Tải bản đầy đủ (.doc) (241 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ HOÀN THIỆN QUỸ QUẢN lý bảo HIỂM xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 241 trang )

1

MỞ ĐẦUđ

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) và Bảo hiểm y tế (BHYT) là
những chính sách xã hội quan trọng, đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
thực hiện đối với người lao động, lực lượng vũ trang ngay từ sau Cách mạng
tháng Tám thành công. Chính sách đó đã từng bước được bổ sung, sửa đổi và
hoàn thiện cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử đấu tranh thống nhất Tổ
quốc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách BHXH đã được Nhà nước kịp
thời điều chỉnh. Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ
họp thứ 5 ngày 25/06/1994, quy định tại chương 12 về BHXH áp dụng với
người lao động ở mọi thành phần kinh tế. Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH
đối với công nhân viên chức nhà nước (Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995) và
đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng (Nghị định
45/CP ngày 15/07/1995). Để triển khai thực hiện chính sách, chế độ BHXH
đối với người lao động theo các Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. BHXH Việt
Nam được tổ chức theo hệ thống dọc ba cấp là: BHXH Việt Nam; BHXH các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của hệ thống BHXH
Việt Nam là tổ chức thu BHXH, giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, thực
hiện các hoạt động đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH; kiến nghị
với Chính phủ và các cơ quan có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chính sách,
chế độ BHXH cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng giai đoạn.



2

Sau gần 10 năm hoạt động, số đối tượng tham gia BHXH ngày càng
nhiều, quỹ hưu trí và trợ cấp (HT&TC) chủ yếu do người lao động và người
sử dụng lao động đóng góp tăng nhanh. Tổ chức chi trả các chế độ cho người
lao động kịp thời, đảm bảo chính xác, đầy đủ, góp phần ổn định đời sống của
người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và
nghỉ hưu. Quỹ HT&TC tạm thời nhàn rỗi đã tham gia các hoạt động đầu tư để
phát triển kinh tế - xã hội, đem lại hiệu quả tương đối tốt.
Chính sách BHYT do hệ thống BHYT Việt Nam triển khai tổ chức
thực hiện theo quy định tại Điều lệ BHYT được ban hành kèm theo Nghị định
số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và
đã được điều chỉnh, bổ sung tại Nghị định số 47/CP ngày 6/6/1994 của Hội đồng
Bộ trưởng. Nhằm từng bước hoàn thiện chính sách BHYT phù hợp với tiến trình
cải cách hành chính của Nhà nước, để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu khám,
chữa bệnh của những người tham gia bảo hiểm; ngày 13/8/1998, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 58/1998/NĐ-CP kèm theo Điều lệ BHYT mới thay
thế cho Điều lệ BHYT cũ được ban hành kèm theo Nghị định số 299/HĐBT.
Để tổ chức thực hiện chính sách BHYT theo Nghị định số 58/1998/NĐCP, hệ thống bộ máy BHYT Việt Nam được thành lập, tổ chức theo ngành
dọc
ba cấp: BHYT Việt Nam, BHYT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và BHYT ngành trực thuộc BHYT Việt Nam; chi nhánh BHYT quận, huyện
trực thuộc BHYT tỉnh, thành phố.
Trong những năm qua, BHYT Việt Nam đã thu hút được số lượng lớn
người tham gia và hưởng chế độ khám, chữa bệnh ngày càng tăng, với chất
lượng phục vụ ngày càng chu đáo và đầy đủ. Quỹ khám, chữa bệnh (KCB) tạm
thời nhàn rỗi đã tham gia hoạt động đầu tư tăng trưởng để góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.



3

Để thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong giai đoạn
mới, ngày 24/1/2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg
chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam để thống nhất tổ chức thực
hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm cho mọi người tham gia và hưởng các
quyền lợi về BHXH và BHYT.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thời gian qua, trong quá trình
hoạt động đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế ngay trong chính sách, chế độ và
tổ chức triển khai thực hiện. Chính sách, chế độ BHXH liên tục được bổ sung,
sửa đổi và bị đan xen bởi các chính sách xã hội khác như chính sách lao động,
việc làm, tiền lương... đã tác động mạnh đến nguồn thu và chi từ quỹ dẫn đến
nguy cơ quỹ BHXH mất cân đối trong tương lai. Quyền lợi của người tham
gia bảo hiểm chưa thực sự công bằng, còn có sự phân biệt đối xử ở các cơ sở
KCB. Còn có hiện tượng quỹ BHXH bị lạm dụng do một số đối tượng cố tình
vi phạm. Vì vậy, để phục vụ ngày càng tốt hơn đối với mọi người tham gia và
hưởng các chế độ bảo hiểm, cần phải tiếp tục cải tiến, hoàn thiện trên tất cả
các nội dung quản lý quỹ BHXH.
Là người đã và đang tham gia trực tiếp quản lý trong ngành BHXH
Việt Nam, tôi chọn đề tài "Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam" làm luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động của BHXH nói chung và quản lý quỹ BHXH nói riêng
cũng đã có những công trình được công bố như:
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: "Thực trạng quản lý thu bảo
hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu",
mã số 96-01-01/ ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS. Nguyễn Văn Châu.
Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: tìm hiểu một
số kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới; đánh giá



4

thực trạng về hoạt động của nghiệp vụ thu BHXH trong thời kỳ trước khi
thành lập hệ thống BHXH (1995) và trong thời kỳ từ 1995 đến 1996; đề xuất
một số khuyến nghị cụ thể nhằm cải tiến quản lý thu BHXH ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện công tác thu
BHXH của một số nước như: Nhật bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Anh, Mỹ,
Nga, Hungari... tác giả đề ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản
lý thu BHXH đối với nước ta đó là:
- Xây dựng một chính sách huy động sự đóng góp của người lao động
và chủ sử dụng lao động phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và
phải được điều chỉnh theo xu hướng tăng lên phù hợp với từng thời kỳ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Hoạt động BHXH mang tính chất xã hội cao nên việc áp dụng hình
thức BHXH sao cho phù hợp và có hiệu quả cần phải phối hợp giữa hình thức
bắt buộc và tự nguyện để thu hút ngày càng nhiều đối tượng tham gia BHXH.
Tác giả đã phân tích, đánh giá tình hình thực hiện công tác thu ở giai
đoạn trước năm 1995 và trong giai đoạn 1995 - 1996; trên cơ sở đó tác giả đã
tìm ra nhưng nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quản lý
thu BHXH.
Tác giả đã đưa ra 8 khuyến nghị để nhằm đổi mới hoạt động quản lý
thu BHXH, đó là: Về công tác tổ chức phải từng bước được củng cố và hoàn
thiện; về đào tạo cán bộ phải thực sự được quan tâm tổ chức tập huấn nghiệp
vụ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ; về hoàn chỉnh các văn bản qui phạm pháp
luật điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ tham gia BHXH của mọi người lao
động và chủ sử dụng lao động; về mở rộng đối tượng tham gia BHXH và về
vấn đề hạch toán nghiệp vụ thu BHXH.



5

+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: "Thực trạng và định hướng
hoàn thiện tác nghiệp chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay", mã số 9603-03/ĐTT, chủ nhiệm đề tài là TS. Dương Xuân Triệu.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng về
các hoạt động nghiệp vụ chi trả 5 chế độ BHXH và đi sâu nghiên cứu các
phương thức chi trả BHXH trong khoảng thời gian 1995 - 1996. Tác giả đã
khái quát sơ lược về BHXH và quỹ BHXH, đã đánh giá thực trạng hoạt động
chi trả các chế độ BHXH trên các mặt như: về cơ sở vật chất phục vụ hoạt
động chi trả; về hệ thống sổ sách, mẫu biểu chi BHXH; về quản lý đối tượng
chi trả; về quy trình chi trả BHXH và lệ phí chi trả.
Tác giả đã đánh giá và nêu lên những mặt ưu điểm và nhược điểm của
hai phương thức chi trả trực tiếp và gián tiếp.
Tác giả đã đưa ra 7 kiến nghị nhằm hoàn thiện tác nghiệp chi trả các
chế độ BHXH, đó là:
- Cần hoàn thiện các văn bản quy định có liên quan đến quản lý đối
tượng, quản lý tài chính tạo hành lang pháp lý để cho BHXH các cấp có cơ sở
thực hiện.
- Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy chi trả hoàn chỉnh từ Trung ương
đến cơ sở.
- Tính toán mức lệ phí chi trả giữa các vùng, các khu vực cho hợp lý
hơn.
- Tăng cường cơ sở vật chất cho BHXH huyện, thị phục vụ cho công
tác chi trả trực tiếp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tài chính trong khâu nghiệp
vụ, chuyên môn.
- Đẩy mạnh công tác học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ làm công tác BHXH.



6

- Tăng cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng về chính sách, chế độ BHXH.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: "Chiến lược phát triển bảo
hiểm xã hội phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020", mã số
99-06-29/ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS. Nguyễn Huy Ban.
Đề tài đã tập trung nghiên cứu các vấn đề:
Một là, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển BHXH. Tác
giả đề cập đến những mục tiêu cơ bản trong phát triển nền kinh tế và xã hội ở
Việt Nam; hoạt động BHXH là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế;
những yêu cầu để phát triển BHXH đáp ứng sự phát triển kinh tế và xã hội.
Hai là, vấn đề thực hiện BHXH ở một số nước trên thế giới và trực
trạng chính sánh ở BHXH Việt Nam.
Tác giả đã lựa chọn Philippin, Malaysia và Nhật Bản để nghiên cứu và
đưa ra một số kinh nghiệm để vận dụng phù hợp với điều kiện ở Việt Nam
sau này.
Tác giả đã điểm lại lịch sử phát triển chính sách BHXH ở Việt Nam
qua các giai đoạn từ năm 1945 đến năm1999. Đã phân tích đánh giá những
thành tựu, cũng như những mặt đạt được của hệ thống chính sách BHXH và
tổ chức thực hiện chính sách đó ở Việt Nam.
Ba là, chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm 2020.
Tác giả đã nêu những quan điểm và định hướng cơ bản để phát triển
BHXH ở Việt Nam, đồng thời đề ra một số giải pháp cho việc hoạch định
chính sách BHXH ở Việt Nam, như dự báo dân số và lao động đến năm
2020; vấn đề BHXH cho các loại hình lao động thuộc các khu vực kinh tế


7


khác nhau; các nguồn đóng góp, mức đóng góp và cơ chế quản lý sử dụng
quỹ BHXH.
Tóm lại, với mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và
những cách tiếp cận khác nhau, các đề tài trên đã đề cập khá nhiều vấn đề có
liên quan đến thực trạng hoạt động BHXH trong các năm qua và dự báo,
định hướng phát triển trong tương lai. Nhưng đối với quỹ BHXH chưa có
công trình nào đề cập cách toàn diện, cập nhật, chưa phân tích, đánh giá sâu
sắc nội dung và phương thức quản lý quỹ BHXH dưới dạng công trình khoa
học hoặc luận án tiến sĩ. Vì vậy, cần thiết phải có những công trình nghiên
cứu có hệ thống về vấn đề này góp phần hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở
nước ta hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Mục đích: Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận, khảo sát, tổng kết
thực tiễn, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở
Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
Một là, góp phần làm rõ cơ sở lý luận về BHXH và quản lý quỹ BHXH.
Hai là, phân tích đánh giá thực trạng quản lý quỹ BHXH trong thời
gian qua, đặc biệt giai đoạn hình thành hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam, để
tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân.
Ba là, đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý quỹ BHXH
ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu quá trình quản lý quỹ BHXH bao gồm: quản
lý Nhà nước quỹ BHXH và quản lý sự nghiệp quỹ BHXH ở Việt Nam.


8

Phạm vi nghiên cứu: Sự ra đời và quá trình đổi mới quản lý quỹ HT&TC

và quỹ KCB không đồng nhất với nhau về thời gian. Để thuận tiện cho việc
đánh giá qua các giai đoạn có những thay đổi căn bản về mô hình quỹ BHXH,
mô hình tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức quản lý, luận án chia quá
trình quản lý quỹ làm hai giai đoạn: Giai đoạn 1: quản lý quỹ HT&TC trước
năm 1995 và quỹ KCB trước năm 1998; giai đoạn 2: quản lý quỹ HT&TC từ
năm 1995 đến năm 2003 và quỹ KCB từ năm 1998 đến năm 2003. Luận án
nghiên cứu quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam ở hai giai đoạn nhưng tập trung
chủ yếu ở giai đoạn 2.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối chủ trương chính sách của Đảng được đề ra trong các kỳ đại
hội về lĩnh vực kinh tế - xã hội, luận án sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để
phân tích, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Luận án kết hợp
giữa nguyên lý kinh điển, những vấn đề của kinh tế học hiện đại, quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước với tổng kết thực tiễn hiện nay.
6. Những đóng góp của luận án
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học và căn cứ thực tiễn của quản
lý quỹ BHXH ở Việt Nam.
- Tổng kết mô hình và phương thức quản lý quỹ BHXH của một số
nước trên thế giới để rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong
hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam
qua các giai đoạn (trong đó tập trung chủ yếu ở giai đoạn 2), rút ra những kết
quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc của hoạt động quản lý quỹ BHXH ở
Việt Nam.


9


- Đề xuất quan điểm và những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ
BHXH ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục
lục, nội dung của luận án gồm 3 chương, 8 tiết.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1. BẢO HIỂM XÃ HỘI, CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUỸ
BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học
và được dự báo trước; con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất
ngờ có thể xảy ra do rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất,
hạn hán...), tai nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe máy...), tai
nạn trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch bệnh, hỏa hoạn... Những bất trắc,
rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho con người những tổn thất, hậu quả to lớn
cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy
mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc
phục những biến cố rủi ro đó. Những biện pháp phòng ngừa, né tránh và hạn
chế rủi ro thường được con người chủ động đưa ra các quy định cụ thể (bộ
luật, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư...) trong từng lĩnh vực

quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống sinh hoạt xã hội để
buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ
thực hiện. Chẳng hạn, để phòng, chống lụt bão, Nhà nước ban hành Luật về
đê điều; để đề phòng tai nạn giao thông, Nhà nước ban hành Luật giao thông
đường bộ, đường thủy, đường hàng không...
Mặt khác, theo quy luật sinh học thì hầu như mọi người thường phải
trải qua các giai đoạn là: con người được sinh ra, được nuôi dưỡng đến lúc
trưởng thành; lao động cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, cho gia đình; tiếp


11

đến là giai đoạn hết tuổi lao động, già, yếu, bệnh tật được xã hội, gia đình và
lớp người kế tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi chết. Con người muốn tồn
tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại... Để thỏa mãn những nhu
cầu tối thiểu đó, con người phải lao động để đem lại thu nhập. Nhưng trong
toàn bộ cuộc đời, không phải lúc nào con người cũng có đủ sức khỏe và cơ
hội lao động để có thu nhập. Trái lại, trong thực tiễn có rất nhiều những rủi ro
bất lợi ngẫu nhiên đến với con người như ốm đau, tai nạn, suy giảm sức khỏe,
mất việc làm... Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu
về vật chất và tinh thần. Thậm chí trong một số trường hợp, nhu cầu chi tiêu
mới nảy sinh còn tăng thêm như chi phí khám, chữa bệnh, chăm sóc nuôi
dưỡng... Chính vì vậy, để chủ động khắc phục những khó khăn, tổn thất đó,
mỗi người lao động và cộng đồng xã hội cần thiết phải có một nguồn lực tài
chính dự trữ để kịp thời đáp ứng nhu cầu không những cho bản thân mình, mà
còn cho cả những người mình phải trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người
gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu) trong đời sống xã
hội. Thông thường có hai nhóm biện pháp đó là nhóm phòng chống rủi ro và
nhóm khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra.
Để phòng chống rủi ro, người ta phải đưa ra các biện pháp để kiểm

soát, ngăn ngừa, né tránh và giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Chẳng hạn, để
giảm thiểu về tai nạn giao thông, thì phải tuyên truyền đối với người tham gia
giao thông để họ chấp hành nghiêm luật giao thông; những người lái xe phải
có bằng lái xe; phân luồng giao thông cho người và phương tiện... Để giảm
thiểu tai nạn lao động, yêu cầu mọi người lao động phải học nội quy, quy chế
làm việc, mặc đồ bảo hộ khi lao động, chấp hành quy trình làm việc, vận hành
máy móc. Để giảm thiểu về hỏa hoạn, yêu cầu đơn vị, cá nhân phải chấp hành
tốt nội quy phòng cháy, chữa cháy, kịp thời khắc phục hậu quả để hạn chế tổn
thất đến mức độ cao nhất.
Để khắc phục hậu quả rủi ro con người có thể chấp nhận và tự khắc
phục hoặc tham gia bảo hiểm.


12

Chấp nhận rủi ro là người gặp phải rủi ro phải chấp nhận khoản tổn
thất đó, bản thân họ phải tự bù đắp tổn thất cho mình. Họ có thể chủ động lập
quỹ dự phòng trước để bù đắp, khắc phục những tổn thất do biến cố rủi ro gây
nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn
thất trong trường hợp họ không lập quỹ dự phòng trước. Ở hình thức này,
người gặp phải rủi ro thường bị động (ngay cả trong trường hợp có lập quỹ dự
phòng nhưng số thiệt hại quá lớn, vượt quá cả quỹ dự phòng); vì vậy sẽ rất
khó khăn khi rủi ro xảy ra đối với họ.
Bảo hiểm là công cụ quan trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu
quả, tổn thất khi rủi ro xảy ra. Những đối tượng (bao gồm cả tổ chức, đơn vị,
cá nhân) có cùng khả năng gặp phải một loại rủi ro nào đó đóng góp một
khoản phí cho nhà quản lý bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ dùng để bồi
thường thiệt hại hoặc trợ cấp cho đối tượng tham gia bảo hiểm khi gặp phải
rủi ro. Ở hình thức này, đối tượng tham gia bảo hiểm luôn yên tâm, chủ động
vì khi rủi ro xảy ra sẽ nhận được tiền bồi thường (hoặc trợ cấp) lớn hơn nhiều

lần mức phí mà họ đóng góp vào quỹ dự trữ thông qua nhà quản lý bảo hiểm.
Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, san sẻ rủi ro giữa những đối tượng có
cùng khả năng gặp phải một loại rủi ro nào đó theo những nguyên tắc, chuẩn
mực đã được thống nhất và quy định trước. Nguồn tài chính bảo đảm là hình
thành quỹ tiền tệ tập trung do những đối tượng tham gia bảo hiểm đóng góp
(thông qua nhà quản lý bảo hiểm), dùng để bù đắp, khắc phục tổn thất khi rủi ro
xảy ra.
Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho
mọi người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn
xã hội; đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển
kinh tế của đất nước.
Những rủi ro mà người tham gia bảo hiểm gặp phải làm suy giảm sức
khỏe và ảnh hưởng đến việc làm, theo đó làm cho họ bị giảm hoặc không còn


13

thu nhập, được xem là những rủi ro thuộc về lĩnh vực xã hội. Những rủi ro đó
là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, suy giảm sức khỏe,
không còn khả năng lao động... Khi gặp những rủi ro đó, người tham gia bảo
hiểm cần thiết phải có một nguồn thu nhập khác bù đắp để duy trì cuộc sống
của gia đình và của cả bản thân họ. Để có nguồn lực tài chính cung cấp kịp
thời cho những người gặp rủi ro, cần thiết phải có một quỹ tiền tệ tập trung
được hình thành bởi sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm và của cả cộng
đồng. Tất cả những nội dung đó là đặc trưng của BHXH.
BHXH đã xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của nhân loại. Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì nước Phổ (nay
là Cộng hòa Liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ
bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Đến nay, hầu
hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách BHXH và coi nó là một trong

những chính sách xã hội quan trọng nhất trong hệ thống chính sách bảo đảm
xã hội. Mặc dù đã có quá trình phát triển tương đối dài, nhưng cho đến nay
còn có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái niệm thống nhất, chẳng hạn
như:
Thứ nhất, bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy định của
Nhà nước về đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống của
người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm
đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác [98, tr. 2324].
Thứ hai, bảo hiểm xã hội là mọi chế độ về bảo hiểm cho
người lao động. Đây là loại bảo hiểm bắt buộc. Những người lao
động bắt buộc phải đóng góp theo các quy định của Chính phủ vào
các tổ chức bảo hiểm quốc gia để được nhận các khoản trợ cấp của


14

Nhà nước khi hưu trí, ốm đau, thất nghiệp hay trong các trường hợp
khác [99, tr. 21].
Thứ ba, bảo hiểm xã hội là một loại chế độ pháp định bảo vệ
người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động,
của người sử dụng lao động nếu có và được sự tài trợ, bảo hộ của
Nhà nước, nhằm trợ giúp vật chất cho người được bảo hiểm và gia
đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do
ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp,
hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc chết [93, tr. 18].
Thứ tư, bảo hiểm xã hội là cách gộp chung các biện pháp
mà Nhà nước hoặc xã hội giúp đỡ vật chất cho các thành viên trong
xã hội khi họ già yếu, ốm đau hoặc mất khả năng lao động và có
những khó khăn đặc biệt khác trong cuộc sống [71, tr. 776].

Bốn khái niệm nêu trên tương đối hợp lý thể hiện ở một số điểm sau:
- BHXH là những quy định của Nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho
người lao động.
- Người lao động được trợ giúp vật chất trong trường hợp họ ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động, chết.
- Người lao động phải có trách nhiệm đóng góp để đảm bảo bảo quyền
lợi cho chính họ (ở khái niệm thứ hai và thứ ba).
Tuy nhiên ở từng khái niệm vẫn còn một số điểm chưa hợp lý hoặc
chưa đầy đủ, đó là:
- Ở khái niệm thứ nhất, thứ hai và thứ ba, đối tượng tham gia và
hưởng thụ các chế độ BHXH chỉ là người lao động thì chưa đầy đủ, bởi vì
ngoài họ ra còn có đối tượng không phải là người lao động cũng tham gia và
hưởng thụ các chế độ BHXH


15

- Ở khái niệm thứ hai, chỉ đưa ra loại hình BHXH bắt buộc là chưa
đầy đủ bởi vì ngoài loại hình bắt buộc còn có loại hình BHXH tự nguyện.
- Ở khái niệm thứ nhất và thứ hai không nêu trách nhiệm đóng góp
của người được hưởng thụ các chế độ BHXH.
- Ở cả bốn khái niệm đều không nêu việc hình thành và sử dụng quỹ
BHXH gắn liền với quá trình đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH.
Từ những đánh giá, nhận xét trên đây, tác giả nêu lên khái niệm như
sau: Bảo hiểm xã hội là biện pháp Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm, khi họ gặp
phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động,
mất việc làm, hết tuổi lao động, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ
tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia bảo hiểm xã hội đóng
góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm ổn định đời sống cho họ

và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Để góp phần bảo vệ quyền lợi cho người lao động trên toàn thế giới và
đảm bảo an toàn xã hội, ngày 4 tháng 6 năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) ban hành Công ước số 102 về quy phạm tối thiểu an toàn xã hội, trong
đó có quy định 9 chế độ trợ cấp, đó là:
+ Chăm sóc y tế;
+ Trợ cấp ốm đau;
+ Trợ cấp thất nghiệp;
+ Trợ cấp tuổi già (hưu bổng);
+ Trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
+ Trợ cấp gia đình;
+ Trợ cấp thai sản;


16

+ Trợ cấp tàn tật;
+ Trợ cấp tiền tuất.
Đồng thời, Tổ chức Lao động Quốc tế cũng khuyến nghị các nước thành
viên phải thực hiện ít nhất là 3 chế độ trong các chế độ nói trên. Trong ba chế
độ đó thì phải có ít nhất 1 chế độ là các chế độ 3, 4, 5, 8 và 9 [14, tr. 123-142].
1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bất kỳ một nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự
nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp, tật nguyền
bẩm sinh... gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân, của gia
đình, của những người thân của họ mà còn phải là trách nhiệm của nhà nước
và của cộng đồng xã hội.
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi
là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm bảo đảm
an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong

xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, nhà nước
phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động,
đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ.
Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc
và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền
lương, về chăm sóc y tế, về trợ cấp khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi người
lao động đến tuổi hưu... Đồng thời, bản thân người lao động cũng phải có
trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi tiêu cho bản thân mình khi có
những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi như là một người chủ sử
dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp
của người sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho
những khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải


17

có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho
người lao động.
Như vậy, BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách
quan. Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên
phổ biến thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế
hàng hóa phát triển là nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành
trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH.
Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên
trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng
và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người
lao động (bên được BHXH) và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ
quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó chính là
mối quan hệ của các bên tham gia BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải

ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối
trong BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những
biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao
động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính
bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp
đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi
hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc "cộng đồng - lấy số đông bù cho số ít"
tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của
từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.


18

Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã
hội cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức
quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế
độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với
người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách
và chi BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư
bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Nghiên cứu về sự giống và khác nhau giữa BHXH và bảo hiểm
thương mại sẽ làm rõ hơn bản chất của BHXH.
Bảo hiểm thương mại là biện pháp chia sẻ tổn thất về mặt tài chính
của một hay một số ít người gặp phải một hay một số loại rủi ro nào đó, được

bù đắp bởi một quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ sự đóng góp của những
người tham gia bảo hiểm cũng có khả năng gặp phải rủi ro đó, thông qua hoạt
động quản lý của các nhà kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động của bảo hiểm thương mại theo nguyên tắc có tham gia bảo
hiểm mới được hưởng quyền bảo hiểm, đó là hoạt động kinh doanh kiếm lợi
nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, tuân thủ theo nguyên tắc
hạch toán kinh tế, lời ăn, lỗ chịu.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của các doanh nghiệp bảo
hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm [85, tr. 9].
Bảo hiểm thương mại có những đặc điểm khác với BHXH ở một số
nội dung sau:


19

- Phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại rất rộng, có mặt ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; không chỉ bó hẹp trong phạm vi
lãnh thổ một nước mà còn trải rộng xuyên quốc gia. Tuy bảo hiểm thương
mại có nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm nhưng xét theo đặc điểm đối tượng bảo
hiểm có thể chia thành hai nhóm nghiệp vụ bảo hiểm, đó là bảo hiểm nhân thọ
và bảo hiểm phi nhân thọ. "Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho
trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết", "bảo hiểm phi nhân thọ là
loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo
hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ" [85, tr. 11-12].
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại là tất cả mọi đơn vị, tổ chức
và mọi công dân không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, màu da, có thu nhập

hay không có thu nhập, tình trạng sức khỏe... tự nguyện lựa chọn, tham gia
bảo hiểm và phải nộp phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Thời hạn có hiệu lực điều chỉnh quan hệ giữa đối tượng tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thường là có thời hạn và ngắn (một số năm
hoặc theo một chu kỳ hoạt động của đối tượng tham gia bảo hiểm); chẳng
hạn, bảo hiểm tai nạn giao thông các phương tiện vận tải thường là một năm;
bảo hiểm một chuyến vận chuyển, chuyến du lịch, bảo hiểm gieo trồng, chăn
nuôi... thường là theo một chu kỳ hoạt động, kinh doanh của đối tượng.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại có thể tự chọn các sản
phẩm bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm bán ra, với mức được bù đắp,
bồi thường theo từng mức phí đóng góp và những điều kiện cụ thể khác của
đối tượng như: tình trạng tài sản, tình trạng về sức khỏe, giới tính, điều kiện
môi trường, lao động, sinh hoạt...
- Đối tượng tham gia bảo hiểm chỉ được bồi thường thiệt hại khi xảy
ra rủi ro. Mức độ bồi thường nhiều hay ít phụ thuộc vào mức phí đóng góp và
mức độ tổn thất thực tế được quy định trong hợp đồng bảo hiểm, mà không có
liên quan gì đến thu nhập của họ có hay không và nhiều hay ít. Bảo hiểm


20

thương mại chỉ bù đắp được một phần tổn thất khó khăn tạm thời, cấp bách
cho người được hưởng bảo hiểm.
BHXH và bảo hiểm thương mại có tính chất, đối tượng, phương thức
và mục đích hoạt động khác nhau, nhưng giữa chúng có những nguyên lý hoạt
động mang tính phổ biến và nhất quán, mà bất kỳ loại hình bảo hiểm nào khi
hoạt động cũng phải tuân thủ, đó là:
Thứ nhất, bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro,
hỗ trợ lẫn nhau giữa những đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện
theo nguyên tắc "cộng đồng - lấy số đông bù cho số ít". Vì vậy, dịch vụ bảo

hiểm cần phải có đông đối tượng tham gia mới đạt được mục đích phân tán
rủi ro, tổn thất. Số đối tượng tham gia bảo hiểm càng đông thì mức độ tổn thất
được phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu tổn thất của từng thành viên càng
ít hơn. Hình thành được quỹ bảo hiểm tập trung càng lớn, mức độ an toàn quỹ
bảo hiểm càng cao, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu chi trả
càng kịp thời, đầy đủ hơn cho người được thụ hưởng.
Thứ hai, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của
những bên tham gia bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm phải được tính toán cân đối thu chi một cách khoa học dựa trên quy luật số lớn để xác định mức đóng góp của
đối tượng tham gia và mức hưởng thụ do quỹ phải chi trả; sao cho quỹ bảo
hiểm phải được ổn định, vững chắc trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn phải đảm
bảo đủ nguồn lực tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ các khoản bồi thường,
trợ cấp cho đối tượng được thụ hưởng.
Thứ ba, quỹ bảo hiểm được quản lý và sử dụng theo chế độ tài chính
và luật pháp của nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi được
thực hiện các hoạt động đầu tư vừa góp phần để phát triển nền kinh tế - xã
hội; vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Khi thực hiện hoạt động đầu tư quỹ
phải đảm bảo an toàn; hạn chế rủi ro, thất thoát quỹ đến mức thấp nhất, đạt
hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo khả năng thanh toán linh hoạt.


21

Tóm lại, BHXH là những chính sách, chế độ do Nhà nước quy định để
đảm bảo quyền lợi vật chất cho người tham gia BHXH. BHXH là một loại
dịch vụ công, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. BHXH hoạt động
theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít, chia sẻ rủi ro, là quá trình phân phối lại
thu nhập giữa những người tham gia BHXH theo xu hướng có lợi cho những
người gặp phải những rủi ro trong lao động và đời sống xã hội.
1.1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của

toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải là
mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời
sống kinh tế - xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau:
- BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm
bảo an toàn xã hội. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc
làm, chết. Việc thay thế hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra đối với mọi người
lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động được hưởng lương hưu
hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất, mai táng phí). Việc bù đắp cũng chỉ
xảy ra đối với một số người đối với một số chế độ bảo hiểm còn lại như ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm... Nhờ có sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh
chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn
định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản
thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất
và phương thức hoạt động của BHXH.
- BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong
BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa
những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những


22

người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe
mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải
những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy,
BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
- BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn
cho sản xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các
biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các

quy định chặt chẽ về an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi
người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ cho người lao động
khi có rủi ro xảy ra đối với họ; đồng thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ
ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khỏe.
- BHXH còn làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử
dụng lao động và nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của
BHXH, người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao
động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi vì, chính người sử dụng lao
động đã tham gia đóng góp BHXH chỉ để cho người lao động được hưởng các
chế độ BHXH. Đối với người sử dụng lao động, khi họ có trách nhiệm thực
hiện đóng góp BHXH để người lao động được hưởng thì tạo ra một niềm tin
yêu của người lao động đối với người sử dụng lao động, khuyến khích người
lao động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với người sử
dụng lao động hết đời này sang đời khác. Đối với nhà nước thông qua việc tổ
chức hoạt động BHXH đã đảm bảo cho mọi người lao động, mọi tổ chức, mọi
đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong
đời sống xã hội, góp phần làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và
xã hội phát triển và an toàn.
- BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất
nước. Xét về phương diện tài chính thì BHXH là các quan hệ kinh tế phát


23

sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung; quỹ được hình
thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ
trợ của Nhà nước; quỹ được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người
lao động và gia đình họ, một phần dùng để chi quản lý sự nghiệp BHXH.
Hầu hết các nước trên thế giới đều thiết kế tạo lập và sử dụng quỹ
BHXH theo mô hình tồn tích và có tính chuyển dịch thu nhập giữa mọi người

tham gia BHXH và qua các thế hệ. Một số ít nước thiết kế theo mô hình "tọa
thu, tọa chi". Do tính chất hoạt động của bảo hiểm là các biến cố rủi ro phát
sinh không đều về thời gian. Vì vậy, ngay trong mô hình quỹ được thiết kế
theo mô hình "tọa thu, tọa chi" thì trong một khoảng thời gian nhất định, quỹ
BHXH vẫn có số dư tạm thời nhàn rỗi. Đặc biệt là quỹ BHXH thiết kế theo
mô hình tồn tích thì luôn luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là
một nguồn vốn trong nước rất quan trọng, được hình thành từ sự đóng góp
của người lao động và người sử dụng lao động, là sự "tiết kiệm tạm thời"
trong chi tiêu tạo ra được một nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế của đất
nước. Nguồn vốn này càng quan trọng đối với những nước đang thiếu nguồn
vốn đầu tư cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
Điều kiện quan trọng để người lao động được hưởng đầy đủ mọi
quyền lợi về BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử
dụng lao động cũng phải đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm
cho người lao động gắn bó với người sử dụng lao động hơn, làm cho quá trình
sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao hơn, tạo ra nhiều của cải
hơn cho xã hội và tích lũy xã hội cao hơn. Mặt khác, khi chính sách BHXH
được áp dụng đối với mọi người lao động sẽ tạo ra được một sự phân công lao
động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động năng
động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi
thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và
hưởng thụ tất cả mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện cho người


24

lao động và người sử dụng lao động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm
việc phù hợp với nhu cầu, trình độ, nghề nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng
người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa để khai thác, sử dụng triệt
để nguồn lực lao động; vừa để nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao

động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác...), làm tăng của
cải vật chất và tăng tích lũy cho nền kinh tế.
1.1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội trong hệ thống chính sách xã hội
1.1.2.1. Chính sách bảo hiểm xã hội
Theo định nghĩa của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(LĐTB&XH): "Chính sách bảo hiểm xã hội là những quy định chung của nhà
nước gồm những chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của
BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng
góp, cách thức tổ chức thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội" [15, tr. 44].
Chính sách BHXH có vị trí và vai trò quan trọng, có mối quan hệ tác
động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau với các chính sách xã hội khác để giải quyết
các vấn đề có liên quan đến con người. Chẳng hạn, với chính sách việc làm và
tiền lương; khi mọi người lao động đều có việc làm, có thu nhập ổn định thì
số người lao động tham gia BHXH càng đông hơn. Khi thu nhập của họ tăng
lên, tất yếu mức đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng lên, tạo ra nền tảng vững
chắc cho quỹ BHXH ổn định lâu dài, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính phục vụ
kịp thời nhu cầu chi trả trở lại cho người lao động và gia đình của họ khi gặp
rủi ro. Đồng thời tạo ra được một quỹ BHXH lớn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư
phát triển mở rộng, hiện đại hóa sản xuất. Chính đến lúc này, chính sách
BHXH lại tác động trở lại chính sách lao động và tiền lương là việc mở rộng
và hiện đại hóa sản xuất sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, có
năng suất lao động cao hơn dẫn đến thu nhập của người lao động càng tăng


25

thêm. Đó là sự tác động, hỗ trợ lẫn nhau giữa chính sách việc làm và thu nhập
với chính sách BHXH.
Chính sách xã hội là tổng thể những tư tưởng, những quan điểm, những
phương thức, giải pháp và công cụ của Nhà nước mà thông qua đó Nhà nước

quản lý, tác động lên các chủ thể, các đối tượng là những tổ chức và mọi
thành viên trong xã hội, nhằm xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính sách xã hội có phạm vi tác động rất rộng lớn, tác động đến mọi
mặt đời sống của con người. Tùy theo điều kiện, đặc điểm, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của từng nước trong từng giai đoạn
mà ở đó nhà nước có thể ban hành những chính sách cụ thể về xã hội. Có thể
kể đến một số chính sách, đó là: chính sách về giáo dục, đào tạo, y tế, văn
hóa, dân số, bảo vệ bà mẹ trẻ em, xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi xã
hội, chính sách cứu trợ, chính sách việc làm và tiền lương, chính sách bảo
đảm xã hội (trong đó chính sách BHXH giữ vai trò nòng cốt)... Tất cả các
chính sách đó cùng được vận hành hòa quyện với nhau, tác động qua lại và
làm tiền đề cho nhau, nhằm mục tiêu vì sự tồn tại, phát triển, hoàn thiện về
cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn của mỗi con người và của cả
cộng đồng xã hội.
1.1.2.2. Chính sách bảo hiểm xã hội trong hệ thống bảo đảm xã hội
Đảm bảo xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả mọi
thành viên trong xã hội, được thực hiện thông qua một loạt các biện pháp
công cộng để trợ giúp sự giảm sút, hẫng hụt đột ngột về kinh tế - xã hội của
con người, do bị suy giảm, mất việc làm, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh...
gây ra.
Con người trong suốt cuộc đời có thể gặp rất nhiều rủi ro bất ngờ do
suy giảm hay mất khả năng lao động, mất việc làm, do thiên tai, hỏa hoạn,


×