Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế mối QUAN hệ GIỮA KINH tế với QUỐC PHÒNG ở CỘNG hòa dân CHỦ NHÂN dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.85 KB, 161 trang )

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực phản động vẫn
chưa từ bỏ âm mưu xâm lược từ bên ngoài, hoặc gây bạo loạn lật đổ từ bên
trong để phá hoại công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) ở các nước chậm phát triển. Hơn nữa, trong điều
kiện toàn cầu hóa kinh tế, mỗi quốc gia không thể phát triển được nếu
không mở cửa hội nhập kinh tế với các nước khu vực và thế giới. Vì thế
các thế lực thù địch thường lợi dụng ưu thế này để thực hiện âm mưu "Diễn
biến hòa bình" của chúng. Do đó, vấn đề nghiên cứu, nhận thức đúng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng trong quá trình thực hiện công
cuộc đổi mới nền kinh tế nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND)
Lào hiện nay là vấn đề đang đặt ra hết sức cấp thiết.
Kinh tế và quốc phòng là hai lĩnh vực có mối quan hệ biện chứng
với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Quốc phòng theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ
hoạt động xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế hoạt động đạt hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế theo nghĩa rộng bao
gồm toàn bộ hoạt động tái sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Sự kết
hợp kinh tế với quốc phòng là sự kết hợp giữa hai hoạt động đó nhằm đạt
được hiệu quả kinh tế - xã hội tối ưu cho cả hai.
Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng đã được Đảng NDCM
Lào và Nhà nước CHDCND Lào đặc biệt quan tâm. Báo cáo chính trị Đại
hội VI của Đảng NDCM Lào đã khẳng định: "Đối với lực lượng quân đội
phải làm trọn hai nhiệm vụ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi đôi với việc
xây dựng nền kinh tế, coi mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc


6



phòng với kinh tế là việc làm thường xuyên và gắn kết với nhau của quân đội
ta" [78, tr. 50].
Mười lăm năm thực hiên công cuộc đổi mới, nền kinh tế Lào đã có
bước phát triển khá, giải quyết được một số khó khăn trong sản xuất và đời
sống xã hội. Tuy nhiên, lại có những mặt đang xuống cấp, ảnh hưởng
không tốt đến yêu cầu tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh. Vì vậy,
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng ở CHDCND Lào
trong thời kỳ đổi mới là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Lào hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng đã được nêu lên trong
các văn kiện Đại hội V và VI của Đảng NDCM Lào, đồng thời cũng đã có
một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học quân sự Lào như: công
trình nghiên cứu của ThS. Khăm Phải: Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, ThS. Suly Văn:
Phát triển kinh tế nông nghiệp và vai trò của nó đối với việc củng cố quốc
phòng ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay . Ở Việt Nam đã có một
số tác giả, có những bài viết liên quan đến vấn đề này:
Hoàng Minh Thảo: Mấy vấn đề về mối quan hệ xây dựng kinh tế
với củng cố quốc phòng ở Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tài liệu
khoa kinh tế - chính trị, Học viện Quân sự cao cấp.
Trần Trung Tín: Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong giai đoạn
hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1998.
Nguyễn Anh Bắc: Mấy vấn đề về tính quy luật của sự kết hợp kinh
tế với quốc phòng ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 1/1980.
Trần Bạch Đằng: Phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, số 11/ 1993.



7

Trần Đăng Bộ: Kết hợp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp
dân dụng ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, 1999.
Phạm Văn Trà: Tham gia xây dựng và phát triển kinh tế xã hội,
củng cố quốc phòng an ninh trên các địa bàn chiến lược là nhiệm vụ chính
trị quan trọng của quân đội. Báo Nhân Dân, ngày 3.11.1998.
Duy Phục: Quân đội nhân dân trên mặt trận xây dựng kinh tế. Báo
Nhân Dân, ngày 29.5.1998.
Nhưng những công trình trên chỉ đi vào các khía cạnh riêng biệt
hoặc là phản ánh tình hình chung của vấn đề nghiên cứu, đề xuất phương
hướng và nêu lên một số giải pháp để khắc phục chứ chưa nghiên cứu một
cách có hệ thống về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ
đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ đổi mới ở CHDCND Lào,
tìm ra những giải pháp cơ bản để giải quyết tốt hơn mối quan hệ ấy trong
thời kỳ tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích bản chất mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng trong
thời kỳ đổi mới ở Lào.
- Đánh giá đúng thực trạng mối quan hệ giữa kinh tế với quốc
phòng ở Lào trước và sau đổi mới.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện
tốt mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng trong thời gian tới.
4. Giới hạn của luận án
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng NDCM Lào về
kinh tế và quốc phòng trong thời kỳ đổi mới, luận án chỉ nghiên cứu mối



8

quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng ở tầm vĩ mô, trong điều kiện nền kinh
tế chuyển sang cơ chế thị trường, luận án sẽ không đề cập một cách toàn
diện về quốc phòng cũng như về quá trình phát triển kinh tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận án
Luận án được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý
luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin; những quan điểm
của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào; tham khảo và tiếp thu có chọn lọc
những ý kiến của các chuyên gia kinh tế, quân sự qua các bài viết của họ,
nhất là những công trình nghiên cứu, những bài học kinh nghiệm của Việt
Nam trong vấn đề này.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị
Mác - Lênin. Trong đó phương pháp duy vật biện chứng, trừu tượng hóa
khoa học và lý luận gắn với thực tiễn, được đặc biệt coi trọng trong việc
giải quyết những vấn đề đặt ra của luận án.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn
về mối quan hệ giữa kinh tế đối với quốc phòng và quốc phòng đối với
kinh tế trong thời kỳ đổi mới của nước CHDCND Lào.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải
quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng trong điều kiện nền kinh
tế Lào hoạt dộng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu
tham khảo trong khi hoạch định các chủ trương chính sách có liên quan đến
những vấn đề cần phải giải quyết trong mối quan hệ giữa kinh tế với quốc
phòng ở nước CHDCND Lào và có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu và giảng dạy ở các học viện, các trường quân đội.



9

8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
TƯ DUY MỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG
TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng là một trong những mối
quan hệ cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhưng nội dung của nó thay đổi
tùy theo điều kiện lịch sử về kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Đối
với nước Lào từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, cần có tư duy mới về nhận thức và thực
hiện đúng đắn mối quan hệ này.
1.1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH
TẾ VỚI QUỐC PHÒNG

1.1.1. Dựng nước và giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển
của một dân tộc
Lịch sử của xã hội loài người, quá trình hình thành và phát triển của
các quốc gia trên thế giới đều cho một kết luận sâu sắc rằng: đó là quá trình
chuyển hoá của xã hội loài người từ thấp đến cao, từ một xã hội đơn giản
đến một xã hội phức tạp; từ cuộc đấu tranh tự phát đến cuộc đấu tranh tự
giác, nhằm mục đích giành giữ quyền độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, đưa đất nước tiến tới một xã hội công bằng hơn, văn minh
hơn, cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng đầy đủ hơn.

Đó là nguyện vọng chung của nhân loại, nhưng thực tiễn mỗi dân tộc khi tự


10

quyết định lựa chọn con đường phát triển riêng của mình thành công hay
thất bại còn tùy thuộc vào khả năng huy động được toàn bộ sức mạnh của
đất nước như: sức mạnh kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sức mạnh của
quần chúng. Biết kết hợp ba sức mạnh đó với sức mạnh của thời đại thành
sức mạnh tổng hợp của một quốc gia, mới có đủ khả năng chống ngoại xâm,
bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Nền độc lập và chủ quyền quốc gia của nhiều dân tộc trên thế giới
đã phải trải qua những cuộc thử thách gian khổ, đương đầu với nhiều cuộc
chiến tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước và cứu nước, bảo vệ sự tồn
tại của dân tộc mình. Ngay cả trong điều kiện hòa bình, các nước độc lập
đều phải thường xuyên cảnh giác để chống lại những âm mưu, hoạt động
vũ trang và phi vũ trang của kẻ thù nhằm xâm lấn, phá hoại nội bộ của
nước khác. Chính vì vậy, các dân tộc đã giành được độc lập đều có chủ
trương xây dựng một nền quốc phòng - an ninh đủ sức đương đầu với những
cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, duy trì bảo vệ sự ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội trong xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Nhìn vào lịch sử Lào từ khi Chậu Phạ Ngừm thống nhất đất nước
năm 1353 cho đến thế kỷ XVI, nhà nước Lạn Xạng đang ở thời xây dựng
và phát triển, đặc biệt là trong những năm đầu của thế kỷ XVI, đã xuất hiện
nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng, kinh tế, xã hội Lào đã có bước phát
triển khá, có khả năng huy động nhân dân đứng lên chống giặc ngoại xâm
giữ nước giữ làng.
Đến năm 1438 quân đội Ayut thaya (quân Xiêm) đã tiến hành cuộc
chiến tranh xâm chiếm Lạn Xạng liền bị quân và dân Lạn Xạng đánh đuổi
chúng ra khỏi đất nước. Từ năm 1563 đến 1592 quân và nhân dân Lạn

Xạng lại tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ chống quân đội Avạ
(Myanma) để bảo vệ độc lập dân tộc. Cuộc chiến tranh chống Avạ của
quân và dân Lào kéo dài suốt 30 năm.


11

Với lòng tự tin vào thắng lợi cuối cùng, nhân dân đã bỏ nhà, bỏ
làng rút vào rừng khi quân Avạ đến xâm chiếm để tổ chức chiến đấu.
Người đứng lên lãnh đạo phong trào đấu tranh lúc đó là Phạ Nha Xẻn Xu
Lin, ông đã nói: "Viêng Chăn là một nước thượng võ, ta phải ngăn không
cho Avạ ở lại trong mường được lâu" [27, tr. 157]. Từ đó nhân dân đã nổi dậy
đấu tranh, chiếm lại được mường và thủ đô như cuộc khởi nghĩa ở mường
At Tô Pư năm 1438.
Đến năm 1633, vua Xulinha Vông Xả lên ngôi, để giữ nước và
dựng nước, ông đã xây dựng một đội quân mạnh mẽ được trang bị bằng các
vũ khí có đạn nổ và voi chiến. Về mặt đối ngoại, Ông đã đặt mối quan hệ
tốt với các nước láng giềng, năm 1637 ông điều đình với nước Đại Việt về
việc hoạch định biên giới giữa hai nước. Hai bên đã thỏa thuận là xây một
ngôi tháp hữu nghị ở mường Đàn Xải, lấy tên là tháp "Xỉ Xoong Rắc" làm
mốc biên giới hai nước. Tại lễ khởi công xây dựng tháp năm 1670 ông đã
đọc một bản tuyên thệ:
"... Cầu mong tình hữu nghị hai nước sẽ đẹp đẽ, trong sáng cho tận
đời con, đời cháu, đời chắt. Hai bên nguyện không xâm phạm đất đai, không
lừa dối nhau cho đến khi mặt trời rời xuống mảnh đất này" [27, tr. 162]. Đó
là một thực tế chứng minh rằng, suốt hàng ngàn năm của lịch sử dân tộc
các nhà lãnh đạo đất nước đều có chung một nguyện vọng là muốn được
sống trong hòa bình, xây dựng đất nước trong thanh bình và độc lập dân tộc,
không muốn gây chiến tranh với bất cứ nước nào trong khu vực và trên thế
giới.

Đất nước Lạn Xạng thời Xulinha Vông Xả là thời đất nước phồn
vinh nhất, đặc biệt là trong văn học, Phật giáo, ngôn ngữ học... như: truyện
Chăm Pa Xỉ Tôn (bốn cây Chăm Pa), truyện Thạo Hùng - Thạo Chương,
truyện Xẳng Xỉn Xay... Ở thế kỷ XVII đã có những công trình kiến trúc


12

được xây dựng lộng lẫy và nổi tiếng như: tháp Chom Xỉ, chùa Xiềng
Thong, chùa Phà Kẹo, hỏ Phà Kẹo, tháp Luổng... Sau khi vương triều
Xulinha Vông Xả qua đời vào cuối thế kỷ XVII, toàn bộ Lạn Xạng đã rơi
vào ách thống trị của Xiêm (Thái Lan). Chúng chia đất nước thành ba tiểu
vương: Viêng Chăn, Luông Phạ Bang và Chăm Pa Xắc.
Vào thế kỷ XVIII, Chậu A Nu Vông lãnh đạo nhân dân lật đổ ách
đô hộ của người Xiêm, lập lại sự thống nhất đất nước Lạn Xạng. Sau khi
lên ngôi năm 1818, ông đã xây dựng lại kinh đô Viêng Chăn và nhiều chùa
chiền khác rất lộng lẫy. Nhưng đến năm 1827, quân Xiêm lại một lần nữa
đánh chiếm Lạn Xạng, kéo dài sự thống trị của chúng đến cuối thế kỷ XIX.
Tiếp theo là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân Lào
chống chủ nghĩa thực dân Pháp từ 1873 - 1954. Những năm đầu của cuộc
đấu tranh này, liên tục diễn ra những cuộc khởi nghĩa vũ trang của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của các ông Phó Cà Duột, ông Keo, ông
Kô Ma Đàm, Chậu Pha Pát Chay,... nhưng đều thất bại.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã mở ra thời đại
mới trong lịch sử loài người, làm cho phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước có bước phát triển trên qui mô rộng lớn. Ở Đông Dương, với sự hoạt
động không mệt mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mấy chục năm tìm
đường cứu nước, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Đông Dương, đến
năm 1930 Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đó là một bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của ba nước Việt Nam,

Lào, Campuchia.
Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn viết:
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do đồng
chí Hồ Chí Minh sáng lập, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của ba
nước Đông Dương, từ đó dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác - Lênin


13

chân chính, với ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc Lào bước sang thời kỳ
mới với chất lượng hoàn toàn mới [27, tr. 292].
Đó là một thực tế cho thấy, sự phát triển và lớn lên của sự nghiệp
đấu tranh giữ nước và dựng nước của một dân tộc được hình thành từ thấp
đến cao, từ chưa có tổ chức đến có tổ chức, từ cuộc đấu tranh tự phát đến
cuộc đấu tranh tự giác, từ sự tự đoàn kết nội bộ của các dân tộc đến sự đoàn
kết giúp đỡ hỗ trợ quốc tế. Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn viết:
Kế tục mối quan hệ lâu đời và truyền thống đoàn kết hỗ
trợ lẫn nhau trong lịch sử phát triển của cả hai dân tộc Lào - Việt
Nam, sự liên minh chiến đấu đó đã được hình thành trên cơ sở
kết hợp nhuần nhuyễn tinh thần yêu nước nồng nàn với chủ nghĩa
quốc tế vô sản chân chính ngay từ khi Đảng cộng sản ra đời [27, tr.
292].
Sau khi Đảng cộng sản Đông Dương được thành lập, Đảng đã triển
khai chủ nghĩa Mác - Lê nin, mở rộng công tác vận động, tổ chức cơ sở bí
mật trong các tầng lớp quần chúng lao động ở các thành phố, thị trấn như:
Viêng Chăn, Thà Khẹt, Xả Văn, Pác Xế... để huy động đông đảo quần chúng
đứng dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc. Với tinh thần yêu nước, với lòng
dũng cảm đấu tranh bất khuất chống kẻ thù, đến tháng 8 năm 1945 phong
trào đấu tranh của nhân dân Lào chống thực dân Pháp đã giành được thắng

lợi. Đến 20 tháng 1 năm 1949 quân đội nhân dân Lào đã được thành lập.
Nước Lào độc lập được một thời gian ngắn lại phải đương đầu với
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp lần thứ hai có sự can thiệp của đế quốc
Mỹ. Ngày 13 tháng 8 năm 1950, Đại hội quốc dân kháng chiến chống Pháp
đã thành lập mặt trận Lào tự do, thông qua cương lĩnh chính trị 12 điểm và


14

bầu ra chính phủ Lào kháng chiến do Hoàng thân Xu Pha Nu Vông làm
Thủ tướng. Ông đã trịnh trọng tuyên bố trước nhân dân rằng:
Tất cả người Lào, trai gái, già trẻ, không phân biệt chủng
tộc, tôn giáo, đoàn kết thành một khối kiên quyết kháng chiến
đến cùng, đuổi thực dân Pháp ra khỏi xứ sở, tiễu trừ bọn Lào gian
phản quốc, để giành độc lập và thống nhất thật sự cho nước "Ai
Lao", Quốc dân Ai Lao phản đối bất cứ âm mưu và hành động
can thiệp của bất cứ đế quốc nào và quốc dân Ai Lao đoàn kết
chặt chẽ với các dân tộc Việt Nam và Campuchia cùng tiêu diệt
kẻ thù chung là thực dân Pháp [27, tr. 352].
Sau khi Đảng nhân dân Lào được thành lập ngày 22-3-1955, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân các bộ tộc Lào yêu nước đứng lên chống đế quốc Mỹ
xâm lược. Qua chặng đường dài của cuộc đấu tranh, nhân dân Lào đã giành
được thắng lợi, Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời năm 1975, nước Lào
bước sang thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH). Nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ này là: Khôi phục
nền kinh tế sau chiến tranh, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội; từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đến Đại hội IV của Đảng NDCM Lào năm 1986 đã tiến hành sự
nghiệp đổi mới toàn diện bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từng bước xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh,

phát triển kinh tế hộ gia đình, bắt đầu từ kinh tế hộ nông dân để chuyển từ
kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh tế hàng hóa, xây dựng cơ cấu
kinh tế sản xuất hàng hóa gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều loại hình,
nhiều quy mô và nhiều trình độ. Đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản
lý kinh tế thích ứng với cơ chế thị trường để phát triển kinh tế hàng hóa,
xây dựng các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước; mở rộng quan hệ với


15

nước ngoài, thu hút vốn đầu tư trực tiếp, nâng cao năng lực xuất khẩu, hạn
chế tình trạng nhập siêu, tập trung khai thác tài nguyên để xây dựng cơ sở
hạ tầng và phát triển năng lực sản xuất trong nước. Với những bước đi phù
hợp đó, Đảng NDCM Lào đã nhấn mạnh: "Đổi mới kết hợp giữa kinh tế,
chính trị với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là nhằm giữ vững sự ổn định
về an ninh, chính trị để tập trung nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội" [27, tr.
521].
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển của lịch sử
nước Lào, đã chứng minh rằng dựng nước và giữ nước là một quy luật tồn
tại và phát triển của một dân tộc. Xuất phát từ thực tiễn của lịch sử đấu
tranh cách mạng, Lênin đã khẳng định: Giành chính quyền đã khó, bảo vệ
chính quyền càng khó hơn. Mỗi cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự
bảo vệ mình, bảo vệ thành quả cách mạng và bảo vệ quyền cũng như lợi ích
chính đáng của nhân dân lao động. Việc xây dựng kinh tế - xã hội và bảo
vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ, là điều kiện và
cơ sở của nhau. Sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó sẽ tạo nên sức mạnh
tổng hợp, bảo đảm cho Tổ quốc ngày càng bền vững và phát triển cân đối.
Cần nhận thức đúng đắn rằng, trong tình hình đầy phức tạp như ngày nay,
thì xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nước về cơ bản phải gắn bó trong mối
quan hệ tác động qua lại giữa chúng với nhau.

Có xây dựng CNXH hiện thực với nền kinh tế phát triển
hiện đại, chế độ xã hội tốt đẹp; dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh, mới có cơ sở vật chất kinh tế - xã hội để tăng
cường sức mạnh đề kháng, tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo
vệ Tổ quốc, có bảo vệ vững chắc được chế độ mới tạo môi
trường ổn định cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội theo đúng định hướng XHCN [22, tr. 43].


16

1.1.2. Kết hợp kinh tế với quốc phòng là yêu cầu khách quan
trong việc chống lại âm mưu thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của
chủ nghĩa đế quốc đối với các nước có nền kinh tế lạc hậu
1.1.2.1. Những âm mưu thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của
chủ nghĩa đế quốc đối với các nước có nền kinh tế lạc hậu
Ngày nay, hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế thúc đẩy sự tiến
bộ của nhân loại, nguy cơ chiến tranh toàn cầu, chiến tranh hủy diệt đã
giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc, các xu thế tôn giáo, tham
vọng lãnh thổ vẫn là nguyên nhân gây ra xung đột, tranh chấp kéo dài vẫn
còn tồn tại ở cả châu Âu, châu Á và châu Phi. Cơ cấu thế giới cũ đang biến
đổi sang thế giới mới với nhiều trung tâm quyền lực, trong đó có đấu tranh
giai cấp, dân tộc tiếp tục diễn ra gay gắt và mang màu sắc mới: vừa đấu
tranh giành giật lợi ích kinh tế, xâm chiếm thị trường, vừa hòa hoãn, tranh
thủ hợp tác để phát triển. Trong cơ cấu thế giới mới đang hình thành đó,
các nước đế quốc lớn đã và đang có âm mưu thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới đối với các nước có nền kinh tế lạc hậu. Hình thức biểu hiện của nó là
trực tiếp duy trì sự thống trị bóc lột của CNĐQ đối với các nước mới giành
được độc lập và đang phát triển. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa thực dân
mới là sự thống trị và bóc lột không trực tiếp, mà là giấu mặt và gián tiếp

thông qua hình thức cho vay, đầu tư, trợ cấp và cố vấn kèm theo các điều
kiện về kinh tế và chính trị; ký kết những hiệp định và hiệp ước không bình
đẳng, lôi kéo các nước kém phát triển vào các khối liên minh chính trị, kinh
tế hoặc quân sự, dưới sự bảo trợ của các nước đế quốc; can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước, dựng nên các chính phủ lệ thuộc để thông qua đó
khống chế, chi phối và tước đoạt trên thực tế độc lập chủ quyền và lợi ích
dân tộc, duy trì địa vị và lợi ích của chủ nghĩa đế quốc.


17

Các nước đế quốc cùng với các thế lực thù địch trong nước và ngoài
nước đã chuyển từ âm mưu xâm lược bằng vũ trang là chính sang âm mưu
"Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, kết hợp răn đe quân sự với các biện
pháp vũ trang cần thiết.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay, các nước đế quốc đã
và đang lợi dụng chính sách mở cửa và nền kinh tế nhiều thành phần của
các nước có nền kinh tế lạc hậu dưới nhiều hình thức, hợp tác với các nước
trên mọi lĩnh vực ở cả trung ương đến địa phương để mở rộng vai trò của
mình trong từng lĩnh vực. Trước hết làm cho các nước kém phát triển chịu
ảnh hưởng về kinh tế, sau đó dần dần chịu ảnh hưởng cả chính trị, văn hóa
và lối sống của các nước đế quốc. Lợi dụng giao lưu kinh tế, hoạt động
ngoại giao, tổ chức cài cắm nhân viên tình báo vào các đoàn đi thăm quan,
du lịch vào các nước kinh tế lạc hậu, sử dụng các công ty, các cơ quan đại
diện để tiến hành thu thập tin tức của Đảng, Nhà nước phục vụ cho các hoạt
động chống đối phá hoại. Tiếp tục nuôi dưỡng bọn phản động chống phá
chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa của các nước kinh tế lạc hậu như là đối
với Lào và Việt Nam hiện nay.
Các nước đế quốc quan tâm đến việc xây dựng nền kinh tế thị
trường TBCN ở các nước kém phát triển thông qua các chương trình viện

trợ, các biện pháp gây sức ép, các hành động can thiệp, kể cả can thiệp trực
tiếp về quân sự và thông qua hoạt động của các cá nhân, các nhóm phi
chính phủ, các công ty tư nhân các nghiệp đoàn, các nhóm nhân quyền,
những cá nhân hoạt động trong các tổ chức bảo vệ môi trường, các phòng
thương mại, các nhà giám sát bầu cử. Chúng chú trọng nắm thời cơ, sử
dụng những khó khăn của các nước kinh tế lạc hậu về vốn, khoa học - công
nghệ; kinh nghiệm quản lý v.v... để gây sức ép về kinh tế, làm thay đổi cơ
cấu chính trị, làm suy yếu lực lượng vũ trang, chúng tìm mọi cách triệt tiêu


18

sức mạnh chính tri, hỗ trợ các xu hướng đối lập chống đối, loại bỏ ảnh
hưởng của các nước XHCN còn lại ở các nước kinh tế chậm phát triển.
Đối với các nước Đông Nam Á, các nước đế quốc còn chú trọng phát
triển quan hệ quân sự với các nước này, thông qua việc giúp đỡ xây dựng
quân đội, như ở Campuchia, cung cấp vũ khí phối hợp diễn tập quân sự,
Mỹ chú trọng xây dựng một hình thức cơ cấu an ninh khu vực như diễn đàn
an ninh khu vực của ASEAN (ARF) để tìm kiếm những phương thức hợp
tác an ninh và mở rộng hệ thống tiếp cận và bố trí trước cho các nước Đông
nam Á nhằm tạo điều kiện cho các cuộc tiếp vận, hành quân và đào tạo, sau
đó tăng cường khả năng liên minh, liên kết giữa các nước khi có chính
biến.
Mỹ và đồng minh thúc đẩy quan hệ buôn bán và đầu tư với các
nước châu Á bằng cách vừa vận động, vừa ép buộc thực hiện tự do hóa
mậu dịch, thực chất là ép các nước lạc hậu mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hóa của Mỹ, lấy diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái bình dương (APEC)
và (WTO) làm công cụ, để thực hiện mục tiêu đó. Mỹ vận động các nước
tham gia APEC cam kết thực hiện tự do hóa mậu dịch và đầu tư vào năm
2010 đối với các nước phát triển và từ năm 2020 đối với các nước khác.

Mỹ vận động các nước thành viên APEC và WTO chấp nhận đề nghị của
Mỹ xóa bỏ mọi thứ thuế đối với hàng tin học và viễn thông kể từ năm 2000
trở đi [58, tr. 8]. Mỹ đặt điều kiện bắt buộc Trung Quốc phải mở cửa thị
trường hơn nữa cho hàng hoá Mỹ để được Mỹ ủng hộ Trung Quốc gia nhập
WTO. Mỹ và các nước đế quốc đang tiến hành chủ trương là thúc đẩy các
nước có nền kinh tế lạc hậu cải cách dân chủ, phát triển kinh tế thị trường,
mở rộng quan hệ đối ngoại và tôn trọng nhân quyền thông qua việc hội
nhập các nước có chế độ chính trị khác nhau vào các tổ chức khu vực đang
chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ và thông qua các chương trình viện trợ, kết


19

hợp với gây sức ép, kích động, hỗ trợ và trực tiếp tổ chức hoạt động chống
đối, lật đổ ở một số nước.
- Đối với Lào: Mỹ tiếp tục chuyển hóa Lào vào quỹ đạo ảnh hưởng
của Mỹ, chia rẽ Lào với các nước Đông Dương, ngăn chặn ảnh hưởng của
Việt Nam đối với Lào. Để nhằm mục đích đó, Mỹ và các nước đồng minh
chủ trương phát triển quan hệ kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ
thuật với Lào, chúng chú ý đầu tư vào các hạng mục lớn của Lào như: xây
dựng đường sá, phát triển các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, trong đó
chúng đặc biệt sử dụng Thái Lan làm công cụ để chuyển hóa Lào vào con
đường cải cách dân chủ, thay đổi chế độ chính trị. Hiện nay chúng đẩy
mạnh các hoạt động chống phá sự ổn định nội bộ của Lào bằng việc tăng
cường thâm nhập và sử dụng lực lượng phỉ "mẹo" đã huấn luyện, bồi
dưỡng tại Mỹ đưa về nước tiến hành hoạt động chống phá cách mạng. Hiện
nay có 8.000 tên phản động Lào và trong số đó có 5.000 tên đang sống ở 38
căn cứ dọc biên giới Lào - Thái Lan và có 3.000 tên phản động người Lào
đã về nước hoạt động [58, tr. 10]. Đồng thời chúng tăng cường lợi dụng vấn
đề dân tộc như sử dụng lực lượng chống đối người H'mông để kích động

gây chia rẽ nội bộ và chia rẽ mối quan hệ truyền thống của ba dân tộc Đông
Dương.
- Đối với Việt Nam, chúng đề ra mục tiêu mở rộng đối thoại đối với
Việt Nam, khuyến khích Việt Nam đi theo con đường cải cách kinh tế và
dân chủ, thực chất là tiến hành diễn biến hòa bình, kết hợp gây bạo loạn, lật
đổ và răn đe chiến tranh để từng bước làm thay đổi con đường chính trị của
Việt Nam tiến tới xoá bỏ hoàn toàn chế độ XHCN ở Việt Nam. Các nước
đế quốc đứng đầu là Mỹ, chủ trương từng bước mở rộng quan hệ đối với
Việt Nam để tạo chỗ đứng cho các công ty của mình hoạt động kinh doanh
kiếm lợi nhuận, đồng thời qua đó làm thay đổi đường lối của Việt Nam.


20

Sau khi Mỹ bình thường hóa quan hệ đối với Việt Nam, Mỹ đã thúc đẩy
một bước quan hệ buôn bán, đầu tư với Việt Nam. Từ tháng 10 năm 1995
đến nay Mỹ đứng thứ sáu trong các nước đầu tư vào Việt Nam, đã có 480
công ty Mỹ có văn phòng đại diện và có 200 tổ chức phi chính phủ của Mỹ
đã có mặt tại Việt Nam [58, tr. 11]. Ngoài quan hệ kinh tế, Mỹ cũng đã
tăng cường hợp tác về y tế, khoa học giáo dục với Việt Nam và đang thăm
dò xây dựng quan hệ về quân sự với Việt Nam. Thông qua các quan hệ
này, Mỹ tìm cách đưa người có quan điểm cấp tiến vào các cơ quan Nhà
nước và các cơ quan dân cử, tạo tâm lý thích phương Tây trong cán bộ Việt
Nam, gây sức ép Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề lính Mỹ mất tích,
trong việc định cư người di tản về nước, và đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi
luật lệ, thủ tục làm ăn có lợi hơn cho nước ngoài.
Mỹ tìm mọi cách phá hoại quan hệ giữa các nước Đông Dương,
ngăn chặn ảnh hưởng của Việt Nam ở Lào và Cămpuchia; lợi dụng, kích
động tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc ở biển Đông. Mỹ còn tiếp
tục sử dụng các bộ máy ở Mỹ, cũng như các cơ quan kinh tế, hợp tác của

Mỹ ở Việt Nam để tổ chức các nhóm người Việt Nam phản động tại Mỹ
đưa về nước hoạt động, nhất là những người trong giới văn nghệ sĩ, trí
thức; giúp đỡ các tôn giáo ở Việt Nam truyền giáo, gây thanh thế, xây dựng
lực lượng và hoạt động chống đối và tích cực tuyên truyền gây chia rẽ giữa
các dân tộc ở Việt Nam. Tháng 9 năm 1996, Mỹ đã đăng cai tổ chức hội
nghị của người H'mông, tổng thống Mỹ B.Clinton đã gửi thư chúc mừng và
hứa hẹn sẽ giúp đỡ người H'mông tìm lại Tổ quốc [58, tr. 12]. Mỹ còn đang
tích cực lợi dụng việc chống tham nhũng, những vụ tranh chấp nội bộ để
kích động chia rẽ nhân dân với Đảng, với chính quyền ở Việt Nam.
- Đối với Campuchia, sau khi Nhà nước đa đảng đã thành lập ở
Campuchia, các nước đế quốc đã chủ trương dùng viện trợ và quan hệ kinh
tế để ép Campuchia về vấn đề dân chủ và nhân quyền, thực chất là ép chính


21

quyền Campuchia chấp nhận sự tồn tại và hoạt động của các đảng phái, các
xu hướng chính trị. Năm 1994, Mỹ đã nối lại chương trình viện trợ cho
Campuchia và thường xuyên đe dọa ngừng viện trợ nếu Campuchia không
thực hiện cải cách chính trị và tôn trọng nhân quyền. Mỹ đã từng tham gia
giúp Campuchia tổ chức bầu cử ở các cấp để qua đó đưa các phần tử thân
Mỹ, được Mỹ huấn luyện vào bộ máy nhà nước. Mỹ tích cực thực hiện diễn
biến hòa bình đối với Đảng Nhân dân Campuchia, tăng cường hoạt động
chống phá nội bộ, lôi kéo các cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước
Campuchia, hạn chế loại trừ ảnh hưởng của các nước khác ở Campuchia.
Ngày nay, các nước đế quốc vẫn tiếp tục chạy đua vũ trang với chi
phí quân sự khổng lồ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng nổ xung đột, nguy cơ
chiến tranh vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhìn vào hệ thống các nước
đế quốc, chúng ta không thể, không thấy là mọi nước đều coi việc xây
dựng, phát triển kinh tế - văn hóa, hợp tác quốc tế là quan trọng hàng đầu,

nhưng bên cạnh đó họ vẫn ráo riết chuẩn bị, tính toán để đối phó với tham
vọng và âm mưu của các nước lớn trên thế giới. Các chính phủ ở các nước
đế quốc thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến chiến lược an ninh, phòng thủ,
tăng cường cải tiến vũ khí, hiện đại hóa lực lượng vũ trang.
Các nước đang đua nhau mua máy bay chiến đấu và ra-đa hiện đại,
hệ thống tên lửa hoàn hảo, máy bay tiếp đầu trên không cũng như các loại
tàu chiến, tàu ngầm, thậm chí cố gắng để trang bị cho quân đội vũ khí hạt
nhân. Đó là một thực tế không thể không suy ngẫm. Bản chất của chủ nghĩa
đế quốc là hiếu chiến, xu hướng này đã lôi cuốn vào vòng xoáy của nó cả
thế giới. Tính ra, từ năm 1985 trở đi, chi phí quân sự của thế giới là 1.500
tỷ đô la một năm, từ năm 1989 là 1.800 tỷ đôla, cứ mỗi phút chi phí cho
quân sự là 2 triệu đô la, hiện nay có hơn 1/2 triệu nhà khoa học thuộc loại
giỏi nhất làm việc trong khu vực công nghiệp quân sự. Trong tổng số


22

vốn đầu tư triển khai khoa học thì gần 60% là cho việc nghiên cứu vũ khí [47,
tr. 23].
Chiến lược an ninh quốc phòng cho thế kỷ XXI, các nước đế quốc
lớn vẫn xác định ngoại giao là tuyến phòng thủ đầu tiên để chống lại các
mối đe dọa an ninh quốc gia và quốc tế. Thông qua ngoại giao để ngăn ngừa
các nguy cơ trước khi các nguy cơ đó trở thành mối nguy cơ đe dọa thực
sự.
Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, bị thất bại trong chính sách cấm
vận đã buộc phải tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và các
nước trong khu vực. Chúng đang thay đổi hình thức, biện pháp chiến lược
chống phá cách mạng của các nước trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, tư tưởng văn hốa, lối sống và cả quân sự. Thực hiện diễn biến hòa bình,
kết hợp với bạo loạn lật đổ, răn đe quân sự và sẵn sàng sử dụng sức mạnh

quân sự khi có thời cơ, chúng chủ trương nhanh chóng thâm nhập sâu về kinh
tế, thực hành chiến lược "chi phối đầu tư" kết hợp với "chiến lược khoét
sâu nội bộ" và "chiến lược ngoại giao thân thiện" bằng các thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt, chiếm lĩnh thị trường, thúc đẩy quá trình "tư nhân hóa", "tư bản
hóa" nền kinh tế, và từ đó khống chế về kinh tế. Mưu đồ của chúng luôn
luôn nhất quán là xóa bỏ, lật đổ chế độ mà các nước kinh tế lạc hậu đang
tiến hành nói chung và chế độ XHCN mà Lào và Việt Nam đang phấn đấu
thực hiện.
1.1.2.2. Tính tất yếu khách quan phải kết hợp giữa kinh tế với
quốc phòng ở các nước có nền kinh tế lạc hậu
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật, đối với
các xã hội có giai cấp nó phản ánh sự hoạt động chủ động của nhà nước
trên cơ sở nhận thức các quy luật kinh tế và quân sự, nhằm gắn bó hai


23

nhiệm vụ phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng thành một thể thống nhất,
thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Kinh tế là tất cả các hoạt động nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã
hội. Hoạt động kinh tế bao gồm hai mặt như lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong đó chính lực lượng sản xuất là kết quả của các năng lực thực
tiễn của con người tác động vào đối tượng sản xuất như: đất đai, thiên
nhiên, để cải thiện thiên nhiên phục vụ các nhu cầu của con người. Nhưng
bản thân năng lực thực tiễn này bị qui định bởi những điều kiện khách
quan, mà nhờ đó con người đang sống và hoạt động như: thời tiết, khí hậu,
đất đai và hoàn cảnh môi trường sinh thái khác. Còn quan hệ sản xuất là
tổng hợp những quan hệ kinh tế - xã hội giữa người với người trong hoạt
động sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tác động qua lại
biện chứng lẫn nhau, mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định,

và đến lượt nó quan hệ sản xuất có tác động trở lại một cách mạnh mẽ với
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển và ngược
lại. Như vậy, hoạt động kinh tế theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ quá trình
tái sản xuất ra của cải vật chất, nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất, văn
hóa, và tinh thần của con người. Các hoạt động kinh tế luôn chịu tác động
của các quy luật kinh tế khách quan và đòi hỏi tính hiệu quả với chi phí ít
nhất. Chính vì vậy, hoạt động kinh tế là cơ bản nhất, là cơ sở của các hoạt
động khác trong đời sống xã hội, là phạm trù vĩnh viễn. Hoạt động kinh tế
có mối quan hệ biện chứng đối với quốc phòng.
Quốc phòng bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại
về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học của Nhà nước và
nhân dân, tạo nên sức mạnh cân đối, toàn diện. Sức mạnh quân sự là đặc
trưng cơ bản nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ


24

quốc, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế, giữ vững
hòa bình, đẩy lùi và ngăn chặn các hoạt động gây chiến tranh của kẻ thù, sẵn
sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi quy mô và hình thức. Quốc
phòng là sự nghiệp của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Hoạt động đặc trưng của quốc phòng là hoạt động quân sự mà quân đội là
lực lượng nòng cốt. Nó là một lĩnh vực đặc thù, chịu sự chi phối của những
quy luật chiến tranh. Trong sự nghiệp xây dựng và củng cố quốc phòng, việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng lực lượng thường trực với
xây dựng lực lượng hậu bị, xây dựng lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong thời bình, xây dựng lực lượng tiềm tàng về mọi mặt của
đất nước, sẵn sàng được động viên trong thời chiến là một đòi hỏi tất yếu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. "Phải kết hợp chặt chẽ yêu cầu

thời bình với yêu cầu thời chiến để sẵn sàng đối phó với chiến tranh xảy ra
bất cứ lúc nào" [12, tr. 537]. Như vậy, quốc phòng là toàn bộ các hoạt động
giữ gìn, bảo vệ đất nước và dân tộc, phòng thủ và ngăn ngừa được những
âm mưu và hoạt động xấu của địch. Do vậy quốc phòng nó là phạm trù lịch
sử.
Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những thủ đoạn bạo lực
của xã hội có giai cấp. Chiến tranh là bạn đồng hành của CNTB, CNĐQ
nên chừng nào còn CNTB, CNĐQ thì còn nguy cơ chiến tranh. Chiến tranh
là hiện tượng chính trị - xã hội có tính lịch sử, nó xuất hiện và gắn liền với
sự xuất hiện giai cấp đối kháng. Chính chế độ tư hữu đã phân chia xã hội
thành giai cấp và biến những cuộc xung đột vũ trang của các bộ lạc trở
thành chiến tranh "chế độ tư hữu đẻ ra bạo lực xã hội và chiến tranh vừa là
sản phẩm vừa là bạn đồng hành thường xuyên của xã hội có chế độ tư hữu
và giai cấp đối kháng" [53, tr. 5]. Các cuộc chiến tranh trong lịch sử đều xuất
hiện và nổ ra sau khi xã hội xuất hiện giai cấp và Nhà nước nhằm đạt đến
mục đích kinh tế và chính trị của các giai cấp và Nhà nước. Trình độ phát


25

triển của nền kinh tế không chỉ thể hiện sự phát triển của xã hội mà còn thể
hiện vai trò quyết định của nó trong chiến tranh. Kinh tế là nhân tố có ảnh
hưởng trực tiếp, quyết định dến thành bại của quân đội, từ điều kiện sinh
hoạt như: ăn, ở, mặc, đời sống văn hóa, tinh thần đến việc duy trì số lượng
quân đội, trang bị vũ khí, biên chế tổ chức của lực lượng vũ trang, tác động
đến chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật quân sự.
Như vậy muốn thỏa mãn được những yêu cầu trên phải thực hiện sự
kết hợp kinh tế với quốc phòng ngay trong quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế. Trong mối quan hệ tương tác giữa kinh tế, quốc phòng và chiến tranh,
quốc phòng trong thời kỳ mới không chỉ là hoạt động tiêu tốn mà còn trực

tiếp tạo ra của cải vật chất cho tiêu dùng xã hội và những điều kiện cần thiết
cho xây dựng, phát triển kinh tế thông qua sự bảo vệ an toàn nền kinh tế, tạo
môi trường hòa bình và ổn định cho nền kinh tế phát triển. Trong điều kiện
hòa bình, việc xây dựng và phát triển kinh tế là trọng tâm, củng cố quốc
phòng, an ninh là vô cùng quan trọng vì: kinh tế và quốc phòng, kinh tế và
an ninh có sự thống nhất nhưng không đồng nhất. Cái này là điều kiện, tiền
đề tồn tại và phát triển của cái kia, trong đó kinh tế là nền tảng vật chất của
quốc phòng, chỉ có trên cơ sở nền kinh tế phát triển bền vững mới tạo ra
được những cơ sở vật chất to lớn cho tiềm lực quốc phòng. Ngược lại, quốc
phòng mạnh là yếu tố bảo đảm hòa bình và ổn định để xây dựng, phát triển
kinh tế. Hai yếu tố này kết hợp với nhau, ăn khớp với nhau và cân bằng lẫn
nhau, cùng nhau phát triển sẽ trở thành sức mạnh của quốc gia.
Như trên đã trình bày, đến nay CNĐQ đã chuyển từ âm mưu xâm
lược bằng sức mạnh vũ trang là chính sang phi vũ trang là chính. Chúng
cho rằng ở các nước kinh tế lạc hậu đang rất cần sự giúp đỡ từ bên ngoài về
vốn, khoa học công nghệ, thiết bị máy móc v.v... Vậy muốn lật đổ chế độ
xã hội của các nước này phải dùng biện pháp kinh tế kết hợp với răn đe
quân sự là hiệu quả nhất. Từ đó muốn tồn tại và phát triển, theo con đường


26

của mình, các nước có nền kinh tế lạc hậu phải biết kết hợp chặt chẽ giữa
xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, làm cho cả hai lĩnh vực này ngày
càng vững mạnh, chống được âm mưu xâm lược từ bên ngoài.
Đối với CHDCND Lào, hiện nay đang đứng trước những thách
thức lớn như tác động của cuộc khủng khoảng tài chính - tiền tệ khu vực,
đồng thời đi cùng với nó là bọn phản động đang tăng cường hoạt động phá hoại
sự nghiệp đổi mới trên mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh
quốc phòng, gây mất trật tự ở chỗ này, chỗ nọ, làm phức tạp quá trình xây

dựng kinh tế - xã hội của đất nước. Vậy, trong chủ trương đường lối phát
triển kinh tế, kết hợp với củng cố quốc phòng mà Đảng đã đưa ra cho từng
giai đoạn lịch sử nhất định là một tất yếu khách quan. Thực tiễn cho thấy,
sự va chạm giữa Lào với Thái Lan xảy ra năm 1984 ở tỉnh Xảy Nhạ Bu Ly,
lúc đầu nó chỉ là sự tranh chấp về kinh tế sau đó dẫn dến cuộc xung đột
quân sự quyết liệt. Đó là một bài học rất lớn, chúng ta cần nghiên cứu vận
dụng trong quá trình thực hiện sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng ở
nước ta. Tuy nhiên, sự kết hợp kinh tế với quốc phòng chỉ có thể thực hiện
một cách có hiệu quả khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển đến một
trình độ nhất định.
Bối cảnh hiện nay đang đặt ra hàng loạt các vấn đề như: Muốn bảo
vệ sự tồn tại, muốn phát triển trong cạnh tranh và muốn chiến thắng CNĐQ
phải thường xuyên quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế gắn liền với củng
cố quốc phòng để mỗi bước phát triển kinh tế đều tạo ra những tiền đề vật
chất nhằm bảo đảm tốt nhất quốc phòng,đáp ứng những nhu cầu thường
xuyên và đột xuất của quốc phòng. Chỉ có như vậy nền quốc phòng mới
được củng cố vững chắc, mới tạo được sức mạnh răn đe, ngăn chặn từ xa
nguy cơ xâm lược và phá hoại của kẻ thù, mới bảo đảm môi trường hòa
bình để phát triển kinh tế, bảo đảm sự ổn định trong sản xuất và đời sống
của nhân dân. Đó là yêu cầu có tính tất yếu khách quan phù hợp với quy


27

luật phát triển tự nhiên và trở thành quy luật của cách mạng XHCN trong
điều kiện còn sự đe dọa xâm lược và thôn tính của CNĐQ. Đó là quy luật xây
dựng và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân ở Lào để từng bước tiến lên CNXH.
Sự thống nhất giữa kinh tế và quốc phòng biểu hiện ở chỗ vừa đẩy
mạnh phát triển kinh tế, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, vừa bảo
đảm kinh tế cho quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng vững chắc với chi

phí ít nhất nhưng hiệu quả nhất. Trong xây dựng kinh tế phải quán triệt và
thực hiện cùng một lúc kết hợp hai yêu cầu kinh tế và quốc phòng, đưa
những yêu cầu quốc phòng vào bên trong các hoạt động kinh tế, trở thành
hướng phát triển tất yếu của kinh tế, làm sao những thành quả đạt được vừa
phục vụ kinh tế, cải thiện đời sống và vừa có lợi cho quốc phòng, sẵn sàng
huy động cho quốc phòng.
Thực tế hiện nay cho thấy, mỗi quốc gia độc lập có chủ quyền
muốn tồn tại và phát triển đều phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng trong mối quan hệ tác động
qua lại giữa chúng với nhau. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi
nước sẽ lựa chọn mô hình kết hợp với những mục đích và biện pháp khác
nhau: "Trong điều kiện xã hội còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp,
còn có mưu đồ thôn tính và gây ảnh hưởng của dân tộc này với dân tộc
khác thì kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật, đó
không chỉ là tất yếu khách quan lịch sử, mà là hình thức phổ biến của các
quốc gia trên thế giới trong thời nay" [3, tr. 9].
1.2. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG VÀ VAI TRÒ
CỦA QUỐC PHÒNG ĐỐI VỚI KINH TẾ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Sau thắng lợi toàn vẹn của nhân dân Lào trong công cuộc kháng
chiến chống Mỹ xâm lược, cách mạng Lào bước sang giai đoạn mới - giai
đoạn xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân từng bước quá độ lên


28

CNXH. Trong giai đoạn này vai trò của kinh tế đối với quốc phòng và vai
trò quốc phòng đối với kinh tế có nội dung mới.
1.2.1. Vai trò của kinh tế đối với việc xây dựng và củng cố quốc
phòng trong thời kỳ đổi mới

Là một thực tế dường như tính đặc thù của hai lĩnh vực hoạt động,
kinh tế và quốc phòng luôn tồn tại, và phát triển nhờ vào quá trình tác động
qua lại lẫn nhau giữa kinh tế với quốc phòng. Cái này là điểu kiện tồn tại và
phát triển của cái kia và ngược lại, nhưng trong đó kinh tế đóng vai trò
quyết định đói với sự phát triển và vững mạnh của quốc phòng. Bởi vì,
kinh tế có vai trò quyết định đến bản chất, nguồn gốc của quốc phòng,
quyết định đến sự thành bại của chiến tranh.
Một đất nước có nền kinh tế phát triển sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
các hoạt động quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong đó bao gồm cả việc ăn, ở,
mặc, đời sống văn hóa, tinh thần của quân đội. Trình độ phát triển của kinh
tế ảnh hưởng rất lớn đến sự lớn mạnh của quốc phòng, như sự duy trì số
lượng quân đội, trang bị vũ khí, biên chế tổ chức lực lượng vũ trang, tác
động đến chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật quân sự. "kinh tế có nhiệm vụ
cung cấp nguồn nhân lực, kỹ thuật và công nghệ cho quốc phòng, quy định
khả năng phòng thủ của đất nước và khả năng động viên kinh tế cho chiến
tranh khi tình huống đòi hỏi" [64, tr. 8]. Như vậy vai trò của kinh tế đối với
quốc phòng, thể hiện ở chỗ toàn bộ hoạt động quốc phòng từ việc tổ chức
và phương pháp chiến đấu của quân đội, thắng lợi hay thất bại đều phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện vật chất, điều kiện kinh tế, vào nhân lực và vũ
khí. Thực tiễn cho thấy, muốn hiện đại hóa quân đội thì cần phải chi đầy đủ
về mặt kinh tế. Ví dụ hiện nay, để hiện đại hóa lực lượng vũ trang Mỹ chi
ngân sách quốc phòng ra 4 tỷ đô la (năm 1999) dành để tăng lương cho
quân đội, và hiện nay Mỹ có 100% quân nhân chuyên nghiệp đã tốt nghiệp
cao đẳng, trong đó 3% có trình độ đại học, 98% sĩ quan có trình độ đại


29

học, trong đó 41% là thạc sĩ, 1,2% tiến sĩ, nghĩa là một sĩ quan Mỹ có từ
2-3 bằng đại học; Hàng năm Mỹ bổ sung thêm từ 6-12 tỉ đôla cho phát triển

trang bị vũ khí công nghệ cao, cải tiến máy bay, tên lửa nhằm đảm bảo cho
hoạt động quốc phòng trong thời kỳ mới [7, tr. 16]. Vậy, có thể nói vai trò
của kinh tế đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh là rất to lớn trong việc
trang bị vũ khí hiện đại cũng như đào tạo nhân lực cho đáp ứng nhu cầu
quốc phòng - an ninh trong từng giai đoạn. Đối với các nước mà nền kinh
tế còn nghèo nàn lạc hậu thì việc hiện đại hóa lực lượng quân đội là điều
không thể làm được. V.I Lê nin viết:
Khó khăn chủ yếu của chúng ta trong cuộc chiến tranh
này không phải là vấn đề về mặt nhân lực, cái đó chúng ta có đầy
đủ, mà là về mặt tiếp tế. Khó khăn chủ yếu trên tất cả các mặt
trận là tiếp tế không đủ, thiếu quần áo ấm và thiếu giầy, áo ca-pốt
và cũng là những thứ mà quân lính của chúng ta thiếu nhiều nhất,
chính vì thiếu những thứ đó mà nhiều lần những cuộc tấn công đã
cầm chắc thắng lợi trong tay nhưng lại bị thất bại [25, tr. 379].
Kinh tế là một nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh của đất nước,
nếu chính trị và tinh thần là một chỗ mạnh cơ bản, nhưng kinh tế lại chậm
phát triển thì đó là một nhược điểm. Vì vậy, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất, từng bước nâng cao
đời sống của nhân dân, xây dựng tiềm lực kinh tế cho quốc phòng là một
vấn đề mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đó là một thức tế chỉ rõ vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế đối với mọi
lĩnh vực của xã hội nói chung, đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh nói
riêng. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng:
Hãy nói về kinh tế nhiều hơn, kinh tế rất cần thiết cho
chúng ta, chúng ta phải thu thập, kiểm tra tỉ mỉ và nghiên cứu
những sự kiện trong việc xây dựng nền kinh tế, các công xưởng


×