Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác PHÒNG NGỪA, đấu TRANH CHỐNG tội PHẠM TRỒNG cây THUỐC PHIỆN của lực LƯỢNG CẢNH sát NHÂN dân CÔNG AN TỈNH yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.09 KB, 131 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới việc trồng cây thuốc phiện và các cây khác có chứa chất
ma túy tập trung chủ yếu ở ba vùng (Tam giác vàng, Lưỡi liềm vàng và vùng
Trung Á thuộc Liên Xô cũ), trong đó cây thuốc phiện được trồng phổ biến ở
vùng Tam giác vàng, Lưỡi liềm vàng. Mặc dù Liên Hiệp Quốc đã tập trung
mọi nỗ lực cùng các quốc gia có trồng cây thuốc phiện, phá bỏ cây thuốc
phiện nhưng hiện tượng tái trồng vẫn diễn ra ở nhiều quốc gia; sản lượng
thuốc phiện hàng năm trên thế giới khoảng 750 tấn, trị giá hàng tỷ USD.
Ở nước ta, việc trồng cây thuốc phiện tập trung chủ yếu ở vùng núi
phía Bắc, với số lượng tuy không nhiều, nhưng việc tái trồng còn diễn ra phổ
biến bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong pháp luật hình sự hành vi trồng
cây thuốc phiện là hành vị bị coi là tội phạm; trồng cây thuốc phiện có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trồng cây thuốc phiện là hành vi vi phạm các công ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia ký kết và cũng là hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình
sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trong nhiều năm qua Chính phủ và
ngành Công an đã đề ra chương trình và đề án xóa bỏ cây thuốc phiện. Tỉnh
Yên Bái trong nhiều năm qua đã tập trung chỉ đạo nhằm giải quyết dứt điểm
tình trạng trồng và tái trồng cây thuốc phiện ở các xã vùng cao của tỉnh, hạn
chế tiến tới xóa bỏ nguồn cung cấp thuốc phiện ra thị trường và từng bước ổn
định đời sống của đồng bào vùng dân tộc góp phần đảm bảo vững chắc tình
hình an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh.
Trong những năm qua lực lượng CSND cùng với các lực lượng, các
ngành, các cấp đã có nhiều biện pháp đấu tranh với các hành vi phạm tội này.
Tuy nhiên, cho đến nay tình trạng trồng và tái trồng cây thuốc phiện vẫn diễn
ra: Mùa vụ năm 1996-1997 đã phát hiện và xóa bỏ 70 ha diện tích tái trồng



2

cây thuốc phiện; mùa vụ năm 2001-2002 phát hiện và xóa bỏ 10 ha; mùa vụ
năm 2005-2006 phát hiện và xóa bỏ lên tới 139 ha diện tích tái trồng cây
thuốc phiện. Trong khi đó công tác phòng ngừa, đấu tranh của lực lượng
CSND Công an tỉnh Yên Bái đối với tội phạm này cũng gặp không ít khó
khăn vướng mắc và cũng còn những hạn chế nhất định. Từ những lý do trên,
việc lựa chọn đề tài: "Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
trồng cây thuốc phiện của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an tỉnh Yên
Bái", là cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước thực trạng tội phạm và tệ nạn về ma túy phát triển ngày càng có
phần phức tạp trên cả ba phương tiện: trồng cây thuốc phiện, sản xuất, mua
bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và việc tổ chức cai nghiện cho
người nghiện các chất ma túy, nhất là từ khi có Nghị quyết 06/CP của Chính
phủ, đã có một số công trình bước đầu nghiên cứu các vấn đề về ma túy và
công tác phòng, chống ma túy, bên cạnh đó một số luận án thạc sỹ luật học
cũng hướng vào nghiên cứu công tác đấu tranh phòng, chống ma túy ở một số
địa phương. Các công trình nghiên cứu này thường được các tác giả, các nhà
khoa học nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau, như: Luật hình sự, Luật
TTHS hoặc tội phạm học… trên phạm vi rộng mà chưa hoặc không áp dụng
được trên từng địa bàn cụ thể có những đặc thù riêng và chưa có công trình
nào nghiên cứu về lĩnh vực phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trồng cây
thuốc phiện ở tỉnh Yên Bái.
Trên lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh chống trồng và tái trồng cây
thuốc phiện hàng năm đều được các cấp, các ngành triển khai thực hiện, song
ở một số tỉnh phía Bắc hàng năm vẫn diễn ra việc trồng và tái trồng cây thuốc
phiện. Trên địa bàn tỉnh Yên Bái mùa vụ 2005-2006 đã phát hiện và triệt phá
139 ha diện tích trồng cây thuốc phiện. Tuy vậy cho đến nay cũng chưa có đề

tài khoa học nào nghiên cứu về "Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm trồng cây thuốc phiện của lực lượng Cảnh sát nhân dân ở tỉnh Yên Bái".


3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ thêm vấn đề lý luận cơ bản về tội trồng cây thuốc phiện
và công tác phòng, chống tội phạm này.
- Đánh giá thực trạng tình hình trồng cây thuốc phiện ở tỉnh Yên Bái.
Chỉ ra được những đặc trưng, hình thức, phương thức thủ đoạn… cụ thể và
mối quan hệ giữa hoạt động trồng cây thuốc phiện với các loại tội phạm cụ
thể khác. Đề xuất giải pháp phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm trồng cây thuốc phiện ở địa bàn tỉnh Yên Bái.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội trồng cây thuốc phiện và các
loại cây có chứa chất ma túy khác và công tác phòng, chống tội phạm này của
lực lượng CSND.
- Khảo sát đánh giá tình hình trồng cây thuốc phiện, thực trạng phòng
ngừa, đấu tranh xóa bỏ cây thuốc phiện của lực lượng CSND ở Tỉnh Yên Bái
trong những năm qua.
- Xác định những tồn tại, khó khăn vướng mắc và những nguyên nhân
của nó trong phòng ngừa và đấu tranh chống trồng cây thuốc phiện ở địa bàn
tỉnh Yên Bái, trên cơ sở đó đưa ra được những giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm trồng cây thuốc phiện ở tỉnh
Yên Bái.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Lý luận về tội trồng cây thuốc phiện và các loại cây có chứa chất ma

túy khác và công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm này của lực lượng
CSND tỉnh Yên Bái.


4

- Đặc điểm về đối tượng, thủ đoạn, nguyên nhân, điều kiện phát sinh,
tồn tại loại tội phạm trồng và tái trồng cây thuốc phiện.
- Công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trồng cây thuốc
phiện của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an tỉnh Yên Bái thời gian từ
1999-2006.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở, phương pháp luận chủ nghĩa MácLênin, những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội.
- Sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tổng hợp, thống
kê, phân tích, so sánh, tọa đàm, trao đổi, chuyên gia…
- Chú trọng phương pháp tổng kết thực tiễn và thống kê hình sự.
- Sử dụng báo cáo, tài liệu của một số ngành có liên quan ở Trung
ương, địa phương, các Cục nghiệp vụ BCA và phòng nghiệp vụ Công an tỉnh
Yên Bái.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài, góp phần nâng cao công tác phát hiện,
thu thập tài liệu, phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống trồng và tái
trồng cây thuốc phiện ở tỉnh Yên Bái và những địa bàn còn xảy ra tình trạng
trồng cây thuốc phiện.
- Kết quả nghiên cứu đề tài là nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động
nghiên cứu khoa học và học tập ở một số Trường CAND.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA,
ĐẤU TRANH CHỐNG TỘI PHẠM TRỒNG CÂY THUỐC PHIỆN
CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN

1.1. Nhận thức về tội trồng cây thuốc phiện và tác hại của việc
trồng cây thuốc phiện
1.1.1. Cây thuốc phiện và tình hình trồng cây thuốc phiện ở nước ta
Cây thuốc phiện hay còn gọi là cây Anh túc có tên khoa học là
Papaver somniferum L. Từ thời đại xa xưa cách đây khoảng 6000 năm, con
người đã biết sử dụng cây thuốc phiện.
Cây thuốc phiện là một loại cây thân thảo, mọc hàng năm, cao từ 0,7
đến 1,5m, ít phân nhánh, thân mọc thẳng. Lá mọc cách, hình trứng, dài từ 6
đến 50 cm, rộng từ 3,5 đến 30 cm; lá ở phía dưới có cuống ngắn, lá ở phía
trên không có cuống, đầu trên nhọn, mọc ôm vào thân cây, gân lá nổi rõ ở mặt
dưới, mép lá hình răng cưa.
Hoa thuốc phiện to, đơn độc mọc ở đầu thân cây hoặc đầu cành, có
cuống dài 12 đến 14 cm; đài hoa gồm hai lá đài màu xanh sớm rụng khi hoa
nở, lá đài dài 1,5 đến 2 cm. Tràng hoa có 4 cánh dài 5 đến 7 cm màu trắng
hồng hoặc tím hồng.
Quả thuốc phiện có hình trứng hoặc hình cầu dài từ 4 đến 7 cm, đường
kính từ 3 đến 6 cm, ở đỉnh có núm, quả có cuống phình ra ở chỗ nối. Quả chín
có màu vàng xám.
Hạt nhỏ và nhiều, hơi giống hình thận, dài 0,5 đến 1mm, trên mặt có
vân hình mạng, màu xám hay vàng nhạt hoặc xám đen.

Toàn thân cây, quả bấm vào chỗ nào cũng có nhựa màu trắng, để lâu
biến thành màu nâu đen.


6

Thuốc phiện là cây được trồng từ lâu đời. Căn cứ vào màu sắc của hoa
và hạt hoặc hình dáng và kích thước của quả, người ta phân biệt ra các loại sau:
+ Cây thuốc phiện trắng: hoa trắng, quả hình trứng màu vàng nhạt.
Đây là loại thuốc phiện truyền thống được trồng tại Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran
để sản xuất nhựa thuốc phiện.
+ Cây thuốc phiện nhẵn: hoa đỏ tím, quả hình cầu rộng, hạt đen tím,
được trồng ở Thổ Nhĩ Kỳ.
+ Cây thuốc phiện đen: có hoa tím, quả hình cầu ở phía dưới, mở lỗ
trên mép đầu nhụy, hạt màu xám được trồng ở Châu Âu để sản xuất dầu hạt
thuốc phiện và các loại Ancaloit.
+ Thuốc phiện lông cứng: hoa tím, cuống hoa và lá phủ đầy lông
cứng, mọc bán hoang dại ở phía nam Châu Âu.
Trong các loại này, cây thuốc phiện trắng là loại quan trọng nhất,
được trồng để lấy nhựa, cây thuốc phiện đen được trồng để lấy dầu. Trên thực
tế, người ta chích lấy nhựa từ quả chưa chín của 2 loại này.
Trên thế giới, cây thuốc phiện được trồng ở vùng Địa Trung Hải từ
300 năm trước Công nguyên. Dần dần, theo thời gian chúng được chuyển
sang trồng ở Vùng Nam Á, Trung Á, Đông Nam Á.
Thuốc phiện được trồng nhiều ở các nước có khí hậu ôn đới và nhiệt
đới từ lâu đời nhưng đây là loại cây cho nhựa gây nghiện nên Chính phủ
nhiều nước đã cấm trồng thuốc phiện.
Thuốc phiện sinh trưởng tốt tại các vùng khí hậu mát. Cây chịu được
khí hậu lạnh và nóng bức. Từ tuần đầu tiên của sự sinh trưởng, khí hậu phải
mát và ẩm, sau đó khí hậu nóng và khô thì cây mới phát triển tốt.

Hiện nay, cây thuốc phiện được trồng nhiều nhất ở vùng Tam Giác
vàng, đó là vùng biên giới 3 nước: Myanmar, Thái Lan, Lào tiếp giáp với tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc. Đây là vùng cao nguyên và núi non hiểm trở nằm ở


7

độ cao trên 1.000 mét, có khí hậu và thổ nhưỡng rất thích hợp cho cây thuốc
phiện phát triển. Những năm 60-70, vùng này là nơi sản xuất thuốc phiện bất
hợp pháp lớn nhất thế giới với sản lượng khoảng 750 tấn mỗi năm. Tiếp đó là
vùng Lưỡi liềm vàng, là vùng đất chạy vòng từ Tây Nam á đến các vùng
thuộc Pakistan, Iran và Afganistan. Vào cuối những năm 70, vùng Lưỡi Liềm
vàng nổi lên là vùng sản xuất thuốc phiện bất hợp pháp lớn nhất thế giới.
Ngoài hai khu vực trên, trên thế giới, thuốc phiện còn được trồng ở Trung
Quốc, Ấn Độ và các nước vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ.
Ở nước ta, cây thuốc phiện phù hợp với khí hậu vùng núi có độ cao
800 đến 2000m. Cây thuốc phiện được trồng chủ yếu ở vùng miền núi phía
Bắc Việt Nam. Địa bàn trồng cây thuốc phiện là 12 tỉnh miền núi phía Bắc và
Bắc Trung Bộ (Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang,
Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Nghệ An); Trong
12 tỉnh trọng điểm trồng cây thuốc phiện có 81 huyện trồng cây thuốc phiện,
835 xã trồng cây thuốc phiện; 1.452 thôn bản trồng cây thuốc phiện; 18.373
hộ trồng cây thuốc phiện với trên 123.000 người tham gia trực tiếp trồng cây
thuốc phiện (số liệu thống kê năm 1992). Vùng trồng cây thuốc phiện chiếm
khoảng 40% về diện tích và 20% dân số cả nước (khoảng 14 triệu người).
Dân thị thành chiếm khoảng 11,7%, số dân nông thôn chiếm khoảng 88,3%.
So với các vùng khác, vùng trồng cây thuốc phiện là nơi dân cư nghèo khó
nhất, điều kiện sinh hoạt khó khăn nhất.
Sản lượng nhựa tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và những yếu tố ảnh
hưởng khác và đạt được trong khoảng 5-7 kg nhựa cho mỗi hecta. Năng suất

trung bình ở Việt Nam thường đạt 4 kg nhựa/ 1 ha. Hàm lượng morphin trong
nhựa thường từ 5-13%. Hiện nay, do áp dụng kỹ thuật mới vào thu hoạch
thuốc phiện (trích nhựa từ lá và thân cây) nên năng suất thuốc phiện đã tăng
lên đáng kể và không cần phải đợi đến mùa quả để thu hoạch. Thuốc phiện có
hai loại:


8

- Thuốc phiện sống: Là nhựa thuốc phiện được phơi khô rồi đóng gói.
Thuốc phiện này ở dạng đặc, dẻo màu nâu đen, có mùi ngái đặc trưng, ít tan
trong nước.
- Thuốc phiện chín: Được bào chế từ thuốc phiện sống bằng cách
dùng nước nóng hòa tan thuốc phiện sống, lọc qua vải nhiều lần và sấy khô
dịch lọc rồi đóng bánh có khối lượng, hình dạng và kích thước khác nhau.
Thuốc phiện chín có màu nâu đen, đen sẫm, mùi thơm hơn thuốc phiện sống.
Hoạt chất của thuốc phiện là các Alcaloid, trong đó có nhiều nhất là
morphin, thebain và narcotin. Thuốc phiện sống chiếm từ 5-7% morphin;
thuốc phiện chín có từ 7-13% morphin, có loại có thể có tới 20%.
Từ nhựa thuốc phiện, người ta điều chế được morphin, codein, heroin
và nhiều chất gây nghiện bán tổng hợp nguy hiểm khác.
- Việc trồng cây thuốc phiện gây hậu quả tác hại trên nhiều phương
diện: kinh tế, chính trị môi trường và xã hội. Vấn đề ma túy nói chung, trồng
cây thuốc phiện nói riêng có tác hại đến nhiều mặt của đời sống xã hội như:
đạo đức, sức khỏe, nội gián, an ninh, trật tự, thậm chí đến sự tồn tại của một
quốc gia, một chế độ chính trị. Từ việc trồng cây thuốc phiện với mục đích
sản xuất (lấy nhựa thuốc phiện) sẽ làm gia tăng tội phạm và tệ nạn về ma túy,
là nguyên nhân phát sinh và gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.
Có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đảm bảo an ninh - trật tự xã hội ở địa
phương, nhất là đối với các địa bàn vùng cao Tây Bắc luôn được xác định là

địa bàn trọng yếu, chiến lược cần được triển khai nhiều biện pháp, nhằm đảm
bảo ổn định vững chắc về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Dân tộc trồng thuốc phiện nhiều nhất là người Mông chiếm 75% diện
tích thuốc phiện trong cả nước. Các dân tộc khác là Khơ Mú, Thái, Dao cũng
trồng thuốc phiện nhưng chỉ chiếm khoảng 5% tổng diện tích trồng trọt. Số
diện tích còn lại do người Tày, Nùng, Kinh, Mường và Hoa trồng. Năm tháng
đã gắn bó cây thuốc phiện với tập quán canh tác và đời sống của đồng bào


9

dân tộc ít người, đến mức người Mông đã có câu "ở đâu có cây tống quá sủi
(cây sống qua mùa đông) thì ở đó có người Mông, giàng cũng thả cây thuốc
phiện xuống mặt đất cho người Mông". Thực tế thuốc phiện không chỉ được
dùng để hút, thiết đãi nhau trong các ngày vui (làm nhà, dựng vợ, gả chồng,
lễ, tết, ma chay hoặc theo phong tục tập quán khác), mà còn được dùng để
chữa bệnh cho người và súc vật. Nó cũng được dùng để trao đổi sản phẩm
phục vụ nhu cầu thiết yếu của đồng bào dân tộc thiếu sổ.
Người H’Mông sinh sống chủ yếu ở các vùng núi cao trên diện tích
rộng lớn ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Họ sinh sống ở cả 2 khu
vực: vùng núi đá vôi Việt Bắc, phía Bắc sông Hồng cùng người Tày, Nùng và
vùng núi đá vôi lẫn núi đá Feralitic phía Nam sông Hồng cùng dân tộc Thái.
Mặc dù nước ta không nằm trong vùng "Tam giác vàng" thế giới, song
vùng núi cao ở nước ta có điều kiện khá thuận lợi cho việc phát triển trồng
cây thuốc phiện. Thuốc phiện thường được trồng ở độ cao 600m, thậm chí ở
độ cao 2.700m so với mực nước biển. Nhiều vùng núi cao trên 1.000m có địa
hình hiểm trở, dốc đứng, tạo nên những thung lũng hẹp bên dưới thuận lợi
cho việc trồng thuốc phiện. Dân bản thường đốt nương phá rẫy để trồng thuốc
phiện. Đây là phương pháp áp dụng phổ biến ở vùng trồng lớn dọc theo biên
giới Việt - Lào. Vùng núi đá vôi Việt Bắc có mật độ dân cư lớn hơn, dân ở

đây trồng thuốc phiện bằng phương pháp thâm canh chứ không đốt nương phá
rẫy.
1.1.2. Tội phạm trồng cây thuốc phiện trong pháp luật hình sự
Theo tài liệu lịch sử còn ghi lại thì ngay từ thời nhà Nguyễn (Cảnh Trị
thứ 3 năm 1665), nước ta đã có Đạo luật cấm quan lại và dân chúng trồng,
mua, bán thuốc phiện. Ai trồng cây thuốc phiện phải triệt phá ngay, người chứa
giữ thuốc phiện phải hủy bỏ, kẻ sai phạm phải bị xử lý. Tuy nhiên, việc trồng
và tiêu thụ thuốc phiện vẫn như cỏ dại âm ỉ mọc theo năm tháng. Đến đầu thế
kỷ XIX, tệ nghiện hút thuốc phiện tràn lan do bị ảnh hưởng của cuộc chiến


10

tranh nha phiến giữa Trung Quốc và Anh. Trước tình hình đó, Triều đình nhà
Nguyễn đã phải ban bố những chính sách cứng rắn để ngăn ngừa hiểm họa thuốc
phiện, đó là thực hiện chủ trương triệt phá cây thuốc phiện, xử tội nặng những
kẻ chứa chấp, mua bán thuốc phiện. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) quy
định "Kẻ nào mua, bán thuốc phiện thì bị xử phạt 60 trượng, tù 1 năm, tịch thu
toàn bộ tang vật; chủ chứa bàn đèn thuốc phiện phạt 100 trượng, tù 3 năm".
Năm Tự Đức thứ 3 (1840) quy định: "Thuyền buôn nào chứa, giấu
thuốc phiện hoặc thuê mướn thuyền khác vận chuyển thì chủ thuyền chịu tội
tử hình; thuyền của Nhà nước cử đi nước ngoài có ai mua trộm thuốc phiện
đem về dưới 1 cân thì phạt giam, trên 1 cân thì chém lập tức". Năm 1850 bổ
sung thêm quy định: "Quan lại, quân nhân hút thuốc phiện hoặc chứa giấu
thuốc phiện bị bắt quả tang, không kể số lượng bao nhiêu, không kể chính
phạm hay tòng phạm đều bị xử tội giam hậu, tịch thu tài sản, cha anh phạm
nhân bị phạt 100 trượng, nếu có quan tước thì bị cách chức".
Tuy vậy, cuộc đấu tranh bài trừ thuốc phiện dưới triều Nguyễn thu
được kết quả rất hạn chế.
Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, để ru ngủ, đầu độc nhân dân ta và

buôn bán lấy lời, chúng khuyến khích dân ta trồng và sử dụng thuốc phiện,
chúng đã lập nên các xứ Thái và xứ Mèo tự trị để trồng và sản xuất thuốc
phiện. Bọn thực dân Pháp đã cho thành lập "Công quản nha phiến" để thâu
tóm trong tay toàn bộ việc trồng và tiêu thụ thuốc phiện. Trong kỳ này, việc
trồng và hút thuốc phiện không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà đã được khuyến
khích lan tràn trên toàn Đông Dương.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã coi
thuốc phiện là thuốc độc và có chủ trương xóa bỏ việc sản xuất thuốc phiện,
vận động người nghiện từ bỏ thuốc phiện và đã mở nhiều cuộc vận động nhân
dân bỏ trồng cây thuốc phiện. Chính sách của Nhà nước ta đối với việc trồng


11

cây thuốc phiện và sử dụng thuốc phiện được đề cập ở từng giai đoạn lịch sử,
cụ thể là:
- Giai đoạn từ 1945-1970:
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ bàn về các biện pháp cấp
bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề dứt khoát "… cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc phiện".
Nhưng do hoàn cảnh lịch sử, cả nước phải tập trung cho nhiệm vụ
kháng chiến chống ngoại xâm, nên chủ trương xóa bỏ cây thuốc phiện chưa
thực hiện được nhưng Chính phủ cũng đã ban hành các chủ trương và biện
pháp từng bước hạn chế và quản lý loại cây độc hại này.
Tháng 3/1952, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 150/TTg
ấn định chế độ tạm thời về thuốc phiện, trong đó quy định việc khoanh vùng
trồng thuốc phiện và nghĩa vụ nộp thuế bằng 1/3 số nhựa thuốc phiện, số còn
lại phải bán cho mậu dịch quốc doanh. Nghị định trên cũng quy định: Ngoài
các cơ quan chuyên trách, nghiêm cấm bất cứ ai tàng trữ, vận chuyển trái
phép thuốc phiện, người vi phạm có thể bị truy tố trước tòa án.

Ngày 22/12/1952, Thủ tướng Chính phủ lại ban hành Nghị định 225/TTg,
sửa đổi Nghị định 150/TTg, trong đó hạ mức nộp thuế bằng hiện vật xuống
1/4 số nhựa thuốc phiện, khuyến khích bán số nhựa còn lại cho mậu dịch quốc
doanh theo giá thỏa thuận, bổ sung thêm các hình thức xử phạt liên quan.
Ngày 15/9/1955, Thủ tướng Chính phủ lại ban hành Nghị định số
680/TTg bổ sung các Nghị định trên và quy định rõ các trường hợp vi phạm
phải đưa ra tòa án xét xử là:
+ Buôn lậu thuốc phiện có nhiều người tham gia và có nhiều thủ đoạn
gian lận.
+ Tang vật có giá trị trên 1.000.000đ (tính thời giá năm 1955)
+ Buôn bán nhỏ hoặc môi giới có tính chất thường xuyên.


12

+ Buôn bán chuyên nghiệp đã bị phạt tiền nhiều lần
+ Các vụ có liên quan đến chính quyền hoặc quân đội
Trong những trường hợp trên, người phạm tội bị phạt tù từ 3 đến 5
năm, tịch thu tang vật, phạt tiền từ 1 đến 5 lần giá trị thuốc phiện lậu.
Bằng sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, trong thời kỳ này, việc kiểm
soát trồng cây thuốc phiện diễn ra hết sức khả quan.
- Giai đoạn từ 1970-1987:
Những năm 1970, nước ta tổ chức ra công ty biệt dược (Công ty một
cây - cây thuốc phiện) để đạt kế hoạch gieo trồng thuốc phiện ở một số nơi và
thu mua nhựa cung cấp cho Hội đồng tương trợ kinh tế (trong hội đồng tương
trợ kinh tế - COMECON, Việt Nam được phân công trồng cây thuốc phiện
cung cấp làm nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược). Vào đầu những năm
1980, công ty này bị giải thể. Từ đó, Nhà nước thôi không thu mua thuốc
phiện nữa, lượng thuốc phiện tồn đọng không tiêu thụ hết tại nơi trồng chuyển
qua thị trường bất hợp pháp.

- Giai đoạn từ năm 1987 đến nay:
Ngày 30/8/1987 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 13/CT-TW
yêu cầu tổ chức vận động nhân dân không trồng cây thuốc phiện, không chích
hút và ngăn chặn việc mua bán sản phẩm cây thuốc phiện.
Ngày 28/12/1989, Quốc hội đã bổ sung sửa đổi Bộ luật hình sự, đã
tách riêng điều 96a quy định về tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển
trái phép các chất ma túy, với hình phạt cao nhất tới mức án tử hình.
Ngày 8/4/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) đã ra Chỉ thị 99/CT về việc vận động nhân dân không trồng cây
anh túc (cây thuốc phiện). Chỉ thị này cũng nghiêm cấm việc mua bán, chế
biến, vận chuyển, tàng trữ và tổ chức tiêm chích, nghiện hút thuốc phiện. Chỉ


13

thị yêu cầu các cấp, các ngành liên quan phối hợp chỉ đạo hướng dẫn thực
hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Tinh thần Chỉ thị 99/CT chỉ rõ:
Tích cực tuyên truyền cho nhân dân thấy rõ tác hại về xã hội, kinh tế và sức
khỏe đối với việc sử dụng các sản phẩm cây anh túc. Kiên trì vận động, thuyết
phục đồng bào không trồng cây thuốc phiện, bỏ hút, chích và không sử dụng
các sản phẩm từ cây thuốc phiện. Phải lấy biện pháp kiên trì thuyết phục để
dân hiểu và tự giác thực hiện chủ trương của Nhà nước.
Các Bộ, ngành có liên quan sớm có quy hoạch, kế hoạch hướng dẫn
đồng bào chuyển sang trồng các loại cây trồng khác có lợi hơn, phù hợp với
chương trình phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi. Trước mắt, tổ chức tốt các
dịch vụ bán giống cây trồng, vật tư nông nghiệp; có chính sách thỏa đáng về
đầu tư, giá cả; tổ chức mua hết sản phẩm dư thừa do nhân dân sản xuất ra.
Củng cố các Trung tâm cai nghiện ở các thành phố và các vùng có
nhiều người nghiện hút.
Bộ Y tế tổ chức các điểm thu mua tại các vùng trồng cây anh túc để

mua hết số thuốc phiện do dân sản xuất ra.
Nghiêm cấm việc mua bán, chế biến, vận chuyển, tàng trữ và tổ chức
tiêm, chích, hút thuốc phiện. Xử lý kịp thời và nghiêm minh theo pháp luật
các tổ chức và cá nhân vi phạm.
Tại Thông báo số 02/TB-HĐBT ngày 13/1/1992 của Văn phòng Hội
đồng Bộ trưởng về kết luận của Chủ tịch HĐBT tại Hội nghị vùng cao và dân
tộc Mông các tỉnh phía Bắc đã đề cập đến vấn đề chuyển hướng sản xuất thay
thế cây thuốc phiện: "Tất cả các tỉnh miền núi thống nhất chủ trương kiên
quyết vận động đồng bào thôi trồng cây anh túc, mà chuyển hẳn sang trồng
các loại cây khác như: chè, dâu tằm, mía, đậu tương, cây đặc sản, cây dược
liệu hoặc phát triển chăn nuôi, ngành nghề…".


14

Thông báo này cũng đã nêu rõ cần hình thành một chương trình quốc
gia: "Việc chuyển hướng sản xuất thay cây anh túc và việc cai nghiện hút phải
được đạt thành một chương trình quốc gia. Giao cho Văn phòng miền núi và
dân tộc chủ trì, có trách nhiệm phối hợp với Bộ lâm nghiệp, Bộ nông nghiệp
và Công nghiệp thực phẩm, Bộ thương mại và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ lao động Thương binh và xã hội và các cơ quan khoa học xây dựng và chỉ đạo triển
khai thực hiện chương trình này".
Tiếp theo, ngày 4/3/1992, Chủ tịch HĐBT ra Quyết định số 69/CT về
lập Chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng cao phía Bắc. Trong đó đã
ghi rõ: "Chương trình chuyển hướng sản xuất thay trồng cây thuốc phiện kết
hợp với việc cai nghiện hút thuốc phiện do Văn phòng miền núi và dân tộc chủ
trì".
Văn bản pháp luật cao nhất là Hiến pháp nước cộng hòa XHCN Việt
Nam được Quốc hội thông qua tháng 6/1992 điều 61 đã ghi: "Nghiêm cấm
sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các
chất ma túy khác".

Trước thực trạng tệ nạn ma túy ở nước ta ngày càng phát triển và diễn
biến phức tạp, ngày 29/1/1993, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 06/CP về tăng
cường chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma túy. Nghị quyết của
Chính phủ đã chỉ rõ những nội dung sau:
Hiện nay ở nước ta, nạn nghiện hút, tiêm chích và buôn lậu
ma túy đang tăng lên. Tệ nạn này trái với đạo đức truyền thống của
dân tộc, ảnh hưởng rất xấu đến phát triển kinh tế, gây hại lớn cho
sức khỏe của một bộ phận nhân dân, ảnh hưởng xấu tới nòi giống
dân tộc, để lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế hệ mai sau.


15

Đây là mối quan tâm, lo lắng cho toàn xã hội. Cần phải đấu
tranh kiên quyết chống tệ nạn này bằng các biện pháp tuyên truyền,
vận động, giáo dục, kinh tế, xử lý hành chính và hình sự.
Nghị quyết 06/CP đưa ra các biện pháp cụ thể sau:
- Tuyên truyền rộng rãi để mọi người dân thấy hậu quả tai hại của tệ
nạn ma túy để tích cực phòng, chống.
- Vận động, thuyết phục đồng bào miền núi dứt khoát thôi trồng cây
thuốc phiện; nghiên cứu thay thế cây trồng thích hợp.
- Kiểm soát việc vận chuyển lưu thông các loại ma túy trên toàn lãnh
thổ, tiêu hủy sản phẩm là thuốc phiện và các chất ma túy khác thu được.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm soát ma túy
- Bắt buộc cai nghiện thuốc phiện và các chất ma túy khác
Nghị quyết 06/CP cũng giao cho các Bộ, ngành có liên quan chịu
trách nhiệm cụ thể về từng nhiệm vụ trong các nội dung phòng, chống và
kiểm soát ma túy do Chính phủ đề ra.
* Chương trình quốc gia 06/CP thành lập tháng 01 năm 1993 theo
Nghị quyết 06/CP của Chính phủ (trong đó ghi rõ: ủy ban dân tộc và miền núi

là cơ quan đầu mối, chủ trì việc phối hợp hoạt động theo Chương trình quốc
gia phòng, chống và kiểm soát ma túy, trực tiếp tổ chức thực hiện chương
trình "Chuyển hướng sản xuất thay trồng cây thuốc phiện kết hợp với việc cai
nghiện hút thuốc phiện" theo Quyết định số 69/CT ngày 4/3/1992 của Chủ
tịch HĐBT và dự án "Xây dựng kế hoạch tổng thể kiểm soát ma túy ở Việt
Nam" - Mã số VIE/92/660) có nhiệm vụ:
- Phá bỏ, loại trừ triệt để cây thuốc phiện khỏi cuộc sống kinh tế, xã
hội vùng cao miền núi.
- Tiến hành chuyển dịch cơ cấu sản xuất thay thế cây trồng và vật
nuôi. Tìm những yếu tố động lực thúc đẩy kinh tế vùng và tiểu vùng (giao


16

thông, khoa học - kỹ thuật, mở rộng dịch vụ tư vấn đầu tư…) nhằm đưa kinh
tế miền núi từng bước sản xuất hàng hóa đa dạng, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân lao động.
- Trong những năm đầu chuyển hướng sản xuất, nếu thu nhập của dân
sút kém quá mức thì Nhà nước trợ giúp để bảo đảm đời sống của đồng bào;
thực hiện chính sách cụ thể để giúp đồng bào có điều kiện chuyển hướng sản
xuất.
- Kiểm soát nghiêm ngặt việc vận chuyển, lưu thông các loại ma túy
trên toàn lãnh thổ, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống mọi hành vi sản
xuất, vận chuyển, tàng trữ, buôn bán và nghiện hút các chất ma túy.
- Thực hiện chương trình điều trị nghiện ma túy, phục hồi chức năng, tái
hòa nhập xã hội, dạy nghề và tạo công ăn việc làm cho người trước đây bị nghiện.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm soát ma túy trên cơ
sở bảo đảm các nguyên tắc phù hợp với pháp luật của nước ta và công ước
quốc tế về ma túy của Liên Hợp Quốc.
- Tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong nhân dân về ý thức trách

nhiệm thực hiện Chương trình quốc gia 06/CP.
- Phân công trách nhiệm rõ ràng, đồng bộ liên đới về tổ chức chỉ đạo,
thực hiện Chương trình quốc gia 06/CP từ Trung ương tới địa phương trong
đó đã chỉ rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành ở Trung ương và UBND các cấp.
Đồng thời đã có kế hoạch phối hợp hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong
việc triển khai vận động nhân dân thực hiện tốt Chương trình quốc gia 06/CP.
* Để cụ thể hóa các hoạt động của CTQG.06/CP ngày 14/11/1995 Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 743/TTg về việc phê duyệt kế hoạch
tổng thể phòng, chống và kiểm soát ma túy, bao gồm các nội dung chính sau:
- Mục tiêu tổng quát của kế hoạch này là:


17

+ Từng bước giảm lạm dụng ma túy, phòng ngừa nguy hại lạm dụng
ma túy dẫn đến lây nhiễm HIV/AIDS giảm dần, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn việc
trồng cây thuốc phiện.
+ Kiểm soát chặt chẽ nhằm ngăn chặn việc sản xuất, vận chuyển, buôn
bán, tàng trữ, sử dụng ma túy bất hợp pháp.
+ Quản lý chặt chẽ sản xuất, kinh doanh hợp pháp các loại hóa chất,
dược phẩm có chứa chất ma túy.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm soát ma túy.
* Chương trình hành động trong giai đoạn 1996-2000:
- Tăng cường chỉ đạo và quản lý thực hiện CTQG-06/CP
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống và kiểm soát ma túy;
tham gia các Công ước Quốc tế về ma túy.
- Kiểm soát các nguồn cung cấp ma túy
- Đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống buôn lậu ma túy
- Phòng, chống lạm dụng ma túy, đẩy mạnh hoạt động điều trị và phục
hồi chức năng người nghiện.

- Tăng cường hợp tác quốc tế về kiểm soát ma túy
* Ngày 30/11/1996, BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị
số 06/CT-TW về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm
soát ma túy. Bộ Chính trị yêu cầu:
Các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với
công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy, phải coi đây là nhiệm
vụ thường xuyên nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng
sử dụng ma túy trong nhân dân. Cần có những biện pháp đặc biệt để
chặn đứng ngay việc thanh, thiếu niên nghiện hút, hít và tiêm chích


18

ma túy; quản lý nghiêm ngặt việc sản xuất, kinh doanh xuất, nhập
khẩu các chất ma túy và dược phẩm có chứa chất ma túy [12].
- Trong BLHS sửa đổi năm 1997 có quy định rõ về tội trồng cây thuốc
phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy:
Người nào trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc
các loại cây có chứa chất ma túy, đã được giáo dục nhiều lần, đã
được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3
năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ 3 năm đến 7 năm:
a- Có tổ chức
b- Tái phạm tội này
Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 50
triệu đồng [4].
Để tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy,
ngày 25/8/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 868/TTg về việc
thành lập ủy ban quốc gia phòng, chống ma túy do Phó Thủ tướng Chính phủ

làm Chủ tịch ủy ban. Ủy ban Quốc gia phòng, chống ma túy có nhiệm vụ:
- Giúp Chính phủ đề ra và chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính
sách, kế hoạch phòng, chống và kiểm soát ma túy.
- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các ngành, các địa phương thực hiện
các Nghị quyết của Chính phủ, các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ về phòng, chống và kiểm soát ma túy.
- Tổ chức sự phối hợp các Bộ, ngành, các đoàn thể nhân dân trong công
tác phòng, chống ma túy.
- Chỉ đạo các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống
và kiểm soát ma túy.


19

* Ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 139/1998/QĐTTg về Phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống ma túy giai đoạn
1998-2000, trong đó nhấn mạnh các nội dung:
- Quán triệt phương châm phòng ngừa là chính, nâng cao ý thức tự
giác của nhân dân tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, chú trọng vai trò của
gia đình trong việc phòng, chống ma túy; tổ chức cai nghiện có hiệu quả; chặn
đứng phát sinh mới tệ nạn nghiện ma túy, giảm dần (không thấp hơn 50% số
nghiện hiện có); đến năm 2000 xóa bỏ về cơ bản tệ nghiện hút ma túy, đặc
biệt là trong học sinh, sinh viên và trẻ em vị thành niên.
- Không để tái trồng cây thuốc phiện, cây cần sa; đến năm 2000 xóa
bỏ cơ bản diện tích cây thuốc phiện, cây cần sa còn lại ở Việt Nam.
- Ngăn chặn có hiệu quả việc buôn bán, vận chuyển trái phép các chất
ma túy, quản lý và kiểm soát chặt chẽ các tiền chất; điều tra, khám phá, truy
tố, xét xử nghiêm các tội phạm về ma túy. Xóa bỏ cơ bản các tụ điểm sử dụng
trái phép các chất ma túy.
Các giải pháp chủ yếu trong giai đoạn 1998-2000 là:
- Đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền: Tuyên truyền rộng rãi

trên các phương tiện thông tin đại chúng làm chuyển biến nhận thức của nhân
dân về tác hại của ma túy, tạo ra phong trào toàn dân lên án tệ nạn này. Thành
lập các đội tuyên truyền xung kích do Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh chủ trì kết hợp với Công an và các ngành có liên quan đến tuyên
truyền phòng, chống ma túy, đặc biệt là tuyên truyền trong thanh thiếu niên.
Củng cố các trạm, hệ thống truyền thanh ở xã, phường, nông lâm trường, xí
nghiệp, đơn vị để tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách pháp luật
về phòng, chống ma túy.
- Quản lý và kiểm soát chặt chẽ các tiền chất và xóa bỏ trồng cây có
chức chất ma túy; tiếp tục vận động, thuyết phục đồng bào các dân tộc vùng
cao đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế,


20

chuyển hướng sản xuất, lồng ghép với các chương trình kinh tế, xã hội và các
dự án khác trên cùng địa bàn để thay thế cây thuốc phiện.
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy.
- Tăng cường nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
* Triển khai Chương trình hành động 1998-2000, ngày 28/11/1998,
Chính phủ có công văn số 1411/CP-NC về phát động đợt cao điểm vận động
toàn dân, các cấp, các ngành tham gia phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống
ma túy, bắt đầu từ 30/11/1998 đến hết năm 1999.
Qua nghiên cứu các chính sách, luật pháp của nước ta về việc xóa bỏ
cây thuốc phiện, cho thấy:
- Trải qua nhiều thời kỳ khác nhau, Nhà nước phong kiến trước đây và
Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam đều có những quy định thống nhất là
cấm trồng cây thuốc phiện.

Năm Cảnh Trị thứ ba (1665) Nhà nước phong kiến Việt Nam đã ban
hành đạo luật đầu tiên về "Cấm trồng cây thuốc phiện". Đạo luật này nêu rõ
"Con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dật, trộm cướp dùng nó
để nhòm ngó nhà người ta. Trong khi kinh thành, ngoài thì thôn xóm, vì nó
mà có khi hỏa hoạn, khánh kiệt tài sản, vì nó mà thân thể tàn tạ, người chẳng
ra người…". Đồng thời quy định: "Từ nay về sau quan lại và dân chúng
không được trồng hoặc mua bán thuốc phiện, ai đã trồng thì phải phá đi,
người nào chứa, giữ thì phải hủy đi".
Đầu thế kỷ 19, do ảnh hưởng của cuộc "Chiến tranh Nha phiến" giữa
Anh và Trung Quốc nên tình trạng nghiện hút vẫn tăng nhanh. Trước tình
trạng ấy, chính quyền nhà Nguyễn đã ban hành luật cũng như các chính sách
chống ma túy, tập trung vào các nội dung cơ bản là:


21

Lấp nguồn, cạn dòng: nguồn là nơi sản xuất thuốc phiện, dòng là số
người hút thuốc phiện. Luật quy định phải phá bỏ các khu vực trồng cây
thuốc phiện, kẻ nào mua bán thuốc phiện thì bị xử phạt 60 trượng, xử tù 1
năm, tịch thu toàn bộ vật chứng dùng trong mua bán. Lái buôn nước ngoài
buôn bán thuốc phiện bị đánh 100 trượng và tịch thu vật chứng; Chủ hãng,
chủ chứa bàn đèn hút thuốc phiện bị xử phạt 100 trượng và tù 3 năm; Người
hút thuốc phiện bị phạt 100 trượng và tù 3 năm; Cha, Anh không ngăn giữ
con em bị phạt 100 trượng; Quan lại hút thuốc phiện bị đánh 100 trượng và bị
cách chức… Ngoài ra triều đình cũng đã có lệnh cấm các thuyền buôn từ Tân
Châu (Trung Quốc) vào Việt Nam và khám xét tất cả các thuyền buôn nước
ngoài vào các cảng dọc theo bờ biển nước ta.
- Thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp: Ngày 31/8/1858 thực dân
Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, chúng đã ban hành hệ thống pháp luật ở
toàn cõi Đông Dương.

Để thực hiện chính sách ngu dân và vơ vét tài nguyên, tiền của ở
Đông dương, thực dân Pháp đã cho công khai phát triển trồng cây thuốc
phiện, thành lập các cửa hàng bán thuốc phiện tự do dưới sự quản lý của
"công quản nha phiến", diện tích trồng cây thuốc phiện tăng nhanh, người hút
thuốc phiện được tự do, từ đó việc trồng, buôn bán và sử dụng thuốc phiện
phát triển rất nhanh.
- Pháp luật quy định tội phạm về ma túy từ sau khi BLHS ra đời đến
năm 1999: Những năm 1980, tình hình tái trồng cây thuốc phiện, hút và tiêm
chích thuốc phiện ngày càng gia tăng, đồng thời xuất hiện một số chất ma túy
khác, buôn bán thuốc phiện và các chất ma túy khác phát triển mạnh, đặc biệt
là buôn bán qua biên giới. Khi BLHS năm 1985 ra đời, thuật ngữ "Ma túy"
được quy định trong các tội có liên quan đến ma túy tại các điều:
Điều 97: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới.


22

Điều 166: Tội buôn bán hàng cấm.
Điều 203: Tội tổ chức dùng chất ma túy.
Đặc biệt, năm 1992 lần đầu tiên việc cấm ma túy đã được quy định
trong Hiến pháp của nước cộng hòa XHCN Việt Nam: "Nghiêm cấm sản
xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các
chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các
bệnh xã hội nguy hiểm" (Điều 61).
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống ma túy,
ngày 10/5/1997 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLHS, trong đó quy định các tội phạm về ma túy thành
một chương riêng, bổ sung một số tội danh mới, định lượng các chất ma túy
trong từng khung hình phạt, tăng nặng mức hình phạt, nâng cao hình thức phạt

tiền và tịch thu tài sản, quy định thêm một số hình phạt bổ sung khác. Theo
luật này, tội phạm về ma túy được tách ra để trở thành một chương riêng
(chương VIIA) gồm có 14 điều, trong đó có 13 tội và hình phạt bổ sung, đó
là:
+ Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma
túy (Điều 185a).
- Điểm mới thứ 3 là: BLHS năm 1999 đã điều chỉnh một số cụm từ
cho chặt chẽ và chính xác:
+ Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma
túy đã sửa đổi cụm từ "đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm" thành cụm
từ "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm".
Tóm lại: Từ năm 1987 đến nay, các chính sách, luật pháp của Nhà nước
chỉ đạo công tác xóa bỏ cây thuốc phiện ở nước ta khá toàn diện, đầy đủ theo
các thể thức văn bản như: Hiến pháp; Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh xử phạt
hành chính; Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, của Chính phủ và các văn bản chỉ


23

đạo của Chính phủ, điều đó thể hiện sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với
phòng, chống và kiểm soát ma túy nói chung và xóa bỏ cây thuốc phiện nói
riêng.
- Để thực hiện các chính sách, luật pháp, Chính phủ đã có kế hoạch
hành động cụ thể: Thể hiện bằng việc Chính phủ cho triển khai Chương trình
quốc gia về phòng, chống và kiểm soát ma túy. Chương trình quốc gia có mục
tiêu, nội dung cụ thể và có nguồn lực đảm bảo.
Tính từ năm 1993 đến năm 1999, Chương trình quốc gia phòng, chống
ma túy đã được đầu tư 320 tỷ đồng. Trong đó, đã đầu tư 113,15 tỷ đồng cho
mục tiêu xóa bỏ cây thuốc phiện (có phụ lục kèm theo).
- Các chính sách của Nhà nước ta từ năm 1987 đến nay là quá trình

thể hiện sự chỉ đạo khoa học, đúng đắn với những bước đi phù hợp với thực
tế: Cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, chủ yếu chúng ta vận động,
thuyết phục đồng bào không trồng cây thuốc phiện. Đến nay 1993, Nhà nước
có chính sách trợ giúp đồng bào chuyển hướng sản xuất, ổn định đời sống
thay thế nguồn thu nhập từ cây thuốc phiện. Sau thời gian, Nhà nước có các
chính sách hỗ trợ đến năm 1997 việc kiểm soát tái trồng cây thuốc phiện chặt
chẽ hơn. Các điều luật cụ thể đã quy định rõ: Những đối tượng đã được Nhà
nước hỗ trợ ổn định cuộc sống được giáo dục mà còn tái trồng cây thuốc
phiện thì bị xử phạt hành chính, nếu tiếp tục tái trồng thì áp dụng mức phạt tù
theo Luật hình sự quy định.
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của tội trồng cây thuốc phiện
Theo Điều 192 - BLHS hiện hành thì:
- Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm vào chính sách của
Nhà nước ta về việc cấm trồng cây thuốc phiện và các loại cây khác có chứa
chất ma túy.


24

- Mặt khách quan của tội phạm: mặt khách quan của tội phạm thể hiện
ở hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy như
chuẩn bị cây giống, làm đất, gieo trồng, bón phân, vun xới… Địa điểm trồng
có thể ở rừng, ở vườn, đồi… người làm thuê trồng cây thuốc phiện hoặc các
loại cây khác có chứa chất ma túy cho người khác thì là đồng phạm về tội
này.
Người trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma
túy đã bị xử phạt hành chính, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành
chính mới bị truy cứu trách nhiệm vụ hình sự về tội này (một năm kể từ ngày
thi hành xong quyết định). Xử phạt hành chính là trường hợp cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt theo Pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính như: Cảnh cáo, phạt tiền, yêu cầu nhổ bỏ cây thuốc phiện
hoặc các loại cây trồng khác có chất ma túy… về hành vi tái trồng các loại
cây này đối với người vi phạm.
- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ
đủ 16 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của tội phạm: tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực
tiếp. Mục đích, động cơ phạm tội có thể trồng để bán, sử dụng hay chữa bệnh
không có ý nghĩa trong việc định tội.
1.2. Nhận thức cơ bản về công tác phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm trồng cây thuốc phiện
1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh chống tội
phạm trồng cây thuốc phiện và các loại khác có chứa chất ma túy
Đấu tranh chống tội phạm về ma túy nói chung, phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm trồng cây thuốc phiện nói riêng là nội dung của công tác
phòng chống và kiểm soát ma túy cần được thực hiện thường xuyên, kiên


25

quyết của mọi cấp, mọi ngành và thực hiện đồng bộ các giải pháp kinh tế - xã
hội - pháp luật.
Từ năm 1996 đến nay, với sự chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế của cả
nước nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng đã có nhiều khởi sắc, đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể, các nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành
phần trong xã hội đều tăng lên. Tuy vậy mặt trái của cơ chế thị trường đã kéo
theo sự phát sinh phát triển của một số loại tội phạm và tệ nạn xã hội, trong
đó tệ nạn nghiện các chất ma túy, nhất là ở các tỉnh phía Bắc phát triển mạnh,
có tác động xấu đến các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của cả nước cũng
như từng địa phương. Tệ nạn ma túy phát triển, số người nghiện ma túy gia

tăng là nguyên nhân, yếu tố tác động thúc đẩy tội phạm trồng cây thuốc phiện,
cũng như các tội phạm: tàng trữ, vận chuyển, mua bán và sử dụng trái phép
chất ma túy.
Trước tình hình đó ngày 30/11/1996 Ban chấp hành Trung ương Đảng
đã ra Chỉ thị số 06 về phòng, chống và kiểm soát ma túy, Đảng và Nhà nước
đã ban hành hàng loạt văn bản (Nghị quyết, Chỉ thị…) khác nhằm tăng cường
công tác đấu tranh chống ma túy nói chung, xóa bỏ cây thuốc phiện và các
loại cây khác có chứa chất ma túy nói riêng.
Đảng và Chính phủ đã tích cực chỉ đạo các ban, ngành của Trung
ương và địa phương thực hiện các chương trình, giải pháp đấu tranh quyết liệt
với tội phạm ma túy. Chính phủ và UBND các tỉnh (tỉnh có diện tích trồng
cây thuốc phiện) triển khai áp dụng nhiều chương trình dự án về kinh tế, xã
hội, nhằm ổn định đời sống của đồng bào ở những vùng có tập quán trồng cây
thuốc phiện, góp phần ổn định tình hình an ninh và trật tự xã hội ở địa
phương.
Ủy ban quốc gia phòng, chống ma túy của Việt Nam đã tăng cường
các hoạt động hợp tác phòng, chống ma túy với Liên hiệp quốc, với các nước


×