Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN sáng kiến kinh ngiệm rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường trung học phổ thông triệu sơn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.12 KB, 35 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ thực trạng dạy và học Lịch sử ở trường phổ thông chưa tìm
ra hướng đi mới khiến việc dạy và học trở nên nặng nề, không đạt được kết quả
như mong muốn. Học sinh thì chán học, sợ thi môn Lịch sử vì học nhiều vẫn
khó thi được điểm cao, giáo viên thì chán dạy, tiêu cực vì xã hội không quan
tâm, tôi đề xuất những biện pháp nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự kiểm
tra, đánh giá trong quá trình học tập Lịch sử ở trường THPT. Từ đó, học sinh có
thể tự mình kiểm chứng về kết quả học tập của mình, đồng thời có những cách
tự học, tự nghiên cứu các vấn đề Lịch sử, hiểu thấu đáo hơn các sự kiện Lịch sử,
chủ động hơn với kiến thức của mình và dần trở nên yêu thích bộ môn Lịch sử.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là khối học sinh ở các trường phổ
thông, cụ thể ở đây là học sinh lớp 10 trong phần học Lịch sử thế giới. Lí do mà
tôi chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 10, bởi đây là giai đoạn đầu tiên của
giáo dục phổ thông, vì vậy hướng dẫn các em kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá trong
học tập ở giai đoạn này rất quan trọng, là cơ sở cho các em học tập ở những giai
đoạn tiếp theo. Phần kiến thức mà tôi lựa chọn là phần Lịch sử thế giới trong
sách giáo khoa lớp 10 (chương trình chuẩn).
Đây cũng là một mảng kiến thức quan trọng và đặc biệt đây là những kiến
thức rất trừu tượng nên học sinh rất khó nắm bắt, chưa kể đến việc tự học, tự
kiểm tra, đánh giá việc học tập của học sinh. Chính vì lí do đó, mà cần những
biện pháp hướng dẫn rất cụ thể của giáo viên, giúp cho học sinh tự kiểm tra,
đánh giá việc học tập của mình đạt hiệu quả cao, nhằm nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn và phát huy năng lực tự học trong học tập của học sinh.
Hiện nay, việc dạy và học Lịch sử ở các trường phổ thông, bên cạnh ưu
điểm vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như chương trình dạy học Lịch
sử vẫn còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được điều kiện cho học sinh
phát huy tính tích cực, vận dụng những kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới vào
cuộc sống. Chính vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử trong đó
phải nhất thiết tiến hành đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra
đánh giá trong dạy và học tập Lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay.
Một trong những nội dung đổi mới phương pháp dạy học được nhiều


người quan tâm là đổi mới việc kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong
dạy và học tập lịch sử. Việc kiểm tra, đánh giá học sinh của thầy giáo và tự kiểm
tra, đánh giá của học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì nó chẳng
những là khâu cuối cùng đánh giá độ tin cậy cao mà còn có tác dụng điều tiết trở
1


lại hết sức mạnh mẽ đối với quá trình đào tạo. Qua việc tự kiểm tra, đánh giá của
học sinh giúp giáo viên sẽ thấy được những thành công và những vấn đề cần rút
kinh nghiệm trong giảng dạy, hiểu rõ mức độ kiến thức và kỹ năng của học sinh.
Từ đó có những biện pháp sư phạm tích cực, thích hợp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.
Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Rèn cho học sinh kỹ năng tự
kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình
chuẩn) ở Trường trung học phổ thông Triệu Sơn 2”

2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói chung, phương pháp
kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học Lịch sử nói riêng là
một trong những vấn đề mang tính chiến lược cấp thiết trước những yêu cầu đổi
mới toàn diện của đất nước. Đổi mới nền giáo dục và đào tạo có ý nghĩa vô cùng
lớn lao, là yếu tố quan trọng hàng đầu đáp ứng việc “đào tạo bồi dưỡng và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”. Cùng với việc đổi mới về nội dung, chương trình giảng dạy, chúng ta cần
đổi mới cả về phương pháp dạy học trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra,

đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá. Xuất phát từ mục tiêu trên, việc dạy học Lịch
sử phải đáp ứng được mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, nhất là việc đổi
mới phương pháp dạy học.
Như vậy, vấn đề đổi mới giáo dục đào tạo nói chung, đổi mới phương
pháp dạy học Lịch sử nói riêng trong đó có phương pháp kiểm tra, đánh giá và
tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học lịch sử luôn được Đảng và nhà nước quan
tâm. Mặt khác, việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những biện pháp
hữu hiệu để nhà trường và giáo viên thực hiện tốt những mục tiêu trên.
1.2. Tóm tắt thực trạng vấn đề nghiên cứu.
1.2.1. Đối với giáo viên.
Vấn đề kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh từ lâu đã được các nhà lý luận dạy học, các giáo viên phổ thông quan tâm,
chú ý. Họ đều thừa nhận rằng một trong những biện pháp quan trọng để nâng
cao chất lượng đào tạo là phải chú trọng đến vai trò của vấn đề kiểm tra, đánh
giá của giáo viên và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong dạy và học.
Xuất phát từ những quan niệm cho rằng dạy cái gì thì kiểm tra cái đó,
kiểm tra, đánh giá là công việc có tính chất bắt buộc định kỳ. Chính vì hiểu kiểm
tra, đánh giá là một hoạt động. Để lấy điểm cho đủ, chứ không phải xem xẻ tình
hình học tập của học sinh, để có những điều chỉnh hoạt động dạy của mình và
hoạt động của học sinh, vì thế nên chất lương học tập của học sinh chưa cao.
Thêm nữa, nội dung kiểm tra không mang tính hệ thống, toàn diện (giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển), chủ yếu mang tính chất chủ quan của thầy (thích phần
nào thì cho kiểm tra phần ấy), hoặc có để xem học sinh nhớ kiến thức của thầy
như thế nào cho nên chưa đòi hỏi học sinh phải tư duy thông minh, độc lập, vận
dụng kiến thức.
3


Điều này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về mặt tâm lý đối với học sinh, các
em bị ức chế, dẫn tới học đối phó và có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy

học bộ môn.
1.2.2. Đối với học sinh.
Trong thực tế giáo dục ở nước ta, vấn đề kiểm tra, đánh giá và tự kiểm
tra, đánh giá của học sinh có hiệu quả để giúp cho học sinh tự tìm tòi, hiểu biết,
phát triển ý chí, năng lực, bồi dưỡng rèn luyện viêc độc lập học tập chưa cao.
Vẫn chưa loại bỏ được cách kiểm tra, đánh giá mang tính thực dụng, tiến hành,
thực hiện không nghiêm túc. Đa số học sinh hiện nay ở các trường phổ thông
đều có tư tưởng phân biệt môn chính, môn phụ. Vì thế các em chỉ tập trung vào
các môn chuẩn bị cho khối thi, chuẩn bị cho nghề nghiệp sau này. Cho nên dẫn
tới tình trạng các em học sinh không hứng thú. Ví dụ, tới các kỳ kiểm tra, học
sinh chỉ chú trọng tới việc học thuộc lòng các câu hỏi của thầy cô, không chú ý
tới việc đọc thêm các tài liệu tham khảo hoặc nghiên cứu sâu hơn bởi thầy cô
giáo cũng chỉ yêu cầu các em học thuộc lòng phần mình kiểm tra là đủ. Tuy
nhiên, cũng có một số học sinh yêu thích bộ môn Lịch sử. Trong quá trình học
các em có chịu khó tìm hiểu vấn đề, đọc được các tài liệu có liên quan đến vấn
đề, cho nên khi kiểm tra làm bài tốt hơn. Nhưng các em lại không có sự động
viên, khuyến khích của giáo viên khi mình tìm ra vấn đề mới hơn các bạn khác,
kết quả kiểm tra cũng không hơn các bạn học thuộc lòng câu hỏi của thầy cô.
Hơn nữa, nhược điểm của kiểm tra, đánh giá còn tồn tại như trên đã nói
làm cho học sinh không có hứng thú học tập bộ môn, học sinh học ghi nhớ một
cách máy móc, không tư duy…Vì thế dễ dàng quên đi một cách nhanh chóng
kiến thức đã học. Cách kiểm tra, đánh giá như vậy gây ra tâm ký coi thường bộ
môn của học sinh.
2. Thực trạng vấn đề.
2.1. Vai trò của việc tự kiểm tra, đánh giá trong học tập.
Kiểm tra, đánh giá nói chung và tự kiểm tra, đánh giá nói riêng là khâu
cuối cùng của quá trình dạy học đồng thời là mốc mở đầu cho một chu trình
khép kín tiếp theo với một chất lượng cao hơn. Do đó, nó là khâu không thể
thiếu được trong quá trình dạy học. Nó là một trong những biện pháp quan trọng
để nâng cao chất lưọng dạy và học và phát huy năng lực tự học của học sinh. Vì

vậy, nó có ý nghĩa rất to lớn đối với cả giáo viên và học sinh.
2.2. Tự kiểm tra, đánh giá nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh
trong học tập.

4


Các nhà giáo dục lịch sử đã khẳng định, kiểm tra, đánh giá trong học tập là
quá trình thu thập và xử lý thông tin về tình hình lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư
tưởng đạo đức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của người học so với mục tiêu, yêu cầu
học tập. Sự hiểu biết về các nguyên nhân và ảnh hưởng của tình hình học tập của
người học giúp giáo viên có những biện pháp sư phạm thích hợp nhằm nâng cao
chất lượng dạy học và giúp học sinh ngày càng tiến bộ hơn. Vì vậy, chúng ta có
thể hiểu rằng: tự kiểm tra, đánh giá trong học tập là quá trình người học tự thu
thập, xử lý thông tin về việc lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo của mình so với yêu cầu đặt ra. Từ đó, học sinh thấy
rõ các ưu, khuyết điểm của mình trong học tập, đặc biệt là phương pháp học tập
để tìm cách khắc phục. Vấn đề tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong học tập
thực chất là các hoạt động tự học.
Rõ ràng, việc tổ chức tốt hoạt động tự học ở nhà cho học sinh sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn ở trường phổ thông và là một trong
những biện pháp tự kiểm tra, đánh giá hiệu quả kết quả học tập, lĩnh hội kiến
thức của học sinh.
3.Giải pháp và tổ chức thực hiện.
Một số biện pháp rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá
trong học tập lich sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường THPT.
3.1. Vị trí, mục tiêu cảu lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn).
3.1.1.Vị trí.
Chương trình Lịch sử ở cấp Trung học phổ thông đã được Hội đồng thông
qua, được Bộ giáo dục và Đào tạo cho phép thực hiện từ năm học 1990 - 1991.

Kiến thức Lịch sử nói chung, Lịch sử lớp 10 nói riêng, bao gồm hai phần cơ
bản, đó là “sử và luận”. Phần “sử” chính là tất cả những sự kiện, tích hợp, đã
xảy ra trong xã hội loài người cũng như của dân tộc, được khoa học Lịch sử xác
nhận, ghi chép lại trong các cuốn sách giáo khoa. Nó bao gồm nhiều yếu tố tạo
thành sự kiện Lịch sử như: thời gian, địa điểm, nhân vật diễn biến, kết quả…
Những yếu tố để giúp học sinh biết lịch sử diễn ra như thế nào một cách
căn bản. Đương nhiên học Lịch sử không chỉ có biết các sự kiện, mà còn phải
hiểu bản chất của các sự kiệ, hiện tượng lịch sử đó. Nói một cách khác, còn phải
biết giải thích, đánh giá, bình luận các sự kiện lịch sử theo quan điểm của sử học
Macxit. Trong dạy học Lịch sử, phải tuân thủ một nguyên tắc: không một sự
kiện, hiện tượng nào là không được giải thích đánh giá và muốn đánh giá, giải
thích đều phải xuất phát từ sự kiện mà chúng ta biết được. Việc kiểm tra – đánh
giá bằng phương pháp trắc nghiệm kết hợp với tự luận chính là góp phần để
5


đánh giá đúng quá trình tiếp thu, bình luận những kiến thức nói trên của học
sinh. Thông thường phần trắc nghiệm trong dạy học Lịch sử là để kiểm tra
“biêt” và tự luận để kiểm tra “hiểu” Lịch sử của các em lớp 10: Lịch sử thế giới
cổ trung đại, Lịch sử thế giới cận đại thời kỳ I
3.1.2. Mục tiêu.
Như vậy khi học sinh được học phần Lịch sử thế giới lớp 10, các em đã có
những nhận thức khái quát về lịch sử buổi đầu của con người và xã hội loài
người: sự xuất hiện, sinh hoạt đời sống, tổ chức xã hội cũng như sự hình thành
ra xã hội phong kiến ở Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Âu…với những
nét chủ yếu về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, và những thành tựu văn hoá
rực rỡ của các quốc gia thời phong kiến. Và với một phần của Lịch sử thế giới
cận đại với sự xuất hiện của các cuộc Cách mạng tư sản dẫn tới sự hình thành
các nhà nước tư sản và cuộc đấu tranh của phong trào công nhân cuối thế thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX giúp cho học sinh lớp 10 có được những hình dung quan

trọng về tiến trình phát triển của loài người tử cổ đại, trung đại và cận đại. Từ
những hiểu biết đó giúp học sinh có nhận thức khái quát về vị trí của Lịch sử
dân tộc là một bộ phận của Lịch sử thế giới. Trên cơ sở đó các em sẽ hiểu sâu
sắc hơn những nét đặc thù của Lịch sử dân tộc. Đồng thời, qua đó sẽ giáo dục
cho các em lòng yêu lao động, vì lao động không những tạo nên con người, nâng
cao đời sống của con người mà còn hoàn thiện bản thân con người.
3.2. Một số biện pháp rèn luyện tự kiểm tra, đánh giá cho học sinh trong
học tập lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường THPT.
3.2.1. Những yêu cầu khi xác định các biện pháp rèn kĩ năng tự kiểm tra,
đánh giá cho học sinh trong học tập lịch sử ở trường THPT.
Các nhà giáo dục lịch sử đã khẳng định, kiểm tra, đánh giá trong học tập là
quá trình thu thập và xử lý thông tin về tình hình lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư
tưởng đạo đức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của người học so với mục tiêu, yêu cầu
học tập. Sự hiểu biết về các nguyên nhân và ảnh hưởng của tình hình học tập của
người học giúp giáo viên có những biện pháp sư phạm thích hợp nhằm nâng cao
chất lượng dạy học và giúp học sinh ngày càng tiến bộ hơn.
Quá trình dạy học chỉ có kết quả khi người học tự nỗ lực, tự học để nắm
vững những tri thức mà nhân loại đã tích luỹ được, tức là việc: “tự chuyển hóa”
như Mác nói.
Tự học ở nhà trường phổ thông là tự học có hướng dẫn. Tự học là quá
trình tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người trên con đường học tập thường
xuyên của cả cuộc đời. Nó thực sự là chìa khoá vàng của giáo dục, đặc biệt là
6


giáo dục phổ thông và đại học. Bởi vì tự học sẽ giúp học sinh tự lực nắm vững
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về nghề nghiệp tương lai. Do đó, rèn luyện kỹ năng tự
kiểm tra, đánh giá là một biện pháp quan trọng thực hiện dạy học theo hướng
tích cực hoá hoạt động của người học, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh
viên. Việc tự kiểm tra, đánh giá có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với học sinh về

các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Về mặt nhận thức, tự kiểm tra, đánh giá tạo nên mối liên hệ ngược trong,
giúp học sinh có cơ sở thực tế với độ tin cậy cao để tự đáng giá kết quả học tập của
mình, cũng như khắc phục sai lầm thiếu sót. Nó góp phần củng cố vững chắc các
kiến thức đã lĩnh hội của học sinh. Đặc biệt, khi tự kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ tự
khẳng định được mình, tự mình đề xuất được biện pháp thoả đáng để điều khiển và
thúc đẩy hoạt động học tập của bản thân vận động đi lên.
Về mặt tư tưởng, tình cảm, tự kiểm tra, đánh giá có tác dụng tự bồi dưỡng
cho học sinh lòng tự tin, ý chí quyết tâm đạt kết quả cao trong học tập, tính kiên
trì vượt khó trong lao động học tập, tính trung thực, tinh thần tập thể giúp đỡ
nhau trong học tập.
Về mặt phát triển, tự kiểm tra, đánh giá góp phần hình thành kỹ năng thói
quen trong học tập như nhận thức về vấn đề đặt ra, nhạy bén, biết vận dụng kiến
thức, kỹ năng vào các hoạt động thực tiễn, thực tập…
Song trong thực tế việc tự học nói chung, tự kiểm tra, đánh giá nói riêng
của học sinh đối với môn Lịch sử ở trường phổ thông chưa đáp ứng được yêu
cầu đặt ra. Học sinh chưa nhận thức được việc học tập suốt đời là con đường
mưu sinh cơ bản của mình trong thời đại ngày nay. Cho nên học sinh chưa có
phương pháp học tập chủ động, chưa có ý thức tốt thường xuyên tự kiểm tra,
đánh giá việc học tập của bản thân, chỉ biết tập trung học khi kiểm tra, thi cử.
Để đạt được những nội dung dạy học nói chung và môn Lịch sử ở trường
phổ thông nói riêng, học sinh phải phát huy cao vai trò chủ động, trong đó cần
thiết phải rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá.
3.2.2. Nội dung và biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá
trong học tập lịch sử ở trường THPT.
3.2.2.1. Biện pháp giúp học sinh tái hiện những điều đã học.
Biện pháp giúp học sinh biết tái hiện những điều đã học về kiến thức lịch
sử theo các dàn ý, đề cương nhất định và tập trình bày cho bản thân hay người
khác nghe. Vì sao tái hiện lại những điều đã học là một biện pháp quan trọng
của học sinh trong học tập lịch sử?


7


Không có kiến thức về lịch sử không thể hiểu sự phát triển tương lai của
xã hội. Tuy nhiên, trong dạy học lịch sử không thể cung cấp và tiếp thu mọi kiến
thức của khoa học lịch sử mà chỉ có thể làm cho học sinh nắm vững những kiến
thức cơ bản. Nó gồm nhiều yếu tố: sự kiện lịch sử, các niên đại, địa danh lịch sử,
các nhân vật lịch sử, niên đại, khái niệm lịch sử, các quy luật nguyên lý…..Như
vậy, bằng những sự kiện lịch sử cơ bản được chọn lọc kĩ, bộ môn lịch sử khôi
phục lại cho học sinh bức tranh lịch sử như nó đã từng tồn tại.
Tái hiện là một quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã được ghi
nhớ và giữ gìn. Quá trình tái hiện những kiến thức đã học được biểu hiện dưới
ba hình thức: nhận lại, nhớ lại và hình dung tưởng tượng lại (hồi tưởng). Thông
qua các hoạt động đó người học tự kiểm tra, đánh giá được trình độ kiến thức về
nghề nghiệp của bản thân đã được học. Từ đó học sinh thấy rõ những điều đã
nắm vững, những kiến thức cần bổ sung và tự khắc phục bằng hỏi bạn, tìm trong
sách vở hoặc hỏi thầy. Rõ ràng, biết tái hiện những kiến thức Lịch sử đã học là
một trong những công việc quan trọng để rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, đánh
giá của học sinh. Để tái hiện được những điều đã học, học sinh cần thực hiện các
hành động:
Tự lập các dàn ý, đề cương theo những vấn đề kiến thức Lịch sử đã học.
Công việc này giúp học sinh nhớ lại những kiến thức đã nghiên cứu theo cách
hiểu của mình và nắm vấn đề một cách lôgic hệ thống.
Nhớ lại, nhận lại, hồi tưởng lại những kiến thức đã học (sự kiện, biểu
tượng, khái niệm, quy luật, bài học…) theo dàn ý cấu tạo.
Tự trình bày hoặc trao đổi theo nhóm những kiến thức theo dàn ý đã lập.
Hoạt động này vừa có tác dụng củng cố kiến thức một cách sâu sắc, hệ thống,
vừa rèn luyện khả năng diễn đạt nói của học sinh và tự đánh giá được các kiến
thức đã nhớ lại (những kiến thức đã nắm vững, những kiến thức cần sửa chữa,

bổ sung). Ví dụ với “Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thuỷ”
học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức bằng cách lập dàn ý
những kiến thức cơ bản cần nắm được của bài, nhớ lại hồi tưởng lại những kiến
thức đó bằng cách tự trình bày hoặc trao đổi theo nhóm những kiến thức theo
như dàn ý đã lập.
Sau khi học xong bài, học sinh về nhà có thể lập tự lập được dàn ý những
kiến thức cơ bản cần nắm sau đây:
1.
Sự chuyển biến từ loài vượn người: Từ vượn nhân hình đến người tối
cổ: Vai trò và ý nghĩa của lao động đối với việc hình thành con người và xã hội

8


loài người: “Trong một ý nghĩa nhất định, chính lao động đã tạo ra con người và
xã hội loài người” (Ph. Ăngghen).
2.
Đời sống vật chất của con người nguyên thuỷ: Công cụ đá cũ, kiếm
sống bằng bằng hái lượm và săn bắt của cả cộng đồng người lúc bây giờ, biết sử
dụng lửa tự nhiên và tạo ra lửa.
3.
Quan hệ xã hội: Tổ chức thành bầy người nguyên thuỷ
4.
Người tinh khôn (Người hiện đại) thể hiện bước tiến tiếp theo của con
người, sau bước nhảy vọt từ vượn thành người. Phân biệt người tinh khôn với
người tối cổ về mặt cấu tạo cơ thể, nhất là sự sáng tạo trong việc cải tiến công
cụ, nâng cao hiệu quả lao động sản xuất.
5.
Cuộc cách mạng đá mới: Với sự phát triển trong chế tác công cụ lao
động, những tiến bộ sản xuất và đời sống xã hội.

Ngoài những kiến thức cơ bản như trên học sinh cần phải nắm được cả
nội dung các thuật ngữ, nội hàm các khái niệm lịch sử trong bài như:
Xã hội nguyên thuỷ: Thời kì đầu tiên của xã hội loài người bắt
đầu từ khi con người và xã hội xuất hiện đến lúc xã hội phân chia thành giai cấp
và nhà nước ra đời. Đặc trưng của xã hội nguyên thuỷ là sở hữu chung về tư liệu
sản xuất, mọi người đều lao động và thừa hưởng thành quả lao động của mình
làm ra.
Bầy người nguyên thuỷ: Tổ chức xã hội đầu tiên của loài người,
gồm khoảng 3 - 4 chục người, sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau.
Họ cùng lao động, tìm kiếm thức ăn (hái lượm, săn bắt hay săn đuổi) và đấu
tranh chống thú dữ để tự vệ. Bầy người nguyên thuỷ là tổ chức đầu tiên của xã
hội nguyên thuỷ, từ khi con người xuất hiện cách đây khoảng 4 triệu năm đến
lúc người hiện đại ra đời khoảng 4 vạn năm trước đây.
Vượn cổ: Một loài vượn sống khoảng 6 triệu năm trước đây, đã
có thể đứng và đi bằng hai chi sau, còn hai trước có thể dùng trong việc cầm nắ,
hái hoa quả và tìm kiếm thức ăn. Ở Việt Nam (vùng Lạng Sơn, Hoà Bình) tìm
thấy xương hoá thạch của loài vượn cổ.
Vượn người: Một loài vượn cổ đã đạt tới đỉnh cao của quá trình
chuyển biến từ vượn sang người ở một thời điểm, điều kiện lịch sử nhất định lúc
bấy giờ (cách đây khoảng 4 triệu năm).
Người tối cổ (còn gọi là “người vượn”): Sự xuất hiện của con
người, thoát khỏi giới động vật, xuất hiện cách đây khoảng 4 triệu năm. Người
tối cổ tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình, song đó là người, đã
đi đứng bằng hai chân, đôi tay sử dụng tương đối thành thạo công cụ, tìm kiếm
9


thức ăn; thể tích hộp sọ khoảng 900cm3; đã hình thành trung tâm phát triển
tiếng nói, biết chế tạo công cụ lao động.
Thuật ngữ người hiện đại, chủng tộc, thời đá cũ, thời đại đồ đá

mới, cách mạng thời đá mới.
Trong lúc học bài, học sinh phải ghi nhớ những nội dung cơ bản của bài
theo dàn ý như trên sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu, bền hơn những kiến thức đã
được lĩnh hội trên lớp theo bài giảng của thầy, cô giáo, của sách giao khoa và
các tài liệu tham khảo.
Các hành động trên thường xuyên được rèn luyện sẽ giúp học sinh có kỹ năng
học tập, phát huy nỗ lực của bản thân trong việc lĩnh hội kiến thức đã học.
3.2.2.2. Biện pháp hướng dẫn học sinh tự trả lời những câu hỏi trong giáo
trình hoặc tài liệu hướng dẫn học tập.
Câu hỏi là thuật ngữ dùng để chỉ việc nêu vấn đề trong nói hoặc viết, đòi
hỏi phải có cách giải quyết. Câu hỏi được sử dụng phổ biến trong cuộc sống
cũng như trong dạy học. Tuy nhiên, câu hỏi trong cuộc sống không hoàn toàn
giống với câu hỏi trong dạy học. Những câu hỏi giáo viên đưa ra trong dạy học,
câu hỏi trong sách giáo khoa là những vấn đề mà giáo viên đã biết và học sinh
đã học hoặc trên cơ sở những kiến thức đã học mà trả lời một cách thông minh,
sáng tạo. Do đó, câu hỏi trong dạy học bao giờ cũng mang yếu tố mở, yếu tố
nhận biết, khám phá hoặc khám phá dưới dạng một thông tin khác bằng cách
cho học sinh tìm ra mối liên quan hệ, các quy tắc, các con đường tạo ra câu hỏi
hoặc một cách giải quyết mới.
Để trả lời những câu hỏi này, học sinh không thể chỉ sử dụng nguyên xi
các kiến thức, kĩ năng sẵn có mà phải xử lí khéo léo và huy động nhiều bước
trung gian trong trí tuệ của họ. Ví dụ, câu hỏi: “Tình hình 13 thuộc địa Anh ở
Bắc Mĩ trước chiến tranh giành độc lập?”. Với những loại câu hỏi như trên
không yêu cầu quá khó đối với học sinh, mà chỉ nhằm giúp học sinh nắm chắc
những kiến thức lịch sử cơ bản sau mỗi bài học, chương trình học. Ví dụ sau bài
5: Trung Quốc thời phong kiến, sau mỗi phần nội dung trong sách giáo khoa đều
có câu hỏi như: “Vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Tần”, hay câu: “Những
biểu hiện sự thịnh trị về kinh tế, chính trị của xã hội phong kiến Trung Quốc
dưới thời Đường là gì?” hoặc câu hỏi: “Những mầm mống của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa dưới thời Minh đã xuất hiện như thế nào? ….. Việc học sinh tự

lập dàn ý để trả lời những câu hỏi trong sách giáo khoa như nêu trên giúp học
sinh tái hiện, ghi nhớ những kiến thức cơ bản của mỗi bài học, cũng như cả
chương trình.
10


Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá này, học sinh cần:
Xác định được yêu cầu của câu hỏi
Xác định nội dung câu trả lời có trong giáo trình và tài liệu học tập
Dự kiến câu trả lời (dàn ý)
Tái hiện những kiến thức liên quan đến trả lời.
Tập trình bày câu trả lời trong nhóm hoặc trước lớp
Bên cạnh việc tự trả lời các câu hỏi trong giáo trình, sách hướng dẫn học
tập, điều quan trọng trong hình thức tự kiểm tra, đánh giá này là hoc sinh cần tự
đề ra câu hỏi để tự mình giải quyết hay trao đổi thảo luận với bạn bè.
Ví dụ với Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương Đông. Trước khi học sinh
tiến hành lập dàn ý những kiến thức cơ bản của bài, cần phải dựa trên mục tiêu
của bài học đã được thầy, cô giáo đặt ra trong quá trình giảng dạy trên lớp.
Mục tiêu trên đạt được, trên cơ sở những kiến thức cơ bản sau:
Xã hội công xã nguyên thuỷ tan ra, xã hội có giai cấp rồi các quốc
gia hình thành. Xã hội có giai cấp đầu tiên là xã hội chiếm hữu nô lệ; các quốc
gia cổ đại không xuất hiện đồng loạt và hoàn toàn giống nhau với hai mô hình
xã hội cổ đại phương Đông và xã hội cổ đại phương Tây.
Những nét chính về điều kiện tự nhiên, sự phát triển và đặc điểm
kinh tế của các quốc gia cổ đại phương Đông, địa bàn, thời gian hình thành các
quốc gia cổ đại, sự phân hoá trong xã hội với sự ra đời của các giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị, tổ chức của nhà nước chuyên chế với quyền chuyên chế của
nhà vua.
Sau khi đã lập dàn ý những nội dung cơ bản của bài một cách có
hệ thống và khoa học như vậy, học sinh có thể tự mình giải đáp được những câu

hỏi có trong sách giáo khoa liên quan đến bài học. Với câu hỏi: “Tại sao cư dân
trên lưu vực các dòng sông lớn ở châu Á, châu Phi có thể sớm phát triển thành
xã hội có giai cấp và nhà nước? Đặc điểm kinh tế của các vùng này là gì?”.
Những kiến thức này đã được học sinh ghi nhớ trong quá trình lập dàn ý những
nội dung cơ bản của bài học.
Ngoài việc ghi nhớ, hiểu nội dung cơ bản của bài, tự trả lời những câu hỏi
trong sách giáo khoa, học sinh có thể nêu một số vấn đề để tự giải quyết, trao
đổi, thảo luận ở lớp, nhóm học tập. Các vấn đề này được nêu dưới các hình thức
câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách quan.
Ví dụ học sinh có thể tự đặt vấn đề dưới dạng câu hỏi như sau: “Trong
những điều kiện tự nhiên nhu thế nào các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời?”.
Với câu hỏi này học sinh dựa vào những kiến thức đã ghi nhớ và tự giải quyết
11


vấn đề với những gợi ý như sau: Sự cải tiến của công cụ lao động, sự phát triển
của sản xuất tiến tới sự tư hữu, phân chia giai cấp, hình thành nhà nước (ôn tập
bài học trước
Với bài này học sinh cũng có thể tự đặt ra câu hỏi: “ Vẽ bản đồ châu Á,
châu Phi và đánh dấu , vẽ kí hiệu tượng trưng của các quốc gia cổ đại phương
Đông (ví dụ như ở Ai Cập vẽ kim tự tháp). Hoặc “Sưu tầm các mẩu chuyện lịch
sử, liên quan đến sự kiện trong bài học, để viết một bài tường thuật ngắn về
“nhân dân Ai Cập xây dựng Kim tự tháp”, bài miêu tả về “Kim tự tháp Ai Cập”
hoặc nêu nội dung các hình vẽ trong bài, ví dụ như miêu tả “cột đá khắc toàn bộ
luật Hammurabi”). Để giải quyết câu hỏi này học sinh có thể cùng các bạn trong
nhóm học tập của mình dựa tren những kiến thức được học trong sách giáo
khoa, trong các tài liệu tham khảo: sách, báo, tạp chí, hay trên Internet có thể
cùng nhau đưa ra câu trả lời sau: Ví dụ cột đá khắc toàn bộ luật Hammurabi là
cột đá tròn, cao gần 2m (loại đá lửa), được xác đinh là bia khác bộ luật của vua
Hammurabi, trị vì Babilon từ 1792 – 1750 TCN. Hoặc học sinh có thể đặt ra câu

hỏi trắc nghiệm khách quan liên quan đến nội dung bài học trên như sau: Đánh
dấu khoanh tròn vào câu trả lời cho là đúng:
1.
Xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện đầu tiên ở phương Đông:
Trên vùng núi cao
Dọc lưu vực các sông lớn ở châu Á, châu Phi
Dọc các vùng ven bờ biển châu Âu
2. Xã hội cổ đại phương Đông có sự phân hoá sâu sắc giữa:
Nông dân và địa chủ
Nô lệ và chủ nô
Vô sản và tư sản
3. Các thành tựu văn hoá cổ đại phương Đông:
Chữ Nôm
Chữ tượng hình
Tháp Chàm
Chữ tượng ý
Kim tự tháp
Tin học
Thiên văn hoc, toán học, y học, văn học, sử học
Thực hiện những hoạt động trên thường xuyên, hệ thống chính xác sẽ
giúp cho học sinh dần dần có kỹ năng của môn học nói riêng và những kĩ năng
học tập nói chung.
12


3.2.2.3. Làm các bài tập do giáo viên yêu cầu.
Để nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng trong quá
trình học tập, học sinh cần phải làm tốt các bài tập mà giáo viên bộ môn đã
giao. Đây là một biện pháp có tác dụng thiết thực để phát triển các năng lực
nhận thức chủ động, độc lập trong học tập của học sinh.

Bài tập lịch sử được xây dựng trên cơ sở một sự kiện quan trọng, một số
bài học, một chương hay là một quá trình học tập. Nó khơi dậy tư duy, trí tuệ
của học sinh ở vùng phát triển gần nhất, đồng thời yêu cầu cao đối với các em
nhằm khắc sâu, củng cố vững chắc bài học và hoàn thiện kiến thức. Bài tập lịch
sử rất đa dạng và phong phú, có thể phân thành bài tập nhận thức, bài tập thực
hành bộ môn, bài tập chắc nghiệm khách quan, vận dụng kiến thức
Bài tập nhận thức, bài tập nêu vấn đề thường được diễn đạt dưới dạng câu
hỏi hoặc có ý kiến khác nhau mà giáo viên đưa ra cho học sinh đánh giá. Bài tập
nhận thức có khả năng nâng cao trình độ tư duy, phát triển khả năng lập luận, lí
giải cho học sinh. Do đó, không chỉ giúp học sinh khôi phục hình ảnh quá khứ,
mà còn đi sâu vào nhận thức bản chất của sự kiện lịch sử. Vì vậy, khi xây dựng
và sử dụng bài tập nhận thức, bài tập nêu vấn đề phải đảm bảo các yêu cầu: Bài
tập tập trung vào nội dung cơ bản của bài, của chương hay khoá trình là những
điều mới học sinh chưa biết, cần phải giải quyết trong giờ học đó hay quá trình
học tập, đòi hỏi học sinh phải tích cực, độc lập làm việc.
Tựu chung lại có một số hình thức bài tập mà học sinh khi học môn Lịch
sử nói chung và Lịch sử thế giới nói riêng cần thực hiện trong quá trình học tập
để thông qua đó tự kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của bản thân trong đó
có việc thực hiện các bài tập về nhà.
3.2.2.4. Bài tập về nhà.
Bài tập về nhà trong học tập nói chung, học tập lịch sử nói riêng là một
trong những phương pháp để phát triển tư duy độc lập của học sinh. Song, bài
tập chỉ có hiệu quả khi nó tiếp tục hoàn thiện về hình thành kiến thức, giáo dục
tình cảm, đạo đức và phát triển học sinh. Muốn vậy, bài tập về nhà nên tránh bắt
các em học thuộc một cách máy móc sách giáo khoa hoặc bài giảng của thầy. Có
thể đưa nhiều dạng bài tập về nhà để phát triển hoạt động nhận thức độc lập của
học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Trong dạy học Lịch sử có thể
sử dụng các loại bài tập về nhà như:
* Bài tập dưới dạng một câu hỏi tổng hợp: Yêu cầu đối với loại bài tập này
không phải là học sinh lặp lại những kiến thức đã tiếp nhận trên lớp mà phải


13


xem xét những sự kiện đã học trong mối quan hệ khác.Loại bài tập này thường
được nêu ra khi học sinh nghiên cứu xong một số bài, hoặc chương.
* Bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng thực hành, hệ thống, khái quát hoá kiến thức
và vận dụng kiến thức. Loại bài tập này có nhiều hình thức. Bài tập lập niên biểu
giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức, ghi nhớ, so sánh các sự kiện để rút ra
những dấu hiệu bản chất, sự khác biệt giữa chúng. Các loại đồ dùng trực quan
quy ước trên có tác dụng rất lớn trong việc phát trỉên tư duy học sinh, giúp các
em nắm vững và đi sâu vào bản chất sự kiện.
* Bài tập trắc nghiệm khách quan.
Việc đưa ra những bài tập về nhà có chất lượng yêu cầu học sinh phải
hoàn thành sẽ giúp các em tự kiểm tra, đánh giá được trình độ của mình, đồng
thời giáo viên cũng nắm được trình độ hiểu biết kiến thức, những kĩ năng giải
quyết bài tập, thực hành của các em. Song, để có những bài tập chất lượng đòi
hỏi giáo viên phải đầu tư, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo.
Rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá trong học tập của học sinh trong
học tập lịch sử thế giới lớp 10 ở trường trung học phổ thông, thực chất là giúp
hình thành ở học sinh năng lực tự học – chìa khoá vàng của giáo dục, một hình
thức tổ chức dạy học cơ bản. Do vậy, trong học tập học sinh cần có ý thức luyện
tập và thường xuyên rèn luyện, còn giáo viên cần phải đặt ra yêu cầu và hướng dẫn
học sinh thực hiện.
Trên đây là một số những biện pháp giúp học sinh học tập để tiến hành tự
kiểm tra, đánh giá có hiệu quả trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình
thành, phát triển năng lực tự học của bản thân.
3.3 Thực nghiệm sư phạm
3.3.1 Mục đích, nguyên tắc, phương pháp thực nghiệm, kết luận
3.3.1.1. Mục đích

Khi đưa các biện pháp nhằm hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra,
đánh giá trong học tập phần Lịch sử thế giới lớp 10 trong trường phổ thông
nhằm:
Xem xét mức độ phù hợp của những biện pháp hướng dẫn học sinh tự
kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10. Sau khi đưa vào thử
nghiệm, sẽ lựa chọn được các biện pháp vừa sức với học sinh.
Thực nghiệm chứng minh tính khả thi và ý nghĩa thực tiễn của những
biện pháp được đưa ra trong đề tài.

14


Nhằm so sánh ý nghĩa tích cực của việc sử dụng các phương pháp
hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá theo cách thức đổi mới với những biện
pháp kiểm tra, đánh giá truyền thống.
Thu thập những ý kiến đề xuất từ phía giáo viên và những hứng thú
phản ánh từ phía học sinh về nội dung, hình thức, số lượng kiến thức….trong
việc tự kiểm tra, đánh giá kiến thức đã học.
3.3.1.2. Nguyên tắc
Các bài dùng làm thực nghiệm phải gắn với nội dung chương trình SGK
theo qui định của Bộ Giáo dục. Các bài thực nghiệm phải phù hợp với đối tượng
học sinh, phù hợp với từng loại trường.
Bài thực nghiệm phải đảm bảo chính xác về mặt khoa học. Kết quả thực
nghịêm phải được xử lí khoa học đảm bảo tính khách quan, phản ánh đúng được
ưu, nhược điểm của các biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá.
3.3.1.3. Phương pháp
Chọn đối tượng thử nghiệm và địa bàn thử nghiệm. Đề tài được tiến hành
thử nghiệm tại hai trường trong thị trấn là trường lớn. Giáo viên có năng lực và
trình độ chuyên môn vững vàng, trong bộ môn Lịch sử có nhiều giáo viên giỏi cấp
thị xã và tỉnh, học sinh phần lớn có lực học từ trung bình đến khá giỏi còn lực học yếu

kém chiếm tỷ lệ thấp.
4. Kiểm nghiệm đề tài.
Thời gian thực nghiệm
Học kì II của năm học 2013-2014 và của năm học 2014 - 2015.
Đối tượng thực nghiệm
Học sinh lớp 10, chương trình SGK hiện hành theo chuẩn của Bộ Giáo dục.
Bài học được chọn biên soạn đề bài thực nghiệm
Bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại
Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu Âu và Mĩ giữa thế kỉ XIX
Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân.
Bài 37: Lê – nin và phong trào công nhân Nga đầu thế kỉ XX
Hướng dẫn thực nghiệm
Giáo viên làm đề tài có nhiệm vụ hướng dẫn học sinh cách làm các đề bài
thực nghiệm vì các bài kiểm tra có các câu hỏi ở nhiều dạng khác nhau, nhiều
dạng học sinh chưa quen thuộc. Hướng dẫn giáo viên và học sinh cách trình bày
ý kiến của mình vào bản tổng hợp đánh giá tính hiệu quả của các phương pháp
hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá.
Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm
15


Kết quả thực nghiệm được đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau. Phân
chia kết quả làm bài của học sinh theo hai nhóm. Nhóm cao gồm có xấp xỉ 27%
của toàn nhóm có điểm số cao nhất và nhóm thấp gồm có số bài tương đương
27% có số điểm thấp nhất.
Ghi số lần trả lời đúng của học sinh trong mỗi nhóm cao và thấp. Cho mỗi
lựa chọn của mỗi câu trắc nghiệm theo mẫu dưới đây.
Ví dụ: Câu trắc nghiệm số 2 bài thực nghiệm số 1
Bảng 3.1: Thống kê tần số các câu trả lời đúng của học sinh theo hai
nhóm.

Các lựa chọn
Nhóm
Tổng cộng
a
b
c
d
Nhóm cao (27%)
2
12
5
3
20
Nhóm thấp (27%)

3

4

7

6

20

Về mặt định lượng: Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập đã xây
dựng để tiến hành kiểm tra với học sinh khối lớp 10. Nội dung những câu hỏi
nhằm đánh giá kết quả học tập của học sinh theo các mức độ:
+ Nhận biết và xác định đúng những kiến thức cơ bản của bài học
+ Rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.

Về mặt định tính: Chúng tôi quan sát, nhận xét trên các mặt sau:
+ Không khí lớp học.
+ Thái độ, hứng thú học tập của học sinh.
+ Tổng hợp ý kiến của giáo viên tham gia thực nghiệm.
Đánh giá tính ứng dụng, tính tích cực của các nội dung kiểm tra có sự
hướng dẫn của giáo viên với nội dung kiểm tra không có biện pháp hướng dẫn
của giáo viên cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá được trình bày trong đề tài tôi
tiến hành thực nghiệm song song hai dạng đề bài, một dạng theo phương pháp
truyền thống và một dạng theo phương pháp đổi mới cùng với việc thu thập
thông tin và lấy ý kiến từ giáo viên, học sinh trong suốt quá trình nghiên cứu
nhằm đánh giá tính khả thi và ý nghĩa, giá trị của các biện pháp hướng dẫn
của giáo viên giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội kiến thức
Lịch sử tại các trường trung học phổ thông hiện nay.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, tôi đã tiến hành biên soạn đề bài kiểm tra học
kì II môn Lịch sử thế giới sau khi học sinh học xong chương III “Phong trào
16


công nhân (từ đầu thế kỉ XIX đến đầu XX) cho lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng có cùng nội dung.
Trước khi tiến hành thực nghiệm, đề kiểm tra đã được trao đổi, thảo luận
với giáo viên dạy thực nghiệm và các giáo viên dạy bộ môn.
Nội dung và phương pháp tiến hành cụ thể từng tiết kiểm tra (xem phần
phụ lục).
Kết quả thực nghiệm.
Sau khi dạy xong hai lớp thực nghiệm và đối chứng, chúng tôi tiến hành
điều tra tâm lý và trắc nghiệm kết quả thực nghiệm:
Lóp
10C6
10C7


Phương
Số học sinh
pháp
Thực
45 (100%)
nghiệm
Đối
47(100%)
chứng

Loại giỏi
9 – 10

Loại khá
7-8

Loại TB
5-7

Loại yếu
<5

67%

33%

0%

0%


40%

60%

0%

0%

+ Bài kiểm tra của lớp thực nghiệm:
Bài kiểm tra của lớp thực nghiệm bao gồm các câu hỏi trắc nghiệm khách
quan kết hợp với câu hỏi tự luận, các câu hỏi này đảm bảo độ khó. Số lượng câu
hỏi được phân bố theo từng nội dung được đánh giá. Bài kiểm tra của lớp thực
nghiệm gồm 1 câu hỏi tự luận và 7 bài trắc nghiệm khách quan. Tuy nhiên, với
sự hướng dẫn của giáo viên kết quả cho thấy mức độ biết, hiểu và vận dụng
những kiến thức lịch sử đã học của học sinh khá cao, hầu hết đạt yêu cầu đề ra
của đề bài, qua đó cho thấy học sinh nắm kiến thức vững, chắc, rèn luyện được
những kĩ năng thực hành bộ môn, đáp ứng được mục tiêu đề ra về mặt giáo dục,
giáo dưỡng và phát triển. (xem phục lục 2A)
+ Bài kiểm tra của lớp đối chứng:
Với cùng một đề bài kiểm tra nhưng áp dụng cho lớp dạy đối chứng tức là học
sinh trả lời những câu hỏi trong bài kiểm tra mà không có sự hướng dẫn ôn tập
của giáo viên từ trước, học sinh hoàn toàn bị động và làm theo cách nhớ và học
bài bằng cách học thuộc lòng bài giảng của giáo viên và những nội dung trong
sách giáo khoa. Vì vậy, khi làm bài kiểm tra này học sinh bên lớp học đối chứng
tỏ ra khá lúng túng, bị động, mức độ biết, hiểu và vận dụng, kĩ năng thực hành
bộ môn đạt kết quả không như ý, chỉ ở mức độ trung bình và khá. Điều này cho
thấy sự vận dụng linh hoạt những biện pháp hướng dẫn của giáo viên giúp cho
học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử đã đạt được những kết quả
17



nhất định, có giá trị cả về lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học trong trường phổ thông hiện nay.
Ưu điểm lớn nhất là thái độ hứng thú học tập của các học sinh, phát huy
năng lực nhân thức và thái độ học tập của các em, phát huy tính tích cực hoạt
động của học sinh.

18


C. KÊT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
* Kết luận:
Với đề tài: “Rèn luyện kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá cho học sinh trong
học tập Lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường THPT Triệu
Sơn 2” đã góp phần bổ sung vào việc đổi mới hệ thống phương pháp dạy học
Lịch sử nói chung và cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
phù hợp với yêu cầu đổi mới của quá trình dạy học hiện nay. Đề tài đã thu được
kết quả sau:
Giảm được việc học sinh học vẹt, ghi nhớ kiến thức Lịch sử một cách
máy móc không có hệ thống, hình thành ở học sinh phổ thông những kĩ năng
học tập với bộ môn và phát huy năng lực cũng như khả năng nhận thức độc lập,
sáng tạo của học sinh. Từ đó hình thành ở học sinh phương pháp học tập đúng
đắn, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức và biết cách trình bày những vấn đề
khoa học. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng cho học sinh trong những cấp học
tiếp theo.
Đề tài cũng đã xây dựng được một hệ thống các biện pháp hướng dẫn học
sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức dựa trên mục đích yêu cầu
và nội dung đánh giá kết quả học tập của từng bài, từng chương. Đồng thời, đề
tài cũng đưa ra được các bước, các nguyên tắc, những điều kiện để giáo viên tiến

hành hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức của
mình.
Việc kiểm tra, đánh giá là công việc hết sức cần thiết và quan trọng trong
nhà trường phổ thông, nó không những giúp giáo viên đánh giá được năng lực
của học sinh mà còn có tác dụng rất lớn với việc rèn luyện tư tưởng, đạo đức
cho học sinh.
* Đề xuất:
Trên cơ sở lí luận dạy học hiện đại và những kinh nghiệm tiên tiến trong
thực tế cho rằng, để đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của
học sinh cần vận dụng một số biện pháp.
+ Thứ nhất là phải có quan niệm đúng về kiểm tra, đánh giá trong quá
trình học tập của học sinh. Bởi vì hiểu đúng vấn đề đặt ra mới có việc làm đúng,
tránh được những sai phạm đáng tiếc xảy ra. Đó là, phải nhận thức rõ vai trò, ý
nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá là một trong những biện pháp nâng cao hiệu
quả dạy học lịch sử. Cần phải tránh việc chạy theo thành tích làm cho kết quả
kiểm tra, đánh giá không đảm bảo độ tin cậy và tính giá trị.

19


+ Thứ hai, phải đảm bảo tính toàn diện trong nội dung kiểm tra, đánh giá.
Khi giáo viên đưa ra các câu hỏi, học sinh phải nhớ lại và tái hiện được những
sự kiện, hiện tượng…đã nghiên cứu. Từ nhớ, biết sự kiện, việc kiểm tra, đánh
giá phải giúp học sinh đạt được mức độ nhận thức cao hơn, đó là hiểu. Hiểu bao
gồm cả biết, đòi hỏi học sinh phải biết được ý nghĩa bản chất của tri thức lịch sử,
thấy được mối liên hệ bên ngoài, bên trong giữa các sự kiện, hiện tượng, có khả
năng phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, phán đoán, suy luận để rút ra kết
luận. Bên cạnh xem xét mặt kiến thức, giáo dục, nội dung của kiểm tra, đánh giá
phải nhằm phát triển kĩ năng thực hành cho học sinh. Hành trong học tập lịch sử
bao gồm thực hành bộ môn và cao hơn là “hành” trong cuộc sống. Kiểm tra,

đánh giá kĩ năng thực hành bộ môn lịch sử thể hiện ở việc yêu cầu học sinh làm
các loại đồ dùng trực quan: vẽ bản đồ, lập niên biểu, bảng thống kê…kĩ năng
thực hành cao hơn là yêu cầu học sinh hoàn thành những việc công ích xã hội
(tham gia sưu tầm, biên soạn lịch sử địa phương, xây dựng nhà truyền thống…).
+ Thứ ba, phải đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá trong
quá trình học tập lịch sử của học sinh, trong đó có kết hợp chặt chẽ hoạt động
kiểm tra, đánh giá của giáo viên với phát triển hoạt động tự kiểm tra, đánh giá
của học sinh.
Và cuối cùng là tổ chức tốt các khâu ra đề, coi và chấm kiểm tra, thi. Trên
đây là những gợi ý về các con đường, biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường phổ thông trong đó có cả những biện pháp hướng dẫn học
sinh tự kiểm tra, đánh giá. Giáo viên cần nắm vững lí luận và căn cứ vào điều
kiện cụ thể của nhà trường, địa phương, đối tượng học sinh vận dụng linh hoạt,
sáng tạo để đạt kết quả cao nhất.
Sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người chủ xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc hôm nay và mai sau là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Do đó, để
nâng cao hiệu quả dạy học ở phổ thông nói chung, môn lịch sử nói riêng, ngoài
vai trò đặc biệt của giáo viên còn cần sự hỗ trợ, tạo điều kiện, cộng tác của nhiều
cơ quan, các cấp, các ngành và toàn xã hội.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2015
ĐƠN VỊ
CAM KẾT KHÔNG COPY

Lê Xuân Phong
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Ngọc Bảo, “Phát biểu tính tích cức, tự lực của học sinh

trong quá trình dạy học (tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên phổ thông trung
học)”. Vụ giáo viên Bộ giáo dục – đào tạo, Hà Nội – 1995.
2.
Nguyễn Thị Côi, Đổi mới việc kiểm tra – đánh giá kết quả học
tập trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông (Tài liệu Hà Nội đổi mới phương
pháp giảng dạy và học tập môn Lịch sử ở trung học phổ thông và trung học cơ
sở, Hà Nội T11/ 1999
3.
Nguyễn Thị Côi - Phạm Thị Kim Anh: Hướng dẫn học sinh làm
bài tập Lịch sử - NKGD, số 6, 1994.
4.
Nguyễn Thị Côi - Nguyễn Hữu Chí: Bài học Lịch sử và việc
kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh ở trường phổ thông trung học,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1999.
5.
Nguyễn Thị Côi - Nguyễn Tiến Hỷ - Trần Bá Đệ - Trịnh Đình
Tùng - Đặng Thanh Toán: Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn Lịch sử, Nxb
ĐHQG, Hà Nôi, 1998.
6.
Hội Giáo dục và khoa học Lịch sử, Khoa Sử trường ĐHSP, Đổi mới
việc dạy học Lịch sử “lấy học sinh làm trung tâm”, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1996.
7.
Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCHTW khoá VIII (02 –
NQ/HNTW, 14/01/93).
8.
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW khoá VII (04 –
NQ/HNTW, 24/12/96). Nxb Chính trị quốc gia, 1997.
9.
Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1991.

10.
Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11.
N.V. Savin, Giáo dục học tập I, Nxb Giáo dục.
12.
Luật Giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

21


PHỤ LỤC 1
Đề bài kiểm tra học kì II môn Lịch sử thế giới sau khi học sinh học xong
chương III “Phong trào công nhân (từ đầu thế kỉ XIX đến đầu XX) cho lớp thực
nghiệm (10C6) và lớp đối chứng (10C7) có cùng nội dung.
Đề bài thực nghiệm
(Thời gian làm bài 45 phút)
Họ và tên………..lớp…… Trường THPT TRIỆU SƠN 2
Đề bài
Phần 1: Trắc nghiệm khách quan
Câu I: Hãy khoanh tròn chỉ duy nhất một chữ in hoa ở câu trả lời đúng:
3.1. Điều kiện cho phép các cuộc phát kiến địa lý có thể tiến hành
trong các thế kỷ XV-XVI là
A.

Thương nhân châu Âu đã có nhiều hiểu biết về khoa học và trái đất

B.
Khoa học và kĩ thuật hàng hải đã có nhiều tiến bộ (hiểu biết về địa lý,
về đại dương, sử dụng la bàn).
C.

Kỹ thuật đóng tàu của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có nhiều
tiến bộ, có thể vượt được đại dương
D.
3.2.

Cả B và C đều đúng
Phát kiến địa lý là

A. Sự phát hiện về mặt địa lý
B. Quá trình đi tìm vàng bạc, hương liệu quý cho bọn vua chúa phong kiến
C. Quá trình đi tìm những con đường mới, vùng đất mới, dân tộc mới của
người châu Âu
D. Cách thức đi tìm những con đường mới của lãnh chúa phong kiến
3.2. Em hãy hoàn thành bảng niên biểu về một số cuộc phát kiến địa lý tiêu
biểu theo mẫu cho sẵn dưới đây:
Người tiến
Kết quả
Stt
Thời gian hành phát Quốc gia Hướng đi chính đạt
kiến địa lý
được
1
1487
Đi-a-xơ
2
Cô-lôm-bô
Va-xcô đơ
3
1497
Ga-ma

4
Ma-gien-lan
22


Câu II: Hoàn thành các câu sau đây:
1. Người lãnh đạo quá trình thống nhất nước Đức là……..
2. Người lãnh đạo quá trình thống nhất nước Italia là………
3. Cuộc nội chiến ở Mỹ còn được gọi là…………………..
4. Đảng có chủ trương giải phóng nô lện da đen ở Mỹ là đảng..
5. Lễ thành lập Đế chế Đức được thành lập tại……………
6. Khẩu hiệu thống nhất đất nước của Bix-mac là………..
Câu III: Hãy nối các sự kiện phù hợp với nội dung theo bảng dưới đây
Thời gian
Nội dung sự kiện
1. 1859
a. Lin-con kí sắc lệnh bãi bỏ chế độ nô lệ
2. 1864
b. Nội chiến ở Mỹ bắt đầu
3. 1861
c. Phổ gây chiến với Áo
4. 1863
d. Nội chiến Mỹ kết thúc
5. 1865
e. Quá trình thống nhất nước Italia bắt đầu
6. 1866
f. Quá trình thống nhất nước Đức bắt đầu
7. 1867
g. Bix-mác chính thức trở thành Thủ tướng nước Đức
8. 1870

h. Liên bang Đức ra đời
9. 1871
i. Phổ gây chiến với Pháp
Câu IV: Hãy khoanh tròn chỉ một chữ in hoa đứng trước câu trả lời đúng
1. “Sống trong lao động hoặc chết trong chiến đấu” là khẩu hiệu xuất
hiện trong cuộc đấu tranh
A. Khởi nghĩa Li-ông
B. Phong trào Hiến chương
C. Khởi nghĩa Sơ-lê-din
D. Phong trào đập phá máy móc
2. Hạn chế lớn nhất của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng là
A. Chưa đấu tranh bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản mà mới chỉ đòi quyền lợi
cho giai cấp tư sản
B. Chưa đánh giá đúng vai trò của giai cấp công nhân
C. Chưa nhận thức đúng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
D. Chưa xác định đúng phương pháp đấu tranh mặc dù xác định đúng vai trò
của giai cấp công nhân

23


Câu V: Hãy điền đúng (Đ) hay Sai (S) vào ô trống trong các câu sau đây:
1. Cuộc khởi nghĩa Li-ông nổ ra năm 1830
2.  Phong trào Hiến chương ỏ Anh mới chỉ dừng lại ở đòi quyền lợi kinh tế
3.  Chủ trương đi đến chủ nghĩa xã hội của R. Ô-oen là tuyên truyền ,
thuyết phục và nêu gương
4. S.Phu-ri-ê là người Anh
5.  Hình thức đấu tranh đầu tiên của giai cấp công nhân là đập phá máy móc
6.  Chủ nghĩa xã hội không tưởng là tiền đề của triết học Mác
7. Xanh-xi-mông vốn là một thương gia ở Pháp

8. Công nhân Sơ-lê-din khởi nghĩa năm 1844
9. Nguồn gốc cuat giai cấp công nhân chủ yếu là nông dân mất đất và thợ
thủ công phá sản
10. S.Phu-ri-ê đã từng tình nguyện sang Bắc Mỹ chiến đấu giúp nhân dân
thuộc địa Anh đấu tranh giành độc lập
Câu VI: Hãy khoanh tròn chỉ một chữ in hoa đứng trước câu trả lời đúng
1. Tổ chức “Đồng minh những người chính nghĩa” đổi tên thành “Đồng
minh những người cộng sản” vào:
A. Tháng 5-1847
B. Tháng 7-1847
C. Tháng 6-1847
D. Tháng 8-1847
2. Dưới đây là mốc thời gian liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng của C.Mác và Ph. Ăng-ghen. Hãy điền nội dung phù hợp với các mốc
thời gian đó:
1. 1818…………………………
2. 1820…………………………
3. 1841…………………………
4. 1842…………………………
5. 1844………………………….
24


6. 1847…………………………
7. 1848……………………………..
Câu VII: Hãy nối nội dung ở cột A với nội dung ở cột B thành một câu hoàn
chỉnh, có nghĩa trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
A
B
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô a. Giai cấp công nhân phải thành

sản là
lập chính đảng của mình, thiết lập
nền chuyên chính vô sản và đoàn
kết các lực lượng công nhân trên
thế giới
2. Muốn thực hiện thành công cuộc b. Dùng bạo lực để lật đổ trật tự xã
cách mạng vô sản
hội hiện có và kêu gọi quần chúng
đứng lên làm cách mạng.
3. Mục đích của những người cộng c. Lãnh đạo cuộc đấu tranh chống
sản là
sự thống trị và áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản, xây dựng chế độ
cộng sản chủ nghĩa
4. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
d. Xây dựng chủ nghĩa cộng sản
trên toàn thế giới
5. Mục tiêu cuối cùng của những e. Đánh dấu bước đầu kết hợp chủ
người cộng sản là
nghĩa xã hộ khoa học với phong
trào công nhân
Câu VIII: Hãy trình bày những nét lớn về nguyên nhân, diễn biến và ý
nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Nga 1905 – 1907.

25


×