Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Quan điểm của hồ chí minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ và hành động của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.64 KB, 21 trang )

A.

Lời mở đầu
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan

của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc
thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm
tình hình thực tế của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định “con đường cách
mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”.Những luận điểm của
người về xây dựng chủ nghĩa xã hội đã và đang đươc Đảng ta vận dụng một
cách sang tạo trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới đất
nước.Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam cũng như những hành động của Đảng cộng sản Việt Nam, nhóm
đã đi tìm tiểu sâu và rõ hơn về vấn đề “ Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ và hành động của đảng.”

1


B.

I.

Nội dung
Khái niệm chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ

Quan điểm của Các Mác về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội


Đề cập đến tính tất yếu của thời kỳ quá độ, trong tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gôta, C.Mác viết: “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia.Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của
thời kỳ ấy không thể à cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản”.
Quan điểm của Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .
V.I.Lênin viết : “Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay,chúng ta có
thể nói rằng chúng ta đnag ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ” và
“ với sự giúp dỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến,các nước lạc hậu có thể
tiến tới chế độ Xô-Viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới
chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Như vậy theo quan điểm của các nhà kinhd diển chủ nghĩa Mác-Lênin,
có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội: một là quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội từ các nước tư bản phát triển cao; hai là quá độ gián tiếp lên
chủ nghĩa xã hội từ các nuwocs tiền tư bản, bỏ qua chế độ tư bản với những
điều kiện nhất định.
2


Quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là: quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể-quá độ từ
một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được
độc lập dân tộc đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội

II.


thời kỳ quá độ
1. Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
a.

Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ quá độ
Thực chất của thời kỳ quá độ:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu

sắc, triệt để và toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới. Nó diễn ra từ khi cách
mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào
việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của
xã hội chủ nghĩa về vật chất- kỹ thuật, văn hóa tư tưởng. Nói cách khác, kết
thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan
hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng
sản chủ nghĩa-hình thái kinh tế của lịch sử xã hội. Bản chất nhất của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tính đan xen giữa cái cũ và cái mới trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tính chất cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là tính gay go, phức tạp, lâu dài nhắc nhở chúng ta không
được chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm
tình hình thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng
3


Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hòan thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình

thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã
hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú
thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin thì thời kỳ quá độ là một tất yếu đối với mọi
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên do đặc điểm của từng nước là khác
nhau, có nước có nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển, có nước nền kinh tế
phát triển theo chủ nghĩa tư bản, vì vậy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
cũng khác nhau. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng có 2 loại hình quá độ, đó là:
Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội: Loại hình
này tuân theo quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài người. Đó là loại
hình quá độ với các nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
nên đã sẵn có tiền đề về cơ sở vật chất ký thuật. Vì thế công cuộc quá độ chỉ
còn là biến những tiền đề ấy thành cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, thiết
lập một quan hệ sản xuất mới, một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Quá độ gián tiếp từ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội (từ các hình thái
kinh tế- xã hội trước chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội). Loại hình này
tuân theo quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài người. Với các nước có
nền kinh tế lạc hậu kém phát triển cũng có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.Tuy nhiên để có thể tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì các nước này cần phải từng bước quá độ và phải có những điều
kiện phù hợp. Các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo hình thức này phải
có các điều kiện:
4


Điều kiện tiên quyết: phải có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo cách
mạng thắng lợi, giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, kiên quyết lãnh đạo đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa

Điều kiện bên ngoài: phải được sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở 1 hay một số nước tiên tiến.
Điều kiện bên trong: phải có sự liên minh giữa giai cấp vô sản đã nắm
chính quyền và đại đa số nông dân. Trong điều kiện chưa có sự giúp đỡ kịp
thời của cách mạng vô sản thế giới thì liên minh này càng có ý nghĩa quan
trọng hơn. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng bỏ qua phải có sự giúp đỡ của các
nước tiên tiến đi trước. Xung quanh vấn đề “bỏ qua” cần nhận thức đúng đắn
và toàn diện:
Bỏ qua cái gì? Bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Bỏ qua như thế nào? Bỏ qua không có nghĩa là phủ định sạch trơn mà
phải có tính kế thừa nghĩa là phải kế thừa sự phát triển khoa học công nghệ;
lực lượng sản xuất; khoa học quản lý; cơ sở hạ tầng vì đây là những thành
tựu của nhân loại giai cấp tư sản đã sử dụng trước.
Bỏ qua được không? Từ thực tế tình hình trên cho phép của đất nước
để cân nhắc xem có có phù hợp với bối cảnh thế giới và tình hình trong nước
hay không.Lênin khẳng định rằng ở một nước kém phát triển thì cần phải tạo
ra những điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội bằng một cuộc
cách mạng thiết lập chính quyền liên minh công nông và phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội qua các bước quá độ, không được nhảy vọt cũng như nóng vội.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thờ kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nước ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ
5


nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc
điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí
Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu

thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và
thực trạng kinh tế-xã hội quá thấp kém của nước ta.
Về lĩnh vực kinh tế: đây là thời kỳ bao gồm những mảng, những phần,
những bộ phận của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xen kẽ nhau, tác
động với nhau, lồng vào nhau, là thời kỳ tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cả
thành phần kinh tế xã hội lẫn thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, thành
phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ cùng tồn tại và phát triển, vừa hợp tác
vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau gay gắt. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất
hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.
Về lĩnh vực chính trị: kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa
dạng, phức tạp bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Thời kỳ quá độ này cần tiến
hành cuộc đấu trang chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội, đảng
cộng sản trong sạch vững mạnh.
Về lĩnh vực tư tưởng văn hóa xã hội: tồn tại nhiều tư tưởng và văn hóa
khác nhau. Lĩnh vực này yêu cầu phải khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại;
từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng

6


lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội. Xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người,…
b.


Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Theo Hồ Chí Minh ,thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở

nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nên sản xuất tiên
tiến , hiện đại. Thực chất của quá tình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc
dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trog điều kiện mới, khi
mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản Cách mạng dân tộc dân chủ so sánh lực
lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đồi hỏi phải áp
dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế văn hóa xã hội
nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy điịnh quá độ lên chủ
nghĩa xã hội lên Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và
lâu dài.
Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao
gồm hai nội dung lớn :
Một là ,xây dựng nên tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,xây
dựng các tiền đề về kinh tế ,chính trị ,văn hóa,xã hội….. Bởi vì chỉ khi xây dựng
được nền tảng vật chất thì đất nước mới được coi là một phần đổi mới. Thêm
vao đó thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nghĩa là đất nước bước sang
một giai đoạn mới dân chủ xã hội hơn, văn minh và cải tiến hơn. Vì vậy thời
kỳ quá dộ lên chủ nghĩa xã hội cần cosnhieemj vụ đó là xây dựng về mặt cơ sở
vật chất để trong tương lai đáp ứng được nhu cầu tàn cầu hóa, công nhgiệp
hóa hiện đại hóa hay nh cầu đổi mới của xã hội trong tương lai.

7


Hai là ,cải tạo xã hội cũ,xây dựng xã hội mới ,kết hợp cải tạo và xây
dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm,làm nội dung cốt yếu nhất,chủ

chốt,lâu dài. Tại sao nói lấy xây dựng là trọng tâm bởi vì đạp phá đi một xã
hội cũ nát lỗi thờ thì gần như quay lại thời ì đầu tiên, giai đoạn đầu tiên khi
mà chưa có gì trong một quốc gia. Tất cả hầu như là hoàn toàn mới. Vì vậy
việc đặt nền móng cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng.
Bởi vì đây là cơ sở, bước khởi đầu của mọi quá trình. Nếu nó được xây dựng
và đặt nền móng càng vững chắc thì sau này sức phát triển và tồn tại sẽ
mạnh và vững hơn rất nhiều. Còn nếu không thực hiện bước xây dựng mà bỏ
qua nó thì thừi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ sơm dừng lại vì rất khó thực
hiện sau này.
Vì vậy nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất qquan
trọng. Chỉ có thực hiện được các nhiệm vụ này thì mới có thể đưa đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội bước sang một trang mới với những bước khởi đầu và
sự thành công mới.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự dần dần của thời kỳ quá
dộ lên chủ nghĩa xã hội.Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được nhấn mạnh ở những điểm sau.
Thứ nhất ,đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời
sống, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
khác nhau. Như trong ‘’di chúc’’ Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân Việt
Nam. Cuộc cách mạng này sẽ làm lại tất cả, về mọi mặt của đời sống xã hội.
Nó thực sự rất khó khan và gian nan bởi sự khởi đầu chưa bao giờ là dễ. Cuộc
chiến đấu đòi hỏi một dân tộc phải thực sự quyết tâm dám thay đổi, một

8


Đảng lãnh đạo phải kiên quyêt strong quyets điịnh, cứng rắ thực hiện và đề ra
những bước đi, bước tiến để thay đổi thật chắc chắn và vững vàng.

Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội . Đảng, Nhà nước
và nhân dân chưa có kinh nghiệm nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công
việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta nên có thể vừa làm vừa học, có thể vấp
váp thiếu sót. Xây dựng chủ nghĩa xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức
tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời. Thật vậy khi đánh đổ một xã hội cũ đã
lỗi thời thì ta chỉ việc đạp nó đi. Nhưng để xây dựng lại một xã hội mới thì gặp
rất nhiều khó khăn và thử thách. Phải làm sao cho cái xã hội mới đấy được
xây lên nhưng phải vững chắc, đòi hỏi phải đi đúng hướng của nó thì mới có
thể tồn tại lâu bền được.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta luôn bị các
thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá. Các thế lực thù
địch trong nước là những kẻ nắm quyền trong xã hội cũ. Chúng không muốn
quyền lực đang nằm toàn bộ trong tay chúng bị phân chia cho bất kỳ kẻ nào
khác nên bằng mọi các chúng sẽ tìm cách chống phá không cho thời kỳ quá độ
lên chủ ngĩa nghĩa xã hôi được thực hiện thành công. Một thế lực thù địch
nữa đó là bọn thù địch ở nước ngoài. Sẽ không ngoài khả năng là bọn chúng
sẽ tìm mọi cách để chống phá Cách mạng Việt Nam vì không bao giờ chúng
muốn một nước xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội vì dân tộc đó sẽ trở nên
mạnh hơn. Và đặc biệt là âm mưu xâm chiếm dân tộc ta của một số kẻ thù
bên ngoài.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
cán bộ Đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn
nóng chủ quan đốt cháy giai đoạn . Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước
đi và hình thức phù hợp trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các
khâu trung gian quá độ, tuần tự từng bước từ thấp đến cao. Vì vậy xây dựng
9


chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu
biết các quy luật vận động xã hội lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật

sát với tình hình thực tế.
c.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp cách mạng
mang tính toàn diện. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng
lĩnh vực:
Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn tự đổi mới và tự chỉnh
đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù
hợp để đáp ứng các yêu cầu,nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ Đảng ta
đã trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người về đảng
cầm quyền làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái
hóa, biến chất, làm mất long tin nhân dân,cắt đứt mối quan hệ máu thịt với
nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức. Đồng
thời, củng cố và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng trở thành nhiệm vụ rất quan trọng. Một
nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
củng cố mà mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công
nhận, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo; củng cố và tăng
cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.
Để phát huy quyền làm chủ của dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện
pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng ực hoạt động
của các tổ chức chính trị- xã hội của quần chúng, củng cố các hình thức dân
chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp, cử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
10



Trong lĩnh vực kinh tế: được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt như lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh
đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu
các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Người quan niệm hết
sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các
ngành sản suất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nước ta cần ưu tiên phất triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất
cho chủ nghĩa xa hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác
xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Hồ Chí Minh nhấn mạnh
nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan,
gò ép, hình thức. Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia
ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng gióp nhất định trong
khôi phục nền kinh tế trong xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xa hội,
nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản suất và của cái khác
cảu hộ, hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, giúp họ cải tạo
theo chủ nghĩa xa hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ
phân phối và quản lý kinh tế. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng. Hồ Chí Minh còn đề cập đến vấn đề khoán
trong sản suất, “ Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó
khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm

11



khoán là ích chung và lại lợi riêng..., làm khoán tốt thích hợp và công bằng
dưới chế độ ta hiện nay”
Trong lĩnh vực văn hóa xã hội: Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây
dựng con người mới. đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hóa, giáo
dục và khoa học - kỹ thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng,
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả
văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn
đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao
dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa
trong đời sống xã hội.
Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp
thực hiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, điều cần thiết nhất trong thời điểm lúc này là tìm ra
bước đi, biện pháp thực hiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ
nhận thức lý luận thành hành động, liên quan trực tiếp đến tình hình thực tế
của Việt Nam. Xác định cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai
nguyên tắc:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang
tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nuớc
anh em. Học tập những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng cần chọn
lọc, không sao chép, máy móc, giáo điều, Người nhận thấy Việt Nam có thể
làm khác Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác vì Việt Nam có điều kiện cụ
thể khác vì vậy cần linh hoạt trong việc áp dụng các kinh nghiệm của các
nước.

12



Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ
yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng
thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên đây, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống
việc xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, quá tuyệt đối hóa
cái riêng, những đặc điểm của dân tộc, vừa chống máy móc, giáo điều khi áp
dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin mà không tính đến những điều
kiện lịch sử - cụ thể của đất nước và của thời đại. Tùy vào điều kiện thực tế để
vận dụng và đưa ra những bước đi phù hợp mang tính chọn lọc để tạo điều
kiện thuận lợi nhất trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với hai nguyên tắc phương pháp luận vừa nêu, Hồ Chí Minh xác định
phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dần
dần, thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng
và việc xác định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách
quan quy định. Hồ Chí Minh nhận thức về phương châm "Tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" không có nghĩa là làm bừa, làm
ẩu, "đốt cháy giai đoạn", chủ quan, duy ý chí, mà phải làm vững chắc từng
bước, phù hợp với điều kiện thực tế.
Bước đi trong cải tạo nông nghiệp: “Lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau
đó tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến tới
hình th ức hợp tác xã dễ dàng rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn.
Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến
vai trò của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là "con đường phải đi
của chúng ta", là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và Người cho rằng “công nghiệp hóa không có nghĩa là xây dựng những
nhà máy xí nghiệp cho thật to, quy mô cho thật lớn”, bất chấp những điều
kiện cụ thể cho phép trong từng giai đoạn nhất định. Theo Người: “Ta làm
13



cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên rồi đến tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”, có nghĩa là công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và
phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực
phẩm cho nhân dân các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
Hồ Chí Minh đã đưa gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang tính thiết thực và phù hợp với tình hình Việt
Nam. Người đã chỉ đạo một số biện pháp cụ thể:
Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với
xây dựng, .lấy xây dựng làm chính.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến
lược ở hai miền Nam – Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia. Phải kết
hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam “xây
dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam” để miền Bắc trở thành hậu phương vững
chắc cho miền Nam, hướng tới thống nhất đất nước.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để
thực hiện thắng lợi kế hoạch. Đẩy mạnh gia tăng sản xuất phải đi đôi với thực
hành tiết kiệm, Hồ Chí Minh viết: “Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết
kiệm là tay trái của hạnh phúc”.
Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản quyết định lâu dài trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải gắn mục tiêu cao cả của chủ
nghĩa xã hội với biện pháp và cách làm thiết thực, cụ thể để đáp ứng yêu cầu
của nhân dân trong từng giai đoạn.

14



Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng phải
lấy dân làm gốc, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem
lại lợi ích cho dân, pahỉ biến sựu nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự
nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Trong quá trình này, vai trò lãnh đạo
của Đảng cầm quyền là hết sức to lớn trong việc đề các đường lối, chính sách,
bước đi, biện pháp để tận dụng nguồn lực trong dân mang đến lợi ích cho
quần chúng lao động.
III.

Hành động của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời ký
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những

thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể
hóa. Nhưng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời
cơ, vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả
trên bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên.
Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những
vấn đề quan trọng nhất.
Thứ nhất, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam:
Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn
dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc
lập dân tộc, từng bước quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước
ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau khi giành được độc

15


lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong quá
trình phát triển của xã hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng
được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân,
cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước
cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục
con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ
Chí Minh đã lựa chọn. Vì thế, đổi mới là quá trình vận dụng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chứ không phải là thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết
cách ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển
nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa; không vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm
phương hại các mặt khác của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để
phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học
- công nghệ hiện đại, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ,
công bằng xã hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Thứ hai, Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh
mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.


16


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta
phải trải qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và
công nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến
nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các
cường quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của
toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là
chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả
các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài
năng, sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn
dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
-

Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế,
làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành

-

động lực của sự phát triển xã hội.
Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn

-


nhân lực.
Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự
đồng thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

17


Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế
thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của
thời đại tập trung ở cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu
hóa. Chúng ta phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu
tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp
tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân
tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực
quốc gia.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi
bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng
rường cột của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân
tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại
trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú,
làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc.
Thứ tư, Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ
máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng

phí, thực hiện cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng
chân chính, một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức, văn
minh". Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng
dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu
trong mọi việc.
18


Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia
một cách đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ
liêm khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ
máy chính quyền những "ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân
để mưu cầu lợi ích riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội
của đất nước.
Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất
nước, hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm
để xây dựng nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải
trở thành quốc sách, thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn
mực đạo đức, một hành vi văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Một dân tộc
biết cần, biết kiệm" là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ
thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh
thần.

C.


Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ
sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin.Tư tưởng Hồ Chí
Minh giúp giải quyết những vấn đề quan trọng nhất đó là: Kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc và quá độ lên chủ nghĩa xã hội; phát huy quyền làn chủ của
nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế
19


tri thức; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chăm lo cho Đảng
trong sạch vững mạnh làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; phát huy phẩm chất cần, kiệm,
liêm,chính, chí công vô tư để xây dựng một đất nước Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa vững mạnh, phát triển sánh ngang với các cường quốc thế giới.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, nhà xuất bản chính trị quốc
gia 2013, Bộ giáo dục đào tạo.
2. Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Hội đồng lý luận trung ương
2008.
3. Bách khoa toàn thư điện tử
20


4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam />
21




×