Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sáng kiến: GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THCS.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.99 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Mã số:……………….
Kính gởi:
Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm huyện Giồng Trôm.
Tác giả sáng kiến: Ngô Thị Hạnh.
Ngày sinh: 04-10-1972
Đơn vị: Trường THCS Mỹ Thạnh.
Chức vụ: Giáo viên.
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Sử
I. Đề nghị xét công nhận sáng kiến:
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THCS.
II. Mô tả giải pháp:
1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Trong những năm gần đây, với đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, đã làm cho diện mạo đất nước thay đổi trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, hệ thống
giáo dục các cấp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
Một trong những mục tiêu giáo dục ở nhà trường là giáo dục toàn diện. Ở
trường THCS học sinh được học rất nhiều bộ môn khác nhau. Tất cả các môn
học đó đều góp phần giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Bên cạnh đó
còn có sự tác động của hoạt động Đoàn, Đội. Nhưng môn Giáo dục công dân
là môn học trực tiếp giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh trong đó có việc
giáo dục ý thức pháp luật.
Giáo dục pháp luật cho công dân nói chung và cho học sinh phổ thông
nói riêng là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là một
phương thức để xây dựng, phát triển nền văn hoá pháp lí, đảm bảo sự ổn định
1




và bền vững của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới, chúng ta
dễ dàng nhận thấy rằng, một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo
dục phát triển . Nghiên cứu nền giáo dục của một số nước như: Anh, Mĩ,
Hung-ga-ri, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Sin-ga-po ... tôi thấy rằng nền
giáo dục được họ đặc biệt quan tâm. Có thể nói rằng sự quan tâm đó là khá
toàn diện: Giáo viên, hệ thống nhà trường, phương tiện giảng dạy .... Nội
dung chương trình thường xuyên được cập nhật, bổ sung, đổi mới theo tiến độ
phát triển của xã hội. Phương pháp nghiên cứu, giảng dạy cũng thường xuyên
được đổi mới ngay từ các tiết học ở các cấp học theo đặc thù riêng của từng
bộ môn và nội dung chương trình. Tính tích cực, chủ động của người học
không ngừng được phát huy. Nhờ có sự đổi mới và tiến độ nêu trên mà học
sinh các quốc gia đó có mặt bằng kiến thức rất cao, sát với thực tiễn, họ tự tin,
làm chủ và phát huy tốt chính chất xám của họ, nhờ vậy mà đất nước của họ
rất phát triển.
Ở nước ta, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì
vấn đề trật tự pháp luật trong xã hội càng trở nên bức xúc. Theo thống kê tội
phạm học vừa qua cho thấy cả nước có khoảng 2.617 học sinh, sinh viên
nghiện ma tuý. Địa bàn Bến Tre có tới khoảng 30% trẻ em nghiện ngập, theo
bạn bè hút thuốc lá, uống bia rược từ khi mới lên 10- 11 tuổi. Theo thống kê
của Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hiện được 1002 trường hợp sử dụng ma tuý
trong đó có 695 học sinh phổ thông và 307 sinh viên. 70-80% số học sinh
phạm pháp là những học sinh chậm tiến, học lực kém, do lười học hoặc do
hoàn cảnh gia đình.
Nguyên nhân của những con số trên là do ý thức của các em về vấn đề
pháp luật rất thấp. Có nhiều giải pháp đưa ra để làm giảm các tệ nạn xã hội
nhưng những giải pháp đó chỉ được coi là giải pháp tình thế. Do đó cần phải
hình thành cho mọi người có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh "pháp luật" đặc
biệt là đối tượng học sinh, ngay từ khi các em chưa phải là người tham gia

pháp luật thường xuyên. Vì thế, xây dựng chương trình giáo dục pháp luật
trong nhà trường là giải pháp mang tính lâu dài.
2


2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
-Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
- Chọn 1 số bài GDCD lớp 6, 7,8, 9 để thực hiện.
- Đề ra 1 số biện pháp giáo dục pháp luật cho học sịnh trong môn
GDCD ở trường THCS.
2.2. Điểm mới của giải pháp:
Học sinh hứng thú hơn, dễ thực hiện những nội dung pháp luật trong
thực tế cuộc sống.
Có thái độ và hành vi theo đúng qui định của pháp luật.
2.3. Nội dung của giải pháp:
2.3.1 Cơ sở lý luận:
Trong những năm gần đây, với đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, đã làm cho diện mạo đất nước thay đổi trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, hệ
thống giáo dục các cấp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan
tâm. Một trong những mục tiêu giáo dục ở nhà trường là giáo dục toàn diện.
Ở trường THCS học sinh được học rất nhiều bộ môn khác nhau. Tất cả các
môn học đó đều góp phần giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Bên cạnh
đó còn có sự tác động của hoạt động Đoàn, Đội. Nhưng môn Giáo dục công
dân là môn học trực tiếp giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh trong đó có
việc giáo dục ý thức pháp luật.
Giáo dục pháp luật cho công dân nói chung và cho học sinh phổ thông
nói riêng là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là một
phương thức để xây dựng, phát triển nền văn hoá pháp lí, đảm bảo sự ổn định

và bền vững của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới, chúng ta
dễ dàng nhận thấy rằng, một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo
3


dục phát triển . Nghiên cứu nền giáo dục của một số nước như: Anh, Mĩ,
Hung-ga-ri, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Sin-ga-po ... tôi thấy rằng nền
giáo dục được họ đặc biệt quan tâm. Có thể nói rằng sự quan tâm đó là khá
toàn diện: Giáo viên, hệ thống nhà trường, phương tiện giảng dạy .... Nội
dung chương trình thường xuyên được cập nhật, bổ sung, đổi mới theo tiến độ
phát triển của xã hội. Phương pháp nghiên cứu, giảng dạy cũng thường xuyên
được đổi mới ngay từ các tiết học ở các cấp học theo đặc thù riêng của từng
bộ môn và nội dung chương trình. Tính tích cực, chủ động của người học
không ngừng được phát huy. Nhờ có sự đổi mới và tiến độ nêu trên mà học
sinh các quốc gia đó có mặt bằng kiến thức rất cao, sát với thực tiễn, họ tự tin,
làm chủ và phát huy tốt chính chất xám của họ, nhờ vậy mà đất nước của họ
rất phát triển.
Ở nước ta, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì
vấn đề trật tự pháp luật trong xã hội càng trở nên bức xúc. Theo thống kê tội
phạm học vừa qua cho thấy cả nước có khoảng 2.617 học sinh, sinh viên
nghiện ma tuý. bàn Bến Tre có tới khoảng 30% trẻ em nghiện ngập, theo bạn
bè hút thuốc lá, uống bia rược từ khi mới lên 10- 11 tuổi. Theo thống kê của
Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hiện được 1002 trường hợp sử dụng ma tuý
trong đó có 695 học sinh phổ thông và 307 sinh viên. 70-80% số học sinh
phạm pháp là những học sinh chậm tiến, học lực kém, do lười học hoặc do
hoàn cảnh gia đình.
Nguyên nhân của những con số trên là do ý thức của các em về vấn đề
pháp luật rất thấp. Có nhiều giải pháp đưa ra để làm giảm các tệ nạn xã hội
nhưng những giải pháp đó chỉ được coi là giải pháp tình thế. Do đó cần phải
hình thành cho mọi người có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh "pháp luật" đặc

biệt là đối tượng học sinh, ngay từ khi các em chưa phải là người tham gia
pháp luật thường xuyên. Vì thế, xây dựng chương trình giáo dục pháp luật
trong nhà trường là giải pháp mang tính lâu dài.
2.3.2 Cơ sở thực tiễn.
4


Ở trường THCS môn Giáo dục công dân của mỗi lớp 6, 7, 8, 9 đều gồm
2 phần là Đạo đức và Pháp luật, với thời lượng tương đương nhau. Qua khảo
sát thực tế tôi nhận thấy, đa số giáo viên đều có thể dạy tốt các bài học đạo
đức, nhưng lại gặp khó khăn trong việc giảng dạy các bài học thuộc chủ đề
pháp luật. Qua thực tế trong những năm giảng dạy môn Giáo dục công dân tại
trường THCS Mỹ Thạnh vừa qua tôi nhận thấy rằng nhu cầu mở rộng kiến
thức pháp luật của học sinh ( đặc biệt là học sinh giỏi ) ngày càng tăng. Vậy
làm thế nào để các em có thể lĩnh hội, vận dụng được những kiến thức pháp
luật một cách có hệ thống, bài bản mà không bị đơn điệu, khô khan, nhàm
chán trong từng chủ đề pháp luật. Điều đó đòi hỏi những giáo viên dạy môn
Giáo dục công dân phải biết lựa chọn kiến thức, phương pháp, hình thức tổ
chức phù hợp với từng bài, từng chủ đề, từng đối tượng học sinh
2.3.3 Căn cứ xây dựng nội dung giảng dạy:
Chương trình mới được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Cấu trúc
chương trình theo nguyên tắc tích hợp đồng tâm và phát triển. Vì vậy chủ đề
pháp luật được bố trí học tất cả ở các khối lớp (từ lớp 6 đến lớp 9). Gồm 5 chủ
đề:
* Quyền trẻ em và quyền, nghĩa vụ công dân trong gia đình.
* Quyền và nghĩa vụ công dân về trật tự an toàn xã hội.
* Quyền và nghĩa vụ công dân và văn hoá giáo dục và kinh tế.
* Các quyền tự do cơ bản của công dân.
* Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Quyền và nghĩa vụ
công dân trong quản lý Nhà nước.

Các chủ đề được bố trí theo trật tự từ những vấn đề có tính chất cụ thể,
gần gũi với cuộc sống học sinh đến những vấn đề khái quát hơn, phản ánh
mối quan hệ của học sinh với môi trường ngày càng lớn. Từng chủ đề có sự
xắp xếp, bố trí các nội dung dạy học theo nguyên tắc phát triển từ thấp đến
cao, về nhận thức cũng như nhu cầu tu dưỡng rèn luyện, phù hợp với lứa tuổi
học sinh trong từng giai đoạn. Về pháp luật chương trình bố trí học từ những
5


nội dung thực hiện pháp luật đang diễn ra trong cuộc sống đến những nội
dung về chế độ chính trị, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung kiến thức ở mỗi khối lớp tôi xây dựng theo kiểu tích hợp đồng
tâm phát triển.
2.3.4. Quá trình thực hiện:
NỘI DUNG KIẾN THỨC, PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài tôi chỉ xây dựng một chủ đề trong
năm chủ đề của chương trình giáo dục pháp luật trong trường THCS đề các
đồng chí tham khảo.
Chủ đề 1: Quyền trẻ em. Quyền và nghĩa vụ công dân trong gia đình.

Lớp

Bài

6

Công
ước liên
hợp quốc
về quyền

trẻ em.

Nội dung

Phương pháp hình thức tổ chức dạy học

kiến thức
1/ Những quyền cơ
bản của trẻ em
theo Công ước
Liên hợp quốc.

- Học sinh thảo luận nhóm - giúp các em
hiểu nội dung các quyền trẻ em.
- Chia học sinh thành nhóm, mỗi nhóm
thành 6-8 em.
- Phát cho mỗi nhóm một bộ phiếu rời
(mỗi phiếu ghi một quyền trẻ em) và bộ
tranh rời tương đương với quyền đó)
- Dán những bức tranh vào tờ giấy to và
dán những phiếu ghi nội dung quyền phù
hợp xuống phía dưới tranh đó.
- Các nhóm trình bày kết quả.
- Học sinh trong lớp bổ xung.
- Giáo viên chốt lại đáp án.
- Giáo viên kết luận về những cơ bản của
trẻ em.

2/ Ý nghĩa của
quyền trẻ em và

bổn phận của trẻ
em

- Học sinh thảo luận lớp theo câu hỏi:
+ Các quyền của trẻ em cần thiết như thế
nào? Điều gì sẽ xảy ra nếu thiếu quyền,
trẻ em không được thực hiện? Lấy ví dụ
cụ thể.
6


+ Trẻ em là gì? Chúng ta phải làm gì?
- Học sinh phát biểu
- Học sinh khác nhận xét bổ sung.
- Giáo viên chốt lại ý chính.
- Học sinh chơi sắm vai
VD: Sắm vai trong câu lạc bộ phóng
viên trẻ. ở đây các em bày tỏ những suy
nghĩ, nguyện vọng và đề xuất những
việc làm cần thiết cho trẻ em.
3. Luyện tập

VD: yêu cầu học sinh nêu 3 biểu hiện vi
phạm quyền trẻ em mà em biết. Theo em
cần phải làm gỡ để hạn chế những biểu
hiện đó.

7



MỘT SỐ BÀI TẬP ỨNG DỤNG
CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN TRẺ EM.
Bài 1: Cho học sinh đánh dấu (X) vào ô trống tương ứng với những việc làm
thực hiện quyền trẻ em, đánh dấu (-) vào ô trống tương ứng với những việc
phạm vi quyền trẻ em.
- Nhận trẻ em mồ côi làm con nuôi



- Y tế xã, phường, thị trấn tổ chức tiêm phòng dịch cho trẻ em 
- Nhà nước phát động phong trào nuôi con bằng sữa mẹ.



- Con đã 6 tuổi nhưng cha, mẹ không cho đi học bắt ở nhà lao
động thêm 3 năm nữa.



- Tập trung trẻ từ 10-12 tuổi đi đánh giày và thu một nửa số tiền
của các em.



- Đánh đập trẻ em bị giam giữ



- Buôn bán trẻ em qua biên giới




Bài tập 2: Hãy kể những việc làm của Nhà nước nói chung, của chính
quyền địa phương em về việc thực hiện tốt quyền trẻ em.
- Trẻ em có quyền được vui chơi giải trí.
- Trẻ em có năng khiếu được phát hiện và bồi dưỡng.
- Trẻ em được quan tâm chăm sóc về sức khoẻ.
- Trẻ em được học tập, những em có hoàn cảnh khó khăn không phải trả
học phí.
- Trẻ em được tiếp cận nhiều thông tin bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt
động xã hội.
Bài tập 3: Vợ chồng anh Lai có hai cháu: Cháu Cương 9 tuổi, cháu Hiền
7 tuổi. Cả hai cháu đều chưa được đến trường học. Cán bộ Uỷ ban nhân dân
xã cùng một số cô giáo ở trường Tiểu học thường xuyên đến vận động,
khuyên anh chị Lai cho hai cháu đi học nhưng anh Lai không nghe và nói để
các cháu ở nhà lao động giúp đỡ gia đình thêm mấy năm nữa cũng chẳng sao.
Mà gia đình anh chị có phải thuộc diện quá khó khăn đâu. Khổ thân hai cháu
nhỏ bị bố mẹ bắt ở nhà không cho đi học.
Hỏi: Anh Lai suy nghĩ như vậy có đúng không và không cho con mình
đi học thì có vi phạm pháp luật không? Hay đấy là quyền của anh chị?
Trả lời:

8


Anh Lai suy nghĩ như vậy là hoàn toàn sai, vì công việc nhà nông bao
giờ chẳng nhiều, nếu cứ để các cháu ở nhà giúp đỡ gia đình thì ở đến bao giờ
Dù còn nhiều việc nhà, việc đồng ruộng thì cũng phải để con mình đi học chứ.
Hơn nữa, không cho hai cháu đi học là vi phạm pháp luật đấy. Điều 8
Luật Phổ cập giáo dục tiểu học quy định: "Cha mẹ có trách nhiệm tạo điều

kiện tốt nhất cho con hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học". Luật Giáo dục,
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng đều quy định cha mẹ có trách
nhiệm tạo điều kiện cho con mình trong độ tuổi quy định được học tập để đạt
trình độ giáo dục phổ cập.
Cha mẹ không có quyền giữ con ở nhà không cho đi học khi con mình
đang ở độ tuổi đi học. Pháp luật không cho cha mẹ quyền ấy. Trong việc đảm
bảo thực hiện quyền học tập của trẻ em thì trách nhiệm của cha mẹ là rất lớn:
vừa là trách nhiệm pháp lý, vừa là trách nhiệm đạo đức của bậc sinh thành.
Anh Lai phải cho hai con của mình đi học ngay, không được chờ đợi gì thêm
nữa.
Lớp
7

Bài

Nội dung kiến
thức

Phương pháp hình thức tổ chức dạy
học

Quyền được 1/ Quyền cơ - Học sinh quan sát tranh SGK, xem
bảo vệ chăm bản của trẻ tranh ảnh về các hoạt động chăm sóc,
sóc và giáo em
giáo dục trẻ em.
dục của trẻ
- Học sinh nêu các quyền và bổn phận
em Việt Nam
của trẻ em trong Công ước Liên hợp
quốc (học ở bài 12- Lớp 6)

- Học sinh trả lời, học sinh khác nhận
xét, bổ sung.
Giáo viên chốt lại đáp án đúng
2/ Bổn phận - Giáo viên nêu bổn phận của trẻ em
của trẻ em
với gia đình và xã hội.
- Học sinh trả lời cá nhân
- Giáo viên chia bảng làm hai cột cho
học sinh lên bảng ghi ý kiến vào hai
cột cho phù hợp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét
Giáo viên đánh giá nhận xét và thưởng
điểm cho học sinh có ý kiến đúng và
9


nhanh.
3/
Trách - Giáo viên cho học sinh thảo luận cá
nhiệm của gia nhân
đình
nhà - Học sinh chuẩn bị phiếu học tập
nước, xã hội
- Chia phiếu thành 3 loại mỗi loại ứng
với một câu hỏi.
- Giáo viên thu hai phiếu trả lời mỗi
câu hỏi để chữa
- Học sinh trao đổi nhận xét
- Giáo viên phân tích rút ra bài học
4 Luyện tập


- Cho học sinh tự liên hệ bản thân có
những quyền nào em đã được hưởng
còn quyền nào em chưa được hưởng
- Học sinh trả lời
- Giáo viên chốt lại ý chính

MỘT SỐ TƯ LIỆU THAM KHẢO - BÀI TẬP ỨNG DỤNG. QUYỀN ĐƯỢC CHĂM
SÓC VÀ GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM VIỆT NAM

Bài tập 1: Chị Hiền mở quán bán hàng ăn uống, giải khát tại thị trấn. Quán
của chị em rất đông khách, không chỉ có người lớn mà còn có cả một số trẻ
em 14-15 tuổi. Bọn trẻ đến quán chị uống rượu, hút thuốc. Chị Hiền rất chiều
chúng, cho bạn trẻ nợ dần nhiều lần mới phải trả tiền rượu, thuốc. Tối thứ bảy
vừa rồi, trong lúc bọn trẻ đang uống rượu ở quán chị Hiền thì ông chủ tịch thị
trấn cho công an đến lập biên bản, phạt chị 200.000đ
Hỏi: Việc ông chủ tịch thị trấn cho công an đến phạt tiền đối với chị
Hiền là đúng hai sai?
Trả lời:
Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và tinh thần nên việc các em uống
rượu không chỉ làm tổn hại đến sức khoẻ, đến sự phát triển bình thường mà
còn ảnh hương lớn đến sự hình thành nhân cách của các em.
Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
đã ban hành các quy định pháp luật ngăn cấm việc lôi kéo, dụ dỗ trẻ em uống
tượu, hút thuốc và trừng trị nghiêm khắc các hành vi này. Chị Hiền đã có
hành vi bán rượu, thuộc lá cho trẻ, xúi giục, tạo điều kiện cho trẻ em uống
rượu, hút thuốc, chỉ nghĩ đến lợi ích của mình mà không nghĩ đến tác hại của
10



hành vi này. Chị đã vi phạm khoản 2 điều 14 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em: "Nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ đánh bạc, cho trẻ em uống rượu, hút
thuốc, dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ", đồng thời vi phạm điểm c,
khoản 1 Điều 25 Nghị định 49/ CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự. Hành vi vi phạm của chị Hiền cần phải xử lý theo quy
định của pháp luật. Trong trường hợp này chị phải chịu hình thức phạt tiền là
đúng.
Bài tập 2: Cho học sinh đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi:
" Năm nay cháu học lớp 9 và chuẩn bị thi vào trung học phổ thông. Do ba mẹ
cháu đặt tên theo vần bố, nên tên của cháu không được hay. ở trong lớp các
bạn cứ trêu cháu rất buồn. Cháu muốn đổi tên có được không? Cháu cần phải
làm gì để có thể đổi tên được./
Lê Thị Tơ
Châu Thành - Đồng Tháp
Trả lời:
Cái tên chỉ là hình thức thôi, không phản ánh nội dung bản chất của học
sinh. Thực ra, cháu cứ học giỏi và chăm ngoan là rất tốt. Cháu cũng không
nên bận tâm quá về tên của mình. Tuy nhiên, nếu cháu cứ dứt khoát muốn đổi
tên thì vẫn có thể đổi được, nhưng phải theo các thủ tục mà pháp luật quy
định chứ không được tự tiện sửa chữa giấy khai sinh, sửa chữa giấy tờ liên
quan có tên mình.
Pháp luật nước ta quy định mỗi người đều có quyền thay đổi họ tên.
Điều 29 Bộ Luật Dân sự quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan
Nhà nước công nhận việc thay đổi họ tên trong các trường hợp sau đây:
- Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây
nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
- Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi
hoặc con nuôi yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt cho mình.
- Thay đổi họ, tên của người lưu lạc từ nhỏ nay tìm ra nguồn gốc huyết

thuốc của mình.
Nếu việc đổi tên của cháu thuộc một trong các trường hợp trên đây thì bố
mẹ cháu phải làm đơn gửi Uỷ ban nhân dân xã xác nhận, kèm theo các giấy
tờ khác như sổ hộ khẩu gia đình, giấy khai sinh (qua Sở Tư pháp). Chỉ khi
nào có quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận thì mới được chính
thức đổi tên.

11


Lớp
8

Bài

Nội dung kiến thức

Quyền
và 1/ Quyền và nghĩa
nghĩa vụ của vụ của cha mẹ ông
công dân gia bà
đình

Phương pháp hình thức tổ chức
dạy học
- Giáo viên chia học sinh thành
nhóm
- Mỗi nhóm thảo luận một tình
huống trong bài tập 3,4,5(SGK)
- Các nhóm trình bày kết quả thảo

luận.
- Cả lớp trao đổi đánh giá trên cơ
sở đánh giá và giải pháp mà các
nhóm đưa ra
- Giáo viên thống nhất đáp án
đúng

2/ Quyền và nghĩa - Giáo viên cho học sinh chơi trò
vụ của con cháu
chơi nhận biết.
- Giáo viên đưa ra tình huống
- Học sinh chia thành các nhóm để
chọn một người thi giữa 4 nhóm.
- Giáo viên kết luận chung
3/ Luyện tập

- Tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi đóng vai thể hiện cách ứng
xử trong những tình huống có liên
quan đến quyền và nghĩa.

MỘT SỐ BÀI TẬP ỨNG DỤNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

Bài tập 1: Bố của Hoà có tật nghiện rượu. Nhiều hôm ông đi uống với mấy
người khác và trở về nhà trong tình trạng say khướt. Khi bố tỉnh dậy, Hoà và
mẹ khuyên ngăn bố thì lại bị bố em măng chửi, xúc phạm, thậm chí còn bị
đánh.
Hỏi: Bố của Hoà đã vi phạm những điều khoản nào của pháp luật?


12


Trả lời:
Bố của Hoà đã vi phạm khoản 2 điều 34, khoản 1 Điều 37 Luật Hôn
nhân và gia đình, khoản 2 Điều 16 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
cụ thể là đã:
- Ngược đãi, đánh đập, xúc phạm con;
- Không làm gương tốt cho con mà lại có biểu hiện xấu làm ảnh hưởng
đến cuộc sống và tình cảm của con.
Bài tập 2: Hải năm nay 18 tuổi, em đã đi làm nên có thu nhập riêng. Bố Hải
mất sớm. Mẹ Hải hơn 50 tuổi, do cuộc sống vất vả hay ốm đau, bệnh tật. Gia
đình Hải có 4 anh em, cuộc sống còn nhiều khó khăn.
Hỏi: Hải có nghĩa vụ đóng góp để nuổi mẹ và các em không? Pháp luật
quy định như thế nào về nghĩa vụ này?
Trả lời:
Xét về tình cảm, đạo đức và pháp lý thì Hải có nghĩa vụ đóng góp một
phần thu nhập của mình để nuôi mẹ và các em, thực hiện đạo lý và nghĩa vụ
của người con cũng như trách nhiệm của một thành viên trong gia đình.
Nghĩa vụ này được quy định trong khoản 2 Điều 36 và khoản 2 Điều 44
Luật Hôn nhân và gia đình, thể hiện ở hai nội dung sau đây:
- Con có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi mẹ ốm
đau, già yếu, tàn tật;
- Con từ đủ 15 tuổi trở lên còn sống chung với gia đình có nghĩa vụ
chăm sóc đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các
nhu cầu thiết yếu của gia đình.

13



Lớp

9

Bài

Nội dung kiến thức

Phương pháp hình thức tổ chức
dạy học

Quyền
và 1/ Khái niệm hôn - Học sinh nhắc lại quyền và nghĩa
nghĩa vụ của nhân
vụ của công dân trong gia đình
công
dân
(Bài 12 lớp 8).
trong
hôn
- Giáo viên tổ chức cho học sinh
nhân
thảo luận lớp.
- Học sinh làm việc cá nhân
- Học sinh cả lớp trao đổi các vấn
đề sau:
+ Cơ sở của tình yêu chân chính.
+ Những sai trái thường gặp trong
tình yêu chân chính
+ Hôn nhân đúng pháp luật là như

thế nào?
+ Thế nào là hôn nhân trái pháp
luật
- Giáo viên liệt kê các ý kiến của
học sinh và kết luận
2/ Nguyên tắc cơ
bản của chế độ
hôn nhân ở Việt
Nam

- Học sinh đọc kiểm tra, mục 2
phần Nội dung bài học
- Học sinh nêu những câu hỏi xung
quanh nguyên tắc của chế độ hôn
nhân (VD: Thế nào là tự nguyện?)
- Giáo viên tổ chức cho cả lớp trao
đổi
- Giáo viên kết luận
- Giáo viên chia nhóm và giao cho
các nhóm thảo luận câu hỏi
+ Để được kết hôn cần có những
điều kiện nào?
+ Cấm kết hôn trong những trường
hợp nào?

14


+ Những hành vi như thế nào là vi
phạm pháp luật về chế độ hôn nhân.

+ Vì sao Pháp Luật phải có những
quy định chặt chẽ như vậy và việc
đó có ý nghĩa như thế nào?
- Học sinh các nhóm trình bày
- Cả lớp trao đổi bổ sung
- Giáo viên kết hợp giải thích
những nội dung khó
- Học sinh liên hệ với địa phương
nơi mình ở có trường hợp nào vi
phạm qui định của pháp luật về
hôn nhân không? Vi phạm điều gì?
Hậu quả của nó.
4/ Trách nhiệm - Giáo viên nêu vấn đề
của công dân
- Học sinh thảo luận, giải quyết
vấn đề.
- Giáo viên chốt lại ý kiến đúng
5/ Củng cố chủ đề:
Quyền trẻ em;
Quyền và nghĩa vụ
công dân trong gia
đình

- Học sinh làm bài tập đánh giá
hành vi của bản thân
- Học sinh cần làm gì để thực hiện
tốt các quyền trẻ em, quyền vệ
sinh nghĩa vụ của công dân trong
gia đình.
- Học sinh bày tỏ ý kiến bản thân

- Giáo viên bổ sung.

MỘT SỐ BÀI TẬP ỨNG DỤNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN TRONG HÔN NHÂN.

Bài tập 1:
Hỏi:
Ở quê cháu, thanh niên hay làm đám cưới sớm khi chưa đến tuổi kết
hôn. Trường hợp cháu có khả năng như vậy.
15


Cháu và anh Tiến ở cùng thôn, cháu mới 17 tuổi và anh Tiến cũng mới
18 tuổi nhưng gia đình cháu và gia đình anh ấy cứ ép chúng cháu lấy nhau.
Hai gia đình đã bàn bạc sẽ tổ chức đám cưới vào tháng tới. Bố cháu còn dọa,
nếu không đồng ý, bố cháu sẽ đánh và đuổi cháu ra khỏi nhà.
Cháu không biết phải làm thế nào đây?
Nguyễn Thị Xuân
Lục Ngạn - Bắc Giang
Trả lời:
Cả hai cháu đều chưa đến tuổi kết hôn, vì theo quy định tại Điều 9 Luật
hôn nhân, và gia đình về điều kiện kết hôn thì nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18
tuổi trở lên mới được kết hôn.
Hơn nữa việc kết hôn phải do nam nữ tự nguyện quyết định, không ai
được cưỡng ép hoặc cản trở.
Nếu hai cháu cứ bị cưỡng ép phải cưới nhau thì bố mẹ các cháu sẽ vi
phạm Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình và việc kết hôn của hai cháu sẽ bị coi
là kết hôn trái pháp luật, phải bị huỷ bỏ. Còn trong trường hợp bố mẹ cháu cố
ép buộc và đánh đập, uy hiếp tinh thần của cháu thì khi ấy bố mẹ cháu vi
phạm Điều 146 Bộ Luật Hình sự và có thể sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không

giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đếm 3 năm, tuỳ theo mức độ vi
phạm và hậu quả xảy ra.
Bài tập 2:
Hỏi:
Em và anh Chính cùng làm công nhân ở Hà Nội, chúng em yêu thương
nhau và quyết định sẽ lấy nhau. Em muốn tổ chức kết hôn cho đàng hoàng vì
đời người chỉ có một lần như thế này. Thế nhưng anh Chính thì lại khuyên em
không nên tổ chức lễ cưới cho tốn kém, cốt anh và em thương nhau là được
rồi. Thế là chúng em cứ sống chung với nhau như quan hệ vợ chồng. Đến
nay, em mới biết anh Chính đã có vợ và một con gái ở quê. Em đau khổ quá.
Liệu em có thể tiếp tục sống chung với anh Chính nữa không. Nếu cứ
quan hệ như vợ chồng thì có vi phạm pháp luật không?
Hoàng Thị Hương Lan
Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Trả lời
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nam nữ không đăng ký kết
hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công
nhận là vợ chồng.
16


Bộ Luật Hình sự quy định, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng với người khác thì có thể bị xử phạt hành
chính, nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính rồi mà
còn vi phạm thì có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm
hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 1năm.
Rõ ràng là cả em và anh Chính đã vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình và
thậm chí còn vi phạm quy định trong Bộ luật Hình sự. Em cần chủ động nói
rõ cho anh Chính biết và quyết định thôi không tiếp tục sống với anh ấy nữa.
Một lần lầm lỡ vẫn có thể còn khắc phục được. Tuổi còn trẻ, em nên dứt

khoát trước hết để tự cứu mình, để có điều kiện và cơ hội đi tìm hạnh phúc
mới, xây đắp cho tương lai của mình.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
Sáng kiến này có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp THCS.
4. Hiệu quả của giải pháp:
a/ Kết quả kiểm tra:
MÔN SS G TỈ LỆ
GDCD 144 127 88%

K
17

TỈ LỆ
12%

TB

TỈ LỆ

YẾU

TỈ LỆ

khối 9

b/ Kết quả khác:
* Với nội dung kiến thức và hình thức tổ chức dạy học đó, giáo viên và
học sinh rất hứng thú khi dạy và học. Các em được tự tìm hiểu, tự đánh giá,
phát huy khả năng của tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. Học sinh được
thực hiện trong thực tế, kiểm tra hành vi của nhau. Giáo viên đánh giá kết quả

của học sinh sát hợp hơn.
* Những gì học sinh được giáo dục ở trường về pháp luật đã giúp các em
có ý thức cao hơn trong cuộc sống. Trong quá trình từ lớp 6 đến lớp 9 tôi thấy
ý thức tuân thủ theo pháp luật của học sinh tốt hơn rất nhiều.Các em đã hiểu
được mình có những quyền gì, trách nhiệm của bản thân ra sao, phải xây
dựng đóng góp gì trong việc quản lý Nhà nước …
Khi học sinh đã tìm hiểu và thực hiện theo pháp luật thì chính các em lại
là những người tuyên truyền cho người thân trong gia đình, những người
17


xung quanh để họ biết và thực hiện, để mọi người, mọi nhà đều có ý thức tuân
thủ, nghiêm chỉnh chấp hành "Pháp luật".
* Một số kiến nghị:
- Để giáo viên các trường THCS giảng dạy tốt hơn cần đầu tư thêm đồ
dùng: Tranh ảnh, băng hình, tình huống pháp luật phục vụ cho việc giảng dạy
giáo dục pháp luật.
- Kết hợp với Đoàn, Đội nhà trường tổ chức những cuộc thi, toạ đàm tìm
hiểu về pháp luật.
-Cung cấp các văn bản pháp luật mới kịp thời.
-Nên chăng có thêm cột điểm thực hành để học sinh có thể kết hợp học đi
đôi với hành. Từ đó việc giáo dục pháp luật mới đạt hiệu quả cao.
PHẦN : KẾT LUẬN
1/ Bài học kinh nghiệm:
a) Đối với giáo viên
Cần chú trọng khâu chuẩn bị của giáo viên và học sinh khi giảng dạy các
bài giáo dục Pháp luật, giáo viên cần tích cực giảng dạy chu đáo cho các dụng
cụ dạy và học và sử dụng thành thạo chúng. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở
nhà cẩn thận.
- Dành nhiều thời gian cho thực hành, luyện tập. Tạo điều kiện để học

sinh vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế. Biến những kiến thức đã
học thành ý thức tự giác chấp hành "Pháp luật"
- Tổ chức cho học sinh thi sắm vai: Đây là một trong những phương pháp
có hiệu quả cao. Song giáo viên cần lưu ý ổn định lớp để hoạt động dạy - học
đạt hiệu quả tối ưu.
- Kiểm tra đánh giá khích lệ động viên học sinh: Cần làm thường xuyên
đặc biệt là những học sinh ý thức chấp hành Pháp luật còn kém.
- Giáo viên giảng dạy phải thường xuyên theo dõi cập nhật những thông
tin liên quan tới vấn đề giáo dục Pháp luật.

b) Đối với học sinh
18


- Tích cực chuẩn bị tiết học theo hướng dẫn của giáo viên.
- Thường xuyên vận dụng kiến thức tìm hiểu trên lớp và thực tế cuộc
sống.
- Mạnh dạn hỏi những điều chưa rõ về vấn đề Pháp luật và cách sử lý các
tình huống gặp trong cuộc sống.
- Có ý thức tự tìm hiểu về Pháp luật tham gia các hoạt động ở trường,
lớp, địa phương liên quan tới: "Pháp luật và tuyên truyền cho những người
xung quanh"
2/ Lời kết
- Giáo dục ý thức Pháp luật cho học sinh là mối quan tâm của gia đình,
nhà trường và xã hội. Học sinh hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh "Pháp luật" là
góp phần xây dựng một xã hội văn minh.
Trong khuôn khổ đề tài, tôi không có tham vọng giải quyết tất cả khó
khăn, vướng mắc của giáo viên và học sinh trong dạy và học "Giáo dục Pháp
luật" song với nội dung đã trình bày, tôi hy vọng sẽ giúp cho giáo viên có
định hướng, chủ động hơn khi giảng dạy giáo dục Pháp luật. Mặt khác học

sinh càng hứng thú say mê hơn với môn học, xoá dần tâm lý coi môn giáo dục
công dân là một môn học phụ.
Đó là những kinh nghiệm của tôi đúc kết được. Trong quá trình giảng
dạy Giáo dục công dân. Chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn nhà
trường.
* Theo ý kiến tác giả:
Tôi xin cam đoan những lời khai trong đơn là đúng sự thật./.
Mỹ Thạnh, ngày 25 tháng 3 năm 2013
Người nộp đơn

19


Ngô Thị Hạnh

20



×