Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Quản lý rủi ro và thanh khoản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.78 KB, 36 trang )

I. TỶ GIÁ
1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tỷ giá
Theo quan điểm của các học giả Mỹ, “ rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được”, “ rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng
xác suất”. Rủi ro thường được đo lường bằng độ chênh lệch giữa lợi nhuận
thực tế với mức lợi nhuận dự kiến. Đối với NH, rủi ro có thể hiểu là mối đe
doạ bị tổn thất một phần vốn của mình và không đạt được thu nhập hay đòi
hỏi các khoản chi phí bổ sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất
định.
Rủi ro tỷ giá phát sinh khi NH kinh doanh mua bán cho chính mình, hay nói
một cách khác, rủi ro tỷ giá là rủi ro xuất hiện khi có sự dịch chuyển tỷ giá
của các ngoại tệ mà NHTM giữ dưới dạng tài sản Có, tài sản Nợ hoặc cả hai
tức là tạo trạng thái ngoại hối mở (open or unhedged position) để đầu cơ
kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. Hiện nay, có 2 nguyên nhân dẫn đến rủi ro tỷ giá
tại các NHTMVN.
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tỷ giá của các NHTMVN là do trạng
thái ngoại hối không cân xứng, tức là có sự chênh lệch giá trị tài sản Có và
tài sản Nợ ngoại hối hoặc chênh lệch giữa doanh số mua vào và bán ra của
đồng tiền nước ngoài.
Nguyên nhân khách quan khác là do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng
bất lợi đối với ngân hàng. Nguyên nhân của sự biến động này là : cung - cầu
ngoại tệ trên thị trường, cán cân thanh toán quốc tế, chính sách thuế quan,
năng suất lao động, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất đồng
ngoại tệ và nội tệ.
Tuy nhiên, khi đánh giá rủi ro người ta đánh giá sự ảnh hưởng của cả 2 yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp đến lãi (lỗ) của hoạt động kinh doanh. Mối quan hệ
đó được thể hiện qua công thức tính lãi (lỗ) đối với từng loại ngoại tệ khi tỷ
giá biến động như sau: Lãi (lỗ) đối với ngoại tệ i = (trạng thái ngoại hối ròng
của ngoại tệ i) x (mức biến động của tỷ giá ngoại tệ i).
2. Đánh giá thực trạng rủi ro tỷ giá của các NHTMVN
2.1. Thực trạng rủi ro tỷ giá của các NHTMNN


- Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến rủi ro tỷ giá đối với các NHTMNN.


Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên qua các năm theo chiều hướng
đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài. Qua theo
dõi cho thấy: Trong suốt một quãng thời gian khá dài, tỷ giá VND/USD chỉ
biến động tăng một chiều với một biên độ hẹp, thêm vào đó thị trường ngoại
hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ. Các doanh nghiệp
nhập khẩu chỉ muốn tìm mọi cách kí hợp đồng kì hạn mua ngoại tệ để đảm
bảo thanh toán hợp đồng xuất nhập khẩu.
Ta thấy mức dao động năm 2000 biến động + 490 đồng (3,5%), năm 2001
biến động + 550 đồng (3,8%), năm 2002 biến động +321 đồng (2,13%), năm
2003 biến động +265 đồng (1,72%), năm 2004 là năm Ngân hàng Nhà nước
điều chỉnh tỷ giá biến động liên tục nhằm hạn chế tình trạng găm giữ ngoại
tệ của các NH nhưng mức độ biến động cũng không vượt quá 140 đồng (+
0,89%). Như vậy, tỷ giá VND/USD có biến động nhưng không nhiều trong
giai đoạn 2000-2004 và mức biến động cao nhất đạt ở mức 3,8%. Nguyên
nhân chủ yếu do cán cân vốn thặng dư, lượng kiều hối khá dồi dào hơn nữa
do USD mất giá so với EURO và một số đồng tiền khác, lãi suất USD vẫn
duy trì ở mức thấp đáng kể so với lãi suất VND dẫn đến nhu cầu USD không
tăng.
- Những biến động này đã gây rủi ro cho các NHTMVN. Rủi ro ở đây phụ
thuộc vào trạng thái ngoại tệ mà NH đang duy trì. Rủi ro tỷ giá là rủi ro tiềm
tàng đối với các NHTMVN. Rủi ro này thể hiện qua:
+ Trong hai năm 2003, 2004, 4 NHTM Nhà nước hàng đầu đều có trạng thái
ngoại hối mở tuy nhiên về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn quy định của
NHNN (không vượt quá 30% vốn tự có). Tuy nhiên, vị thế của các NH
không hề giống nhau, một số NH có vị thế trường về ngoại tệ và một số NH
có vị thế đoản về ngoại tệ. Điều đó có nghĩa là dù tỷ giá có biến động theo

chiều hướng nào đều gây bất lợi cho các ngân hàng. Nếu tỷ giá tăng thì
những NH có vị thế đoản ngoại tệ bị thiệt hại và ngược lại nếu tỷ giá giảm
thì những NH có vị thế trường về ngoại tệ sẽ bị thiệt hại.
- Hầu như doanh số mua vào thấp hơn doanh số bán ra cũng do các NHTM
thường duy trì trạng thái ngoại tệ tạm thời là đoản, do đó, phải đối mặt với
rủi ro khi tỷ giá tăng. Điều này cũng cho thấy thị trường ngoại hối Việt Nam
phát triển theo hướng một chiều, luôn ở tình trạng cầu lớn hơn cung.
Thực tế Việt Nam cho thấy sự thay đổi mặt bằng lãi suất có ảnh hưởng rất
lớn đến tỷ giá giữa VND và USD. Từ năm 2000 trở đi, đồng USD liên tục
tăng giá so với VND, điều này thúc đẩy tâm lý muốn găm giữ ngoại tệ, các
NHTM sẽ có nhận định là duy trì trạng thái ngoại hối trường ròng sẽ có lợi.
Tuy nhiên do chênh lệch lãi suất VND và USD quá lớn dẫn đến người nắm
giữ USD lại có thu nhập thấp hơn người nắm giữ VND. Điều đó có nghĩa là


nếu ngân hàng huy động USD với lãi suất thấp và bán ngoại tệ trên thị
trường để cho vay với lãi suất cao, duy trì vị thế đoản ngoại tệ không những
không bị thiệt hại mà còn có lợi mặc dù USD có tăng giá.
2.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro
- Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo lường rủi
ro quá yếu kém, kĩ năng xử lí dữ liệu bằng điện toán chưa cao, chưa có
những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các
NHTMVN chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán,
cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá nên trong kinh doanh
tiền tệ NH đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị
trường. Cũng chính vì tư tưởng trên nên NH rất yếu về phân tích tỷ giá mà
đặc biệt là rất yếu về phân tích kĩ thuật. Hầu như rất ít NH sử dụng phân tích
kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho phân tích cơ bản trong phân tích
tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NH mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ

yếu các NH chỉ kinh doanh cho khách hàng. Thật sự thì cho dù NH kinh
doanh với NH hay kinh doanh đầu cơ cho chính họ thì việc phân tích tốt sự
biến động tỷ giá cũng như dự báo được sự biến động tỷ giá sẽ giúp cho NH
quản lý rủi ro tỷ giá một cách hiệu quả.
Một điểm bất lợi của các NHTMVN so với NH ở những nước phát triển
như: Singapore, Hong Kong là tại VN chưa có hệ thống EBS (Electronic
Brokerage System) nên giá mà các NH được cung cấp bởi Reuters hay các
hãng tin khác cũng chỉ là tỷ giá tham khảo chứ chưa phải là tỷ giá giao dịch
thật sự trên thị trường. Bởi lẽ chỉ có thông qua EBS các nhân viên kinh
doanh ngoại tệ (dealer) mới có thể thấy được các luồng tiền dịch chuyển trên
thị trường, thứ hai, thông qua EBS các NHTMVN có thể thấy được lệnh trên
thị trường bán/ mua ở mức giá nào, từ đó có thể biết được đâu là vùng cản
(resistance), đâu là vùng nâng đỡ (support)và các lệnh ngăn lỗ (stop loss
order –SL ODA) được đặt ở đâu. Hơn nữa, các NHTM nên đầu tư cho bộ
phận phân tích và dự báo tỷ giá. Việc phân tích và dự báo tỷ giá của các
NHTM cũng chỉ mới mang tính ngắn hạn và cũng chỉ dừng lại ở việc phân
tích cơ bản và rất ít dealer giỏi phân tích kĩ thuật, còn hầu như không ai tại
VN sử dụng mô hình phân tích hồi quy để dự báo tỷ giá trong dài hạn.
Thường thì các dealer tại hầu hết các NHTMVN đều giao dịch trong ngày là
chính nên họ cần phải đẩy mạnh khả năng phân tích kĩ thuật để tìm ra đâu là
vùng cản, vùng nâng đỡ của thị trường và phối hợp với phân tích cơ bản và


phân tích thông tin trên thị trường nhằm đưa ra các quyết định chuẩn xác về
mua/bán một đồng tiền nào đó vào một thời điểm nhất định.
- Các qui định pháp lí về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa hoàn thiện
gây rủi ro tỷ giá.
Mặc dù NHNN đã thay đổi phương pháp xác định trạng thái ngoại tệ theo
QĐ 1081/2002/QĐ -NHNN cho phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam,
tuy nhiên, việc tính toán trạng thái ngoại tệ cuối tháng được tính trên cơ sở

số dư tại thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng chỉ xét đến trạng thái ngoại
tệ được hình thành do các giao dịch mua bán ngoại tệ của NH mà chưa tính
đến thu và chi phí trả lãi phát sinh từ các Tài sản Có và Tài sản Nợ sinh lời.
Nếu các khoản thu và chi này cộng dồn sẽ ảnh hưởng đến giá trị giữa trạng
thái ngoại tệ thực tế và trạng thái ngoại tệ báo cáo gây rủi ro lớn.
- Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên thị
trường.
Mặc dù thời gian qua NHNN đã xoá bỏ sự áp đặt chủ quan, duy ý chí trong
việc thiết lập tỷ giá, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường
“chợ đen” dần dần được thu hẹp. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá trong những
năm qua còn nhiều phức tạp. Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên
cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; nhưng, trong
thực tế, NHNN vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên tắc này. Cơ chế điều hành
tỷ giá còn quy định biên độ mua bán làm cho việc yết giá của các NHTM bị
cứng nhắc, chưa phản ảnh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
3. Một số giải pháp và kinh nghiệm nhằm hạn chế rủi ro tỷ giá tại các
NHTMVN
3.1. Giải pháp về công nghệ
Công nghệ là chìa khoá để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh
ngoại tệ và hạn chế rủi ro, vì vậy:
- Cần trang bị thêm hệ thống EBS nếu được sự cho phép của NHNN để hệ
thống thông tin được toàn diện hơn. Đây là hệ thống giao dịch khớp lệnh tự
động cung cấp cho các nhà kinh doanh một mức tỷ giá thực đang giao dịch
trên thị trường mà các nhà kinh doanh chỉ cần nạp lệnh vào hệ thống này và
nếu có NH nào đó yết giá khớp với lệnh trên thì lệnh đó sẽ được thực hiện.
- Tạo lập được những nền tảng cần thiết để phát triển các dịch vụ và hoạt
động giao dịch cầu nối (BTRS - Bridge Trading Room System) tận dụng dữ
liệu thị trường để phục vụ cho các giao dịch KDNT hằng ngày



- Chú trọng đầu tư các trang thiết bị hiện đại cho bộ phận phân tích và dự
báo.
3.2. Giải pháp về tổ chức và nhân sự
Nên xây dựng phòng Kinh doanh ngoại tệ theo mô hình đạt tiêu chuẩn quốc
tế bao gồm các bộ phận sau:
- Bộ phận kinh doanh trực tiếp: Bao gồm các nhà kinh doanh tiền tệ là
những người ra các quyết định mua bán một đồng tiền nào đó. Thông
thường trong bộ phận gồm hai nhóm nhân viên kinh doanh chính: các nhà
kinh doanh phụ trách khách hàng (dealer) và những nhà kinh doanh ngoại
hối chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi vị thế hối đoái của ngân hàng
(trader). Dealer có một số nhiệm vụ sau: 1/ Trực tiếp kinh doanh với khách
hàng và yết giá khi cần thiết; 2/ Marketing cho bộ phận kinh doanh tiền tệ
của ngân hàng tức là hỗ trợ cho khách hàng những thông tin cần thiết về khả
năng đồng tiền đó sẽ tăng hay mất giá; 3/ Tư vấn trong giao dịch mua bán
tiền tệ cho khách hàng của mình. Trader có nhiệm vụ: 1/ Trả lời các câu hỏi
về yết giá của các dealer; 2/ Kinh doanh đầu cơ bằng cách mua thấp bán cao;
3/ Theo dõi các lệnh mua bán của khách hàng.
- Bộ phận kế toán điều vốn: Là bộ phận chịu trách nhiệm về việc thanh toán
cho NH đối tác cho mỗi giao dịch đã được thực hiện tại bộ phận kinh doanh.
Họ cũng chịu trách nhiệm về việc theo dõi hạn mức tín dụng, hạch toán các
bút toán cần thiết.
- Bộ phận trung gian: là bộ phận hoàn toàn chịu trách nhiệm theo dõi hạn
mức tín dụng, hạn mức giao dịch, theo dõi lãi lỗ trong kinh doanh tiền tệ,
chịu trách nhiệm phối hợp với hai bộ phận kiểm tra nội bộ và kiểm toán để
theo dõi và quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
3.3. Giải pháp về kỹ thuật kinh doanh
- Duy trì sự cân xứng về trạng thái ngoại hối giữa tài sản Có và tài sản Nợ
Thứ nhất, đối với các khoản cho vay bằng ngoại tệ NH nên sử dụng một
nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ tương ứng. Khi số dư tiền gửi ngoại tệ tại
NHTM tăng lên do khách hàng gửi nhiều ngoại tệ vào NH, NH chủ động tìm

kiếm khách hàng có nhu cầu vay ngoại tệ, mở rộng cho vay ngoại tệ hoặc
mua các giấy tờ có giá phát hành bằng ngoại tệ tương ứng với phần tiền gửi
ngoại tệ tăng thêm tại NH. Ngược lại, khi khách hàng rút tiền gửi bằng ngoại
tệ ra nhiều làm giảm số dư tiền gửi ngoại tệ, NH nên hạn chế cho vay, tích
cực thu hồi các khoản vay quá hạn.


Thứ hai, NH nên tham gia các giao dịch về ngoại tệ sao cho tổng các giá
trị hợp đồng mua vào một ngoại tệ nào đó bằng tổng giá trị các hợp đồng
bán ra của ngoại tệ đó. Tuy nhiên, việc duy trì sự cân xứng các khoản mục
trong Bảng cân đối tài sản một cách tuyệt đối là hết sức khó khăn và các
NHTM không thể chủ động được vì điều này phụ thuộc vào nhu cầu vay,
gửi của khách hàng.
Thứ ba, NH không nên duy trì trạng thái mở của một đồng tiền ở mức
độ lớn để tránh những tổn thất lớn khi tỷ giá biến động. Bởi lẽ, theo QĐ
1081/2002/QĐ-NHNN, tổng trạng thái ngoại hối mở ở mức 30% vốn tự có
của NH, trong đó không phân biệt đồng USD (trước đây quy định đồng USD
không vượt +/-15% VTC). Thực ra việc quy định cũng xuất phát từ thực tế
giao dịch trong NH xuất phát từ đồng USD nhiều, giải quyết được nhu cầu
căng thẳng trong NH. Tuy nhiên, đứng ở góc độ quản lý rủi ro không nên
lạm dụng điều này quá sẽ gây rủi ro tỷ giá.
- Xây dựng tỉ giá các loại ngoại tệ so với VND một cách linh hoạt, đảm bảo
tính cạnh tranh lành mạnh và lợi nhuận, tăng trưởng nguồn vốn và có ngoại
tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của khách hàng.
- Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Đa dạng hoá lại là một kiểu chiến lược kinh doanh khác bằng cách giữ
nhiều tài sản mang tính rủi ro thay vì tập trung vào một hay một vài loại tài
sản nhất định. Lựa chọn danh mục đầu tư bên cạnh việc tính toán mức lợi
nhuận cao nhất phải tính toán đến tổng mức rủi ro của danh mục. Chiến lược
này cần phải được thiết kế và chú trọng vào 3 phương diện: Loại hình

nghiệp vụ; Loại ngoại tệ, Thị trường và các giải pháp tương ứng sau:
+ Giải pháp thứ nhất là phải đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh.
ở nước ta hiện nay, đồng tiền dùng trong giao dịch ngoại thương chủ yếu là
USD, do vậy trong hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng
như của các NH đều lựa chọn đồng tiền này. Trong điều kiện đa phương hóa
và đa dạng hóa các mặt hoạt động kinh tế đối ngoại, các đồng tiền của các
quốc gia khác như GBP, JPY, EUR, AUD... ngày càng được sử dụng nhiều
trong thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ ở các nước thì việc sử dụng chủ
yếu một loại ngoại tệ như hiện nay đã ảnh hưởng đến sự mở rộng giao lưu
kinh tế hàng hoá với nhiều nước trên thế giới. Do vậy, khi tỷ giá của USD
thay đổi thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ bị ảnh hưởng nặng nề, hiệu quả
kinh doanh ngoại tệ hầu như bị phụ thuộc vào sự tăng, giảm của tỷ giá. Hơn
nữa, việc kinh doanh nhiều loại ngoại tệ khác ngoài USD cũng là một


phương pháp tăng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ do chênh lệch giữa
giá bán ra, mua vào các loại ngoại tệ này lớn hơn nhiều so với USD.
+ Giải pháp thứ hai là đa dạng hoá loại hình nghiệp vụ kinh doanh. Hiện
nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM chủ yếu mới thực hiện
nghiệp vụ giao ngay, còn các nghiệp vụ khác như mua bán có kỳ hạn, Swap
quyền chọn thì mới được triển khai với số lượng khiêm tốn và chỉ giới hạn ở
một số NH. Vì vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ mang tính đơn giản, chưa
có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ và hoạt động dự trữ, đầu cơ còn
dừng ở mức độ nhất định. Căn cứ vào tình hình thực tế thực hiện các loại
hình kinh doanh ngoại tệ hiện nay, trước mắt, các NHTMVN nên đẩy nhanh
việc kí thoả thuận ISDA với các đối tác nước ngoài để thực hiện các giao
dịch Option trên thị trường quốc tế. Xúc tiến việc thực hiện nghiệp vụ
Option ở trong nước và xây dựng mối quan hệ về mặt nghiệp vụ chặt chẽ với
nước ngoài là một việc làm hết sức cần thiết mang tính chất quyết định để
thực hiện thành công và phát triển nghiệp vụ này. Sau khi kí thoả ước ISDA

thì các NHTMVN nên thực hiện ngay nghiệp vụ Swap lãi suất cho các
khoản tiền lớn để phòng ngừa rủi ro (ví dụ khoản vay 275 triệu USD thời
hạn 10 năm của Bộ Tài chính) bởi vì với xu hướng biến động lãi suất như
hiện nay nếu không triển khai ngay nghiệp vụ này thì các NH có khả năng
đối mặt với rủi ro rất lớn về lãi suất, nếu lãi suất quốc tế tăng mỗi năm 1%
thì NHTMVN sẽ mất 2,75 triệu USD mỗi năm và ngược lại nếu lãi suất trên
thị trường quốc tế giảm thì sẽ được hưởng lợi một khoản tương ứng. Ngoài
ra, để góp phần thêm phong phú các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ nhằm
đáp ứng nhu cầu khách hàng trong và ngoài nước tốt hơn thì bên cạnh việc
phát triển các nghiệp vụ bán kì hạn, các NHTMVN cũng nên tăng cường
thêm cả nghiệp vụ mua kì hạn. Đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị
trường sẽ tạo ra các công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ
giá và lãi suất trên thị trường trong tương lai giúp cho các nhà xuất nhập
khẩu, các đơn vị kinh tế chủ động trong kinh doanh, thúc đẩy và phát triển
các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn thiện thị trường hối đoái Việt Nam.
+ Giải pháp thứ ba là phải có định hướng, kế hoạch để tiến hành mở rộng
mạng lưới hoạt động của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Trước
hết, đối với thị trường trong nước, việc mở rộng mạng lưới giao dịch nên tập
trung vào các vùng có tiềm năng phát triển kinh tế, có hiệu quả đầu tư cao,
đặc biệt có hoạt động xuất nhập khẩu, vì đó là nơi có nhu cầu cao về sử dụng
các dịch vụ NH. Càng nhiều chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu, qui mô
kinh doanh của NH càng lớn, nhu cầu về vốn và chuyển đổi ngoại tệ càng
nhiều, đồng thời sự tích luỹ vốn tiền gửi cho NH càng lớn. Đối với hoạt


động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế, cần nhanh chóng nghiên
cứu các thị trường khu vực, nâng cấp và mở rộng các văn phòng đại diện,
công ty tài chính đồng thời triển khai thành lập mới các chi nhánh và văn
phòng đại diện tại Châu á, Châu Âu, Châu Mỹ. Mở rộng thị trường sẽ giúp
các NHTMVN đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của mình, có điều

kiện học hỏi thêm để chuẩn hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ, mặt khác sẽ
góp phần tăng thêm doanh số và lợi nhuận từng bước phát triển và hội nhập
với các NH quốc tế.
II.
1,Thanh khoản và rủi ro thanh khoảnThanh khoản
a.Thanh khoản : là một thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng
các nhu cầu về sử dụng vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại
mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán, giao dịch vốn...
b.Khái niệm rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản là tổn thất xảy ra
cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh
khoản dự kiến. Rủi ro thanh khoản ở mức ngân hàng phải gia tăng các chi
phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản sẽ làm giảm thu nhập ròng của ngân
hàng; ở mức cao hơn, ngân hàng mất khả năng thanh khoản.
c.Mục tiêu quản trị rủi ro thanh khoản:
- Đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí hợp lý.
- Dự đoán các nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
2.Các phương pháp đo lường thanh khoản của ngân hàng: có ba
phương pháp đo lường yêu cầu thanh khoản bao gồm: Phương pháp tiếp cận
vốn và sử dụng vốn, phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn và phương pháp tiếp
cận chỉ số thanh khoản. Tất cả các phương pháp này đều được xây dựng trên
giả định rằng tất cả các ngân hàng chỉ có thể ước lượng gần đúng được mức
cầu thanh khoản thực tế tại một thời điểm nhất định.
• Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn:
Những bước chính trong phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng
vốn bao gồm:


1. Nhu cầu vay vốn và lượng tiền gửi cần phải được ước lượng
trong giai đoạn ngân hàng ước tính trạng thái thanh khoản (giai đoạn
kế hoạch).

2. Những thay đổi dự tính trong cho vay và tiền gửi cần phải được
tính toán cho giai đoạn kế hoạch.
3. Nhà quản lý thanh khoản phải ước tính trạng thái thanh khoản
ròng của ngân hàng, thâm hụt hay thặng dư, trong giai đoạn kế hoạch
bằng cách so sánh mức thay đổi dự tính trong cho vay và mức thay
đổi dự tính trong tiền gửi.
Phòng kinh tế của ngân hàng hoặc phòng thanh khoản có thể phát triển
một mô hình dự báo như sau:
- Thay đổi dự tính qua tổng cho vay trong giai đoạn tới là một hàm của:
+ Tốc độ tăng trưởng dự tính của nền kinh tế nơi ngân hàng hoạt động (ví
dụ GDP hay tổng doanh thu)
+ Thu nhập công ty dự tính theo quý
+ Tỷ lệ tăng trưởng hiện tại của cung tiền Quốc gia
+ Lãi suất cho vay cơ bản của ngân hàng trừ lãi suất giấy nợ ngắn hạn và
tỷ lệ lạm phát dự tính
- Thay đổi dự tính qua tổng tiền gửi trong giai đoạn tới là một hàm của:
+ Tốc độ tăng trưởng dự tính của thu nhập cá nhân trong nền kinh tế
+ Mức tăng dự tính trong doanh thu bán lẻ
+ Tỷ lệ tăng trưởng hiện tại của cung tiền quốc gia
+ Tỷ lệ thu nhập dự tính từ tiền gửi trên thị trường tiền tệ
+ Tỷ lệ lạm phát dự tính.
Sử dụng dự báo về cho vay và tiền gửi từ những mô hình nêu trên, nhà
quản lý thanh khoản có thể ước tính yêu cầu thanh khoản đối với ngân hàng
bằng cách tính:


Mức thâm hụt (-) hay

Thay đổi dự tính


thặng dư (+) thanh khoản

= trong tổng tiền gửi

Thay đổi dự
-

tính trong tổng

dự tính

cho vay

Một cách tiếp cận có phần đơn giản hơn trong việc ước tính lượng
tiền gửi và cho vay trong tương lai là phân chia dự báo về sự tăng
trưởng của tiền gửi và cho vay thành ba bộ phận chính:
1. Phần xu hướng: Ngân hàng có thể ước tính phần này bằng cách
xây dựng một đường xu thế sử dụng giá trị tại các thời điểm cuối năm,
cuối quý, cuối tháng đối với tổng tiền gửi và cho vay trong vòng ít
nhất 10 năm gần đây( hoặc theo một cơ sở thời gian khác, đủ dài để
xác định xu hướng hay tỉ lệ tăng trưởng dài hạn bình quân).
2. Phần mùa vụ: phần này đo lường sự thay đổi của tổng tiền gửi
và cho vay trong những tuần, những tháng nhất định dưới tác động
của yếu tố thời vụ trên cơ sở so sánh với mức tiền gửi và cho vay tại
thời điểm cuối năm gần nhất.
3. Phần chu kỳ: Phần này thể hiện sự sai lệch so với tổng lượng
tiền gửi và cho vay dự tính ( đo được bằng phần xu hướng và phần
mùa vụ ), phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế trong năm.
Áp lực thanh khoản chu kỳ là một yếu tố rất khó dự báo được trước. Một
vài phương pháp sau đây cũng giúp đưa ra được những dấu hiệu về độ lớn

của nhu cầu thanh khoản chu kỳ.


Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn:
Thứ nhất: tiền gửi và các nguồn vốn khác của ngân hàng được phân chia

thành nhiều nhóm dựa trên khả năng vốn bị rút khỏi ngân hàng. Để minh
họa, chúng ta có thể chia tiền gửi và những khoản mục vốn phi tiền gửi
thành 03 nhóm:


1. Vốn “nóng”- vốn vay và tiền gửi nhạy cảm với lãi suất hoặc
được dự tính sẽ bị rút khỏi ngân hàng trong kỳ kế hoạch.
2. Vốn kém ổn định- các khoản tiền gửi của khách hàng trong đó
một phần đáng kể (25-30%) sẽ có thể bị rút khỏi ngân hàng tại một
thời điểm nào đó trong kỳ kế hoạch.
3.

Vốn ổn định (thường được gọi là tiền gửi cơ sở hay vốn cơ

sở)- khoản mục vốn mà nhà quản lý ngân hàng tin tưởng rằng ít có
khả năng bị chuyển khỏi ngân hàng (trừ một bộ phận rất nhỏ trong
tổng số)
Thứ hai, nhà quản lý thanh khoản phải dành riêng một phần vốn thanh
khoản tùy theo những nguyên tắc quản lý đối với mỗi nhóm vốn nêu trên.
Ví dụ:
-các khoản vốn nóng : tỷ lệ dự trữ thanh khoản là 95% (từ dự trữ bắt
buộc mà ngân hàng phải nắm giữ). Dự trữ thanh khoản này có thể bao gồm
tiền gửi có thể sử dụng tức thời tại các ngân hàng khác, đầu tư vào trái phiếu
kho bạc và các hợp đồng mua lại nếu như khoản vốn đầu tư có thể được thu

hồi trong vài phút hay vài tiếng.
-Đối với vốn tiền gửi và phi tiền gửi kém ổn định là ngân hàng nắm giữ
một tỷ lệ cố định của tổng số vốn (30%) dưới hình thức dự trữ thanh khoản
-đối với vốn cố định, ngân hàng có thể duy trì một tỷ lệ dự trữ thanh
khoản thấp hơn (khoảng 15% trở xuống) trong tổng số vốn. Do vậy, dự trữ
thanh khoản đằng sau vốn tiền gửi và phi tiền gửi của ngân hàng sẽ được xác
định như sau (ví dụ với tỉ lệ dự trữ lần lượt là : 0.95, 0.3 và 0.15):
Dự trữ thanh khoản vốn= 0.95 x (Vốn tiền gửi và phi tiền gửi nóng –
dự trữ bắt buộc) + 0.30 x (Vốn tiền gửi và phi tiền gửi kém ổn định – dự trữ
bắt buộc) + 0.15 x (Vốn tiền gửi và phi tiền gửi ổn định – dự trữ bắt buộc).


• Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản:
Nhiều ngân hàng ước tính yêu cầu thanh khoản dựa trên kinh nghiệm
và mức bình quân ngành. Điều này thường có nghĩa là sử dụng các chỉ số tài
chính hay các chỉ số thanh khoản thông dụng. Ví dụ:
1. Chỉ số về trạng thái tiền mặt: tiền mặt và tiền gửi tại các tổ chức
nhận tiền gửi khác cộng tài sản. Một tỷ lệ tiền mặt cao hơn ngụ ý rằng
các ngân hàng có khả năng vững vàng hơn trong việc giải quyết yêu
cầu tiền mặt tức thời.
2. Chỉ số về chứng khoán thanh khoản: chứng khoán của chính
phủ- tổng tài sản, so sánh những chứng khoán dễ tiêu thụ mà ngân
hàng nắm giữ với tổng danh mục tài sản của ngân hàng. Tỷ lệ chứng
khoán chính phủ càng cao, trạng thái thanh khoản của ngân hàng càng
tốt.
3. Chỉ số năng lực cho vay: cho vay và cho thuê ròng- tổng tài
sản, là một chỉ số thanh khoản âm vì cho vay và cho thuê là những tài
sản có tính thanh khoản thấp nhất mà ngân hàng nắm giữ.
4. Chỉ số chứng khoán cam kết: chứng khoán cam kết- tổng chứng
khoán nắm giữ, cũng là một chỉ số thanh khoản ngược chiều bởi vì

với một tỷ lệ chứng khoán cam kết cho tiền gửi của chính phủ lớn
hơn, chứng khoán có thể bán để tăng cường thanh khoản.
5. Chỉ số tiền nóng: tài sản trên thị trường tiền tệ + vốn từ thị
trường tiền tệ = [tiền mặt + chứng khoán chính phủ ngắn hạn + cho
vay quỹ liên bang + hợp đồng mua lại (ngân hàng cho vay vốn thông
qua việc mua chứng khoán tạm thời)] + [ CD giá trị lớn + tiền gửi
Đôla Châu Âu + vay quỹ ngân hàng nhà nước + hợp đồng mua lại
(vay vốn bằng việc bán chứng khoán tạm thời)]. Đây là chỉ số phản
ánh trạng thái tương quan giữa vốn vay trên thị trường tiền tệ và tài


sản trên thị trường tiền tệ, tài sản có thể bán được nhanh chóng để đáp
ứng yêu cầu rút vốn từ thị trường tiền tệ.
6. Tỷ số đầu tư ngắn hạn trên vốn nhạy cảm: đầu tư ngắn hạn +
vốn nhạy cảm, trong đó đầu tư ngắn hạn bao gồm tiền gửi ngắn hạn
tại ngân hàng khác, chứng khoán ngắn hạn và vốn nhạy cảm. Tỷ số
này càng cao gợi ý rằng trạng thái thanh khoản của ngân hàng đang
được củng cố.
7. Chỉ số tiền gửi môi giới: tiền gửi môi giới có mức nhạy cảm lãi
suất cao và có thể bị rút ra nhanh chóng, ngân hàng nắm giữ càng
nhiều tiền gửi môi giới thì khả năng khủng hoảng thanh khoản càng
lớn.
8. Chỉ số tiền gửi cơ sở: tiền gửi cơ sở thường thuộc các tài khoản
quy mô nhỏ của khách hàng và các tài khoản này thường ít bị rút vốn
bất thường và có yêu cầu thanh khoản không cao.
9. Chỉ số cấu trúc tiền gửi: tiền gửi giao dịch + tiền gửi kì hạn,
trong đó tiền gửi giao dịch bao gồm những khoản tiền gửi có thể được
rút thông qua việc phát séc, trong khi đó tiền gửi kì hạn có kỳ hạn cố
định và phải chịu phạt nếu khách hàng thực hiện rút vốn trước hạn. Tỷ
lệ này đo lường tính ổn định của cơ sở tiền gửi mà ngân hàng sở hữu;

tỷ lệ này giảm thể hiện tính ổn định cao hơn của vốn tiền gửi và do đó
yêu cầu thanh khoản sẽ giảm.
Những tiêu chuẩn cuối cùng cho việc đánh giá quản lý thanh khoản - Tín
hiệu thị trường:
1. Lòng tin của công chúng
2. Sự vận động trong giá cổ phiếu
3. Phần bù rủi ro trên giá trị tiền gửi (CD) và các khoản đi vay
khác


4. Tổn thất trong việc bán tài sản.

3. Khủng hoảng thanh khoản:
3.1 Khái niệm:
Khủng hoảng thanh khoản của hệ thống ngân hàng xảy ra khi vì một lý
do nào đó, các ngân hàng thương mại không còn tiền mặt để cho vay và trả
nợ đến hạn, mà không vay được trên thị trường liên ngân hàng.
3.2 Các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng thanh khoản
Nguyên nhân từ phía các ngân hàng thương mại
- Thứ nhất, khi các ngân hàng thương mại tăng trưởng tín dụng quá
nóng, đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận
bằng mọi giá sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường có những biến động
không theo mong muốn, từ đó, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản Có
và tài sản Nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để
cho vay dài hạn, chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với
NHTM.
- Thứ hai, do việc quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại không đạt
hiệu quả, đặc biệt trong khâu phân tích diễn biến thị trường, dẫn đến việc bị
động trước sự thay đổi của thị trường.
- Thứ ba, với một quốc gia có hệ thống tài chính chưa phát triển hoàn

chỉnh, tính liên kết còn chưa chặt chẽ, thì khi có một ngân hàng gặp tình
trạng bất ổn thì sẽ khó nhận được sự san sẻ rủi ro, hay sự giúp đỡ từ phía các
ngân hàng khác. Khi ngân hàng này sụp đổ thì nguy cơ dẫn đến một cuộc
khủng hoảng dây chuyền là rất lớn.
Nguyên nhân từ phía khách hàng


Nguyến nhân khó điều tiết, Các ngân hàng có thể phải đối mặt với một cuộc
khủng hoảng thanh khoản chỉ do một tin đồn thất thiệt từ phía báo chí, dư
luận, hoặc lời phát ngôn của các cá nhân có tên tuổi. Sau khi tin đồn đó được
lan ra, dù đúng hoặc sai, hậu quả kế tiếp chính là các vụ rút tiền tiết kiệm
hàng loạt theo tâm lý số đông, khiến cho ngân hàng không kịp xoay sở và
nhanh chóng rơi vào tình trạng mất tính thanh khoản.
Nguyên nhân từ các chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ
- Thứ nhất, việc thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô quá đột ngột của
chính phủ cũng có thể dẫn đến nguy cơ của một khủng hoảng thanh khoản.
Chẳng hạn, khi chính phủ chuyển từ chính sách nới lỏng tiền tệ sang chính
sách thắt chặt tiền tệ quá nhanh bằng cách buộc các ngân hàng thương mại
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mua trái phiếu kho bạc bắt buộc nhằm làm giảm
áp lực lạm phát. Điều đó đẩy lãi suất huy động và lãi suất cho vay liên ngân
hàng lên cao, tình trạng thanh khoản của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn,
doanh nghiệp cũng khó tiếp cận nguồn vốn hoặc gặp rủi ro về lãi suất, khó
trả được nợ.
- Thứ hai, đối với các quốc gia có nợ nước ngoài ở mức cao hoặc nhận
một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt lại là vốn FII, FPI, thì nguy
cơ phải đối mặt với khủng hoảng thanh khoản là rất cao, và một ví dụ thực
tế điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan năm 1997. Khi các
nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy những dấu hiệu bất ổn của nền kinh tế, họ
đã lựa chọn giải pháp thoái vốn, rút hết tiền đầu tư đang gửi tại các ngân
hàng, đẩy các ngân hàng tại đây đi đến bờ vực của sự phá sản.

4.thục trạng rủi ro thanh khoản ỏ các ngân hàng thương mại Việt Nam
-Giai đoạn 2007 đến quý 01 năm 2010 chứng kiến nhiều biến động trên
thị trường ngân hàng. Trải qua cuộc khủng hoảng thanh khoản cuối năm


2007 và khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009, hệ thống ngân hàng bao
gồm NNHN và các NHTM Việt Nam phải đối mặt với nhiều nguy cơ mà
trực tiếp nhất là nguy cơ về rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên, quãng thời gian
này cũng cho thấy những mặt tích cực trong công tác quản lý thanh khoản và
nhiều bài học đã ngay lập tức được áp dụng nhằm tăng cường công tác đề
phòng và quản trị rủi ro thanh khoản trong các hoạt động của ngân hàng.
Những dấu hiệu tích cực trong công tác quản lý rủi ro thanh khoản tại các
ngân hàng Việt Nam có thể nhận thấy như:
- Sự phối hợp trong quản lý, điều hành của NHNN và sự thực hiện của
các NHTM. Nhìn chung, NHNN đã có những động thái kịp thời trong việc
chỉ đạo chính sách tiền tệ nhằm phòng tránh và hạn chế tối đa rủi ro thanh
khoản, ví dụ như việc gỡ bỏ lãi suất trần cho vay đầu năm 2010 nhằm đưa
lãi suất dựa theo các quy luật thị trường đã giảm gánh nặng về thanh khoản
đối với các NHTM . Hệ thống văn bản hướng dẫn và quản lý đang từng
bước được hoàn thiện dựa trên những quy chuẩn Quốc tế như Basel 1,2 góp
phần giúp hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
tiến gần với sự chuyên nghiệp và các chuẩn mực thế giới. Sự hình thành và
phát triển của hoạt động thị trường mở (OMO) cũng giải quyết nhiều nhu
cầu thanh khoản cấp thiết của ngân hàng.
- Về phía ngân hàng thương mại, các ngân hàng đã nhận thức rõ hơn tầm
quan trọng của quản trị thanh khoản. Mỗi ngân hàng đều xây dựng hệ thống
các quy định về quản lý thanh khoản nhằm đưa ra những dự báo, quy tắc
riêng dựa trên các quy tắc của NHNN. Thành công của các quy định và hành
động của các ngân hàng có thể nhận thấy rõ qua các bảng số liệu thống kê về
các chỉ số thanh khoản đều có những dấu hiệu khả quan từ 2007 đến quý 012010.



Tuy nhiên, quản trị rủi ro thanh khoản là một vấn đề khó, không chỉ với
hệ thống ngân hàng Việt Nam mà còn cả đối với những hệ thống ngân hàng
lớn trên thế giới. Trong quá trình phát triển còn non trẻ của mình, hệ thống
ngân hàng Việt Nam không thể tránh khỏi một vài hạn chế còn tồn tại:
Đối với ngân hàng Nhà nước:
-Chính sách tiền tệ thiếu nhất quán và đa mục tiêu: trong giai đoạn đầu
năm 2010, có thể nhìn thấy rất rõ ngân hàng nhà nước phải đối mặt với việc
thực hiện giữa mục tiêu tăng trưởng và điều hành lạm phát. Việc NHNN tiếp
tục hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp và yêu cầu NHTM không được từ
chối các khoản vay đủ tiêu chuẩn của các doanh nghiệp góp phần làm căng
thẳng tình hình thanh khoản của ngân hàng trong những tháng đầu năm
2010.
- Các công cụ điều tiết vĩ mô trong chính sách tiền tệ chưa đa dạng,
chưa hoàn thiện. Công cụ trực tiếp như lãi suất và tỉ lệ dự trữ được sử dụng
quá nhiều gây nên những cú sốc trong nền kinh tế. Trong khi đó, công cụ
gián tiếp như thị trường mở chưa được ưu tiên phát triển và gặp nhiều hạn
chế. Ví dụ như quy định các ngân hàng chỉ được vay 20% nhu cầu thanh
khoản trên thị trường liên ngân hàng cũng gây ra nhiều giới hạn cho ngân
hàng. Ngoài ra, NHNN vẫn duy trì những chính sách về giới hạn việc mở
rộng các chi nhánh của NHTM, chính sách này sẽ hạn chế khả năng tăng
nguồn cung thanh khoản của các ngân hàng.
Đối với các ngân hàng thương mại:
- Hệ thống quản lý thanh khoản của NHTM chưa hiệu quả: cùng với
việc NHNN chưa đưa ra các chỉ tiêu chung và cụ thể trong đánh giá
các chỉ tiêu thanh khoản, các NHTM ở Việt Nam cũng chưa xây dựng
được một mô hình dự báo phù hợp cho nhu cầu thanh khoản của ngân
hàng. Dựa trên các chỉ tiêu đánh giá, có thể thấy, các NHTM ở Việt



Nam dựa quá nhiều trên cho vay tín dụng mà đánh giá thấp nguy cơ
xảy ra rủi ro thanh khoản. Việc đa dạng hóa danh mục tài sản như trái
phiếu Chính phủ, chứng khoán kinh doanh, chứng khoán sẵn sàng để
bán…để đề phòng nguy cơ khủng hoảng thanh khoản cũng bị xem
nhẹ. Ngoài ra, các NHTM Việt Nam có quy mô nhỏ, khả năng về tài
chính còn yếu cũng là khó khăn trong việc đề phòng rủi ro thanh
khoản của ngân hàng ( tính đến ngày 31/03/2010 vẫn còn 30 ngân
hàng chưa đáp ứng được nghị định 141/NĐ-CP của NHNN về việc
có tối thiểu 3000 tỷ đồng là vốn điều lệ, theo vneconomy.vn) .
5.Các chỉ số đo lường thanh khoản của các ngân hàng thương mại từ
nwam 2007 đến hết quý 1/2010
 Chỉ số H3:
Chỉ số H3 là chỉ số về trạng thái tiền mặt.
H3 được tính theo công thức:
H3 = (Tiền mặt + Tiền gửi không kì hạn tại các tổ chức tín dụng)/Tổng
tài sản “Có” (1)
Hoặc:
H3= (Tiền mặt + Tiền gửi thanh toán tại NHNN + Tiền gửi không kỳ hạn
tại các tổ chức tín dụng)/Tổng tài sản “Có” (2)
Cả hai công thức trên đều đo lường về trạng thái tiền mặt của ngân hàng.
Sở dĩ trạng thái này quan trọng trong việc đánh giá tính thanh khoản là vì
tiền mặt cũng như các khoản được nêu trong phần tử số của hai công thức
đều là những tài sản có tính lỏng cao.
Chỉ số này càng lớn chứng tỏ tính thanh khoản của ngân hàng càng tốt.
Sự khác biệt giữa hai công thức là không đáng kể vì phần tiền gửi thanh toán
tại Ngân hàng Nhà nước của các ngân hàng thường là rất ít. Vì vậy, nhằm
đơn giản hóa việc nghiên cứu, chúng tôi tiến hành phân tích H3 theo công
thức (1).



Bảng 2.5: Chỉ số trạng thái tiền mặt H3
Chỉ số trạng thái tiền mặt H3 (%)
2007 2008 2009
quý 01-2010
Vietinbank
3.96
--10.76
10.5
ACB
8.07
11.73 25.88
21.09
Eximbank
7.35
15.79 21.11
25.03
Navibank
41.98 39.78 29.41
--OCB
25.14 3.27
11.15
7.3
Sacombank
7.28
15.54 22.97
21.3
SHB
1.39
0.71

47.66
12.87
Techcombank 24.78 28.79 30.55
--Vietcombank 2.77
5.92
20.33
15.72
Southernbank 6.88
13.37 21.01
--(Nguồn: tự tổng hợp dựa trên báo cáo tài chính các NHTM)*
Một điều
nhận
cuộc
khủng
thanhbàikhoản
cuối
* Cácdễ
bảng
số liệuthấy,
về chỉsau
số thanh
khoản
được hoảng
sử dụng trong
nghiên cứu
đềunăm
tác giả
tổng hợp
dựa trên
cáo tài

chính của
2007 đầuđược
nămnhóm
2008
và tựkhủng
hoảng
tàibáo
chính
2008,
chỉ các
số NHTM.Việt
trạng tháiNam.
tiền
mặt H3 năm 2009 được cải thiện đáng kể với mức trung bình là 21,68%.
Tuy nhiên, chỉ số này có xu hướng giảm trong 03 tháng đầu năm 2010 với
mức trung bình là 16,25% báo hiệu nguy cơ diễn ra một cuộc chạy đua về
thanh khoản và lãi suất trên thị trường ngân hàng thời gian tới.
 Chỉ số H4:
Chỉ số H4 được tính theo công thức:
H4 = Dư nợ/Tổng tài sản “Có”
Chỉ số này cho biết phần trăm các khoản cho vay tín dụng trong tổng
mức tài sản “Có” của ngân hàng. Đây là chỉ số thanh khoản âm vì cho vay
là tài sản có mức
mà ngân hàng nắm giữ. Chỉ số này rất quan trọng trong nhận biết rủi ro
lãi suất: khi có biến động về lãi suất khiến lãi suất trên thị trường tăng lên, vì
ngân hàng bị buộc với các khoản vay có mức lãi suất cố định nên lợi nhuận
của ngân hàng sẽ giảm. Ngoài ra còn có rủi ro về kì hạn khi ngân hàng dùng


các khoản vay ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn khi có biến động xảy ra

khiến khách hàng rút tiền thì ngân hàng cũng không thể đảm bảo cho khả
năng chi trả. Vì vậy, chỉ số này càng cao thể hiện tính thanh khoản của ngân
hàng càng kém.
Bảng 2.6: Chỉ số năng lực cho vay H4
Chỉ số năng lực cho vay H4 (%)
2007 2008 2009 quý 01/2010
Vietinbank
61.52 --66.3
66.34
ACB
37.25 33.08 37.14
33.54
Eximbank
54.74 44.01 58.64
56.15
OCB
64.29 85.17 79.69
78.72
Sacombank
54.79 51.15 57.35
57.35
SHB
33.83 43.48 41.51
53.4
Techcombank
51.81 43.83 44.91
--Vietcombank
49.41 50.77 53.61
61.24
Southernbank

34.29 45.95 55.22
--Các ngân hàng Việt Nam vẫn hoạt động chủ yếu về cho vay tín dụng.
Chính vì vậy, các con số thống kê về chỉ số H4 trong hơn 3 năm từ 2007 đến
quý 01/2010 không dao động nhiều và ở mức khá cao, phần lớn trên 50%.
Tính đến hết quý 01/2010, duy nhất ACB có chỉ số H4 dưới 50% và cũng là
ngân hàng có tỉ lệ này thấp nhất xét từ năm 2007 đến hết quý 01/2010, cá
biệt OCB luôn có chỉ số H4 cao nhất với các mức % dao động từ 64% đến
85%.
 Chỉ số H5:
Chỉ số H5 được tính theo công thức:
H5 = Dư nợ/Tiền gửi khách hàng
Chỉ số này cho biết tỉ lệ dư nợ cho vay trên tổng số tiền gửi huy động
được của ngân hàng. Tỉ lệ này càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân


hàng càng thấp. Cá biệt, H5 có thể lớn hơn 100% khi ngân hàng đi vay từ
các nguồn khác ngoài tiền gửi khách hàng để thực hiện nghiệp vụ cho vay.
Bảng 2.7: Chỉ số H5

Vietinbank
ACB
Eximbank
Navibank
OCB
Sacombank
SHB
Techcombank
Vietcombank
Southernbank


Chỉ số H5 (%)
2007 2008 2009 quý 01/2010
90.68 --108.1
111.7
57.54 54.24 71.7
64.35
80.56 68.76
99
89.25
71.06 90.91 102.4
--130.9 126.5 125.6
116.41
79.98 75.89 98.58
98.14
149.2 65.76 102.3
91.66
83.7 65.16 66.69
--68.88 70.89 81.02
87.7
61.53 105.5 133
---

Xét trên số liệu của 10 ngân hàng thương mại kể trên, chỉ số H5 thường
rất cao. Tính đến quý 01/2010 có 4 ngân hàng trên tổng số 7 ngân hàng có tỉ
lệ này lớn hơn 100%. Đây là con số nguy hiểm báo hiệu nguy cơ thanh
khoản kém đối với các ngân hàng. Một điều cần lưu ý: mặc dù thị trường
ngân hàng từ năm 2007 đến hết quý 01/2010 có nhiều biến động, tuy nhiên
chỉ số H5 của ngân hàng không phản ánh được những thay đổi trong quản lý
thanh khoản. Các ngân hàng có H5 cao như OCB vẫn giữ mức trung bình
trên 100% với sự chênh lệch qua các năm là rất ít. Vì vậy, các điều chỉnh

của ngân hàng trong điều chỉnh tỉ lệ dư nợ trên tiền gửi khách hàng là rất ít
hoặc không hiệu quả.


Chỉ số H6:

H6 là chỉ số chứng khoán thanh khoản được tính theo công thức:
H6=(Chứng koán kinh doanh + Chứng khoán sẵn sàng để bán)/Tổng tài
sản “Có”


Chỉ số này cho biết tỉ lệ nắm giữ các chứng khoán có khả năng chuyển
thành tiền mặt, đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng. Tỷ lệ này càng
cao, trạng thái thanh khoản của ngân hàng càng tốt.
Bảng 2.8: Chỉ số H6
Chỉ số H6 (%)
2007 2008 2009 quý 01/2010
Vietinbank
19.91 --14.01
15.9
ACB
2.53 1.03 0.61
1.73
Eximbank
16.88 2.63 0.67
0.27
Navibank
3.76 2.6
0.26
--OCB

2.52 1.15 0.86
9.82
Sacombank
17.66 12.67 9.85
9.9
SHB
0.07 10.08 5.42
12.2
Techcombank
17.3 17.69 11.59
--Vietcombank 19.22 14.32 8.22
15.9
Southernbank 6.66 6.05 5.89
--Số liệu tính toán cho thấy, phần lớn các ngân hàng đều nắm giữ số lượng
chứng khoán nói chung và chứng khoán có tính thanh khoản cao với số
lượng thấp. Tuy số liệu này ở mỗi ngân hàng và qua mỗi năm đều khác
nhau nhưng chỉ dao động ở mức dưới 20%, cá biệt một số ngân hàng tỉ lệ
này gần như bằng 0 (SHB năm 2007; Navibank 2009...). Tỉ lệ thấp có thể
được giải thích tùy theo chính sách đầu tư của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên,
các NHTM Việt Nam nên đề cao sự quan tâm tới các loại chứng khoán kinh
doanh và chứng khóan sẵn sàng để bán như một nguồn cung đảm bảo cho
tính thanh khoản.
 Chỉ số H7
Chỉ số H7 được tính toán theo công thức:
H7= Tiền gửi và cho vay TCTD/Tiền gửi và vay từ TCTD


Vì các khoản vay và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng thường có kì hạn
ngắn nên chỉ số này thể hiện sự chủ động của ngân hàng trong giải quyết các
vấn đề thanh khoản. H7 thấp là dấu hiệu cho thấy ngân hàng bị động trong

khả năng thanh khoản và ngược lại khi H7 cao. Để đánh giá chỉ tiêu này,
trong phân tích, ta so sánh H7 với 1:
H7 >1: Ngân hàng chủ động trong thanh khoản.
H7<1: Ngân hàng bị động trong các vấn đề thanh khoản.
Bảng 2.9: Chỉ số H7

Vietinbank
ACB
Eximbank
Navibank
OCB
Sacombank
SHB
Techcombank
Vietcombank
Southernbank

Chỉ số H7
2007 2008 2009
2.37
--1.6
4.17 2.64 3.51
3.91 6.06 2.76
1.41 1.23 0.98
0.68 0.18 1.02
1.03 1.57 5.54
0.76 1.32 1.17
1.1
1.73 2.53
2.32 1.12 1.22

0.96 0.25 0.54

quý 01/2010
2.43
5.17
6.32
--1.16
3.53
0.57
--1.06
---

Mức trung bình H7 trong các năm 2007 đến quý 1/2010 lần lượt là: 1.87,
1.78, 2.08 và 2.32 (đếu lớn hơn 1). Sự tăng dần qua mức trung bình H7 qua
các năm thể hiện sự thay đổi tích cực trong sự phát triển của hệ thống ngân
hàng nhằm giải quyết bài toán thanh khoản. Tuy nhiên, cũng như chỉ số H5,
mức chênh lệch của chỉ số H7 từ năm 2007 đến hết quý 01 năm 2010 ở các
NHTM là không lớn và được giữ ở mức khá ổn định.


Chỉ số H8

Chỉ số H8 được tính theo công thức:


H8= (Tiền mặt + Tiền gửi tại TCTD)/Tiền gửi của khách hàng (1)
Hoặc:
H8=(Tiền mặt + Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD)/Tiền gửi của
khách hàng (2)
Chỉ số H8 cho biết tỷ lệ của tài sản có tính thanh khoản cao và sẵn sàng

để huy động khi cần thiết so sánh với số lượng tiền gửi của khách hàng. Chỉ
số này cũng thể hiện tính chủ động của ngân hàng khi giải quyết các vấn đề
về thanh khoản. H8 cao chứng tỏ ngân hàng chủ động và có tính thanh
khoản tốt.
Vì tính chất của số liệu được cung cấp, trong bài nghiên cứu này, chúng
tôi tính toán chỉ số H8 dựa theo công thức (1) trong đó phần tử số bao gồm
cả tiền gửi có và không có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng của ngân hàng.
Bảng 2.10: Chỉ số H8

Vietinbank
ACB
Eximbank
Navibank
OCB
Sacombank
SHB
Techcombank
Vietcombank
Southernbank

Chỉ số H8 (%)
2007 2008 2009 quý 01/2010
5.83
--17.67
17.69
12.75 19.24 49.99
42.01
10.82 24.66 35.6
39.79
67.71 72.03 57.08

--51.19 4.86 17.57
10.8
10.63 23.06 39.49
36.46
6.13 1.07 44.27
2.21
40.04 42.8 45.29
--3.86 8.26 30.72
22.53
12.34 30.69 50.79
---

Theo bảng số liệu, năm 2009 nhìn chung phản ánh sự thay đổi tích cực
trong quản lý thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam khi
H8 đều lớn hơn 10%. Tuy nhiên, với một số ngân hàng, chỉ số này có mức
dao động khá lớn như OCB, SHB, Vietcombank…đặc biệt là SHB khi chỉ số


H8 trong quý 1 năm 2010 đã giảm 42.06% có thể coi như một tín hiệu báo
động trong công tác dự trữ nhằm đề phòng rủi ro thanh khoản của ngân hàng
này.

6.GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO
THANH KHOẢN Ở VIỆT NAM
3.1 Giải pháp về phía ngân hàng nhà nước:
• Thứ nhất, NHNN cần đảm bảo điều hành nền kinh tế vĩ mô ổn định nhằm
tăng tính an toàn cho toàn bộ hệ thống.
Hiện nay, theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ
đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng có quy định
: tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn của các

NHTM là 30%. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn là khá cao: tại Mỹ- một
quốc gia có thị trường tài chính phát triển nhất thế giới, tỷ lệ này chỉ
cho phép là 10%. Tại Việt Nam, thị trường tài chính đang trong giai
đoạn đầu của sự phát triển, các nguồn vốn huy động của ngân hàng
vẫn chủ yếu là các nguồn ngắn hạn, nguồn trung và dài hạn huy động
được không đủ đáp ứng nhu cầu cho vay, vì thế, tỷ lệ dùng vốn ngắn
hạn để cho vay trung-dài hạn là khá cao nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế. Nhưng cũng chính vì điều này, mà rủi ro thanh khoản
của các NHTM lại tăng lên khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất
thường, đặc biệt trong giai đoạn nước ta đang tăng cường mở cửa giao
lưu kinh tế với thế giới như hiện nay. Đó là lý do khiến chúng ta thiết
nghĩ: nên chăng, NHNN cần giảm tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho
vay trung – dài hạn. Điều này không những tăng tính an toàn cho hệ


×