Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ THỰC HIỆN QUY CHẾ dân CHỦ TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ VINH NHỮNG vấn đề đặt RA và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.67 KB, 125 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn
là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta
xây dựng.
Từ lâu, Đảng ta luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử
thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước theo định hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội đã
được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt
lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy mà ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị 30
CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp đó, ngày
15/5/1998, để cụ thể hóa Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29
NĐ/CP về ban hành "Quy chế thực hiện dân chủ ở xã" nhằm phát huy sức
sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội,
tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây
dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Qua 3
năm triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; mặc dầu thời gian còn
ngắn, song thực tế đã cho thấy những kết quả bước đầu là rất quan trọng.
Tuy vậy, vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của
nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa
quyền, mệnh lệnh, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn còn
khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi, chưa ngăn chặn được.


2



Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chậm đi vào cuộc
sống.
Do vậy báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nêu rõ: "Thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản
lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi
biểu hiện dân chủ hình thức; xây dựng luật trưng cầu ý dân" [12, 134].
Để không ngừng tăng cường hiệu quả của việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách
quan, khoa học, việc đi sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực
hiện trên phạm vi toàn quốc hay từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn.
Với tầm quan trọng trên, chúng tôi chọn vấn đề: "Thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh - Những vấn đề đặt
ra và giải pháp" làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa cộng sản khoa học, hy vọng có thể góp phần nhỏ bé, thiết thực vào
một vấn đề hết sức bức xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đây là vấn đề mới được triển khai thực hiện ở nước ta, nhưng đã có
một số công trình, bài viết liên quan.
Các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhấn
mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
như: Lê Khả Phiếu (1998), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 3-7.
Đỗ Mười (1998), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở", Tạp chí
Cộng sản (20), tr. 3 - 8.


3


Các bài viết của các tác giả phân tích, lý giải về yêu cầu, cách thức
tổ chức, con đường, biện pháp... để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở,
như "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở" của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí
Cộng sản, 1998, số 13, tr. 19-24; "Một số vấn đề về quy chế thực hiện dân
chủ ở xã" của Vũ Anh Tuấn, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 9, 1998, tr. 5456; "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thiết chế dân chủ ở nước ta" của
Nguyễn Đình Tấn, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1998 tr. 37-39; "Cải
cách thủ tục hành chính ở cấp xã nhằm đảm bảo dân chủ ở cơ sở" của Bùi
Đức Kháng, Tạp chí Thanh tra, số 3, 1998, tr. 32-33.
Các bài viết của các tác giả nhằm sơ kết, đánh giá bước đầu như:
"Thực hiện dân chủ ở xã - Mấy vấn đề đặt ra" của Trần Quang Nhiếp Tạp
chí Cộng sản, số 10, 1999, tr. 40-44; "Nhìn lại việc thực hiện thí điểm quy
chế dân chủ ở cơ sở" của Đỗ Quang Tuấn (2000), Tạp chí Dân vận, số
(1+2), tr. 10-11, 13; "Một số vấn đề đặt ra sau hai năm thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở" của Nguyễn Tiến Dũng, Tạp chí Công tác tư tưởng văn
hóa, số 6, 2000, tr. 15-18; "Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vấn
đề đặt ra và một số giải pháp" của Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn Lan,
Thông tin Lý luận, số 9, 2000, tr. 26-30; "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn nông thôn - kết quả bước đầu và những vấn đề cần giải quyết"
của Nguyễn Quốc Phẩm, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10, 2000, tr. 32-37.
Một số bài viết góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc thực hiện và
đánh giá quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Như: "Củng cố các
hình thức dân chủ vì sự vững mạnh của Nhà nước ta" của Đào Trí Úc, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 1, 1998, tr. 3-4; "Dân chủ- một vấn đề thuộc
bản chất của Nhà nước ta" của Đặng Xuân Kỳ, Tạp chí Quản lý nhà nước,
số 7, 1998, tr. 6-9; "Cơ sở lý luận - Thực tiễn của phương châm dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" và "Mấy vấn đề xây dựng quy chế dân chủ ở
cơ sở" của Đỗ Quang Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 8, 1998, tr. 8-12; "Những



4

chỉ dẫn của Lênin về đấu tranh chống quan liệu và thực hành dân chủ" của
Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Thông tin Lý luận, số 4, 1999), tr. 27-30...
Các công trình đã được đăng thành sách, phân tích một cách sâu
sắc, phong phú cả nội dung lý luận và thực tiễn qua khảo sát ở các vùng,
các địa phương như: "Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn" do Dương Xuân Ngọc chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000; "Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống
xã hội ở nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta" do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000; "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" do Nguyễn Văn Sáu,
Hồ Văn Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001...
Liên quan đến vấn đề này còn có luận văn thạc sĩ Triết học (chuyên
ngành CNCSKH) của các tác giả Nguyễn Minh Thi (Bảo vệ tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000), "Thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở tại các vùng nông thôn miền núi của tỉnh Bắc Giang hiện nay", luận
văn tốt nghiệp cử nhân Đại học chính trị của tác giả Nguyễn Đăng Tiến
(Bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000): "Thực
hiện dân chủ ở xã, phương, thị trấn nước ta hiện nay - thực trạng và giải
pháp".
Riêng ở Thành phố Vinh có các văn bản, chỉ thị của Thành ủy, Ủy
ban nhân dân thành phố Vinh về triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở; các báo cáo đánh giá của Ban chỉ đạo thành ủy, của Ban chỉ đạo một số
phường, xã...
Như vậy, thời gian qua đã có một số sách, báo, bài viết của các tác
giả đề cập đến vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, về
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh, cho
đến nay chưa có công trình khoa học nào đề cập tới. Những tài liệu vừa nêu



5

trên sẽ giúp ích cho việc tham khảo, đối chứng trong nghiên cứu đề tài của
tác giả luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Từ việc đánh giá quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn Thành phố Vinh, chỉ ra những vấn đề cần giải quyết để từ đó đề ra
một số giải pháp nhằm thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong sự
nghiệp đổi mới trên địa bàn đã nêu.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích, làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở là mục tiêu, động lực của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, đẩy
nhanh quá trình xây dựng thành phố giàu, mạnh.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Vinh.
+ Vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế quá trình thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh.
+ Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu
Với điều kiện cho phép, đề tài chỉ nghiên cứu việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở xã, phường thuộc Thành phố Vinh trong 3 năm qua.



6

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và
Nhà nước có liên quan đến đề tài, nhất là Chỉ thị 30CT/TW của Bộ Chính
trị và Nghị định 29 của Chính phủ. Đồng thời, người viết cũng kế thừa có
chọn lọc các công trình và các bài viết của các tác giả khác đã được công
bố.
Cơ sở thực tiễn:
Người viết đã tiến hành điều tra, nghiên cứu thực tiễn một số
phường, xã thuộc Thành phố Vinh trong quá trình thực hiện quy chế dân
chủ 3 năm qua đối chiếu so sánh với thực tiễn vấn đề chung trong phạm vi
cả nước.
Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp lôgích và lịch sử, so sánh và
tổng hợp, đồng thời có sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để tiến
hành thực hiện luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích quá trình thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Vinh, luận văn khái quát một
số kết quả bước đầu, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của nó; đồng
thời đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thực
hiện quy chế dân chủ phù hợp với điều kiện của địa bàn, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
giảng dạy chuyên đề, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan



7

chức năng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn một thành phố của miền Trung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


8

Chương 1
Ý NGHĨA CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI THÀNH PHỐ VINH HIỆN NAY

1.1. NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHỦ YẾU CỦA
VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

1.1.1. Dân chủ - một vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN
1.1.1.1. Một số quan điểm cơ bản về dân chủ
Xung quanh quan niệm về dân chủ, cho đến nay đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu, luận bàn. Ở đây chúng tôi chỉ kế thừa và nêu lên
một số quan điểm có tính chất khái quát.
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính
trị có nguồn gốc từ xã hội Hy Lạp cổ đại. Ở đây, "dân chủ" là một từ ghép
bao gồm hai chữ: Dêmos, có nghĩa là người bình dân, là dân chúng (không
phải là quý tộc, cũng không phải là nô lệ), và Kratia - có nguồn gốc từ chữ
Kratos - có nghĩa là quyền lực cai trị, sức mạnh. Do vậy, từ nguyên Dêmos
Kratia có nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự thống trị, nền cai trị của người
bình dân. Nó được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài. Theo đó,

dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự cai trị của nhân
dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền
lực chính trị là quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự
nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Từ khi xuất hiện cho đến nay nội dung của khái niệm dân chủ được
chuyển hóa ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. "Dân chủ" có nghĩa chung là
quyền lực của người bình dân, quyền làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân
con người, là quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội. Càng ngày, khái
niệm dân chủ càng được mở rộng nhiều hơn, mang nhiều nội dung mới mẻ


9

hơn, nó được gắn với ý thức chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân,
gắn với tiến trình lịch sử của xã hội loài người. Đồng thời nó còn là giá trị
xã hội nhân văn, đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, ở buổi bình minh của lịch sử nhân loại,
trước sức mạnh huyền bí của thiên nhiên hoang sơ, để tồn tại và phát triển,
con người buộc phải gắn bó với nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh
cộng đồng. Và con người, ngay từ buổi đầu ấy đã sử dụng sức mạnh cộng
đồng để thực hiện quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Nhà nhân chủng học người Mỹ đầu thế kỷ XIX L.Moóc gan đã nhận xét:
"Toàn thể các thành viên của Thị tộc đều là những người tự do, có nghĩa vụ
bảo vệ tự do của nhau; họ đều có những quyền cá nhân ngang nhau - Cả tù
trưởng lẫn Thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những quyền ưu tiên nào cả,
họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng
máu. Tự do, bình đẳng, bác ái tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức,
nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của Thị tộc" [28, 136].
Do kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân công
lao động, xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu tư nhân đối

với tư liệu sản xuất ra đời; cùng với nó là sự xuất hiện giai cấp và một bộ
máy quyền lực đặc biệt thuộc về một số người ra đời - đó là nhà nước.
Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước đã thừa nhận tham vọng đặc
quyền đứng trên xã hội để giải quyết những vấn đề xã hội. Giai cấp chủ nô
nhân danh xã hội, chiếm đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thực
hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước chủ nô chính là hình thức,
hình thái đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp. Dân chủ chủ
nô đã đem lại cho loài người một mô hình về mặt tổ chức và cơ chế vận
hành của một thể chế dân chủ.
Theo quy luật phát triển của xã hội loài người, chế độ dân chủ sau
phải cao hơn chế độ dân chủ trước; kiểu nhà nước sau phải tiến bộ hơn kiểu


10

nhà nước trước. Song, trái lại, kiểu nhà nước phong kiến lại độc đoán
chuyên quyền, kết hợp với thế lực của thần quyền hà hiếp nhân dân nên
nhân dân hầu như bị gạt khỏi cơ chế của quyền lực, bị mất hết quyền lực.
C.Mác đã viết: nguyên tắc duy nhất của chế độ chuyên chế là con người bị
mất hết nhân tính.
Thiết lập nền dân chủ tư sản, dưới ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản
đang lên đã nhanh chóng nắm lấy để lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến
và tuyên bố về các quyền tự do, bình đẳng, bác ái, về quyền tự do cá nhân
của con người, về các quyền tự quyết của các dân tộc. Song thực tế trong
xã hội tử bản, "chủ nghĩa tự do" cho toàn xã hội đã bị thay thế bằng chủ
nghĩa mất tự do cho giai cấp bị trị. Do vậy, sự tha hóa quyền lực của nhân
dân là tất yếu phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đúng như nhận xét
của C.Mác: Chế độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư bản biến thành "tự do"
của nhân dân lựa chọn những người thống trị mình. Tuyệt nhiên không
phải là sự lựa chọn những người đại diện cho lợi ích của bản thân mình.

Lênin trong tác phẩm "Nhà nước và Cách mạng" đã nói: "Chế độ đại nghị
Tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho nhân dân) với chế
độ quan liêu (chống nhân dân)" [37, 135]. Như vậy, theo Lênin, hình thái
chính trị của nhà nước tư sản chính là chế độ dân chủ tư sản đầy giả dối và
cạm bẫy. Dù là hình thức "thiếu thành thực" và "gian dối", nhưng so với
lịch sử nhân loại, dân chủ tư sản cũng đã đạt được bước tiến dài trên con
đường giải phóng cá nhân. Nhưng nó vẫn là nền dân chủ được xây dựng
trên sự tước đoạt dân chủ, tước đoạt quyền tự do chính đáng của các giai
cấp, các tầng lớp khác, nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của giai cấp tư sản. Dân
chủ tư sản vì thế, không thể là mục đích cuối cùng mà loài người hướng
tới.
Chỉ có chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ được thiết lập trên cơ
sở của chế độ kinh tế, mà ở đó các tư liệu sản xuất chủ yếu đã thuộc về toàn


11

xã hội, lực lượng sản xuất không hề tăng lên, sự đối kháng giai cấp đã bị thủ
tiêu thì quyền làm chủ của quần chúng nhân dân mới được thực hiện đầy đủ.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể khái quát những nét cơ bản về
dân chủ như sau:
- Dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, gắn với giai cấp và
đấu tranh giai cấp.
- Dân chủ là một hình thái nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền
ngang nhau của dân cư trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý xã hội.
- Dân chủ cũng được xem xét với tư cách là phương thức của phong
trào chính trị - xã hội của quần chúng, quyền hiện thực của nhân dân.
- Dân chủ với tư cách là hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm
của công dân được quy định bởi hiến pháp và pháp luật, là hình thức nhà
nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã hội.

- Dân chủ với tư cách là chế độ chính trị... Song với nghĩa chung
nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, thước
đo trình độ dân chủ của một chế độ nhà nước được xác định bằng mức độ
thực hiện nguyên tắc toàn quyền thuộc về nhân dân, nhân dân tham gia quá
trình quản lý nhà nước như thế nào.
Dân chủ trong xã hội có đối kháng giai cấp luôn luôn chứa đựng sự
mâu thuẫn giữa bản chất giai cấp của giai cấp thống trị với tính nhân dân.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, yếu tố mang tính nhân dân tăng lên so với
các xã hội trước, khiến cho mâu thuẫn giữa bản chất giai cấp của giai cấp
tư sản cầm quyền với tính nhân dân (tính vô sản) của dân chủ càng trở nên
gay gắt. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới cách mạng xã
hội nhằm giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập một chế độ dân chủ
mới, dân chủ XHCN - một chế độ dân chủ khác về chất so với chế độ dân
chủ tư sản. Đó là "Chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt


12

tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng,
tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng
một chế độ dân chủ cho nhân dân" [37, 135].
Là một hình thức của Nhà nước đặc thù, nhà nước nửa nhà nước,
chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó, những giá trị dân chủ,
quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành hệ thống
chính trị (trong đó nhà nước là trụ cột) thành nguyên tắc, mục tiêu của sự
phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi
hoạt động của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội; mọi công dân và tổ chức
xã hội đều có khả năng nhận thức và vận dụng các giá trị dân chủ, và biến
thành những quy tắc phổ biến trong hoạt động và các quan hệ xã hội. Dân
chủ XHCN phục vụ lợi ích của người lao động và nó dựa vào chế độ sở

hữu xã hội; dân chủ XHCN phát triển ngày càng sâu sắc cùng với việc thiết
lập một nền kinh tế mới, hoàn thiện mọi mặt đời sống xã hội và cá nhân.
Chế độ dân chủ XHCN là sự thay thế lịch sử đối với chế độ dân chủ
tư sản, là nấc thang mới trên chặng đường phát triển của dân chủ. Chế độ
dân chủ XHCN, theo C.Mác "là sự tự quy định của nhân dân", chủ quyền
thuộc về nhân dân. Lênin cũng viết: "Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều
chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế
độ dân chủ cho nhân dân... dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân" [37, 107].
Lênin cũng cho rằng, dân chủ XHCN là nền dân chủ gấp triệu lần
dân chủ tư sản, là dân chủ cho nhân dân lao động; dân chủ thực sự, theo
nghĩa thống nhất giữa các quyền và nghĩa vụ công dân được ghi trong hiến
pháp, pháp luật với sự thực hiện trong thực tế. Nhà nước có trách nhiệm tạo
ra những điều kiện vật chất và tinh thần để công dân có thể thực hiện được
dân chủ như luật định. Dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Thực chất của dân chủ XHCN


13

là sự tham gia một cách tích cực, thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi
của những người lao động vào quản lý công việc của Nhà nước và xã hội.
Là thành quả của quá trình hoạt động tự giác của quần chúng nhân
dân, dân chủ XHCN với tư cách là quyền lực của nhân dân; đồng thời với
tư cách là chế độ chính trị sẽ từng bước hoàn thiện và phát huy vai trò,
động lực to lớn trong tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng mác xít Lêninnít. Tất nhiên trình độ chín muồi của dân chủ XHCN
tùy thuộc vào trình độ trưởng thành về "tính" XHCN của các mối quan hệ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó quan hệ kinh tế có vai trò quan
trọng nhất, quyết định nhất.
Dân chủ XHCN là một hình thái dân chủ do nhân dân lao động chủ

động thiết lập trong tiến trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, thông qua đội tiền phong chính trị của mình là Đảng cộng
sản. Trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự mình
giành lấy chính quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc" [26,
623-624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền
lực nhà nước (quyền lực dân chủ về chính trị) và tổ chức quyền lực đã
giành được đó thành nhà nước vô sản, nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân
chủ vô sản, một chế độ dân chủ tiến bộ, khác về chất so với chế độ dân chủ
tư sản.
Từ sau thắng loại của Cách mạng tháng Mười, Nhà nước Xô viết chế độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới đã được thiết lập. Theo Lênin,
"Chế độ Xô viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông
dân; đồng thời, nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và
sự xuất hiện trong lịch sử thế giới, một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế
độ dân chủ vô sản hay là chuyên chính vô sản" [38, 184].


14

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: "Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân làm chủ" [32, 251].
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á
được thiết lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, chế độ ta là chế độ do nhân dân làm
chủ. Mỗi công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân mình. Những luận điểm cơ bản ấy đã
được nêu rõ trong các nghị quyết của Đảng, trong các hiến pháp của Nhà
nước, và được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, nhiều chính sách
được ban hành từ trước đến nay. Những điều đó cũng khẳng định dân chủ

là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN nói chung, của Nhà nước ta nói
riêng.
1.1.1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam với việc nhận thức về dân chủ
và dân chủ ở cơ sở
Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống "lấy dân làm
gốc", coi trọng dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước, được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đã có nhận
thức rất sớm và sâu sắc về vấn đề dân chủ và vai trò của việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, dân chủ, thứ nhất là: dân là chủ:
"Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [30, 515];
thứ hai, dân chủ là dân làm chủ: "nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước
nhà do nhân dân làm chủ" [31, 452]; dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích
đều thuộc về nhân dân: "Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều
vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng
nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc,


15

v.v... Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực
quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ" [30, 66].
Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thức sâu sắc về sức mạnh của quần
chúng nhân dân; coi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người nói:
"Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên" [29, 293].
Bởi vậy, theo Người, dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi
đúng đường lối quần chúng. Dân chủ đối lập với quan liêu: "Chống tham ô,
lãng phí, quan liêu là dân chủ".
Không những chỉ có quan điểm dân chủ đúng đắn, mà Người còn

nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ. Dân chủ
XHCN không có mục đích tự thân; hiểu dân chủ, thực hành dân chủ trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là vì mục tiêu đem lại hạnh
phúc ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người dân lao động trong đời sống
một cách đích thực. Bởi vậy, Người nói: "Thực hành dân chủ là cái chìa
khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn" [33, 249].
Trước lúc "đi xa", trong bản Di chúc, với muôn vàn tình thương yêu
để lại cho muôn đời con cháu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Toàn
Đảng, toàn dân ta, đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới". Như vậy, dân chủ luôn là nội dung quan trọng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở tư tưởng, lý luận giúp
Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở
nước ta.
Hơn 70 năm lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta bao giờ cũng coi dân chủ là một nội dung
quan trọng trong đường lối cách mạng của mình. Mở rộng dân chủ XHCN,


16

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để
nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược, lại
vừa là bản chất, là đặc trưng của chế độ mới. Những yếu tố dân chủ, tinh
thần dân chủ, "lấy dân làm gốc", "coi dân là trọng" vốn đã hình thành trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta từ mấy ngàn năm trước
cũng đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực
hiện Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai mục tiêu dân tộc và dân chủ
gắn bó chặt chẽ với nhau từ buổi khởi đầu sự nghiệp cách mạng do Đảng

lãnh đạo. Nội dung dân chủ trong giai đoạn cách mạng trước chủ yếu là
đem lại ruộng đất cho dân cày - Thành phần đông đảo nhất trong dân cư.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng ta lãnh đạo đất nước
chuyển sang giai đoạn cách mạng mới - cách mạng XHCN. Làm cách
mạng XHCN chính là giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở trình độ hoàn thiện và toàn diện hơn, xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng, đem lại ấm no, hạnh phúc, và những
giá trị cao cả, tiến bộ cho con người.
Từ Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta đã xác định việc xây dựng chế
độ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN, và cũng là một trong bốn đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước
ta. Quan điểm đó được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa từng bước trong
nghị quyết Đại hội V của Đảng.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội mở đầu của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta. Quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh
của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất; đổi mới
nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên
tắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn
minh nhân loại, bảo đảm quá trình đổi mới diễn ra đúng nguyên tắc tập


17

trung dân chủ... Bởi vậy, trên thực tế, quyền làm chủ của nhân dân đã từng
bước được khơi dậy và phát huy.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với việc thông qua
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nhấn
mạnh: "Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao
động làm chủ", và "Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước

ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" [7, 19], "Thực hiện dân
chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị.
Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới" [6, 90].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), tiếp tục
khẳng định "Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực
hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các
chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế
làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các
hình thức tự quản tại cơ sở" [8, 43]. Việc ban hành Chỉ thị 30 CT/TW của
Bộ Chính trị và Nghị định 29 NĐ/CP (năm 1998) là sự cụ thể hóa quan
điểm đó của Đảng và Nhà nước ta
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXcủa Đảng (4/2001), được xem
là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này, nội
dung dân chủ lại càng được coi trọng. Dân chủ đã được đặt trong những
mục tiêu của con đường đi lên CNXH ở nước ta, đó là: "độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh" [12, 22].
Như vậy, nội dung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân luôn là nội dung quan trọng và nhất quán trong toàn bộ đường lối cách
mạng của Đảng ta từ trước tới nay, và được phát triển, nâng cao thêm qua


18

các giai đoạn cách mạng. Dân chủ gắn liền với "dân sinh", "dân trí"; dân
chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng nói chung, của công
cuộc đổi mới nói riêng.
Qua hơn 15 năm đổi mới, thực hiện các Nghị quyết của Đảng,

quyền làm chủ của nhân dân đã được phát huy thêm một bước; nhờ vậy mà
tiềm năng to lớn về vật chất, tinh thần và trí tuệ của nhân dân được khơi
dậy. Dân chủ đã đem lại cho nhân dân không phải những giá trị dân chủ
trừu tượng, mà bằng những kết quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực quan trọng
của đời sống xã hội. Dân chủ đã trở thành nhu cầu khách quan đi liền với
yêu cầu của nền kinh tế thị trường, là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; dân chủ cũng là vấn đề nhạy cảm, hết sức phức
tạp. Trong những năm qua, mặc dầu đã có những thành tựu nhất định.
Song, "quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều
lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân vẫn diễn ra
phổ biến và nghiêm trọng. Đây là nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền. Quan
liêu và tham nhũng làm xói mòn bản chất cách mạng của Đảng, của Nhà
nước, đục ruỗng bộ máy tổ chức, làm suy thoái đội ngũ đảng viên, cán bộ,
công chức về đạo đức và chính trị, phá hoại mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân" [35, 4]. Phương châm "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa thành pháp luật, thành cơ chế,
chế độ nên chậm đi vào cuộc sống.
Vì vậy, chỉ có mở rộng dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh quyền
làm chủ của nhân dân, chống tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng,
củng cố Đảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hóa các quan
hệ xã hội... mới có thể tạo động lực to lớn xây dựng và phát triển đất nước.
Nhận thức được những vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta đã không
ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, của các tổ chức chính trị xã
hội. Việc thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân


19

được tiến hành dưới nhiều cấp độ, nhiều hình thức. Trong đó, thực hiện dân
chủ ở cơ sở nói chung, ở phường, xã nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng;

có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa lâu dài.
1.1.2. Thực hiện dân chủ ở xã, phường - nội dung quan trọng
của dân chủ XHCN ở nước ta
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của xã, phường
Xã, phường là đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước, là cấp trực
tiếp nhất, gần dân nhất.
Ngày nay, hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: "Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Tỉnh
chia thành huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Thành phố trực thuộc
Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã, thị
trấn. Thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã. Quận chia
thành phường" [20, 184].
Trong bốn cấp chính quyền của bộ máy nhà nước, chính quyền
phường, xã là cấp cơ sở; là nền tảng của xã hội, là nơi đông đảo nhân dân
sinh sống; là nơi nhân dân thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi
nhằm giải quyết các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư, bảo đảm
đoàn kết, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường; là nơi nhân
dân sản xuất, kinh doanh, lao động, học tập; xã, phường cũng là nơi nảy
sinh nhiều yêu cầu bức xúc hàng ngày của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội; cũng là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; Do vậy, cũng là nơi nhân dân đang có nhiều đòi hỏi về quyền
làm chủ; nơi diễn ra sự tiếp xúc và thể hiện các mối liên hệ đan chéo nhau
như: Đảng với dân, dân với dân, các tổ chức, các đơn vị kinh tế, xã hội với
dân... Các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, cũng như các
vấn đề dân sinh, dân chủ, dân an đều thể hiện rõ nhất ở xã, phường. Hồ Chí
Minh khẳng định: "Nền tảng của mọi công tác là cấp xã" và "Cấp xã là gần


20


gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
công việc đều xong xuôi" [29, tr. 317].
Vai trò của xã, phường là rất quan trọng. Do vậy yêu cầu là phải
thấy được điểm giống và khác nhau của hai loại hình xã và phường, có như
vậy, việc chỉ đạo, Tổ chức thực hiện mới có hiệu quả.
Điểm giống nhau cơ bản là: Xã, phường đều là đơn vị hành chính
cấp cơ sở, là nền tảng xã hội. Cơ cấu tổ chức, thiết chế xã hội của hệ thống
chính trị xã, phường đều giống nhau. Vị trí, vai trò xã, phường đều quan
trọng đối với sự hưng vọng của quốc gia dân tộc...
Điểm khác nhau cũng rất nhiều, song chủ yếu trên các lĩnh vực sau:
Về dân cư: Dân cư trên địa bàn xã chủ yếu là nông dân, họ sống gắn
bó với nhau qua nhiều đời, nhiều thế hệ. Quan hệ chủ yếu là dòng họ, huyết
thống, tình làng nghĩa xóm... Do vậy, dân cư ở đây thuần hơn. Còn cư dân
trên địa bàn phường chủ yếu được tạo lập do quan hệ công tác, do nhu cầu
vể nhà ở, nơi cư trú. Ngoài cư dân sống ổn định, thì một số lượng lớn tạm
trú, hoặc sống tạm bợ không đăng ký. Hơn nữa, ở phường, do cơ cấu nghề
nghiệp đa dạng nên cơ cấu dân cư cũng đa dạng và phức tạp hơn. Nếu như
ở địa bàn xã, nông dân là chủ yếu; thì ở phường vừa có công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức, có cả bộ phận tư sản, tiểu tư sản; có cả sinh viên, bộ
đội, có cả các nhà quản lý, lãnh đạo của nhiều cấp, nhiều ngành.
Về tâm lý: Địa bàn xã chủ yếu là nông dân nên tâm lý tiểu nông nhỏ
mọn, dễ dao động, ngả nghiêng. Họ nhìn nhận lợi ích một cách sát thực, cụ
thể, đặc biệt là lợi ích kinh tế trước mắt. Hơn nữa, ở địa bàn xã, tâm lý bảo
thủ, cục bộ, nể nang, xuôi chiều là phổ biến. Còn ở địa bàn phường, do cư
dân phức tạp, nên diễn biến tâm lý cũng phức tạp hơn. Con người thường
phải "gượng gạo" chấp nhận nhau theo kiểu "bán anh em xa, mua láng
giềng gần".


21


Về đội ngũ cán bộ: Trên địa bàn xã, cán bộ còn nhiều bất cập.
Những người có trình độ cao đẳng, đại học chưa nhiều, tính bảo thủ, trì trệ
còn nặng. Yếu tố dòng họ, làng xóm chi phối lớn. Thậm chí có lúc vai trò
"già làng", "trưởng tộc" lấn át chính quyền. Ngược lại, ở phường đội ngũ
cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị cao
hơn; sự giao lưu của họ cũng rộng hơn. Nhưng vai trò của họ có sự khác
hơn so với ở xã. Nếu như ở xã, đội ngũ cán bộ chịu trách nhiệm quản lý
điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội - như là Nhà nước thu nhỏ,
thì ở phường cũng vậy, song vai trò quản lý hành chính, quản lý cư dân nổi
bật hơn. Còn vai trò trong quản lý, điều hành chuyên môn, nghiệp vụ, về
lao động sản xuất lại chủ yếu phụ thuộc vào các cơ quan, doanh nghiệp.
Việc nhìn nhận được những điểm khác nhau cơ bản giữa xã và
phường sẽ tạo điều kiện thực hiện QCDC cơ sở một cách sát thực, hiệu quả
hơn; vị trí của xã, phường đối với phát huy quyền làm chủ của nhân dân
càng cao hơn.
Thực hiện dân chủ ở xã, phường cũng sẽ góp phần thúc đẩy cải
cách hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính
sao cho sát thực, phù hợp với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Thực hiện
dân chủ ở xã, phường cũng là biện pháp phát huy và mở rộng dân chủ, đưa
nội dung "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" vào cuộc sống có hiệu
quả cao hơn.
Nắm bắt được yêu cầu của thực tiễn; trải qua quá trình nghiên cứu,
tìm tòi, thử nghiệm. Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị ra chỉ thị số 30-CT/TW
về "Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở". Trên cơ sở đó ngày 11/5/1998
Chính phủ ra nghị định số 29/1998 NĐ/CP "Về việc thực hiện QCDC ở
xã", cùng với Chỉ thị số 22/1998 CT-TTg ngày 15/5/1998 "Về triển khai
quy chế thực hiện dân chủ ở xã", Chỉ thị số 24 CT-TTg ngày 19/6/1998
"Về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng bản, thôn ấp,



22

cụm dân cư" của Thủ tướng Chính phủ. Đây là những văn bản quan trọng
do Đảng, Nhà nước ban hành. Tinh thần, cơ bản của chỉ thị và nghị định
này là làm sao dân chủ XHCN được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy. Đó cũng chính là mục tiêu, động lực bảo đảm cho sự thắng
lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
1.1.2.2. Dân chủ ở xã, phường - nội dung quan trọng của quá
trình dân chủ hóa
Dân chủ XHCN là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công
nhân, nền dân chủ rộng rãi nhất cho đại đa số nhân dân lao động; là nền
dân chủ phát huy tính tự giác, sáng tạo của mỗi cá nhân. Nền dân chủ này
dựa trên chế độ sở hữu mới -Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu,
nên nó được đảm bảo một cách vững chắc.
Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề thuộc bản chất
của chế độ XHCN; là chủ trương của Đảng, Nhà nước ta; là mục tiêu và
động lực của công cuộc đổi mới. Trong bốn bản hiến pháp của nước ta,
trước sau vẫn khẳng định quyền lực Nhà nước là thuộc về nhân dân. Nhân
dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước. Điều này không
chỉ làm sáng tỏ về mặt lý luận, mà còn thể hiện ở cách tổ chức và hoạt động
của Nhà nước trên thực tiễn sao cho mục đích về một Nhà nước của dân, do
dân, vì dân trở nên hiện thực và hiệu quả.
Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Khâu quan trọng và cấp
bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở". Thực
hiện dân chủ phường, xã là thực hiện những nội dung về dân chủ một cách
trực tiếp và rộng rãi, đến với từng người dân nhằm phát huy cao độ quyền
làm chủ của nhân dân trong đời sống chính trị, kinh tế, quản lý xã hội, giữ
gìn an ninh, trật tự công cộng.
Dân chủ ở phường, xã diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội một cách trực tiếp và sinh động, liên tục đối với mọi người, nó được


23

thực hiện thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và liên
quan đến trình độ nhận thức, đến khả năng của mỗi người. Nhưng dù thế
nào thì dân chủ ở phường, xã cũng phải dựa trên cơ sở của hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước, và theo đúng đường lối của Đảng - mà trực tiếp là Chỉ
thị số 30 - CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 29 - NĐ/CP của Chính
phủ kèm theo quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Quy chế gồm: Lời nói đầu, 7
chương và 25 điều. Về nội dung, quy chế quy định những quyền của nhân
dân ở cơ sở được biết, và hình thức biết những thông tin liên quan đến pháp
luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước; đặc biệt là những thông tin liên
quan trực tiếp đến đời sống dân sinh. Quy chế cũng quy định những việc để
nhân dân làm và quyết định, cũng như những hình thức thực hiện; quy định
những việc nhân dân ở cấp xã có quyền giám sát, kiểm tra và những
phương thức để thực hiện giám sát, kiểm tra. Việc xây dựng cộng đồng dân
cư thôn, làng, bản, ấp và những hình thức tổ chức. Đặc biệt, để thực hiện
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", quy chế quy định
cơ chế thực hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện;
trong đó, ở cấp cơ sở, dân chủ trực tiếp là quan trọng hơn cả. Quy trình
"biết, bàn, làm, kiểm tra" là quy trình phản ánh quá trình từ nhận thức đến
hành động; qua kiểm tra, đánh giá lại kết quả hành động, rồi tiếp tục nhận
thức và hành động với kết quả cao hơn. Đó cũng là sự thể hiện của quy
trình lãnh đạo, quản lý của chế độ do nhân dân làm chủ, từ khâu thu thập
thông tin, hình thành chủ trương, chính sách đến kiểm tra, rồi tiếp tục thu
thập thông tin mới cho một chu trình quản lý mới.
Khác với DCTS, tính ưu việt của nền dân chủ XHCN thể hiện cao ở
cả bốn nội dung của phương châm đều lấy "dân" làm "gốc", dân làm chủ

thể. Khái niệm "dân" ở đây, cần được nhận thức trong mối quan hệ được
quy định bởi cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ:
Mặt khác, "nhân dân làm chủ" là mục tiêu của sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu phát huy quyền làm chủ, sáng tạo


24

của nhân dân một cách rộng rãi. Cơ chế đó cũng có nghĩa là: Đảng lãnh đạo
nhưng dân phải được biết, được bàn, được tham gia ý kiến và thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng; phải cùng tham gia kiểm tra cán bộ, đảng
viên. Đây là đối tượng quản lý của cơ quan Nhà nước nhưng dân phải được
biết, được bàn, được tham gia quản lý và phải cùng tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động của cơ quan và cán bộ Nhà nước.
"Biết", "bàn", "làm", "kiểm tra" ở đây đặt trong mối quan hệ với
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Biết trong ý nghĩa này, không phải là vấn đề nhận thức một cách
chung chung; không phải là toàn bộ vấn đề dân trí. "Biết" ở đây là quyền
được thông tin một cách đầy đủ và trung thực. Qua sự nhận biết từ thông
tin, dân biết được quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó mới hiểu, mới có cơ
sở để bàn, để làm và để kiểm tra. Dovậy, trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước và hệ thống chính trị cơ sở là phải thông báo thường xuyên, đầy đủ
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những vấn đề
kinh tế, xã hội của địa phương một cách sâu rộng trong nhân dân. Quy chế
quy định những điều dân được biết là một bước cụ thể hóa quyền được
thông tin của công dân quy định tại Diều 59, Hiến pháp 1992.
"Dân bàn" - là một khái niệm để chỉ quyền tham gia ý kiến của
nhân dân - bàn để đi đến những quyết định trực tiếp; bàn để thực hiện; bàn
để tham gia ý kiến, để từ đó, cơ quan đại diện quyết định.
"Dân làm" dân không chỉ là đối tượng được biết, được bàn; mà dân

còn là chủ thể trực tiếp của quá trình thực hiện - Khi được biết, được bàn,
được tham gia ý kiến, thì việc thực hiện sẽ thuận lợi. Tư tưởng là cái gốc
của hành động; tư tưởng thông, hành động cách mạng của nhân dân sẽ
được đẩy lên mức cao; dân hồ hởi, phấn khởi thì đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ trở thành phong trào thi đua sâu rộng
và có hiệu quả trong nhân dân.


25

"Dân kiểm tra" - Đây là vấn đề thuộc bản chất của nền dân chủ
XHCN, nhân dân có quyền kiểm tra, thanh tra hoạt động của các tổ chức,
cơ quan Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật; từ công tác kiểm tra để có
kiến nghị chấn chỉnh, bổ sung... với mục đích là làm cho hoạt động của các
cơ quan này lành mạnh hơn, dân chủ và hiệu quả hơn. Nội dung "dân kiểm
tra" là nội dung khó nhất trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
hiện nay.
Cả bốn khâu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là một quy
trình "kín", có mối liên hệ chặt chẽ, rồi tác động, thúc đẩy lẫn nhau nhằm
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Phương châm dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra được thực hiện dưới hai hình thức: Dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Để phát huy chế độ dân chủ đại diện, phải nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của quốc hội, chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, đồng thời và thực hiện từng bước
vững chắc chế độ dân chủ trực tiếp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba (khóa VIII) đã nhấn mạnh:
"Điều quan trọng hàng đầu là nâng chất lượng dân chủ trực tiếp một cách
thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả" [9, 43].
Tại Hội nghị này, Đảng ta đã nhấn mạnh tính bức thiết của chế độ
dân chủ trực tiếp ở cơ sở là: Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân

chủ trực tiếp, trước hết ở cơ sở", đây là những việc làm cấp bách để mở
rộng nền dân chủ XHCN ở mọi ngành, mọi cấp trong giai đoạn hiện nay.
Bởivì: Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể
quyền lực về những vấn đề cơ bản, chính yếu của một tập thể, một cộng
đồng. Cơ quan quản lý có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa nó
vào thực thi trong cuộc sống. Dân chủ trực tiếp khó tổ chức một cách tập
trung, khái quát nhưng lại bao quát được mọi khía cạnh của thực tiễn đời
sống, cũng như ý chí chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Do vậy,


×