vật, tiếp xúc với nước, cát, sỏi, nhặt lá cây cùng cô
làm những đồ chơi đơn giản, chăm sóc vật ni, cây trồng của lớp của trường …
- Điều này được thể hiện qua nhận thức của trẻ, trẻ tò mò ham hiểu biết, mạnh
dạn nêu lên những gì trẻ đã được trải nghiệm, trẻ thường nêu lên những câu hỏi phức
tạp, số lượng câu hỏi nhiều hơn về các sự vật, hiện tượng theo từng chủ đề mà trẻ cần
khám phá.
16
- Hoạt động ngoài trời tạo cho trẻ nhiều cơ hội vận động toàn thân, phát triễn kỹ
năng vận động thô như: đi, chạy, nhảy, leo trèo, giữ thăng bằng, sự kết hợp các giác
quan và tiếp nhận cảm giác…, trẻ thể hiện được tính tự do tự nguyện, tính cộng đồng,
biết thành lập theo nhóm làm đồ chơi, chơi các trò chơi vận động, dân gian, chơi tự do,
cùng nhau làm những thí nghiệm đơn giản…đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển
ngày càng hoàn thiện hơn.
Để tổ chức tốt buổi hoạt động ngoài trời giáo viên phải có sự hiểu biết vững vàng
về đặc điểm tâm sinh lý và sự phát triển của trẻ theo từng độ tuổi về những kiến thức
liên quan đến chủ đề cần cho trẻ khám phá và phải có khả năng đánh giá trẻ đó, khả
năng lập kế hoạch giáo dục giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất.
2.3.3. Cách tổ chức hoạt động ngoài trời
* Việc tổ chức hoạt động ngoài trời được tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Ổn định tổ chức, giới thiệu bài.
- Giáo viên phải xác định chủ đề cần cho trẻ khám phá, từ chủ đề lớn đến chủ đề
nhỏ, giới thiệu chủ đề, hướng dẫn trẻ tìm hiểu khám phá chủ đề.
Bước 2: Tổ chức hoạt động chủ đích
- Tổ chức cho trẻ đi dạo, quan sát các sự vật, hiện tượng thiên nhiên liên quan tới
chủ đề.
- Tổ chức ôn luyện, làm quen kiến thức sắp học.
+ Để thực hiện tốt buổi đi dạo giáo viên có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Tạo tình huống lơi cuốn trẻ vào hoạt động , sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý dẫn
dắt trẻ tìm tịi khám phá, bày tỏ suy nghĩ của mình.
Bước 3: Tổ chức trị chơi vận động
Giáo viên chuẩn bị đồ dùng đồ chơi đầy đủ, bổ sung đồ dùng đồ chơi đúng lúc,
động viên khuyến khích, hổ trợ trẻ kịp thời.
Bước 4: Chơi tự do
Giáo viên chuẩn bị nhiều trị chơi để trẻ tự chọn
(Ví dụ: Trị chơi “Câu cá”, “Chơi xích đu, cầu trượt”….)
* Từ việc phân tích cách tổ chức trị chơi dân gian, chúng tơi nhận thấy việc tổ
chức trị chơi dân gian sẽ hiệu quả hơn khi đưa vào nội dung của bước 3.
Tơi sẽ tổ chức trị chơi dân gian cho trẻ bằng cách lồng ghép trò chơi dân gian
vào phần trò chơi vận động trong tiết hoạt động động ngoài trời (Ví dụ: Trị chơi
“Rồng rắn lên mây”, “Kéo co”, Mèo đuổi Chuột”….) để trẻ được tiếp xúc với thiên
nhiên, nhằm tăng cường sức khỏe và các tố chất về thể lực cho trẻ, tạo hứng thú hơn
khi trẻ tham gia vào hoạt động.
17
2.4. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi
2.4.1. Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ
* Sự phát triển chú ý và ghi nhớ:
- Cả hai dạng chú ý có chủ định và khơng có chủ định đều phát triển mạnh ở trẻ
5 - 6 tuổi, nhiều phẩm chất chú ý có chủ định phát triển nhanh do sự phát triển của
ngôn ngữ và tư duy. Sức tập trung sự chú ý của trẻ cao, trẻ có thể vẽ, nặn một thời gian
dài. Với các hoạt động tạo hình làm tăng khối lượng chú ý của trẻ. Mặc dù chú ý có
chủ định phát triển mạnh, nhưng nhìn tồn bộ lứa tuổi thì tính ổn định chưa cao.
* Sự phát triển ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hồn cảnh, tình huống, nghĩa là ngơn ngữ
của trẻ gắn liền với sự vật, hồn cảnh, con người, hiện tượng đang xảy ra trước mắt
trẻ. Ở cuối tuổi mẫu giáo, cơ quan phát âm đã trưởng thành trẻ có thể phát âm chuẩn
các từ khó, sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung giao tiếp hay nội dung
của câu chuyện mà trẻ kể.
- Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng từ mà điều quan trọng là lĩnh hội
được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản. Trẻ tích luỹ được khá phong phú không những
chỉ về danh từ mà cả về động từ, tính từ, liên từ… trẻ nắm được vốn từ trong tiếng me
đẻ đủ để diễn đạt các mặt trong đời sống hằng ngày. Trong khi sử dụng ngôn ngữ trẻ
đã bắt đầu hiểu nghĩa của từ và nguồn gốc của nó.
- Ngơn ngữ phát triển mạch lạc: Trước đây trẻ giao tiếp chủ yếu dựa vào ngơn
ngữ tình huống, lớn hơn ở độ tuổi 5 - 6 tuổi ngôn ngữ của trẻ phát triển cao hơn, rõ
ràng khúc chiết hơn đó là ngơn ngữ ngữ cảnh, ngơn ngữ giải thích… càng lớn trẻ sử
dụng ngơn ngữ để giao tiếp mach lạc hơn. Kiểu ngơn ngữ mạch lạc có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với việc hình thành những mối quan hệ qua lại với những người xung
quanh. Mặt khác chính ngơn ngữ mạch lạc là phương tiên làm cho tư duy của trẻ phát
triển đến một chất lượng mới, đó là việc nảy sinh các yếu tố của tư duy lơgic, nhờ đó
mà tồn bộ sự phát triển của trẻ được nâng lên một trình độ mới, cao hơn.
* Sự phát triển tri giác:
- Do tiếp xúc với nhiều đồ vật, hiện tượng con người… độ nhạy cảm phân biệt
các dấu hiệu thuộc tính bên ngồi của chúng ngày càng chính xác và đầy đủ.
- Một số quan hệ không gian và thời gian được trẻ tri giác hơn trong tầm nhìn,
nghe của trẻ.
- Khả năng quan sát của trẻ được phát triển không chỉ số lượng đồ vật mà cả các
chi tiết, dấu hiệu thuộc tính, màu sắc.
- Bắt đầu xuất hiện khả năng kiểm tra độ chính xác của tri giác bằng cách hành
động thao tác lắp ráp, vặn mở… phù hợp với nhiệm vụ u cầu. Các loại tri giác nhìn,
nghe, sờ mó… phát triển ở độ tin nhạy.
18
* Sự phát triển trí nhớ:
- Trẻ đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong trí nhớ để nhận lại và nhớ lại các
sự vật và hiện tượng.
- Trí nhớ có ý nghĩa đã thể hiện rõ nét khi gọi tên đồ vật, hoa quả, thức ăn.
- Trí nhớ không chủ định của trẻ ở các dạng hoạt động phát triển khác nhau và
tốc độ phát triển rất nhanh.
* Sự phát triển tư duy:
- Các loại tư duy đều được phát triển nhưng mức độ khác nhau.
- Tư duy trực quan hình tượng, tư duy trực quan sơ đồ phát triển mạnh mẽ và
chiếm ưu thế.
- Trẻ ở lứa tuổi này đã xuất hiện loại tư duy trừu tượng.
* Sự phát triển tưởng tượng:
- Nhờ có sự phát triển các hoạt động tạo hình mà khả năng tưởng tượng của trẻ
được nâng lên.
- Tranh vẽ của trẻ vừa gần với hiện thực vừa mang tính chủ quan cảm xúc rõ
nét.
- Độ phong phú của các hình ảnh tưởng tượng cao nhờ có sự nhận thức được
màu sắc trong thiên nhiên và qua các tiết nghệ thuật tạo hình.
* Sự phát triển đời sống tình cảm:
- Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét hơn so với mẫu
giáo bé.
- Tình cảm đạo đức ngày càng phát triển do lĩnh hội được các chuẩn mực hành
vi, quy tắc ứng xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi khi hành vi phạm sai lâm. Trẻ biết đòi
người lớn đánh giá đúng mức hành vi đúng, sai, tốt, xấu của mình.
- Tình cảm trí tuệ cũng phát triển theo hướng tìm hiểu các nguyên nhân, cội
nguồn các hiện tượng tự nhiên và xã hội, cuộc sống xung quanh trẻ.
- Tình cảm thẩm mỹ: Tổng hợp nhiều xúc cảm cùng loại khi rung cảm trước vẻ
đẹp của thiên nhiên, con người, cỏ cây, hoa lá… Tình cảm thẩm mỹ xuất hiện ở trẻ.
* Sự phát triển ý chí:
- Có thể điều khiển được q trình ghi nhớ và nhớ lại một “ tài liệu” nào đó do
người lớn giao cho, ghi nhớ một bài thơ ngắn trẻ thích.
- Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những hành vi ngơn
ngữ, trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch hành động và chỉ đạo hành động,
trẻ thường nói to khi hành động.
2.4.2. Đặc điểm phát triển sinh lý của trẻ
Mỗi tháng cân nặng của trẻ tăng từ 100g – 150g, đến 6 tuổi cân nặng trung bình
từ 18 kg – 20kg. Tỷ lệ mỡ trong cơ thể thấp nhất so với các lứa tuổi nên nhìn trẻ có vẻ
19
gầy ốm. Chiều cao mỗi tháng tăng từ 1cm – 1,5cm, đến 6 tuổi trẻ cao từ 105cm – 115
cm
Tròn 6 tuổi, não của trẻ đạt khoảng 1300g như người lớn, sự biệt hóa và tăng
trưởng não bộ đả hồn thành. Hệ tiêu hóa trẻ đã hồn thiện. Trẻ đã mọc đủ 8 răng hàm,
trẻ cũng bắt đầu thay răng.
Vận động của trẻ giai đoạn này đã hoàn thiện. Trẻ từ 5 tuổi trở đi đã có thể vận
động tồn thân, hoặc làm các động tác phức tạp hơn như chơi đá cầu, nhảy dây, leo
trèo, lộn xà đơn… Các ngón tay của trẻ 5 tuổi khơng những có thể hoạt động tự do, mà
động tác còn nhanh nhẹn và hồn chỉnh hơn, nên có thể cầm bút để viết hoặc vẽ, đồng
thời còn thực hiện nhiều động tác mới và tinh tế hơn.
Khi 5 - 6 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh, đạt chất lượng cao về phát âm,
vốn từ và các hình thức ngữ pháp. Đây là điều kiện cơ bản để hoàn thiện chức năng
tâm lý người.
Trẻ ln tị mị, hoạt động nhiều, ham học hỏi, thích tự làm việc, ham chơi hơn
ăn. Trẻ có những hoạt động giao tiếp, trẻ tham gia vào trò chơi tập thể, dần dần chia
tay tuổi thơ.
Đặc biệt, giai đoạn này trẻ bắt đầu cắp sách đến trường, khả năng tiếp thu kiến
thức mới thông qua việc phát triển ngôn ngữ và tư duy logic phát triển nhanh. Khi trẻ
đi học trẻ sẽ hồn thiện ngơn ngữ, phát triển trí tuệ, đi học trẻ biết ý thức hồn thành
nghĩa vụ, tạo được các quan hệ xã hội.
3. Sử dụng hệ thống trò chơi dân gian
3.1. Cơ sở xây dựng hệ thống trò chơi dân gian
Trò chơi dân gian trẻ em khơng chỉ đơn thuần là một trị chơi của trẻ con mà nó
cịn chứa đựng cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Nó khơng
chỉ chắp cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển tư duy sáng tạo, mà còn giúp các em
hiểu về tình bạn, q hương, đất nước. Chính vì vậy, trò chơi dân gian rất cần thiết
được lựa chọn, tổ chức trong trường mầm non.
Qua từng thời kỳ phát triển của xã hội, các hình thức chơi của trẻ cũng thay đổi.
Một số trò chơi dân gian truyền thống, dần bị mai một, thay thế bằng những trò chơi
hiện đại với máy móc, cơng nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, trị chơi dân gian có nhiều thế
mạnh riêng. Giáo viên có thể sử dụng những vật liệu sẵn có, rẻ tiền, thậm chí khơng
cần đồ dùng, dụng cụ mà chỉ cần trẻ chơi với nhau. Điều này rất phù hợp với tình hình
thực tế của cấp học. Trẻ em được tiếp cận và trực tiếp tham gia chơi các trò chơi dân
gian sẽ giúp cho trẻ sớm hình thành các thói quen hoạt động có hệ thống, tính tập thể
giúp trẻ tự tin, linh hoạt hơn trong mọi hoạt động cũng như sự phát triển sau này của
trẻ. Thông qua trò chơi dân gian, trẻ sẽ phát triển được các giác quan (thị giác, thính
20
giác, vị giác, xúc giác, khứu giác), phát triển trí nhớ, phát triển tư duy, trí tưởng tượng,
ngơn ngữ.
3.2 Hệ thống bài tập trò chơi dân gian
3.2.1 Trò chơi dân gian vận động
* Trò chơi 1: Cướp cờ
- Cách chơi
+ Quản trị chia tập thể chơi thành hai đội, có số lượng bằng nhau mỗi đội có từ
5-6 bạn, đứng hàng ngang ở vạp xuất phát của đội mình. Đếm theo số thứ tự
1,2,3,4,5… các bạn phải nhớ số của mình.
+ Khi quản trị gọi tới số nào thì số đó của hai đội nhanh chóng chạy đến vịng
và cướp cờ.
+ Khi quản trị gọi số nào về thì số đó phải về
+ Một lúc quản trị có thể gọi hai ba bốn số
- Luật chơi:
+ Khi đang cằm cờ nếu bị bạn vỗ vào người, thua cuộc
+ Khi lấy được cờ chạy về vạch xuất phát của đội mình khơng bị đội bạn vỗ vào
người, thắng cuộc
+ Khi có nguy cơ bị vỗ vào người thì được phép bỏ cờ xuống đất để chánh bị
thua
+ Số nào vỗ số đó khơng được vỗ vào số khác. Nếu bị số khác vỗ vào không
thua
+ Số nào bị thua rồi quản trị khơng gọi số đó chơi nữa
+ Người chơi khơng được ôm, giữ nhau cho bạn cướp cờ
+ Người chơi tìm cách lừa đối phương để mang cờ về, lựa chọn sân bải phù hợp
để tránh nguy cơ cờ ra khỏi vòng tròn, để cờ lại vòng tròn chỉ được cướp cờ trong
vòng tròn
+ Khoảng cách cờ đến hai đội bằng nhau.
* Trò chơi 2: Mèo đuổi Chuột
- Cách chơi 1:
+ Hướng dẫn: Một em đóng vai Mèo, một em đóng vai Chuột, đều bịt mắt,
đứng xa nhau hoặc ép lưng vào nhau. Khi có lệnh chơi, bạn đóng vai trị Mèo kêu lên:
meo, meo, bạn đóng vai trị Chuột kêu lên “chít, chít”. Bạn đóng vai trị Mèo tìm, đốn
tiếng Chuột kêu để bắt. Bạn đóng vai trị Chuột tránh mèo. Các bạn đứng ở vòng tròn
trật tự.
- Luật chơi:
+ Trong 1 khoảng thời gian quy định Mèo không bắt được Chuột, đổi Mèo
thành Chuột.
21
+ Mèo bắt được Chuột, Chuột chịu phạt (ôm chặt Chuột)
+ Mèo, Chuột khơng chảy ra khỏi vịng trịn (nếu có vịng trịn ở ngồi)
- Cách chơi 2:
Hướng dẫn: tương tự như cách chơi 1, nhưng Mèo, Chuột không bịt mắt mà
đuổi nhau quanh vòng tròn. Chuột cố gắng luồn lách qua các bạn đứng ở vòng tròn.
- Luật chơi: tương tự như cách chơi 1 nhưng Mèo chỉ cần vỗ được vào người
Chuột, Chuột thua cuộc.
* Trò chơi 3: Kéo co
- Cách chơi 1
+ Quản trò chia các bạn chơi thành 2 đội có số người bằng nhau, đứng đối diện
nhau. Cách đứng như sau: hai bạn đứng đầu của 2 đội đan 2 bàn tay vào nhau rồi lồng
vào nhau. Các bạn cịn lại ơm bụng bạn đứng trước. Các đội đứng ở vạch của đội mình
+ Khi có lệnh cho 2 đội tìm cách kéo đội bạn qua vạch của mình
- Cách chơi 2:
+ Dùng 1 dây dài cho 2 đội nắm vào dây.
+ Khi có lệnh chơi, các đội tìm cách kéo đội bạn qua được vạch quy định.
- Luật chơi:
+ Đội nào kéo được qua vạch quy định, thắng cuộc.
+ Đội bị đứt đoạn, bị ngã, thua cuộc.
* Trò chơi 4: Trời nắng, trời mưa
- Luật chơi:
Khi có hiệu lệnh “trời mưa”, mỗi bé phải trốn vào một nơi trú mưa. Ai khơng
tìm được nơi trú phải ra ngoài một lần chơi.
- Cách chơi:
Giáo viên hướng dẫn chuẩn bị vẽ những vòng tròn trên sân. Sao cho vòng này
cách vòng kia từ 30 - 40cm để làm nơi trú mưa. Số vịng ít hơn số trẻ chơi khoảng 3-4
vịng
Trẻ đóng vai học trị đi học, vừa đi vừa hát theo nhịp phách của người hướng
dẫn. Khi nghe hiệu lệnh của cơ nói: “Trời mưa” thì mỗi trẻ tìm một nơi trú mưa nấp
cho khỏi bị ướt (chạy vịng trịn). Ai chạy chậm khơng tìm được nơi để nấp thì sẽ bị
ướt và phải chạy ra ngồi 1 lần chơi. Trị chơi tiếp tục, giáo viên ra lệnh “trời nắng” để
trẻ đi ra xa vòng tròn. Hiệu lệnh “trời mưa” lại được hô lên để trẻ tìm đường trú mưa.
* Trị chơi 5: Cáo và Thỏ
- Cách chơi:
Giáo viên hướng dẫn chọn một trẻ làm Cáo ngồi ở góc lớp, số trẻ cịn lại làm
Thỏ và chuồng Thỏ, cứ 1 trẻ làm thỏ thì 2 trẻ làm chuồng. Hai trẻ làm chuồng xếp
22
thành vòng tròn. Giáo viên hướng hướng dẫn yêu cầu các con Thỏ phải nhớ đúng
chuồng của mình.
Các con Thỏ đi kiếm ăn, vừa nhảy vừa giơ hai bàn tay lên đầu vẫy vẫy như tai
Thỏ và đọc bài thơ:
“Trên bãi cỏ
Các chú thỏ
Tìm rau ăn
Rất vui vẻ
Thỏ nhớ nhé
Có Cáo gian
Đang rình đấy
Thỏ nhớ nhén
Chạy cho nhanh
Kẻo Cáo gian
Tha đi mất”.
Khi đọc hết bài thơ thì Cáo xuất hiện, Cáo “gừm, gừm..” đuổi bắt Thỏ. Khi
nghe tiếng Cáo, các con Thỏ chạy nhanh về chuồng của mình. Những con Thỏ bị Cáo
bắt phải ra ngoài 1 lần chơi, sau đó đổi vai cho nhau.
- Luật chơi:
Thỏ phải nấp vào đúng hang của mình. Con Thỏ nào chậm sẽ bị cáo bắt, và nếu
nhầm hang thì phải ra ngồi một lần chơi.
* Trò chơi 6: Nhảy dây
- Cách chơi:
Hai tay người chơi cầm 2 đầu dây, dang rộng tay, dây để sau lưng. Người chơi
vừa quay hai tay cầm dây vừa nhảy thẳng chân sao cho dây đi qua đầu rồi đi qua chân.
Cứ chơi tiếp tục như vậy.
Ngoài ra, có thể chơi nhảy cặp đơi. Hai người chơi quay mặt vào nhau, một
người cầm dây như cách chơi có 1 người và quay dây sao cho dây qua đầu và chân cả
hai người.
- Luật chơi:
Người chơi cứ tiếp tục nhảy đúng theo số lần quy định của cuộc chơi. Nếu
vướng dây thì bị phạt.
3.2.2. Trị chơi trí tuệ
* Trị chơi 1: Tập tầm vong
- Cách chơi:
23
Trò chơi này cần 2 người hoặc 3, 4 người chơi. Một người nắm một đồ vật nhỏ
trong một bàn tay, trái hoặc phải (ví dụ: viên sỏi) và giấu vào sau lưng. Sau đó, người
đó đọc to bài đồng dao:
“Tập tầm vong
Tay có tay khơng
Mời các bạn
Đốn sao cho đúng
Tập tầm vó
Đố tay nào có
Tay nào khơng
Có có! Khơng khơng”.
Nắm chặt lịng bàn tay và đưa hai tay ra.
Những người chơi cịn lại sẽ đốn xem tay nào có nắm viên sỏi.
- Luật chơi:
Nếu người chơi bị đoán trúng tay nắm viên sỏi hoặc những người chơi cịn lại
khơng đốn được tay nào nắm viên sỏi thì tùy vào quy định của cuộc chơi có thể bị
phạt khác nhau.
Trị chơi 2: Ô ăn quan
Cách sắp xếp quân: Bàn bao gồm 10 ô vuông (ô dân) và 2 ô bán nguyệt (ơ
quan). Ơ dân được sắp xếp thành 5 ơ vng đối xứng nhau mỗi ơ vng có 5 dân, mỗi
ơ quan có 1 quan
Người thắng cuộc: Người thắng trong trị chơi là người mà khi cuộc chơi kết
thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn.
Quy đổi Quan và Dân: Tùy theo luật chơi từng nơi hoặc thỏa thuận giữa hai
người chơi quy đổi Quân dân sẽ khác nhau, phổ biến nhất 1 Quan được quy đổi bằng
10 Dân hoặc 5 Dân.
Cách di chuyển quân:
Mỗi người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có
thể ăn được càng nhiều dân và quan hơn đối phương càng tốt.
Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay
thỏa thuận.
Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số qn trong một ơ có qn bất kỳ do
người đó chọn trong số 5 ơ vng của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt
đầu từ ơ gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý.
Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như
sau:
24
+ Nếu liền sau đó là một ơ vng có chứa qn thì tiếp tục dùng tất cả số qn
đó để rải tiếp theo chiều đã chọn.
Trường hợp ăn quân
Nếu liền sau đó là một ơ trống (ơ dân) rồi đến một ơ có chứa qn (khơng phân
biệt ơ quan hay ơ dân) thì người chơi sẽ được ăn tất cả số qn trong ơ đó. Số qn bị
ăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc.
Trường hợp ăn quân liên tiếp
Nếu liền sau ơ có qn đã bị ăn lại là một ơ trống rồi đến một ơ có qn thì
người chơi có quyền ăn tiếp qn ở ơ này. Nếu lại tiếp tục một ơ trống rồi đến ơ có
qn thì người chơi có quyền ăn tiếp qn của các ơ đó.
Trường hợp mất lượt
Nếu liền sau đó là ơ quan (có qn hoặc khơng có qn) hoặc 2 ơ trống trở lên
hoặc sau khi vừa ăn thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.
Trường hợp xuất quân
+ Trường hợp đến lượt đi nhưng cả 5 ơ vng thuộc quyền kiểm sốt của người
chơi đều khơng có qn thì người đó sẽ phải dùng 5 dân đã ăn được của mình để đặt
vào mỗi ơ 1 dân. Nếu người chơi khơng đủ 5 dân thì phải vay của đối phương và trả lại
khi tính điểm.
Cuộc chơi kết thúc
Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ Dân và Quan ở 2 ô quan đã bị ăn hết. Trường
hợp hai ô quan đã bị ăn hết nhưng vẫn cịn qn trong những ơ vng thì qn trong
những ô vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy. Lúc này được gọi là
“Hết quan toàn dân kéo về”.
* Trò chơi 3: Đếm sao
- Cách chơi:
Tất cả ngồi thành một vịng trịn, một người đứng ngồi vịng, phía sau lưng
mọi người. Bắt đầu từ một người bất kỳ, vừa đi vừa hát:
“Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
Tôi đố anh chị nào
Một hơi đếm hết
Từ một ông sao sáng
Đến 10 ông sáng sao”.
Mỗi từ đập vào vai một người, đến từ sao cuối cùng, trúng vào người nào thì
người ấy phải đọc một hơi khơng nghỉ: “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông
sao sáng….Cho đến 10 ông sáng sao”.
25