Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tài liệu về cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.58 KB, 19 trang )

Cho thuê tài chính
I.Lý thuyết
1. Khái niệm cho thuê tài chính (CTTC)
- Tại Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ- CP ngày 02/05/2001 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động của công ty CTTC thì “CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê . Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận”. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được
quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê. ( Điều 1 – Nghị Định 16)
2. Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê hoạt động:
Chỉ tiêu

Cho thuê tài chính

Cho thuê hoạt động

1.Thời hạn cho thuê

- Trung và dài hạn (ít nhất
- Ngắn hạn
phải bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản
thuê)
2. Trách nhiệm bảo trì, đóng - bên đi thuê
-bên cho thuê
bảo hiểm và thuế tài sản
3.Tổng số tiền thuê

-gần bằng hoặc lớn hơn giá


trị tài sản thuê

-có thể nhỏ hơn nhiều giá trị
tài sản thuê

- có quyền lựa chọn tài sản
thuê, thỏa thuận với bên
cung ứng

-kết thúc thời hạn thuê,bên
thuê trả lại tài sản thuê cho
bên cho thuê

4.Quyền của người đi thuê

- khi kết thúc thời hạn thuê,
bên thuê được chuyển giao
quyền sở hữu tài sản thuê
hoặc tiếp tục thuê theo thỏa
thuận của 2 bên
1.2 Các loại hình cho thuê tài chính:
1.2.1 Cho thuê tài chính thuần:
- Phương thức CTTC trong đó các loại chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm…và mọi rủi ro
thường do bên thuê chịu; tổng số tiền bên thuê trả cho bên cho thuê trong suốt thời gian thuê đủ
để bù đắp lại toàn bộ giá mua của tài sản. Đây là hình thức cho thuê phổ biến nhất ở Việt Nam
hiện nay.

1



- Cả gốc và lãi do bên thuê trả theo định kỳ.
- Kết thúc hợp đồng thuê, bên cho thuê có thể nhận lại tài sản thuê hoặc bán lại cho bên thuê.
Hiện nay, ở Việt Nam đa số các công ty CTTC đều bán lại tài sản cho thuê cho bên thuê sau khi
kết thúc hợp đồng. Giá bán lại sẽ được ghi rõ trong hợp đồng CTTC.
- Hợp đồng CTTC thuần gồm 3 bên: bên cho thuê, bên thuê, bên cung ứng.
+ Bên thuê : kí kêt hợp đồng với bên cho thuê, trả tiền thuê tài sản, lựa chọn và thỏa thuận thiết
bị với nhà cung ứng
+ Bên cho thuê: kí kết hợp đồng CTTC với bên đi thuê, kí kết hợp đồng mua bán tài sản với
nhà cung ứng, trả tiền mua máy móc thiết bị, chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho bên thuê.
+ Nhà cung ứng: chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên cho thuê, chuyển giao và bảo trì
thiết bị cho bên đi thuê.
1.2.2. Mua và cho thuê lại.
- Theo thông tư 07/2006 của NHNN, mua và cho thuê lại là việc công ty CTTC mua tài sản
thuộc sở hữu của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó theo hình thức CTTC để
bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình. Trong giao dịch mua và cho thuê
lại, bên thuê đồng thời là bên cung ứng tài sản cho thuê.
- Bên thuê có thể giải quyết nhu cầu vốn lưu động và vẫn duy trì sử dụng tài sản trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
- Tài sản mua và cho thuê lại: thuộc sở hữu hợp pháp của bên thuê, không là tài sản đang được
sử dụng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ khác, không có tranh chấp liên quan đến tài sản và
quan trọng là tài sản đang hoạt động bình thường.
1.2.3 Cho thuê giáp lưng:
- Phương thức CTTC trong đó được sự thoả thuận của bên cho thuê, bên thuê thứ nhất cho bên
thuê thứ hai thuê lại tài sản mà bên thuê thứ nhất đã thuê từ bên cho thuê.
- Nguyên nhân phát sinh: bên thuê thứ nhất khi thực hiện được một phần hợp đồng CTTC thì
không còn nhu cầu đối với tài sản đã thuê hoặc vì một lý do nào đó nên phải tìm bên thuê thứ
hai để chuyển giao hợp đồng.
- Việc này giúp bên thuê thứ nhất không phải trả tiền thuê còn lại của hợp đồng nhưng phải
được sự đồng ý của bên cho thuê đối với bên thuê thứ hai. Kể từ thời điểm hợp đồng thuê lại
được ký kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ cùng tài sản được chuyển giao từ bên thuê thứ nhất

sang bên thuê thứ hai. Tuy nhiên, bên thuê thứ nhất vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối với
những rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản thuê.
1.2.4. Cho thuê hợp vốn.
- Phương thức CTTC trong đó có nhiều bên cho thuê cùng tài trợ cho một bên thuê.
- Trường hợp áp dụng:

2


+ Nhu cầu thuê tài chính của bên thuê vượt giới hạn CTTC của một công ty CTTC, nghĩa là
vượt 30% vốn tự có của công ty CTTC đối với một khách hàng và 80% vốn tự có đối với một
nhóm khách hàng có liên quan (điều 31 Nghị định 16/2001)
+ Khả năng tài chính, nguồn vốn và tài sản của một công ty CTTC không đáp ứng được nhu
cầu CTTC.
+ Nhu cầu phân tán rủi ro của công ty CTTC.
+ Bên thuê có nhu cầu thuê tài chính từ nhiều công ty CTTC.
-Nguyên tắc: các thành viên tự nguyện tham gia và thống nhất với nhau về toàn bộ nội dung
của khoản cho thuê hợp vốn cũng như thống nhất lựa chọn tổ chức đầu mối CTTC, tổ chức đầu
mối thanh toán.
1.2.5. Cho thuê trả góp.
- Hình thức CTTC trong đó bên cho thuê chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản thuê cho bên
thuê sau khi bên cho thuê đã thu được một tỷ lệ nhất định tiền thuê tài sản, bên thuê tiếp tục
thanh toán khoản tiền còn lại cho bên cho thuê dưới danh nghĩa tiền trả góp mua máy móc thiết
bị. Hiện nay hình thức này chưa phổ biến tại Việt Nam do rủi ro quá lớn cho bên cho thuê khi
đã chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên thuê mà vẫn chưa thu đủ giá trị tài sản thuê.
1.3. Tài sản CTTC:
* Trên thế giới
- Động sản: là các tài sản như máy móc, thiết bị văn phòng, xe ô tô…có thể di chuyển vị trí, có
giá trị không lớn và đời sống hữu ích ngắn.
- Bất động sản: là các tài sản như nhà cửa, văn phòng làm việc, phân xưởng sản xuất… không

thể di chuyển, có giá trị lớn và đời sống hữu ích dài.
* Việt Nam: tài sản CTTC chỉ mới là động sản còn bất động sản chưa được phép dùng trong
CTTC.
1.4. Các bên tham gia:
1.4.1. Bên đi thuê:
- Bên thuê là tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho mục
đích hoạt động của mình. ( điều 7 nghị định 16/2001)
- Quyền lợi:
+ Lựa chọn bên cung ứng tài sản thuê và tất cả các yếu tố liên quan đến tài sản thuê như đặc
tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt và bảo hành tài sản
đó.
+ Quyền nhận và sử dụng tài sản thuê trong suốt thời gian hợp đồng.
- Nghĩa vụ:
+ Thanh toán tiền thuê đúng kỳ hạn và các chi phí khác có liên quan như lệ phí đăng ký quyền
sở hữu, bảo hiểm…đối với tài sản thuê.
3


+ Sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận và chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng
tài sản cũng như mọi hậu quả do việc sử dụng tài sản thuê gây ra đối với bên thứ ba.
+ Không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho tổ chức, cá nhân khác mà không được
bên cho thuê đồng ý bằng văn bản, không được dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác.
1.4.2. Bên cho thuê:
- Là công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam. (Điều 7
nghị định 16/2001)
- Quyền lợi:
+ Yêu cầu bên thuê cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài chính năm, tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh và các vấn đề có liên quan đến tài sản cho thuê, kiểm tra việc quản lý và sử
dụng tài sản cho thuê.

+ Quyền sở hữu tài sản cho thuê trong suốt thời hạn cho thuê.
+ Quyền chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng CTTC cho một công
ty CTTC khác.
-Nghĩa vụ:
+ Ký hợp đồng mua tài sản với bên cung ứng theo các điều kiện đã được thoả thuận giữa bên
thuê và bên cung ứng (không phải chịu trách nhiệm về việc tài sản cho thuê không được giao
hoặc giao không đúng với các điều kiện đã thoả thuận.)
+ Đăng ký quyền sở hữu, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản cho thuê cũng như đăng ký
giao dịch đảm bảo theo quy định của pháp luật.
1.4.3. Nhà cung ứng:
- Là các công ty, các hãng sản xuất hoặc kinh doanh những tài sản thiết bị mà bên thuê muốn
thuê.
- Bên cung ứng thực hiện việc chuyển giao, lắp đặt máy móc thiết bị… theo hợp đồng mua bán,
hướng dẫn kỹ thuật vận hành, bảo trì, bảo dưỡng tài sản thiết bị…cho bên thuê. Bên cung ứng
là do bên thuê tự do lựa chọn, có thể là trong nước hoặc nước ngoài.
1.5. Lợi ích và rủi ro:
1.5.1. Lợi ích :
* Đối với nền kinh tế:
- Thông qua hoạt động của CTTC, các loại máy móc thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến
được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong
những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư.
- CTTC thu hút các thành phần kinh tế, các định chế tài chính…tham gia đầu tư vốn để kinh
doanh, thu hút một lượng vốn lớn từ dân cư qua các hình thức huy động vốn trung dài hạn.

4


Đồng thời thu hút các nguồn vốn quốc tế cho nền kinh tế thông qua các máy móc thiết bị cho
thuê mà quốc gia đó nhận được mà không làm tăng khoản nợ nước ngoài của quốc gia đó.
* Đối với bên cho thuê:

- Việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ cho thuê tài chính không phải là loại hình thay thế
các phương thức tài trợ cổ điển như cho vay trung và dài hạn bằng tiền, mà nó là hình thức tài
trợ bổ sung nhằm tạo điều kiện cho các định chế tài chính mở rộng khách hàng và nâng cao
năng lực cạnh tranh
- Nếu có những biểu hiện đe doạ sự an toàn cho giao dịch CTTC, bên cho thuê có thể thu hồi
tài sản cho thuê ngay lập tức. Nhờ vậy, bên cho thuê có thể tránh được những thiệt hại, mất vốn
tài trợ…
- Phương thức tài trợ bằng tài sản hiện vật nên sẽ hạn chế ảnh hưởng của lạm phát cũng như
đảm bảo vốn tài trợ được sử dụng đúng mục đích mà bên được tài trợ yêu cầu, nhờ vậy đảm
bảo khả năng trả nợ của bên được tài trợ.
- Trong thời gian diễn ra giao dịch CTTC, vốn gốc và lãi cho thuê sẽ do bên thuê thanh toán
cho bên cho thuê theo định kỳ, vốn tài trợ được thu hồi dần cho phép bên cho thuê tái đầu tư
vào hoạt động kinh doanh sinh lợi và giữ vững nhịp độ hoạt động.
* Đối với bên đi thuê:
- Có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Đặc
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) do không có tài sản thế chấp cũng như uy tín
trên thị trường nên thường gặp nhiều khó khăn về vay vốn trung và dài hạn. Vì vậy trong
trường hợp này CTTC là phương thức hợp lý giúp doanh nghiệp có thể đầu tư máy móc thiết bị
phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh mà không phải bỏ ra ngay một số vốn lớn.
- Sau khi kết thúc hợp đồng CTTC, doanh nghiệp với quyền ưu tiên có thể mua lại tài sản thuê
và trở thành chủ sở hữu thực sự.
- Không gây ảnh hưởng bất lợi đối với các chỉ số tài chính của bên thuê : Đa số các nước đều
quy định phần tiền thuê trả cho bên cho thuê không đưa vào bảng tổng kết tài sản như một món
nợ mà chỉ đưa vào phần giải trình của bảng tổng kết tài sản, nghĩa là nó được hạch toán ngoại
bảng. Do đó, thuê tài chính không làm thay đổi theo chiều hướng bất lợi các chỉ số tài chính
của doanh nghiệp như hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu, hệ số vòng quay vốn…
- Có thể hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới. Các doanh nghiệp
có thể bán máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu và thay bằng thiết bị hiện đại hơn thông qua thuê tài
chính. Đồng thời, bên thuê còn được bên cho thuê, với trình độ hoạt động chuyên biệt trong
CTTC, sẽ tư vấn về các máy móc thiết bị phù hợp cho doanh nghiệp. Nhờ vậy, doanh nghiệp có

thể thoát khỏi tình trạng già cỗi về công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.
1.5.2. Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính:

5


- Rủi ro tín dụng: bên thuê không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho công ty (có thể
do tình hình tài chính của bên đi thuê gặp khó khăn hoặc bên thuê cố tình kéo dài thời gian
chiếm dụng vốn của bên cho thuê).
=> Hạn chế rủi ro : nhân viên thẩm định cần thẩm định rõ tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như đạo đức của bên thuê. Các công ty CTTC được phép phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để quản lý rủi ro tín dụng theo thông tư 13 của NHNN.
- Rủi ro thanh khoản: là khả năng chuyển hoá thành tiền của các loại tài sản có. Tài sản có có
tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển hoá thành tiền thấp và có khả năng chuyển hoá thành
tiền cao.
+ Xuất hiện khi công ty CTTC thiếu khả năng chi trả hoặc không chuyển đổi kịp các loại tài
sản ra tiền theo yêu cầu người gửi tiền. Do đặc điểm của CTTC là khi kết thúc hợp đồng bên
cho thuê có thể thu hồi tài sản cho thuê nên rủi ro thanh khoản là rất lớn. Nguyên nhân là tài
sản thu hồi có thể bị lỗi thời, lạc hậu, hoặc hư hỏng không thể tiếp tục cho thuê hoặc công ty
CTTC không tìm được bên thuê, bên mua tiếp theo.
- Rủi ro thị trường:
Rủi ro thị trường là các loại rủi ro xuất hiện do môi trường kinh doanh đem lại như rủi ro lãi
suất, rủi ro tỷ giá, lạm phát… gây bất lợi cho công ty CTTC. Do CTTC là hình thức tín dụng
trung và dài hạn nên khi lãi suất thị trường tăng, nếu công ty không điều chỉnh lãi suất kịp thời
thì công ty bị thiệt hại. Rủi ro tỷ giá xảy ra trong trường hợp máy móc thiết bị bên thuê chọn là
hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Hậu quả của những rủi ro này là công ty CTTC sẽ nhận được
tiền thuê không đủ bù đắp vốn gốc và các thiệt hại khác.
-Rủi ro hoạt động: là các rủi ro từ phía cơ quan nhà nước thay đổi luật pháp, từ phía nhà cung
cấp, đối tác… gây ảnh hưởng đến con người, cơ sở vật chất, quyết định hay phần mềm của
công ty. Do những thay đổi về mặt pháp lý như sửa đổi luật hợp đồng, luật thuế… dẫn tới phá

vỡ hợp đồng hoặc thua lỗ cho bên cho thuê. Hoặc bên cung ứng cùng với bên thuê thông đồng
để lừa đảo, chiếm dụng vốn của bên cho thuê. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, công ty
CTTC có thể gặp các rủi ro bất khả kháng như chiến tranh, thiên tai, hoả hoạn, rủi ro ngành…
rất đa dạng đòi hỏi công ty CTTC phải thẩm định kỹ và ra quyết định đúng đắn.
1.6. Cơ sở pháp lý cho hoạt động cho thuê tài chính ở VN:
- Luật Các tổ chức tín dụng ban hành năm 2010.
- Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 về hoạt động và tổ chức của công ty cho thuê tài
chính.
- Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 sửa đổi và bổ sung một số điều của nghị định
16/2001NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam.
1.7. Quy trình cho thuê tài chính :
CTTC là 1 hình thức tài trợ trung dài hạn nên quy trình về cơ bản cũng tương tự như cho vay
trung dài hạn.
-B1: Lập hồ sơ đề nghị cho thuê tài chính.
6


Hồ sơ bao gồm:
+Hồ sơ pháp lý doanh nghiệp: 1 bộ
+ Biên bản quyết định của HĐQT, HĐTV, chủ doanh nghiệp về việc thuê tài sản (bản chính).
+ Giấy đề nghị thuê tài chính và Phương án thuê tài chính: 1 bộ


Bản thỏa thuận với nhà cung ứng tài sản kèm các tài sản kèm theo các tài liệu về tài sản
thuê



Biên bản xác nhận về việc lựa chọn nhà cung cấp( theo mẫu)


+ Tài liệu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp (bản chính): 1 bộ


Báo cáo tài chính 2 năm gần nhất, quý gần nhất.



Các tài liệu chứng minh năng lực tài chính khác.



Tài liệu liên quan đến tài sản thuê.

-B2: Phân tích tín dụng: Bên cho thuê cần phân tích những nội dung sau:
_ Phân tích khả năng thanh tài chính, khả năng thanh toán.
_ Thẩm định kĩ những yếu tố đc nêu trong hồ sơ (thông số kĩ thuật liên quan đến tài sản (TS),
giá TS, Nhà cung cấp….).
* Đặc biệt:
+ Trình độ máy móc thiết bị: lạc hậu hay tiên tiến => ảnh hưởng khả năng thanh toán của bên đi
thuê và việc thu hồi vốn của bên cho thuê.
+ Giá cả TS: cao hay thấp hơn giá thị trường => ảnh hưởng lợi nhuận bên đi thuê và khả năng
thanh toán tiền thuê.
+ Năng lực nhà cung cấp: bên cho thuê nếu xét thấy nhà cung cấp không đủ khả năng cung cấp
hàng theo đúng hợp đồng thì có thể yêu cầu bên đi thuê thay đổi nhà cung cấp với điều kiện tốt
hơn.
-B3: Quyết định tài trợ.
Sau khi phân tích tín dụng bên tài trợ sẽ quyết định có tài trợ hay không. Nếu quyết định tài trợ:
+ Lập hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên đi thuê.
+ Bên cho thuê ký hợp đồng mua tài sản thuê với nhà cung cấp.
-B4: Cho thuê:

+ Nhà cung cấp giao TS thuê và lắp đặt cho bên đi thuê.
+ Bên cho thuê thanh toán tiền mua TS thuê với nhà cung cấp.
-B5: Giám sát việc sử dụng và quản lý TS.
+Quy định trong hợp đồng: bên đi thuê phải sử dụng và quản lý TS đúng quy trình kĩ thuật.
+ Phương pháp giám sát: Giám sát theo định kì, kiểm tra đột xuất.

7


+ Nội dung giám sát:


Kiểm tra quy trình bảo dưỡng TS của bên đi thuê và việc đóng bảo hiểm của TS thuê.



Kiểm tra môi trường vận hành TS và tình trạng hoạt động của TS => xem xét mức độ
hư hỏng có nằm trong giới hạn cho phép không.



Kiểm tra cường độ sử dụng TS => xem xét có sử dụng quá hạn mức tối đa quy định
trong hợp đồng không, nếu quá bên đi thuê sẽ bị phạt.



Giám sát việc thanh toán tiền thuê và hiệu quả tài chính của việc sử dụng vốn.

_B6: Xử lý TS khi chấm dứt hợp đồng cho thuê
Bên đi thuê được chuyển giao quyền sở hữu TS:

+ Áp dụng đối với những hợp đồng cho thuê thanh toán toàn bộ, khi đó kết thúc hợp đồng cho
thuê bên cho thuê đã thu hồi đc toàn bộ vốn tài trợ và chi phí tài chính.
Bên đi thuê mua TS thuê:
+ Áp dụng nếu hợp đồng quy định bên đi thuê được quyền mua TS khi kết thúc hợp đồng.
+ Đây là cam kết đơn phương nên bên đi thuê được quyền lựa chọn mua hoặc không.
+ Một số trường hợp ngoại lệ bên cho thuê có thể từ chối bán.
+ Giá bán được tính trên cơ sở hiện giá. (bên cho thuê bán theo vốn gốc còn lại phải thu hồi).
Cho thuê tiếp:
+Được thỏa thuận trước trong hợp đồng.
Trả lại TS:
+Áp dụng trong 2 trường hợp: Hợp đồng không có điều kiện thỏa thuận cách thức xử lý TS
hoặc hợp đồng quy đinh quyện chọn mua hoặc thuê tiếp nhưng bên đi thuê từ chối.
1.8.Một số công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay:
STT

Tên công ty

Tên
tắt

viết Hình thức sở hữu

Số và ngày Vốn
cấp giấy phép điều lệ

1.

Công ty CTTC VILC
Quốc Tế Việt Nam


Liên doanh giữa 01/GPIncombank và 4 đối TCTTC 1996
tác nước ngoài

5 triệu
USD

2.

Công ty CTTC KVLC
Kexim Việt Nam

100% vốn Hàn Quốc

13 triệu
USD

02/GPCTCTTC
20/11/1996

3.

Công ty CTTC ngân ICBLC
hàng Công Thương

trực
Incombank

thuộc 04/GPCTCTTC

105 tỷ

VND

8


Việt Nam
4.

20/03/1998

Công ty CTTC ngân VCBLC
hàng Ngoại Thương
Việt Nam (*)

trực
Vietcombank

Công Ty CTTC I ALC I
Ngân Hàng Nông
Nghiệp Và Phát
Triển Nông Thôn
Việt Nam

trực thuộc Agribank

Công Ty CTTC II ALC II
Ngân Hàng Nông
Nghiệp Và Phát
Triển Nông Thôn
Việt Nam


trực thuộc Agribank

7.

Công ty CTTC ngân BIDVLC
hàng Đầu Tư Và
Phát Triển Việt Nam

trực thuộc ngân hàng 08/GPĐầu Tư Và Phát CTCTTC
Triển Việt Nam
27/10/1998

102 tỷ
VND

8.

Công ty CTTC
ANZ V-TRAC

100% vốn nước 14/GPngoài (ngân hàng CTCTTC
ANZ và tập đoàn V- 19/11/1999
Trac Hoa Kỳ)

5 triệu
USD

9.


Công ty CTTC II BIDVLC
ngân hàng Đầu tư II
và Phát triển Việt
Nam

Trực thuộc Ngân 11/GP-NHNN
hàng Đầu Tư và Phát 17/12/2004
Triển Việt Nam

150tỷ
VNĐ

10.

Công ty CTTC ngân SBL
hàng
Sài
Gòn
Thương Tín

trực
Sacombank

150 tỷ
VND

Công ty CTTC Quốc tế Chailease

100% vốn Đài Loan


12

Công ty TNHH một
thành
viên
VINASHIN

Trực
VINASHIN

thuộc 79/GP-NHNN
ngày
19/03/2008

13

Cty

Thuộc ACB

06/GP-NHNN

5.

6.

11.

TNHH


một

thuộc 05/GPCTCTTC

100 tỷ
VND

25/05/1998
06/GPCTCTTC

150 tỷ
VND

27/08/1998

07/GPCTCTTC

150 tỷ
VND

27/08/1998

thuộc 04/GP-NHNN
12/04/2006
09/GP-NHNN
09/10/2006

10 triệu
USD
100 tỷ

VND
100

tỷ

9


thành viên CTTC
Ngân hàng Á Châu

ngày
22/05/2007

VND

Nguồn: NHNN
II. Thực trạng CTTC.
1. Nhìn ra thế giới.

Thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới
như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc... Loại hình cho thuê tài chính đã được một số công ty
tài chính đưa ra thị trường tài chính vào những năm cuối những năm 50 đầu những năm 60 của
thế kỷ 20 với tên gọi là thuê tài chính (finance lease).
Tại Mỹ, ngành cho thuê tài chính chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao
dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động cho thuê tài
chính trung bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỉ USD, ở Thái Lan 3 tỉ USD... Và tổng doanh thu
hàng năm của ngành này ước tính đạt trên 500 tỉ USD với đà tăng trưởng trung bình 7% hàng
năm.
Ở Mỹ và Nhật, thuê leasing có hai loại:

- Thuê chỉ để sử dụng (operate lease, thường được dịch là thuê vận hành).
- Thuê tài chính (financial leasing), còn gọi là “thuê để rồi mua”. Và ngân hàng nhà nước gọi là
“hoạt động tín dụng trung và dài hạn”.
Dù leasing loại nào thì cái khác nhau chính là thời gian người thuê định sử dụng. Về hình thức
pháp lý, ở Mỹ và Nhật, người ta chia ra hai loại hợp đồng:
1/ Hợp đồng không nâng đỡ người cho thuê (non leverage lease) có hai bên ký là người
cho thuê và người thuê.
Một bên mua thiết bị cho bên kia thuê; bên kia cam kết sẽ trả tiền khi sử dụng.
Bên thuê lựa chọn thiết bị với một nhà sản xuất, bàn bạc về giá cả, điều kiện bảo hành, giao
nhận và ký hợp đồng mua bán. Bên cho thuê trả tiền mua thiết bị bằng tiền của mình hay đi vay
2/ Hợp đồng có nâng đỡ người cho thuê (leverage lease) có ba bên ký kết và mỗi bên có
thể có nhiều người khác can dự.
Hợp đồng này dành cho các thiết bị đắt tiền. Bên thuê chọn thiết bị, bàn bạc với nhà sản
xuất về giá cả, bảo hành, giao hàng. Bên cho thuê trả khoảng 20% trị giá thiết bị và trở thành
chủ nhân của thiết bị đó. Bên cho thuê có thể rủ thêm những người khác để trả số 20% kia và
được hưởng các ưu đãi thuế liên quan đến thiết bị. Thuế sẽ được căn cứ trên tổng giá trị tài sản
trong khi họ mới chỉ bỏ ra khoảng 20% tổng giá trị thiết bị. Đây là sự nâng đỡ dành cho bên
cho thuê.
- Bên thứ ba gồm một hay nhiều người cho vay, gọi là nhà đầu tư, như các ngân hàng, các định
chế tài chính. Họ sẽ bỏ ra số tiền mua thiết bị còn lại. Khoản cho vay này được bảo đảm bằng
bên cho thuê thế chấp thiết bị kia hay nhận thẳng tiền cho thuê thiết bị từ bên thuê.

10


- Trường hợp mỗi bên có nhiều người tham gia, họ sẽ cử người đại diện gọi là trustee và ký hợp
đồng với nhau để thực hiện. Bên thuê có khi cũng phải có người bảo lãnh để được thuê. Người
bảo lãnh có thể nằm trong tổ hợp của bên thuê hay là một ngân hàng độc lập ở bên ngoài.
- Trong loại hợp đồng đầu, có bốn yếu tố được thực hiện bởi ba hay bốn thành phần là bên cho
thuê, bên đi thuê, nhà sản xuất và bảo trì (hai cái này có thể là một hoặc hai thành phần).

Trường hợp sau thì có thêm hai thành phần là nhóm người cho vay và nhà bảo lãnh của bên
thuê.
2. Tiềm năng phát triển và thực trạng dịch vụ cho thuê tài chính ở VN.
A, Tiềm năng.
Tại Việt Nam nghiệp vụ cho thuê tài chính hay còn gọi là tín dụng thuê mua đã được ngân hàng
NN-VN cho áp dụng thí điểm bởi quyết định số 149/QĐ - ngân hàng5 ngày 17/5/1995. Đến
ngày 02/05/20001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
Công ty cho thuê tài chính.
2.1 Thuận lợi từ việc gia nhập WTO.
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới với đỉnh cao là việc gia
nhập WTO. Điều đó cho phép khẳng định, thị trường Việt Nam là một bộ phận của thị trường
quốc tế, trong đó có thị trường tài chính. Việc đón bắt cơ hội, vượt qua thách thức là một yêu
cầu lớn đối với nền kinh tế, trong đó đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện các loại thị trường.
Đồng thời với nó nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp để tăng quy
mô, trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh đã tạo ra một cơ hội rất lớn đối
với lĩnh vực cho thuê tài chính. Bởi vậy, cần tập trung làm tốt việc quy hoạch và tạo môi trường
thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường; tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hình thành và hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty kinh
doanh đa ngành, đa lĩnh vực và có nhiều chủ sở hữu, tạo sức mạnh cho nền kinh tế trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát
triển; thu hút các tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài đến đầu tư kinh doanh, nhất là hàng hóa
và dịch vụ công nghệ cao tại Việt Nam.
Với các cam kết về việc mở rộng thị trường tài chính, trong đó có dịch vụ cho thuê tài
chính là một cơ hội để chúng ta phát triển thị trường tài chính, học hỏi kinh nghiệm, tri thức về
quản trị, quản lý và phát triển dịch vụ.
2.2. Sự gia tăng của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiêp nhỏ và vừa.
Với sự hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam cũng như việc cải cách chu trình cấp giấy
phép kinh doanh, trong vòng 5 năm tới số lượng doanh nghiệp mới thành lập sẽ ra tăng nhanh
chóng và đây chính là nhân tố kích thích sự tăng trưởng của thị trường cho thuê tài chính Việt
Nam. Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong thời gian vừa qua ngày càng gia

tăng – tức là “môi trường kinh doanh” cho dịch vụ này ngày càng mở rộng hơn nữa. Hiện Việt
Nam có trên 30.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong vài năm tới, với đà phát triển như hiện
nay, sẽ có hàng chục ngàn doanh nghiệp nữa ra đời. Đây chính là đích mà các công ty cho thuê

11


tài chính nhằm tới để phục vụ, vì vậy có thể nói tiềm năng thị trường cho thuê tài chính là rất
lớn và dự báo sẽ sôi động.
Mặt khác, đa số doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đều yếu ở 6 khâu cơ
bản để gia nhập và tham gia thị trường như đã tổng kết ở 6 chữ M trong tiếng Anh là: vốn
(money), nguyên vật liệu (materials), nhân lực (man Power), quản lý (management) và tiếp cận
thị trường (marketing). Do đó, từ các yếu tố trên cho thấy một thị trường dịch vụ cho thuê tài
chính đầy hứa hẹn, tiềm năng phát triển cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước ở thị
trường Việt Nam.
2.3. Đã hình thành được hành lang pháp lý cơ bản.
- Mặc dù cần phải tiếp tục được hoàn thiện, nhưng hành lang pháp lý cho loại hình dịch
vụ cho thuê tài chính đã hình thành và tương đối đầy đủ, về cơ bản đã bảo vệ được quyền và lợi
ích của người cho thuê và người đi thuê tài chính. Trước đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 64/2005/NĐ-CP (ngày 9/10/1995) về tổ chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài
chính; Thông tư 03/1996/TT-CP (9/2/1996) và đặc biệt là Luật Các tổ chức tín dụng 1997 ra đời
đã góp phần luật hóa các quy định về loại hình dịch vụ cho thuê tài chính (Điều 20, 61, 62, 63,
64). Để hướng dẫn chi tiết, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001)
về “Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính”, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP (ngày
19/5/2005) sửa đổi, bổ sung Nghị định 16/2001/NĐ-CP (ngày 12/10/2005), Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Thông tư số 06/2005/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều tại Nghị
định 16 và Nghị định 65 kể trên đã phần nào hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động cho
thuê tài chính ở nước ta.
- Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam ra đời. Hiệp hội cũng là đơn vị đại diện, bảo vệ lợi
ích hợp pháp của hội viên, làm cầu nối giữa các hội viên với các cơ quan nhà nước nhằm ổn

định và phát triển lành mạnh, hiệu quả, an toàn ngành cho thuê tài chính tại Việt Nam.
2.4 Nhu cầu về vốn lớn của các doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có xu hướng đầu tư mở rộng, đầu tư
chiều sâu cho nguồn nhân lực, thiết bị, máy móc, công nghệ, công tác quản trị… nhưng phần
lớn vốn tự có của doanh nghiệp còn rất hạn chế. Doanh nghiệp thiếu vốn thì lẽ thường họ phải
đi vay ngân hàng, nhưng nguồn vốn ngân hàng không phải lúc nào cũng dễ tiếp cận, do đó
ngoài kênh cấp vốn phổ biến từ ngân hàng thì kênh cấp vốn từ dịch vụ cho thuê tài chính có xu
hướng phát triển và ngày chiếm vị trí quan trọng trên thị trường tài chính thế giới.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay, đã dẫn đến sự xuất hiện nhu
cầu về vốn rất lớn cho đầu tư của các doanh nghiệp, đồng thời các loại thị trường cũng có cơ
hội được mở rộng, kéo theo đó là việc mở rộng môi trường kinh doanh cho dịch vụ cho thuê tài
chính phát triển. Đây sẽ là điều hứa hẹn một tương lai phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở
Việt Nam.
2.5. Sự phát triển của các Ngân hàng.

12


Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã là động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp đầu
tư mở rộng sản xuất, hiện đại hóa các dây chuyền và công nghệ sản xuất sẽ làm cho thị trường
cho thuê tài chính của Việt Nam phát triển nhanh trong một vài năm tới đây. Trong một thời
gian dài trước đây, các doanh nghiệp đã hưởng lợi từ việc cạnh tranh giữa các Ngân hàng
Thương mại dẫn đến tình trạng nới lỏng cơ chế xét duyệt tín dụng và giảm tỷ lệ lợi nhuận biên
tế của một số ngân hàng nhằm thu hút khách hàng và gia tăng số dư nợ vay. Trong tương lai khi
các ngân hàng thương mại Việt Nam dưới áp lực tuân thủ các quy định trong quản lý ngân hàng
theo thông lệ quốc tế sẽ phải cẩn trọng hơn trong các quyết định cấp tín dụng của mình. Vì vậy,
khả năng tiếp cận nguồn vốn vay truyền thống từ các Ngân hàng Thương mại sẽ phải tuân thủ
theo các quy định thẩm định khắt khe hơn.
Hơn thế nữa để nâng cao tính chuyên môn hóa trong các dịch vụ của ngân hàng và giảm
thiểu rủi ro thì các NHTM sẽ tiến tới việc tập trung phát triển các dịch vụ của mình và chuyển

dần hoạt động cho vay đầu tư thiết bị cho các công ty cho thuê tài chính trực thuộc sẽ là động
lực cho sự phát triển của ngành cho thuê tài chính của Việt Nam
2.6. Sự cạnh tranh giữa các công ty.
Các dịch vụ tài chính ngân hàng trên thị trường phát triển mạnh, nhiều công ty cho thuê tài
chính đã có những phương thức khác nhau để thu hút khách hàng. Điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho dịch vụ cho thuê tài chính ngày càng hoàn thiện và phát triển.
B, thực trạng:
1. Chủ thể tham gia.
Tính đến thời điểm hiện nay thì chỉ có 13 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động chính thức
trên thị trường thuê mua ở Việt Nam Vốn điều lệ của các công ty cho thuê tài chính trung bình
chỉ khoảng 150 tỷ. Các chủ thể có nhu cầu thuê tài chính trên thị trường cho thuê tài chính là
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh,... và cá nhân hoạt động trong nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, thực tế thì khách hàng đi thuê chủ yếu là các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xây dựng.
1.2. Hàng hóa trên thị trường cho thuê tài chính
Thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Hiện nay, tài sản cho thuê tài chính chủ yếu tập trung
vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị đáp ứng được tỷ lệ 37% so với nhu cầu của nền kinh
tế. Tiếp đến là máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ cũng chỉ đáp ứng được 34% so với
nhu cầu của nền kinh tế. Máy móc, thiết bị của một ngành khác được tài trợ bằng phương thức
thuê tài chính như thiết bị ngành in, máy móc công trình sử dụng cho hoạt động xây dựng cơ
bản cũng chiếm một tỷ trọng thấp so với nhu cầu của nền kinh tế.
Đánh giá thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Chiến lược khách hàng tập trung vào các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ưu tiên cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, thị trường
đầu ra ổn định, có khả năng quản lý và tiềm năng phát triển tốt. Việc đầu tư dưới hình thức
CTTC ngày càng được mở rộng ở tất cả các lĩnh vực như giao thông vận tải, xây dựng, công
nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, bệnh viện, nông nghiệp,…Tài sản cho thuê chủ yếu tập trung

13



vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị… có chất lượng và mức độ công nghệ có trình độ
trung bình, dây chuyền công nghệ cao và máy móc thiết bị hiện đại tiên tiến còn chiếm một tỷ
trọng thấp trong hoạt động cho thuê của các công ty CTTC. Các công ty CTTC chưa áp dụng
tài sản cho thuê là bất động sản.
1.3. Phương thức cho thuê tài chính
Tuy có nhiều phương thức giao dịch cho thuê tài chính nhưng trên thị trường cho thuê tài chính
Việt Nam hiện nay phổ biến có 3 phương thức:
- Phương thức giao dịch CTTC 3 bên.
- Phương thức giao dịch CTTC 2 bên.
- Phương thức giao dịch mua và cho thuê lại (bán và tái thuê).
1.4. Giá cả cho thuê tài chính
Giá cả CTTC hiện nay thường cao hơn so với các loại hình tín dụng khác, chưa hấp dẫn được
các khách hàng thuê. Lãi suất CTTC cao hơn so với lãi suất cho vay trung dài hạn từ 20% đến
25% và cao hơn 10% nếu tài sản được mua sắm trực tiếp từ nhà sản xuất.
1.5. các công ty cho thuê tài chính làm ăn chưa hiệu quả
- Với đặc thù mua tài sản giá trị cao như: tàu biển, cần cẩu... rồi cho thuê lại trong khi số vốn
điều lệ quá ít khiến các công ty CTTC luôn rơi vào tình trạng rủi ro thanh khoản.
-Một mặt khác việc các công ty CTTC núp dưới “bầu sữa mẹ” là các NHTM đang tạo ra rủi
ro lớn cho hệ thống. Nếu chọn giữa NH và CTTC, người gửi tiền không ai đi gửi ở công ty
CTTC vì họ tin tưởng các NH hơn. Vì vậy, các công ty này thường xuyên thiếu vốn và chỉ
trông chờ vào công ty mẹ bơm vốn trực tiếp hoặc bảo lãnh thanh toán đi vay tổ chức khác. Đó
cũng là lý do, nhiều CTCC làm liều, huy động vốn ngắn hạn dưới 1 năm cho vay trung, dài hạn
và nâng lãi suất lên cao ngất ngưởng để hút khách. Hậu quả là các công ty CTTC thường rơi
vào diện cảnh báo nợ xấu rất cao của Trung tâm Thông tin tín dụng CIC (NHNN).
Trên thực tế, công ty con như cái sân sau phục vụ công ty mẹ. Công ty mẹ thường xuyên bơm
vốn cho các công ty con một cách dễ dãi. Sau đó công ty con CTTC với các DN năng lực yếu
kém, hoạt động không hiệu quả rất thiếu an toàn, rủi ro. Chuyên gia này kiến nghị cần phải có
đợt thanh kiểm tra toàn diện đối với các công ty CTTC hiện nay để làm rõ huy động vốn bao
nhiêu, vay từ công ty mẹ bao nhiêu, dư nợ tín dụng như thế nào, nợ xấu chiếm tỷ lệ ra sao.
Tránh đến khi đổ vỡ kéo theo hiệu ứng domino cho cả hệ thống tài chính, NH.

Một vấn đề khác đặt ra là các công ty CTTC thường có nhiều sai phạm trong quản lí. Điển
hình là sai phạm tại Công ty Cho thuê tài chính 2 (ALC2) đã gây ra số lỗ được kiểm toán hơn
3.000 tỉ đồng. vấn đề này đang gióng lên hồi chuông báo động về hoạt động của các công ty
cho thuê tài chính (CTTC) hiện nay. Chính vì thế, ngày 4/5/2011, NHNN công bố dự thảo Nghị
định về hoạt động của các công ty tài chính và CTTC.
Theo đó, các nghiệp vụ huy động vốn, CTTC sẽ bị kiểm soát chặt chẽ bởi NHNN và các tỷ lệ
an toàn tài chính. Công ty CTTC muốn huy động vốn trên 1 năm thông qua phát hành chứng
chỉ tiền gửi, trái phiếu… phải có tối thiểu 1 năm hoạt động; tổng lợi nhuận trước thuế so với
14


vốn chủ sở hữu đạt 10% trở lên (vốn chủ sở hữu của năm liền kề trước năm phát hành), và tính
đến thời điểm gần nhất phải có lãi. Đặc biệt, trước khi đề nghị phát hành, tỷ lệ nợ xấu trên tổng
dư nợ dưới 3%.
3. Khó khăn hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.

Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới
và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau gần chục năm có mặt, trên thị trường Việt Nam
hiện có 12 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động, gồm 6 công ty trực thuộc các ngân hàng
thương mại Nhà nước, 4 công ty có vốn đầu tư nước ngoài và 2 công ty thuộc ngân hàng
thương mại cổ phần. Ngoài ra, có rất nhiều các công ty tài chính, quỹ đầu tư đã và đang tiếp tục
được phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới
Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150-300 tỉ đồng - rất
nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (thường là trên 1.000 tỉ đồng). Và hiện có
nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch
vụ này, cho thuê tài chính chưa phát triển. Vậy nguyên nhân do đâu? Hướng đi nào cho các
công ty cho thuê tài chính?
Nguyên nhân
Sự quảng bá, giới thiệu để cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh

vực cho thuê tài chính còn hạn chế chưa tạo cho khách hàng hiểu rõ hiệu quả, lợi ích của cho
thuê tài chính mang lại và một khó khăn nữa đó là phương thức cho thuê và tài sản cho thuê
chưa đa dạng, phong phú, giá cho thuê hiện nay còn cao, phương pháp tính trả tiền thuê chưa
linh hoạt. Mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài
trung tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân
hàng thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm. Thêm vào đó trình độ của cán
bộ kinh doanh trong các Công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp, không năng động
trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn.
Mặt khác do tình hình kinh tế như hiện nay các doanh nghiệp không mở rộng sản xuất kinh
doanh. Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ. Hoạt động kinh doanh còn khá
nhiều rủi ro, môi trường kinh tế đang có những tác động không thuận chiều với sự phát triển
của hoạt động cho thuê tài chính. Năng lực cạnh tranh, quản lý kinh doanh của bên đi thuê chưa
thích ứng với môi trường kinh tế nhiều biến động làm cho việc sử dụng tài sản thuê không có
hiệu quả, vi phạm hợp đồng thuê tài chính.
Hơn thế nữa ngân hàng có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với cho thuê tài chính. Với ưu
thế bề dày lâu năm, mạng lưới kinh doanh rộng khắp, sản phẩm, dịch vụ đa dạng, làm cho một
bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp có thói quen chỉ tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu vốn.
a. Khó khăn của các công ty CTTC.
Thứ nhất là việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo đó pháp luật Việt
Nam quy định số vốn đầu tư cho các DN đi vay không được vượt quá 30% vốn điều lệ của
công ty. Trên thực tế những quy định này đang gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của các
công ty CTTC. Bởi vì với quy định như trên phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các DN có quy
mô vừa và nhỏ. Việc huy động được nguồn vốn cũng như khả năng tích luỹ của các công ty
15


CTTC là rất khó khăn trong khi đó việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn gần như
không thực hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng NHNN.
Thứ hai, hoạt động CTTC của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh mún chưa có định
hướng chiến lược phát triển trong tương lai, trong đó vấn đề nhu cầu thị trường chưa được tập

trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn. Không những thế hoạt động
thuê mua ở Việt Nam cho đến nay còn khá đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn và phần lớn
các công ty CTTC đều chưa thành lập được hệ thống các chi nhánh. Điều đó cũng giải thích tại
sao tuy ra đời từ khoảng năm 1997 nhưng đến nay cả nước mới chỉ có rất ít các công ty CTTC.
Thứ ba, phải kể đến hạn chế rất phổ biến hiện nay đó là các công ty CTTC chưa thiết lập được
một mối quan hệ sâu rộng đến các cơ sở cung ứng máy móc, thiết bị... Và đội ngũ cán bộ của
công ty còn thiếu những chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến,
điều này sẽ làm công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trường.
Thứ tư, việc phân biệt giữa giao dịch CTTC và các giao dịch cho thuê thông thường khác (cho
thuê vận hành) chưa thật sự rõ ràng. Hoạt động CTTC là hình thức tín dụng trung và dài hạn
thông qua hợp đồng CTTC, còn hợp đồng cho thuê vận hành là hình thức tín dụng ngắn hạn
thông qua hợp đồng cho thuê tài sản. Nếu hợp đồng cho thuê tài sản nào không đáp ứng được
yêu cầu của CTTC thì được xem là hợp đồng cho thuê vận hành. (Theo quy định của quốc tế
và Mục 6- "Thuê tài sản" của Chuẩn mực kế toán Việt Nam). Với quy định như vậy hợp đồng
cho thuê vận hành của các công ty CTTC chịu sự quản lý của NHNN còn có rất nhiều các DN
khác cho thuê vận hành tài sản có giá trị rất lớn nhưng lại không chịu sự quản lý như trên.
Thứ năm, vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm hợp đồng cũng là một trong
những vấn đề gây nhiều bàn cãi. Trên thực tế quyền này gần như không thể thực hiện được vì
bên thuê thường không chịu giao tài sản, nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi hành pháp
luật. Việc bán tài sản cho bên thứ ba lại phải được sự đồng ý của Bộ Thương mại và như vậy
nảy sinh vấn đề truy thu thuế nhập khẩu? Liệu có nghịch lý không khi mà chủ sở hữu lại không
có quyền định đoạt đối với tài sản của mình?
Một vấn đề nữa thường được nhắc đến hiện nay chính là vấn đề quáng cáo, tuyên truyền cho
các công ty CTTC. Có thể nói mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng năm 1997 đến nay
nhưng nhìn chung các công ty CTTC còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường
Việt Nam hiện nay rất nhiều DN cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết
bị...nhưng thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này lại tìm đến ngân
hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để được vay vốn khó hơn rất
nhiều. Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay đổi của các DN ở Việt Nam nhưng một
phần quan trọng là do hoạt động kinh doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng

cáo rộng rãi ở Việt Nam.
Đặc biệt pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định đối tượng CTTC là các máy móc...và các
động sản khác chứ chưa quy định đối tượng cho thuê là các bất động sản. Điều này trái với
thông lệ quốc tế và nhu cầu của thị trường, vì thế chúng ta cần nhanh chóng nghiên cứu và điều
chỉnh những quy định này.
4. Giải pháp phát triểncho thuê tài chính ở Việt Nam.

16


4.1. Giải pháp từ phía các công ty cho thuê tài chính
a. Mở rộng mạng lưới hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
Hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta hiện nay còn khá mới mẻ, chưa phát triển hết tiềm năng.
Thị trường cho thuê tài chính còn rất nhiều “khoảng trống”, mở rộng được mạng lưới hoạt động
của công ty CTTC sẽ mở ra nhiều cơ hội phát triển cho cả công ty CTTC và doanh nghiệp, cá
nhân. Lấy ví dụ như: Hoạt động cho thuê tài chính hiện nay chỉ được biết đến khiêm tốn tại các
thành phố lớn trong khi nhu cầu cho thuê tài chính cũng rất lớn ở các vùng nông thôn, nơi mà
người sản xuất nhỏ lẻ rất cần vốn để mua sắm công cụ sản xuất. Trên thế giới cho thuê tài chính
đã giúp đỡ những người nông dân rất nhiều trong việc mua sắm, thuê máy móc sản xuất. Do
đó,mở rộng cho thuê tài chính ra nhiều vùng miền là một giải pháp tốt cho hoạt động cho thuê
tài chính ở Việt Nam.
b. Mở rộng đối tượng cho thuê tài chính.

Lựa chọn doanh nghiệp nhỏ và vừa là mục tiêu chính, vì theo đánh giá của các chuyên gia, các
doanh nghiệp này được coi là yếu, thể hiện ở sáu chữ M (trên). Bên cạnh đó còn có một thực tế
là có đến 50% doanh nghiệp phải giải thể hoặc phải tái cơ cấu sau sáu năm hoạt động. Hiện
nay, ở Việt Nam số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp. Hơn nữa,
xét về bản chất, đây là một “khoản vay tài chính” và phải trả lãi (trên cơ sở tính phí thuê tài
chính được trả cho đến khi hết hạn hợp đồng), và đương nhiên đã là một “khoản vay” thì rủi ro
liên quan đến vay vốn luôn luôn hiện hữu và có thể dẫn đến phải áp dụng các biện pháp, thậm

chí là biện pháp phá sản bất cứ khi nào nếu doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Do
đó, để thúc đẩy thị trường cho thuê tài chính hoạt động có hiệu quả đòi hỏi sự phát triển của
chính cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, bởi chính các doanh nghiệp là
khách hàng và là mục tiêu hướng tới của các công ty cho thuê tài chính.
Ngoài ra cũng cần mở rộng cho thuê tài chính sang các đối tượng cá nhân nếu cá nhân có
phương án trả nợ khả thi, có khả năng tài chính. Các doanh nghiệp lớn với nhu cầu thay đổi
công nghệ cao cũng là khách hàng tiềm năng của công ty CTTC. Mở rộng mọi đối tượng khách
hàng là hướng đi đúng đắn cho các CTTC.
c. Xây dựng quy chế về kế toán,hạch toán tài sản cho thuê cụ thể.

Hoạt động cho thuê tài chính là một hoạt động phức tạp và đi cùng với nó là việc hạch toán kế
toán cũng có nhiều thắc mắc. Hiện nay các văn bản hướng dẫn về hạch toán kế toán tài sản cho
thuê tài chính vẫn chưa hoàn thiện và còn nhiều bất cập nên đòi hỏi tự mỗi công ty cho thuê tài
chính cần phải xây dựng cho mình quy chế hạch toán kế toán tài sản cho thuê tài chính thống
nhất, cụ thể theo quy định của pháp luật. Việc hoàn thiện quy chế hạch toán kế toán hoạt động
cho thuê tài chính cũng giúp cho công ty quản lí tài sản cho thuê tài chính dễ dàng hơn.
d. Tuyển dụng và đào tạo một đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ và tài chính.

Hoạt động cho thuê tài chính nằm trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng nhưng lại có
những đặc thù riêng, nên những người tham gia vào hoạt động này cũng cần phải có hiểu biết
sâu sắc về cho thuê tài chính nói riêng và tài chính nói chung. Đội ngũ nhân viên giỏi sẽ giúp

17


công ty tài chính mở rộng hoạt động, kí được những hợp đồng chất lượng, quản lí cho thuê tài
chính hiệu quả. Trong bất kì lĩnh vực nào thì yếu tố con người cũng là yếu tố quan trọng hàng
đầu nên đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ và tài chính là giải
pháp tất yếu để phát triển cho thuê tài chính.
e. Xây dựng và mở rộng hoạt động marketing công ty cho thuê tài chính.


Hoạt động cho thuê tài chính mới xuất hiện ở Việt Nam hơn 10 năm trở lại đây, và chưa được
biết đến rộng rãi, người dân và các doanh nghiệp chưa hiểu đúng cũng như chưa nhận thức
được lợi ích của cho thuê tài chính. Nhà nước, các hiệp hội và chính các công ty cho thuê tài
chính cần phải quảng bá rộng rãi hơn nữa dịch vụ của mình đến cộng đồng doanh nghiệp.
Do các công ty cho thuê tài chính mới ra đời và hoạt động, nghiệp vụ cho thuê tài chính rất mới
mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, địa bàn hoạt động của công ty lại rộng khắp trong toàn
quốc, do vậy, việc quy định chi phí quảng cáo, tiếp thị của các công ty cho thuê tài chính (5%7% tổng chi phí) giống như các tổ chức tín dụng hiện hành là chưa hợp lý.
f.

Tổ chức mạng lưới giám sát chất lượng và sử dụng tài sản cho thuê tài chính.

Tài sản cho thuê tài chính thường là công cụ sản xuất chủ yếu của các doanh nghiệp đi thuê tài
chính. Vì thế chất lượng của tài sản cho thuê tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản
xuất của các doanh nghiệp đi thuê tài chính và ảnh hưởng gián tiếp đến khả năng trả nợ cho các
công ty tài chính. Công ty cho thuê tài chính cần tổ chức mạng lưới giám sát chất lượng của tài
sản cho thuê tài chính kể từ khi tìm người cung cấp tài sản. Tài sản cho thuê tài chính tốt vừa
tạo uy tín cho công ty vừa làm tăng khả năng thu hồi vốn.
Hoạt động cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng chứa đựng những rủi ro không kém hoạt
động cho vay, nên công ty cho thuê tài chính cần phải thực hiện giám sát hoạt động của người
đi thuê để tránh sử dụng sai mục đích gây phương hại cho công ty. Để đảm bảo an toàn hoạt
động cho các công ty cho thuê tài chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký
quyền sở hữu tài sản cho thuê, tránh trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích
cầm cố, thế chấp và bán...
g. Các công ty cho thuê tài chính cố gắng giảm các loại chi phí đầu vào nhằm hạ giá dịch

vụ để thu hút khách hàng.
Chi phí cho thuê tài chính hiện nay đang là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp đi thuê. Tuy
nhiên để giảm được chi phí cho thuê tài chính cần những biện pháp không chỉ từ phía các công
ty cho thuê tài chính mà còn cần sự điều chỉnh từ phía chính phủ.Ví dụ như: Các công ty cho

thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại của các
đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo
gỡ khó khăn này, đề nghị chính phủ cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu
trực tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
4.2. Giải pháp từ bên ngoài các công ty cho thuê tài chính.
a. Hoàn thiện chính sách pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính.

18


Bất cứ một hoạt động nào cũng cần phải có hành lang pháp lí cụ thể, hợp lí. Hiện nay, pháp luật
về cho thuê tài chính còn tồn tại nhiều bất cập. Những bất cập này không những làm giảm hiệu
quả điều chỉnh pháp luật, mà còn hạn chế rất nhiều khả năng kinh doanh của tổ chức tín dụng
trong hoạt động cho thuê tài chính. Các văn bản điều chỉnh về hoạt động cho thuê tài chính hiện
nay gồm có: Nghị định 16/2001/NĐ-CP, NĐ 65/2005/NĐ-CP sửa đổi nghị định 16,luật các tổ
chức tín dụng,QĐ 731/2004/QĐ-NHNN,NĐ 95/2008/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn thực
hiện.
b. Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ.

Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết
thúc trước hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc
khó khăn. Việc hình thành các trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ
khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn.

19



×