1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (DHVP) có tác
dụng quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên; ngăn ngừa, phát hiện các khuyết
điểm, sai phạm và kịp thời xử lý những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng,
nhằm giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Đồng thời, giúp tổ chức đảng
quản lý đảng viên thấy rõ vai trò, trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục và
kiểm tra đảng viên. Đây là vấn đề quan trọng, cấp thiết của Đảng ta hiện nay.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V trở về trước dù tên gọi có khác nhau nhưng
chủ yếu vẫn là kiểm tra đảng viên vi phạm. Đến Đại hội VI, Đại hội VII qui định cho Ủy
ban Kiểm tra (UBKT) các cấp kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Trước những
hạn chế, tính hiệu quả không cao của kiểm tra đảng viên chấp hành, Đại hội VIII, Đại hội
IX của Đảng lại qui định cho UBKT các cấp có nhiệm vụ: "Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp
ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và
trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên" [20, tr. 45], gọi tắt là kiểm tra đảng viên khi có
DHVP.
Mặc dù đây là vấn đề mới được tổ chức thực hiện từ Đại hội VIII
(6-1996), nhưng trong những năm qua, các UBKT huyện ủy ở các tỉnh
Duyên hải miền Trung (DHMT) đã quán triệt, bám sát quy định của Điều lệ
Đảng, sự hướng dẫn của UBKT Trung ương, nên đã thu được kết quả bước
đầu đáng khích lệ; góp phần giáo dục, ngăn chặn kịp thời các DHVP Điều lệ
Đảng,
chủ trương, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở một bộ phận
đảng viên trên địa bàn. Những kết quả trên có tác động rất lớn đến việc
nâng cao chất lượng đảng viên, giữ vững nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ huyện ở các
tỉnh DHMT.
2
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến và kết quả đạt được, công tác kiểm tra
của các UBKT huyện ủy trên địa bàn vẫn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém. Một số
UBKT, cán bộ kiểm tra lúng túng, bị động cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, nhất là
chưa chủ động khảo sát nắm thông tin, nhận diện DHVP. Việc xác định đối tượng, nội
dung kiểm tra còn thiếu cụ thể, chưa kịp thời, kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế, nên chất
lượng, hiệu quả một số cuộc kiểm tra chưa cao. Hiệu quả kiểm tra đối với đảng viên là cấp
ủy viên cùng cấp, những đảng viên có chức vụ, quyền hạn nắm giữ các lĩnh vực quan
trọng về kinh tế còn thấp v.v... Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận UBKT huyện ủy
còn thiếu chủ động, không nắm chắc diễn biến tư tưởng của đảng viên để kịp thời phát
hiện DHVP; chưa khắc phục được những biểu hiện hữu khuynh, né tránh, ngại va chạm,...
thậm chí còn thờ ơ khi có nguồn thông
tin phản ánh của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do đó, kết quả thực hiện nhiệm vụ này
chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm mà Điều lệ Đảng qui định.
Sự bất cập và yếu kém trên của các UBKT huyện ủy, ít nhiều làm hạn chế chất
lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP, nhất là chưa đẩy lùi được tình trạng quan liêu,
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Thực trạng này nếu không có giải pháp chữa trị hữu hiệu thì sẽ làm suy giảm niềm
tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ huyện trên địa bàn DHMT.
Địa bàn cấp huyện giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phòng. Tuy là cấp trung gian nhưng cấp huyện là cấp trên của cấp xã, thị
trấn, nơi trực tiếp chỉ đạo cấp cơ sở quản lý, giáo dục số đông đội ngũ đảng viên của
Đảng, nhất là đảng viên hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, đây là
địa bàn khá rộng, gần dân, nếu công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP không được coi
trọng, chất lượng không cao thì ảnh hưởng, tác động tiêu cực của nó rất lớn.
Do vậy, nghiên cứu đề tài "Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm của Ủy ban Kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh Duyên hải miền Trung giai
đoạn hiện nay" thực sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3
Trong những năm qua, vấn đề nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nói chung,
kiểm tra đảng viên khi có DHVP nói riêng đã được các cấp ủy, UBKT các cấp và nhiều
nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn quan tâm trao đổi. Từ sau Đại hội toàn quốc
lần thứ VI của Đảng, trên các báo, tạp chí, luận văn thạc sĩ, luận án phó tiến sĩ (nay là tiến
sĩ) đã có một số tác giả viết về vấn đề này. Tựu trung lại nổi lên năm vấn đề nghiên cứu
chủ yếu sau:
Loại vấn đề thứ nhất, gồm những chuyên luận bàn về vai trò, tác dụng của công
tác kiểm tra. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều tác giả đã luận giải những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta bàn
về vị trí, vai trò của công tác kiểm tra. Chẳng hạn, TS. Trần Trung Quang: Kiểm tra khâu chủ yếu trong phong cách phương pháp lãnh đạo, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
2/1989; Nguyễn Thị Xuân Mỹ: Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra của Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Kiểm tra, số 7/1997; TS. Đặng Đình Phú: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật, sự vận dụng của Đảng ta trong tình hình
hiện nay, Tạp chí Kiểm tra, số 6/1999; Nguyễn Mạnh Hưởng: Công tác kiểm tra và vấn
đề xây dựng Đảng, Tạp chí Kiểm tra, số 1/2001; PGS.TS Nguyễn Thị Doan: Nâng cao
vai trò, vị trí của công tác kiểm tra và vị thế của ủy ban kiểm tra các cấp. Tạp chí Kiểm
tra, số 8/2003; Hưng Hà: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra và vấn đề nâng
cao hiệu quả công tác kiểm tra hiện nay, Tạp chí Kiểm tra, số 5/2003; Vũ Ngọc Lân:
Công tác kiểm tra của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền, Tạp chí Kiểm tra, số
10/2003; Phan Diễn: Đổi mới công tác kiểm tra là một bộ phận trong đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Kiểm tra, số 2/2004... Các công trình này đã phác họa,
làm rõ vai trò, vị trí của công tác kiểm tra, với tư cách là kiến thức nền, gián tiếp và liên
quan chặt chẽ đến công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP mà luận án đề cập. Đặc
biệt, luận án tiến sĩ: Công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
của Lê Tiến Hào đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của công tác kiểm tra; trên
cơ sở phân tích thực trạng, luận án đã đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4
Loại vấn đề thứ hai, chủ yếu các bài báo khoa học của các tác giả phần lớn công
tác trong ngành kiểm tra đã phân tích, đề cập đến kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi
có DHVP. Chẳng hạn, Xuân Phong: Bàn về chất lượng trong công tác kiểm tra, Tạp chí
Kiểm tra, số 2/1995; Nguyễn Anh Liên: Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm một định hướng
mới về nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra các cấp, Tạp chí Kiểm tra, số 2/1998; Huỳnh Đăng
Điệp: Một số kinh nghiệm từ việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm ở
các khu vực tỉnh thành phía Nam, Tạp chí Kiểm tra, số 6/1998; Bùi Quang Vinh: Ủy ban
Kiểm tra Tỉnh ủy Lào Cai với việc kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, Tạp chí Kiểm tra, số 6/1998; Hà Tuấn Trung: Góp phần tìm hiểu những điểm
sửa đổi, bổ sung trong Điều lệ Đảng (Dự thảo) và một số kiến nghị về công tác kiểm tra
của Đảng, Tạp chí Kiểm tra số 3/1996; Lê Trung Thu: Bàn về dấu hiệu vi phạm của tổ
chức đảng và đảng viên, Tạp chí Kiểm tra, số 2/1998; Giang Trung: Chủ động thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra đảng viên và tổ chức cơ sở đảng khi có dấu hiệu vi phạm, Tạp chí Kiểm
tra, số 3/1997; Thiều Khắc Được: Một số vấn đề rút ra khi tiến hành kiểm tra đảng viên
và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm ở Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Tạp chí
Kiểm tra, số 9/1998; Nguyễn Trọng Cương: Một vài suy nghĩ về đánh giá một cuộc kiểm
tra có chất lượng, Tạp chí Kiểm tra, số 1/2000; Vũ Ngọc Lân: Nếu khi chúng ta làm tốt
hơn khâu kiểm tra "khi có dấu hiệu vi phạm", Tạp chí Kiểm tra, số 7/2002; Trần Thị Hiền:
Cần nâng cao nhận thức về "kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm",
Tạp chí Kiểm tra, số 8/2002; Phan Thị Ngạn: Giao tiếp trong hoạt động kiểm tra, Tạp chí
Kiểm tra, số 11/2001; Trần Kim Hùng: Kinh nghiệm và giải pháp trong việc thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm trên địa bàn tỉnh Bình Định, Tạp chí
Kiểm tra, số 9/2003; Đỗ Hùng Cường: Kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm, Tạp chí
Kiểm tra, số 3/2003; Hồng Phúc Lập: Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm đã là
vấn đề cấp bách chưa? Tạp chí Kiểm tra, số 5/2004.
Nhìn chung, các công trình khoa học này, các tác giả đã đưa ra những quan niệm
của mình về khái niệm DHVP và phân tích luận giải, đối chứng với khái niệm vi phạm.
Hai vấn đề này tuy có khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ với nhau. Các tác giả còn phân
5
tích làm rõ tính chủ động và tiêu chí đánh giá trong công tác kiểm tra đảng viên khi có
DHVP, xác định những căn cứ để nắm thông tin, nhận diện DHVP. Từ thực tiễn hoạt động
của UBKT các cấp, một số tác giả rút ra những kinh nghiệm, giải pháp, kiến nghị để nâng
cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP. Đây là những ý tưởng, kênh kiến thức
chính liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án đề cập.
Loại vấn đề thứ ba, các tác giả đi sâu nghiên cứu phương pháp thẩm tra, xác
minh - phương pháp cơ bản quyết định đến chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP.
Chẳng hạn, Vĩnh Lộc: Tìm chứng cứ trong khâu thẩm tra, xác minh, Tạp chí
Kiểm tra, số 2/2000; Việt Đông: Vài suy nghĩ về hoạt động thẩm tra, xác minh, Tạp chí
Kiểm tra, số 2/2001; Phạm Thị Ngạn: Mấy vấn đề tâm lý trong công tác thẩm tra, xác
minh, Tạp chí Kiểm tra, số 7/2002; Nguyễn Anh Liên: Một số vấn đề lý luận nghiệp vụ
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, đăng tải nhiều kỳ ở Tạp chí Kiểm
tra, (số 1/2001, số 2/2001, số 5/2003). Đi sâu hơn vấn đề này có đề tài khoa học cấp ngành
do Nguyễn Anh Liên làm chủ nhiệm: Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu
quả thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng (mã số KHBĐ 0015), Hà Nội,
2000 - 2001. Điểm thành công của đề tài đã làm rõ các khái niệm, nhất là khái niệm thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Từ đó đề xuất các giải pháp, quy trình để
nâng cao chất lượng thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Nội dung của
các công trình này tuy bàn về một vấn đề cụ thể, nhưng giúp tác giả luận án tham khảo, để
nâng cao chất lượng luận án.
Loại vấn đề thứ tư, liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ
của UBKT các cấp, chẳng hạn, TS. Đặng Đình Phú: Nhận thức lại tư tưởng của V.I. Lênin
về bộ máy kiểm tra của Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5/1999; GS.TS Nguyễn Thị
Doan: Tăng cường công tác giám sát trong Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 11/2004. Trên cơ
sở tư tưởng của V.I. Lênin về Đại hội Đảng bầu UBKT và phân tích những mặt ưu điểm,
hạn chế của mô hình cấp ủy cùng cấp bầu UBKT, các tác giả này kiến nghị Đại hội Đảng
bầu UBKT. Theo GS.TS Nguyễn Thị Doan, UBKT các cấp cần được bổ sung thêm chức
năng giám sát để nâng cao năng lực hoạt động cũng như giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương
6
trong Đảng.
Chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP trên cơ sở tổ chức bộ máy hợp lý và
có đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất năng lực. Đây là chủ đề được nhiều tác giả quan
tâm, trao đổi, như Hoàng Minh Hiểu: Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng, Tạp
chí Kiểm tra, số 10/1997; Đinh Quang Tốn: Lại nói về "Bản lĩnh người cán bộ kiểm tra",
Tạp chí Kiểm tra, số 9/1998; Nguyễn Anh Liên: Tâm đức trong sáng, bản lĩnh vững vàng
và tinh thông nghiệp vụ là ba tố chất cốt yếu của người cán bộ kiểm tra của Đảng, Tạp chí
Kiểm tra, số 5/2002. Vấn đề cốt lõi của các chuyên luận này đi sâu làm rõ tính cấp thiết và
những yêu cầu đặt ra phải xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng hiện nay, trong đó
nhấn mạnh bản lĩnh vững vàng, tinh thông nghiệp vụ là yêu cầu cần thiết của cán bộ kiểm
tra hiện nay.
Xung quanh vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng,
PTS. Trương Thị Thông tiếp cận nghiên cứu khá hệ thống, từ việc xác định tiêu chuẩn đến
việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ kiểm tra được phản ánh
một cách sâu sắc trong luận án phó tiến sĩ: "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay". Những vấn đề được khắc họa trong
nhóm chuyên luận này sẽ giúp cho tác giả tham khảo để luận chứng cho giải pháp thứ hai,
thứ ba của luận án sát hợp và có tính khả thi hơn.
Loại vấn đề thứ năm, chủ yếu các chuyên luận đề cập đến vai trò, tính tất yếu, nội
dung, cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành có liên quan, tạo điều kiện cho UBKT các cấp
hoàn thành nhiệm vụ như: Hoàng Kim Sơn: Một vài suy nghĩ về sự phối hợp giữa Ủy ban
Kiểm tra của Đảng và Thanh tra Nhà nước, Tạp chí Kiểm tra, số 9/1997; Hà Mạnh Trí:
Tăng cường sự phối hợp giữa công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm sát của ngành
kiểm sát nhân dân, Tạp chí Kiểm tra, số 10/1998; Việt Hà: Một số ý kiến về sự phối hợp
giữa Thanh tra Nhà nước và Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Tạp chí Thanh tra, số
1+2/2002; Bùi Thế Sảng: Sự phối, kết hợp công tác giữa Thanh tra Nhà nước với kiểm tra
Đảng, Tạp chí Kiểm tra, số 8/2002; Lê Văn Giảng: Mấy suy nghĩ về mối quan hệ giữa
kiểm tra Đảng và Thanh tra Nhà nước, Tạp chí Thanh tra, số 7/2003; Trần Đình Hoan:
7
Tăng cường mối quan hệ giữa công tác tổ chức cán bộ với công tác kiểm tra trong xây
dựng Đảng hiện nay, Tạp chí Kiểm tra, số 10/2003.
Song, nhìn chung chưa có tác giả và công trình khoa học nào thực sự nghiên cứu
về vấn đề nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP của UBKT huyện ủy
trong cả nước nói chung, ở các tỉnh DHMT nói riêng. Do đó, sẽ là những ý tưởng, gợi mở
cho tác giả tiến hành nghiên cứu vấn đề trên một cách có hệ thống, toàn diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích:
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nâng cao chất lượng
kiểm tra đảng viên khi có DHVP của các UBKT huyện ủy ở các tỉnh Duyên hải miền
Trung. Trên cơ sở đó đề xuất những mục tiêu, phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP ở địa bàn có vị trí quan trọng và đặc
thù này.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích làm rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về vai trò của công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP.
+ Phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP của
UBKT huyện ủy ở các tỉnh DHMT, rút ra nguyên nhân và những kinh nghiệm.
+ Xác định mục tiêu, phương hướng, quan điểm chỉ đạo và đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP của UBKT huyện ủy ở
các tỉnh DHMT trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Đối tượng: Chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP. Chủ thể là UBKT huyện ủy,
khách thể là các đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp trong đảng bộ nhưng theo sự phân
cấp quản lý cán bộ, UBKT huyện ủy chỉ tập trung kiểm tra các đảng viên khi có DHVP là
ủy viên ban chấp hành đảng bộ huyện và cán bộ do huyện ủy quản lý, trong đó ở cấp xã là
các đảng viên thuộc các chức danh chủ chốt: Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch
8
Ủy ban nhân dân, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân... Ngoài các đảng viên giữ
các chức danh cán bộ chủ chốt đó, đối với các đảng viên không giữ chức vụ mà có DHVP
với nội dung, tính chất nghiêm trọng, UBKT cơ sở không đủ sức tiến hành kiểm tra thì
vẫn thuộc đối tượng nghiên cứu của
luận án.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn từ Đại hội VIII của Đảng (1996) đến nay.
Bao gồm các huyện thuộc 8 tỉnh DHMT từ Quảng Bình đến Khánh Hòa.
Tuy nhiên, về mặt thời gian, trọng tâm nghiên cứu của luận án là nghiên cứu kiểm tra
đảng viên khi có DHVP từ năm 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và công tác kiểm tra
của Đảng. Đồng thời, luận án quan tâm tham khảo các công trình khoa học của các nhà
khoa học, các tác giả hoạt động thực tiễn đã được công bố liên quan đến đề tài. Cơ sở
thực tiễn là thực trạng công tác kiểm tra của các UBKT huyện ủy ở các tỉnh DHMT từ
năm 1996 đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, trong đó bao gồm phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp quy nạp và diễn dịch.
+ Sử dụng phương pháp nghiên cứu thực tiễn trên cơ sở thực trạng, kết quả, số liệu, trực
tiếp trao đổi, đàm thoại. Đặc biệt, luận án còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để
khái quát, tổng kết.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án đưa ra khái niệm kiểm tra đảng viên khi có DHVP, làm rõ quan niệm, tiêu chí
đánh giá về nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi
có DHVP.
- Phân tích làm rõ những đặc điểm của chủ thể và đối tượng kiểm tra trên địa bàn DHMT.
9
- Bước đầu rút ra những kinh nghiệm về công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP của các
UBKT huyện ủy ở các tỉnh DHMT thời kỳ 1996 - 2003.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên
khi có DHVP của các UBKT huyện ủy ở các tỉnh DHMT, nhằm đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy môn xây dựng Đảng trong hệ thống Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
minh, các trường chính trị. Đồng thời, gợi mở cho các cấp ủy đảng, UBKT các cấp tham
khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo Điều lệ Đảng quy định, nhằm góp
phần nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận án gồm 3 chương 6 tiết.
10
Chương 1
KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM - YÊU CẦU
CẤP THIẾT CỦA ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP HIỆN NAY
1.1.1. Vai trò công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
1.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Để làm rõ được nội hàm khái niệm kiểm tra đảng viên khi có DHVP,
cần làm rõ các khái niệm có liên quan.
- Khái niệm kiểm tra được hiểu: "Xem xét tình hình thực tế để đánh
giá nhận xét" [103, tr. 504].
- Dấu hiệu: Dấu để cho biết chứng tỏ điều gì [104, tr. 525]. Như vậy có
thể hiểu dấu hiệu là một hiện tượng, một biểu hiện, báo hiệu cho biết điều gì
đó sắp xảy ra hoặc sẽ xảy ra có sự thay đổi nào đó về hình thức hoặc nội
dung, thuộc tính, kết cấu của sự vật. Chẳng hạn, DHVP của một đảng viên.
- Vi phạm: "Không tuân theo hoặc làm trái những điều qui định"
[103, tr. 1074]. Như vậy khái niệm vi phạm chỉ rõ bản chất của đối tượng
đã làm sai, không tuân theo những điều qui định. Từ đó, có thể hiểu đảng
viên vi phạm kỷ luật đảng là hành vi không chấp hành đầy đủ hoặc làm trái
quy định của Đảng.
- Dấu hiệu vi phạm: Đây là khái niệm ghép của hai khái niệm dấu
hiệu và vi phạm. Theo tác giả luận án, DHVP được hiểu là hành vi có thể đã,
đang làm sai, trái hoặc không tuân theo những quy định.
Từ các khái niệm liên quan trên, tác giả luận án đưa ra khái niệm kiểm tra đảng
viên khi có DHVP như sau: Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là hoạt động
kiểm tra của các tổ chức đảng có thẩm quyền để tiến hành xem xét, thẩm tra, xác minh,
nhằm xác định đảng viên có hay không có vi phạm các quy định của Điều lệ Đảng do các
tổ chức hoặc cá nhân phát hiện.
Như vậy, khái niệm kiểm tra đảng viên khi có DHVP, nội hàm của nó được thể
hiện ở các nội dung sau:
- Xác định chủ thể và đối tượng kiểm tra.
+ Chủ thể kiểm tra bao gồm những tổ chức đảng có thẩm quyền sau đây: Cấp ủy,
UBKT, chi bộ, nhưng trong đó ở cấp huyện thì UBKT huyện ủy là chủ thể kiểm tra trực
tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng mà luận án đã
xác định ở mục đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Đương nhiên chủ thể cấp ủy, chi bộ tuy có
liên quan đến UBKT, kiểm tra đảng viên khi có DHVP nhưng không phải là chủ thể của
11
trung tâm luận án đề cập.
+ Đối tượng kiểm tra: Là những đảng viên khi có DHVP. Thông tư số 19TT/KT
ngày 26-11-1996 của UBKT Trung ương hướng dẫn "Ủy ban Kiểm tra các cấp, kể cả ủy
ban kiểm tra của Đảng ủy cơ sở chỉ kiểm tra những đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm"
[102, tr. 8].
- Nội dung vi phạm (vi phạm cái gì).
Trong điểm 1, Điều 32 Điều lệ Đảng khóa IX xác định UBKT các cấp có nhiệm vụ:
Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng
viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Như vậy tiêu chuẩn
đảng viên tại điểm 1, Điều 1 (tr. 6-7), tiêu chuẩn cấp ủy viên (tr. 19-20) trong Điều lệ Đảng
khóa IX là nội dung khái quát nhất làm căn cứ để kiểm tra đảng viên, cấp ủy viên khi có
DHVP. Hay nói cách khác, các DHVP của đảng viên đã được Điều lệ Đảng điều chỉnh,
không có ngoại lệ.
- Mức độ của DHVP.
Việc nhận dạng mức độ DHVP của đảng viên có ý nghĩa rất lớn trong việc xem
xét, kết luận đảng viên đó có hay không có vi phạm. Vậy vấn đề đặt ra khi có DHVP phải
được hiểu như thế nào? Ranh giới giữa vi phạm và đã vi phạm căn cứ theo tiêu chí nào?
Làm thế nào để nhận diện DHVP? Xung quanh vấn đề này đã có những ý kiến tranh luận
và có nhiều quan điểm khác nhau. Có ý kiến cho rằng, DHVP là tất cả những vi phạm của
đảng viên chưa được xem xét, kết luận; do đó thực chất vẫn là kiểm tra đảng viên vi phạm,
giống như quy định từ Điều lệ Đảng khóa I tới Điều lệ Đảng khóa V.
Ý kiến khác lại cho rằng, việc Điều lệ Đảng khóa VIII, khóa IX quy định kiểm tra
đảng viên khi có DHVP là thiếu thực tế, bởi vì về mặt lý luận, DHVP tức là chưa hề có vi
phạm, nó là những hoạt động còn được giấu kín, có thể bộc lộ ra bằng những hành vi vi
phạm, nhưng cũng có thể không bao giờ bộc lộ. Do đó, về mặt thực tế DHVP là cái mà
khó có thể nhận biết được. Thực chất lập luận này chứa đựng sự ngụy biện, né tránh.
Cần phải thấy rằng, khái niệm DHVP và khái niệm vi phạm liên quan chặt chẽ
với nhau, song không đồng nhất. DHVP và vi phạm thuộc cặp phạm trù hiện tượng và bản
chất trong đó vi phạm là bản chất, DHVP là hiện tượng. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất
12
giữa bản chất và hiện tượng. Sự thống nhất đó trước hết thể hiện ở chỗ bản chất bao giờ
cũng tự bộc lộ ra những hiện tượng nhất định, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện
của bản chất. Tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản phù hợp với
nhau, nhưng hiện tượng không bao giờ trùng khớp hoàn toàn với bản chất, thậm chí có lúc
xuyên tạc bản chất. Đây là cơ sở phương pháp luận giúp cho chủ thể kiểm tra xác định
được mức độ vi phạm, hoặc chưa vi phạm để xem xét, kết luận chính xác các DHVP.
Kiểm tra khi có DHVP không có nghĩa là đảng viên hoặc tổ chức đảng được
kiểm tra đã có vi phạm [33, tr. 24]. Do vậy, nếu tuyệt đối hóa đảng viên khi có DHVP
(hiện tượng) chưa có vi phạm gì, hoặc đã hoàn toàn vi phạm đều không chính xác. Vì vậy,
DHVP của đảng viên được biểu hiện ở các mức khác nhau: Có thể mới dừng lại ở khuyết
điểm, vi phạm ít nghiêm trọng, vi phạm nghiêm trọng, vi phạm đặc biệt nghiêm trọng... và
cũng có thể qua kiểm tra kết luận không có vi phạm. Hoặc mức độ của DHVP có thể mới
manh nha, khởi phát nhưng cũng có thể DHVP đó tiềm ẩn chiều hướng sẽ dẫn tới vi
phạm, thậm chí đã vi phạm. Về thời gian biểu hiện, DHVP có thể mới xảy ra hoặc xảy ra
từ lâu nay mới bộc lộ qua hiện tượng.
Thực tế cho thấy, do một số tổ chức đảng buông lỏng giáo dục, quản lý, kiểm tra
đảng viên, thậm chí né tránh ngại va chạm, nên các DHVP của đảng viên chậm được phát
hiện, dẫn tới vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước mới tiến hành kiểm
tra. Chính vì vậy, UBKT Trung ương đã hướng dẫn, chỉ đạo UBKT các cấp là đảng viên
khi có DHVP phải chủ động tiến hành kiểm tra ngay, không để chậm trễ kéo dài, gây tác
động xấu đến nội bộ đảng và xã hội. Theo chúng tôi, cụm từ "khi có" nó vừa thể hiện mức
độ DHVP mới dừng lại ở hiện tượng, khuyết điểm, vừa chỉ về mặt thời gian mới bộc lộ
chứ không phải xảy ra đã lâu. Bởi vậy đặt ra cho UBKT các cấp tính chủ động, kịp thời khi
phát hiện DHVP phải tổ chức tiến hành kiểm tra.
Tựu trung lại, đảng viên khi có DHVP cần được hiểu theo ba bình diện sau:
Thứ nhất, qua kiểm tra kết luận đảng viên không có vi phạm.
Thứ hai, DHVP của đảng viên tồn nghi trong nhiều năm, không có cơ sở thẩm
tra, xác minh để xem xét, kết luận làm rõ đúng, sai.
13
Thứ ba, qua kiểm tra kết luận đảng viên có vi phạm và mức độ vi phạm đã được
phân tích ở trên.
- Dù mức độ dấu hiệu vi phạm biểu hiện có khác nhau nhưng phải thông qua
kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền mới kết luận đảng viên đó có vi phạm hay không
vi phạm. "Việc kết luận có vi phạm hay không còn phải dựa trên kết quả kiểm tra" [29, tr.
19].
Biện chứng giữa hiện tượng và bản chất quy định việc xác định đảng viên có hay
không có vi phạm: Đảng viên có vi phạm chỉ được xác định khi tổ chức đảng có thẩm
quyền kiểm tra, xem xét, kết luận; không ai với tư cách cá nhân có thể đưa ra kết luận.
Như vậy, kiểm tra đảng viên khi có DHVP là kiểm tra xem có vi phạm không? Tính chất
và mức độ sai phạm đến đâu? Qua đó, giúp UBKT huyện ủy xem xét, kết luận chính xác
các DHVP, ngăn chặn các vi phạm phát triển trở thành nghiêm trọng cũng như kịp thời
minh oan, bảo vệ những đảng viên được kiểm tra khi kết luận không có vi phạm.
- Các lực lượng tham gia phát hiện, cung cấp thông tin DHVP.
Mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên đều chịu sự giám sát của các tổ chức và
quần chúng nhân dân. Ngoài sự quản lý của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên còn chịu sự
giám sát của các tổ chức như: Thanh tra Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các đoàn
thể chính trị - xã hội và lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân nơi cơ quan cũng như
nơi cư trú của đảng viên.
Tóm lại, từ sự phân tích trên khẳng định, Điều lệ Đảng khóa VIII, khóa IX quy
định cho UBKT các cấp như vậy là chính xác và cần thiết. Quy định này phù hợp với tầm
lực của UBKT các cấp hiện nay, không chỉ kiểm tra những đảng viên đã vi phạm mà kiểm
tra ngay từ khi đảng viên có những hiện tượng, có khả năng sẽ dẫn đến vi phạm. Bởi vậy,
tính cần thiết, kịp thời đảm bảo yêu cầu ngăn chặn, răn đe, phòng ngừa cao hơn so với
kiểm tra "đảng viên vi phạm". Do đó, đặt ra cho UBKT các cấp cần chú trọng kiểm tra kịp
thời đảng viên khi có DHVP, không để khuyết điểm trở thành vi phạm, vi phạm ít nghiêm
trọng trở thành vi phạm nghiêm trọng.
1.1.1.2. Kiểm tra là tất yếu khách quan, là yêu cầu nội tại thường xuyên của
Đảng
C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ
14
bản về chính đảng cộng sản. Ngay từ năm 1847, hai ông đã chủ trương thành lập một
chính đảng độc lập. Tư tưởng đó bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai trò sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình khi nó có một chính đảng cách mạng độc lập lãnh đạo. Đó là điều kiện tiên quyết, là
yếu tố đảm bảo cho cách mạng xã hội thắng lợi và thực hiện được mục đích của nó là xóa
bỏ giai cấp, để giải phóng loài người khỏi ách áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội cộng
sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là xã hội XHCN.
Dưới sự chỉ đạo của C. Mác, Ph. Ăngghen, Điều lệ Đồng minh những người cộng
sản đã được khởi thảo, trong đó thể hiện rõ những tư tưởng cơ bản về tổ chức xây dựng
đảng. Điểm then chốt mà hai ông đã khẳng định là: Đảng phải là một đội ngũ có tổ chức
tập trung chặt chẽ, các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được bầu cử một cách dân chủ và
họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu họ không hoàn thành được nhiệm vụ của tổ chức
giao cho; đảng phải là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chính vì lẽ
đó mà
C. Mác, Ph. Ăngghen đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và các biểu hiện vi
phạm kỷ luật đảng. C.Mác đã thấy rõ sự cần thiết phải duy trì kỷ luật đảng, nếu không mọi
thứ sẽ mất hết. Như vậy, hai ông luôn đòi hỏi cao ở một chính đảng cách mạng là phải
luôn giữ vững nguyên tắc hoạt động, có sự thống nhất và kỷ luật nghiêm minh. Một chính
đảng như vậy tất yếu phải có đội ngũ đảng viên tiên phong cả về lý luận và hành động
thực tiễn. Bởi đảng viên là nhân tố cơ bản hợp thành tổ chức đảng. Nhưng tổ chức đảng
chỉ tồn tại khi xác định nhiệm vụ chính trị đúng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị có
hiệu quả. Do đó, trong quá trình lãnh đạo và xây dựng nội bộ đảng, tất yếu Đảng Cộng sản
cầm quyền phải tiến hành hoạt động kiểm tra. Không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra thực
hiện đường lối, quan điểm, mà còn kiểm tra đội ngũ đảng viên của Đảng trong việc thực
hiện vai trò là chiến sĩ tiên phong, phấn đấu rèn luyện theo mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Hoạt động có ý thức của con người và của tổ chức trong xã hội là hoạt động có
mục đích. Chính hoạt động có ý thức đó đã hàm chứa trong đó yếu tố tự điều chỉnh, tự
kiểm tra. Khi con người biết lao động một cách có ý thức là đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là
15
phải kiểm tra. Ph. Ăngghen cho rằng, mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người
đều chứa đựng trong nó những yếu tố của kiểm tra. Kiểm tra là một trong những phương
thức hành động quan trọng để thực hiện mục đích.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau khi có chính quyền Xô viết,
V.I. Lênin luôn coi kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát là một công cụ hữu hiệu và là một nội
dung lãnh đạo không thể thiếu đối với Đảng và bộ máy nhà nước. Trong tác phẩm "những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết". V.I. Lênin khẳng định: "Không có chế độ
kế toán và kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì những mầm mống của
chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt" [38, tr. 225]. Sau cuộc nội chiến đẫm máu, nước Nga
chuyển sang thực hiện chính sách kinh tế mới, V.I. Lênin cho rằng, nhiệm vụ trọng tâm,
quan trọng nhất của các cơ quan đảng, chính quyền Xô viết lúc này không phải là ban
hành cho nhiều chỉ thị, nghị quyết, không phải là "tiến hành các cuộc cải tổ" lập thêm các
ban, bệ mới..., mà còn hướng vào "kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành
thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy,
vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy" [41, tr.19], Người còn cho rằng: "Tìm người, kiểm tra công
việc - tất cả là ở đó" [40, tr. 451].
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, V.I. Lênin đã tiên lượng những căn bệnh sẽ có
dịp nảy sinh ở một bộ phận cán bộ, đảng viên như quan liêu, xa rời quần chúng, thoái hóa
biến chất, vi phạm các nguyên tắc quản lý kinh tế. Do đó, mục đích công tác kiểm tra của
Đảng không chỉ "tóm bắt", "vạch mặt" mà trước hết hướng vào phát hiện, ngăn ngừa, sửa
chữa kịp thời các sai phạm ở cán bộ, đảng viên. Tháng 1-1923, khi bàn về việc cải tổ Bộ
Dân ủy thanh tra công nông, Người còn xác định nhiệm vụ của công tác kiểm tra Đảng
còn là góp phần quan trọng vào việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, là "phải
chăm chú theo dõi những nhân tố có thể đưa đến chia rẽ, phải phòng ngừa những nhân tố
đó" [41, tr. 440]. Như vậy, trong các tác phẩm của mình, mặc dù V.I. Lênin chưa đề cập
đến kiểm tra đảng viên khi có DHVP, nhưng từ trong bản chất của nó đã thể hiện rõ kiểm
tra cán bộ, đảng viên nhằm giáo dục phòng ngừa có hiệu quả, nếu không làm tốt sẽ dẫn tới
vi phạm kỷ luật đảng nghiêm trọng hơn.
16
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên đối với công tác xây dựng Đảng nói chung,
công tác kiểm tra nói riêng, Người đã dành sự quan tâm đặc biệt. Bởi "Đảng có vững, cách
mệnh mới thành công" [50, tr. 268]. Những chỉ dẫn sâu sắc, những lời khuyên chân tình,
những ý kiến nhắc nhở phê bình nghiêm khắc của Hồ Chí Minh đều nhằm mục đích xây
dựng Đảng ta thật trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Căn bệnh quan liêu độc đoán, chuyên quyền, xa rời nhân dân, đặc quyền, đặc lợi,
tham nhũng, lãng phí… là nguy cơ có thể xảy ra đối với đảng cầm quyền. Do đó, Người
luôn nhắc nhở Đảng phải đề phòng và có biện pháp ngăn ngừa nguy cơ ấy. Người coi đó
là thứ giặc "nội xâm", là kẻ thù bên trong luôn tìm mọi cách để phá vỡ kỷ cương, làm tha
hóa biến chất một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm suy giảm uy tín và sức mạnh của Đảng,
Nhà nước ta. Trước các tệ nạn này, Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu sự phối kết hợp đấu
tranh giữa các tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân, mà còn phải củng cố kỷ luật
của Đảng, pháp luật nhà nước, xét xử kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi
phạm. Người luôn luôn coi công tác kiểm tra là một nội dung lãnh đạo, một khâu rất quan
trọng trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm "Một việc mà các cơ quan lãnh
đạo cần thực hành ngay", viết năm 1948, Người khẳng định: "Khi đã có chính sách đúng,
thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa
chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô
ích" [51, tr. 520]. Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, "có kiểm tra mới huy động được tinh thần
tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ,
mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời" [51, tr. 520]. Thực tiễn cho thấy, nếu buông lỏng, chậm trễ
trong công tác kiểm tra sẽ dẫn tới "cộng nhiều khuyết điểm nhỏ thành một khuyết điểm to,
sẽ rất có hại" [51, tr. 232]. Cũng như V.I. Lênin, Hồ Chí Minh chưa nói đến cụm từ khi có
DHVP, nhưng chúng ta đi sâu phân tích, xem xét cách biểu đạt của Người thông qua ngôn
từ về mối quan hệ giữa xây và chống, giữa giáo dục và phòng ngừa, giữa giáo dục và kỷ
luật, "giữa khuyết điểm nhỏ thành một khuyết điểm to" đã toát lên mức độ của DHVP, và
sự tích tụ của khuyết điểm đến một độ nào đó, nếu không được kiểm tra phát hiện thì hậu
17
quả sẽ rất khôn lường.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
công tác kiểm tra, Đảng ta luôn xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng
của mỗi thời kỳ để xác định nội dung, hình thức kiểm tra cho phù hợp, kể cả quy định
chức năng, nhiệm vụ đối với UBKT các cấp. Đảng ta luôn luôn coi công tác kiểm tra của
Đảng có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đây là một
bước tiến về nhận thức, quan điểm của Đảng đối với công tác kiểm tra. Bởi công tác kiểm tra
của Đảng nói chung, của UBKT nói riêng có tác động rất lớn đến sự đúng đắn của nhiệm vụ
chính trị, các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tác động thúc đẩy quá trình chỉ đạo tổ chức
thực hiện các chủ trương đó cũng như tiến hành các hoạt động lãnh đạo xây dựng nội bộ
đảng. Xuất phát từ quan điểm này, Điều lệ Đảng do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
thông qua ngày 1 tháng 7 năm 1996 quy định tại điểm 1, Điều 32, UBKT các cấp có nhiệm
vụ "kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn
đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên" [15, tr. 48].
Đến Đại hội IX nhiệm vụ này về cơ bản vẫn được giữ nguyên.
Rõ ràng so với Đại hội VII trở về trước thì đây là một nhiệm vụ mới
đặt ra cho UBKT các cấp, phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới
và tầm lực của bộ máy UBKT, đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng hiện nay.
Từ nội dung, bản chất của khái niệm kiểm trang đảng viên khi có DHVP, tác
giả luận án đã đi sâu phân tích nội hàm của nó (như đã phân tích ở trên), để
khẳng định quy định của Điều lệ Đảng khóa VIII, khóa IX là một định hướng
đúng cả về lý luận, cả về thực tiễn.
Qua hơn tám năm thực hiện quy định này với những kết quả đạt được của ngành kiểm tra
Đảng khẳng định đây là bước tiến về nhận thức lý luận trong công tác kiểm tra của Đảng,
làm cơ sở định hướng cho những nhiệm kỳ Đại hội Đảng tiếp theo.
Vì sao kiểm tra đảng viên là một tất yếu khách quan trong xây dựng nội bộ Đảng
Thực tiễn và các quan hệ xã hội luôn luôn vận động và phát triển theo quy luật khách
quan. Trong khi đó nhận thức của con người là một quá trình. Con đường nhận thức
18
chân lý khách quan của con người đi từ hiện tượng đến bản chất. Dù ý định của con
người được tính toán cân nhắc kỹ tới mấy, chắc chắn vẫn có những sơ hở, khiếm khuyết.
Nhận thức của đội ngũ đảng viên vẫn không nằm ngoài quy luật chung đó. Trong đội
ngũ đảng viên, bên cạnh số đông là những người tiên tiến, có giác ngộ lý tưởng cách
mạng, nhận thức được quy luật của thực tiễn cách mạng, thì vẫn còn một số đảng viên
do nhận thức chưa đầy đủ các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nên cũng dễ mắc phải sai lầm, khuyết điểm. Song, ngay cả những đảng viên hội đủ sự
nhiệt tình, năng nổ và tính trách nhiệm cao cũng có khi thất bại, thậm chí vi phạm các
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi ở họ mong muốn sự thể nghiệm những ý
tưởng, việc làm vượt quá những điều kiện vật chất cho phép. Nhận thức của đảng viên
đúng hay sai sẽ ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn và hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ chính trị của mình.
Khi trở thành đảng cầm quyền, bình diện và quy mô lãnh đạo của Đảng mở rộng đa dạng,
phong phú và phức tạp. Sự vận động, biến đổi của xã hội theo hướng phát triển, tiến bộ,
theo đó mà yêu cầu của nhiệm vụ chính trị cũng có sự thay đổi cho phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ chính trị chủ yếu nổi lên
là làm sao đập tan chế độ thực dân phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, con người
được giải phóng, thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Còn trong cách mạng XHCN, nhất là thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH thì yêu cầu nhiệm vụ chính trị càng nặng nề, phức tạp hơn,
nhiều vấn đề mới đặt ra cho chủ thể lãnh đạo, đội ngũ đảng viên phải giải quyết. Cơ chế
quản lý kinh tế - xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, trong nhiều trường hợp ranh giới
giữa đúng và sai, giữa năng động sáng tạo và vi phạm rất khó xác định. Trong khi đó năng
lực, nhận thức của một bộ phận đảng viên còn hạn chế, bất cập chưa được chuẩn bị kỹ trên
lĩnh vực kiến thức, tư tưởng, nên rất dễ dẫn tới sai phạm. Sự vi phạm đó ngoài nguyên
nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ quan, đó là đảng viên chưa tự giác học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, bị cuốn hút bởi lối sống thực dụng do chủ
nghĩa cá nhân gây ra. Bất luận trong hoàn cảnh nào người đảng viên cũng không được đổ
lỗi cho khách quan để làm trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đó là lương
19
tâm, lẽ sống, trách nhiệm của người cộng sản. Nhận thức không đúng là căn nguyên đầu
tiên mở đường cho các sai phạm, yếu kém ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy,
tăng cường công tác kiểm tra của tổ chức đảng để giáo dục, uốn nắn những nhận thức,
hành vi chưa đúng của đảng viên là yêu cầu khách quan, cần thiết.
Bên cạnh số đông đảng viên một lòng một dạ tích cực phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của
Đảng vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, thoái hóa biến chất về tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Chưa bao giờ tình hình DHVP của đảng viên lại gia tăng và
nghiêm trọng như hiện nay. Có những đảng viên rất trung thành, dũng cảm trong cách
mạng dân tộc, dân chủ nhưng chuyển sang cơ chế thị trường đã bị cuốn hút, gục ngã bởi
đồng tiền, danh vọng. Do vậy, tăng cường công tác kiểm tra của Đảng như một công cụ
hữu hiệu để giáo dục, cảnh báo, răn đe là không thể thiếu đối với đảng viên trong bối cảnh
hiện nay.
Những tư tưởng mới mẻ, tiên tiến nhiều khi được khởi đầu từ một người, hoặc một nhóm
người, do đó phải có quá trình thông qua hoạt động thực tiễn mới có cơ sở để thẩm định
tính đúng đắn của tư tưởng đó. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Nếu như cái mới, cái
tiên tiến trong ý tưởng của một đảng viên nào đó thiếu vắng sự bàn bạc của tập thể, chưa
được kiểm nghiệm của thực tiễn, vừa mong muốn thể nghiệm để chứng tỏ bản lĩnh và ý
thức đổi mới thì cũng dễ mắc phải sai lầm, khuyết điểm.
Thực tế vừa qua cho thấy, có những đảng viên là giám đốc với bản lĩnh, tinh thần trách
nhiệm cao nhưng do nôn nóng muốn thể nghiệm ý tưởng mới, nhưng chưa được chuẩn bị
kỹ các điều kiện vật chất cần thiết nên đã thất bại trong việc hiện thực hóa chủ trương đó,
và phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước về lỗi sai phạm của mình. Vì vậy, phải
tăng cường kiểm tra để ngăn chặn các sai phạm có thể xảy ra ở một bộ phận đảng viên đó.
Đương nhiên, chủ động kiểm tra để ngăn chặn sai phạm của đảng viên, nhưng phải biết
khích lệ cái đúng, cái tiên tiến. Bởi vì, cái mới, cái tiên tiến xuất hiện chưa dễ gì được mọi
người chấp nhận ngay. Cần bảo vệ, nuôi dưỡng tư tưởng tiên tiến dù còn manh nha, nhưng
đó là tố chất góp phần tạo nên sự đúng đắn của các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Từ các vấn đề phân tích trên cho thấy, do những tác động khách quan, nếu cán bộ, đảng
20
viên hạn chế về nhận thức, thiếu tu dưỡng, rèn luyện thì rất dễ dẫn tới các khuyết điểm, sai
phạm. Do bị chế ước bởi các điều kiện về kinh tế, xã hội, tâm lý, quá trình phấn đấu rèn
luyện, nên nhận thức giác ngộ lý tưởng của đảng viên cũng khác nhau. Do đó, cũng dễ
hiểu khi trong Đảng đa số đảng viên toàn tâm, toàn ý phấn đấu cho sự nghiệp chung,
nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ phai nhạt lý tưởng, mang nặng chủ nghĩa cá nhân,
thoái hóa biến chất, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước. Để đội ngũ đảng viên
của Đảng luôn là những chiến sĩ tiên phong cả về nhận thức và hành động luôn là những
"công bộc" của dân thì đòi hỏi các cấp ủy đảng, UBKT phải luôn tăng cường kiểm tra.
Qua đó có tác dụng giáo dục, phòng ngừa, giúp đảng viên ý thức rõ hơn trách nhiệm,
nghĩa vụ của người cộng sản.
Do đó, kiểm tra không chỉ là ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một tổ chức nào mà là tất
yếu khách quan, cần thiết đối với mỗi con người và tổ chức trong xã hội. Ý thức càng cao,
nhiệm vụ chính trị càng nặng nề, phức tạp càng đòi hỏi phải tăng cường công tác kiểm tra.
Đặc biệt, đối với tổ chức đảng, muốn làm tròn vai trò tiên phong đối với xã hội, để đảng
viên luôn là những nhân cách trong sáng thì phải thường xuyên coi trọng và làm tốt công
tác kiểm tra.
1.1.1.3. Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm - một nhân tố cơ bản đảm bảo sự
trong sạch, vững mạnh của Đảng
- Công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP góp phần củng cố nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng
Chất lượng đội ngũ đảng viên cao hay thấp, đều ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng là gồm các đảng viên mà tổ
chức nên" [53, tr. 235]. Đội ngũ đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng,
có kiến thức năng lực sẽ tạo nên sức mạnh của Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ
chức. Trí tuệ của Đảng được quyết định bởi trí tuệ của đội ngũ đảng viên. Người chỉ rõ:
"Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt" [58, tr. 92]. Khi tổ
chức đảng có nhiều đảng viên suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, tham ô, lãng phí
của công, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nội bộ mất đoàn kết, chia rẽ thì chẳng
những không góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo mà còn có nguy cơ làm cho tổ chức đảng
21
suy yếu, tê liệt, năng lực lãnh đạo giảm sút, mất vai trò và uy tín trước quần chúng. Coi trọng
và làm tốt công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP tác động trực tiếp tới việc xây dựng
củng cố khối đoàn kết thống nhất, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và giữ vững kỷ
cương, kỷ luật của Đảng. Trên địa bàn DHMT cho thấy, không ít tổ chức đảng chưa nhận
thức rõ kiểm tra là một tất yếu cần thiết, dẫn đến xem nhẹ, bỏ mặc hoặc che đậy, đến khi vỡ
lở thì sự đã rồi. Đây là nguyên nhân làm cho tình hình nội bộ Đảng ở một số ít tổ chức đảng
trên địa bàn yếu kém, kéo dài, thậm chí mất đoàn kết nội bộ, các suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục sửa chữa. Do
đó, coi trọng và làm tốt công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP là một trong những
nhân tố để nâng cao tầm trí tuệ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng.
- Công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP góp phần nâng cao chất lượng đảng viên của
Đảng
Trước yêu cầu của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là hết sức cấp
bách. Có thể nói rằng, kiểm tra đảng viên khi có DHVP có vai trò to lớn tác động đến
công tác tổ chức, chấn chỉnh nâng cao chất lượng các mặt của đảng viên. Kiểm tra có tác
dụng giáo dục, kịp thời ngăn chặn khuyết điểm, sai phạm ở một bộ phận cán bộ, đảng
viên, nhằm giúp đảng viên có DHVP khắc phục khuyết điểm, phấn đấu rèn luyện tốt hơn.
Thực tế vừa qua cho thấy, ở đâu mà UBKT coi trọng và làm tốt công tác kiểm tra thì ở đó
chất lượng các mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao, kỷ luật, kỷ cương được
giữ vững; chi bộ, đảng bộ luôn trong sạch vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với
chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đương nhiên, có thể và không tránh khỏi
trong tổ chức đảng có một số rất ít đảng viên không xứng đáng, cá biệt có cả những phần tử
phản bội, sâu mọt nhưng tổ chức đảng vẫn mạnh. Nhưng nếu số đông đảng viên thoái hóa
biến chất về phẩm chất đạo đức, yếu kém về trình độ và năng lực thì Đảng sẽ suy yếu, chất
lượng lãnh đạo giảm sút, không làm tròn vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị.
UBKT các cấp làm tốt công tác kiểm tra sẽ góp phần giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên,
nhằm giúp đảng viên có DHVP trở về vị trí tiên phong của người lãnh đạo. Lý luận và thực
22
tiễn cho thấy, do thiếu kiên trì phấn đấu rèn luyện, nên sự tụt hậu, yếu kém, sai phạm ở một
bộ phận đảng viên là không tránh khỏi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Bất cứ người lao động
nào dù thông minh đến đâu, đôi lúc cũng có thể sai lầm. Chỉ có những kẻ ngồi không mới
không sai lầm mà thôi" [50, tr. 165], "có làm việc thì có sai lầm" [51, tr. 283].
Khi đảng viên có DHVP được UBKT, các tổ chức đảng, đảng viên chỉ rõ khuyết điểm thì
mới có hướng để khắc phục, sửa chữa. Do tự phê bình còn hạn chế, nên đảng viên cũng
khó có thể nhìn nhận chính xác các khuyết điểm, đánh giá đúng những tác hại do sai lầm
của bản thân gây ra. Coi nhẹ sự quản lý, kiểm tra của cấp ủy đảng, UBKT, sự giúp đỡ
chân tình, thân ái của các đảng viên trong chi bộ, sẽ làm cho đảng viên trượt dài theo các
sai phạm của mình. Thực chất kiểm tra cũng là một quá trình tác động, giáo dục, cảm hóa
đối với đảng viên có DHVP, để đảng viên tự giác sửa chữa khuyết điểm, gột rửa "vết nhọ"
của chính mình.
Tác dụng của kiểm tra đảng viên khi có DHVP không chỉ kịp thời cảnh báo, ngăn chặn
các sai phạm, mà còn giúp đảng viên có DHVP khắc phục sửa chữa, phấn đấu rèn luyện
tốt hơn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm sẽ lòi ra hết, hơn
nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi" [51, tr. 287]. Đồng thời, "kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm là cách phòng ngừa tốt nhất để bảo vệ tổ chức và đảng viên của
Đảng ở thời điểm hiện nay" [6, tr. 14]. Công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP phải
hướng vào góp phần ngăn chặn sự thoái hóa về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Mặt
khác, thông qua kiểm tra, giúp cho UBKT có cơ sở để xem xét, kết luận làm rõ đúng, sai
đối với đảng viên có DHVP; đồng thời minh oan cho những đảng viên vì những lý do nào
đó mà bị tổ chức đảng, cá nhân đảng viên hiểu lầm, nghi kỵ. Tình trạng đơn thư nặc danh,
dư luận gây nhiễu có xu hướng gia tăng, trong đó không loại trừ những đơn, thư tố cáo với
động cơ không đúng như xuyên tạc, bôi nhọ, làm giảm uy tín cán bộ, đảng viên. Do đó
công tác kiểm tra phải hướng vào kiểm tra làm rõ, để bảo vệ những đảng viên trung thực,
góp phần chấn chỉnh, ổn định nội bộ tổ chức đảng, giải tỏa những dị nghị, vướng mắc
trong cán bộ, đảng viên.
23
Bên cạnh việc kiểm tra lấy giáo dục, phòng ngừa làm chính thì kiểm tra cũng có thêm cơ
sở xem xét kỷ luật, đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng, làm cho tổ chức
đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đây là vấn đề hết sức bình thường trong sinh hoạt nội
bộ Đảng. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi bọn cơ hội tìm mọi cách chui
luồn vào Đảng để mưu cầu đặc quyền, đặc lợi; khi mà các thế lực thù địch đang tìm mọi
cách để chống phá Đảng, chống phá CNXH rất quyết liệt thì việc tăng cường kiểm tra,
nhận diện những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất để đưa ra khỏi Đảng là hết sức cần
thiết, nhằm bảo vệ sự trong sạch vững mạnh và uy tín của Đảng.
- Làm tốt công tác kiểm tra đảng viên có DHVP sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân đối với Đảng
Sức mạnh của Đảng chính là ở mối liên hệ máu thịt tự nhiên giữa Đảng với quần chúng.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất năng lực, gương mẫu trước quần
chúng sẽ tôn vinh uy tín của Đảng. Khi đảng viên quyết tâm khắc phục sửa chữa sai lầm,
khuyết điểm sẽ làm cho tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; mặt khác, quần chúng cũng
tin tưởng vào sự nghiêm minh, xử lý kịp thời của tổ chức đảng đối với những đảng viên
khi có DHVP. Đảng liên hệ, gắn bó máu thịt với quần chúng thông qua các kênh: đường
lối, chính sách, các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Trong các kênh đó, thì thông qua
đảng viên là kênh trực tiếp cơ bản. Đảng viên không chỉ là người tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng mà còn là người vận động quần chúng nhân dân thực hiện các
chủ trương, chính sách, nghị quyết đó. Sự mẫu mực về nhân cách, thể hiện ở mỗi cử chỉ,
lời nói của đảng viên sẽ có tác động lan tỏa rất lớn đến quần chúng nhân dân. Ngược lại,
"đảng viên phạm sai lầm thì sẽ đưa quần chúng đến sai lầm" [55, tr. 289].
Thực tế cho thấy, ở địa phương này hay địa phương khác, số ít đảng viên thiếu gương mẫu về
đạo đức lối sống, thoái hóa, biến chất, tham nhũng, trù dập, ức hiếp quần chúng thì uy tín của
chi, đảng bộ đó đối với quần chúng không cao. Bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào,
người cộng sản cũng phải luôn trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của
Đảng lên trên lợi ích cá nhân, thống nhất giữa nói và làm. "Không phải ta cứ viết lên trán chữ
"cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo
24
đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" [51, tr.
552]. Có như vậy sự nêu gương của đảng viên mới lâu bền và được nhân dân tín nhiệm, đồng
lòng ủng hộ. Mục đích chính của kiểm tra là lấy giáo dục, phòng ngừa làm chính; nhưng đối
với những đảng viên đã có DHVP thì phải chủ động xem xét, kết luận làm rõ, không để dây
dưa kéo dài, từ một người liên quan đến nhiều người. Việc giải quyết dứt điểm, công minh,
chính xác, kịp thời các DHVP ở số ít đảng viên không chỉ giáo dục, uốn nắn, làm chuyển
biến nhận thức ở đối tượng được kiểm tra, mà còn làm cho tổ chức đảng và đảng viên
củng cố sự đoàn kết thống nhất, đồng thời tạo chỗ dựa, niềm tin cho quần chúng đối với tổ
chức đảng. Quần chúng nhân dân phần lớn là rất tốt, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo
của Đảng. Song, quần chúng nhân dân cũng thật khách quan, công bằng khi thẩm định
năng lực, phẩm chất của từng cán bộ, đảng viên; tôn vinh quý mến đối với những cán bộ,
đảng viên tận tụy, có trách nhiệm với nhân dân, nhưng cũng rất khắt khe, phẫn nộ đối với
những người đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Đương nhiên, nhân dân cũng rất khoan
dung, độ lượng với những cán bộ, đảng viên, mặc dù có những sai phạm nhưng biết hối
cải, nhận lỗi trước nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết sâu sắc rằng: "Dân ta rất tốt,
rất yêu thương Đảng, yêu thương cán bộ. Khi ta có khuyết điểm mà nói trước dân, chẳng
những dân không ghét, không khinh, mà còn thương yêu, quý trọng tín nhiệm ta hơn nữa"
[58, tr. 213].
Trên bình diện chung của cả nước, cũng như ở các tỉnh DHMT đã có những cán bộ, đảng
viên có DHVP chưa đến mức kỷ luật, nhưng thành khẩn, biết khắc phục sửa chữa khuyết
điểm thì nhân dân vẫn tín nhiệm bầu vào các chức danh chủ chốt ở cơ sở. Chủ động làm
tốt công tác kiểm tra đảng viên khi có DHVP không chỉ góp phần giáo dục, ngăn chặn,
đẩy lùi các tiêu cực, yếu kém, mà còn tạo lập, củng cố niềm tin của nhân dân đối với đảng
viên và tổ chức đảng.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến đảng viên dẫn đến có dấu hiệu
vi phạm, vi phạm
Việc xác định làm rõ những nhân tố tác động đến đảng viên dẫn đến
có DHVP có ý nghĩa rất lớn, không chỉ giúp UBKT các cấp, đội ngũ cán bộ
25
kiểm tra hình dung được tính phức tạp và những khó khăn của kiểm tra đảng
viên khi có DHVP, mà còn có cơ sở để xây dựng phương hướng, mục tiêu và
đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có DHVP.
Với ý nghĩa đó, luận án xác định hai nhóm nhân tố tác động sau.
1.1.2.1. Nhóm nhân tố khách quan
+ Mặt trái của kinh tế thị trường tác động.
Lựa chọn kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng
XHCN là một quyết sách đúng đắn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng ta. Tuy nhiên, "cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực
mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội" [14, tr. 26]. Cơ chế thị trường
trong bản chất của nó đã hàm chứa cả những mặt tích cực lẫn tiêu cực. Kinh
tế thị trường về bản chất là hoạt động trên cơ sở quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh. Cơ chế thị trường đặt ra cho các chủ thể kinh tế phải luôn luôn quan
tâm và chạy đua với lợi nhuận, với cạnh tranh và cạnh tranh không phải khi
nào cũng lành mạnh. Do đó, đội ngũ đảng viên của Đảng ta cũng chịu tác
động từ mặt trái của cơ chế thị trường. Bởi vì, con người bao giờ cũng mang
dấu ấn của một thể chế, cơ chế. Qua những năm thực hiện công cuộc đổi mới,
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn. Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta phải trả giá không
nhỏ cho những hiện tượng tiêu cực. Sự băng hoại các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, kinh doanh bằng
bất cứ giá nào, tội lừa đảo gây tội ác là hệ quả khó tránh khỏi của cơ chế thị
trường. Cơ chế thị trường cuốn hút con người vào cuộc đua tranh kinh tế, làm
cho một số cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền dễ coi đồng tiền là trên hết, chạy theo lợi nhuận không chính đáng.
Chính vì vậy mà không ít cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất, sa ngã
trước những cám dỗ của đồng tiền, địa vị, sắc đẹp. Điều dễ nhận thấy là so
với thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì tình hình DHVP của đảng