Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Điều kiện lao động, đặc điểm bệnh tật, chăm sóc sức khỏe của ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ tại huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh và hiệu quả một số giải pháp can thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 163 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN QUÂN Y

TĂNG XUÂN CHÂU

ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG, ĐẶC ĐIỂM BỆNH TẬT, CHĂM
SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯ DÂN ĐÁNH BẮT HẢI SẢN XA
BỜ TẠI HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH VÀ
HIỆU QUẢ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CAN THIỆP
Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và tổ chức y tế
Mã số: 62 72 01 64

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2016


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có bờ biển dài 3.260km, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng
khoảng 1 triệu km2 và trên 3.000 đảo lớn nhỏ, là điều kiện tự nhiên thuận lợi,
là ngư trường lớn của ngư dân trong hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản,
là tiềm năng lớn trong phát triển thủy sản, phát triển kinh tế biển. Đánh bắt
hải sản xa bờ là ngành nghề truyền thống gắn bó với cộng đồng dân cư vùng
ven biển, hải đảo. Quan điểm của Đảng, Nhà nước phát triển nước ta mạnh,


giàu lên từ biển và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, an ninh quốc gia [1],
[14], [15], [16], [64], [66].
Sức khỏe ngư dân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trên biển như vi khí
hậu khắc nghiệt, sóng, gió, bão biển thất thường, rung lắc, tiếng ồn lớn, không
gian lao động, sinh hoạt chật hẹp, điều kiện sinh hoạt, dinh dưỡng an toàn
thực phẩm, nước sạch trên biển dài ngày khó khăn, [27], [37], [49], [77],
[102], [111].
Đánh bắt hải sản xa bờ là ngành nghề độc hại, nguy hiểm, bệnh, tai nạn
thương tích hay xảy ra [37], [41], [89],[99], [111]. Sức khoẻ của của ngư dân
giảm sút nhanh sau những chuyến đi biển dài ngày và thường mắc các bệnh
đường ruột, răng miệng, bệnh tim mạch, chứng đau đầu, sạm da, mất ngủ, đau
cột sống, giảm sức nghe có tính chất nghề nghiệp, lở lt chân tay [10], [37],
[71], [88].
Thực trạng công tác CSSK, các biện pháp cải thiện sức khỏe ngư dân
nước ta còn gặp nhiều khó khăn bất cập. Hệ thống y tế, hệ thống chăm sóc
sức khỏe ngư dân cả ven bờ và trên biển còn mỏng, chất lượng còn chưa
tương xứng với nhu cầu. Công tác vận chuyển, tổ chức cấp cứu trên biển còn
hạn chế, khả năng y tế trên các tàu, cụm tàu cịn yếu. Trong hồn cảnh khi xảy
ra bão, lốc nhu cầu chăm sóc y tế tăng nhanh trong khi điều kiện địa hình


3

chia cắt, cơ lập khó nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài sẽ làm trầm trọng hơn
các vấn đề vốn đang còn tồn tại [8], [13], [34], [56], [61].
Xây dựng và áp dụng có hiệu quả các giải pháp bảo đảm sức khỏe ngư
dân là một nhu cầu tất yếu, khách quan không những nâng cao chất lượng
cuộc sống, mà còn giúp ngư dân an tâm bám biển, phát triển nghề nghiệp góp
phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ chủ quyền biển đảo
an ninh của tổ quốc [19], [51], [53], [63].

Quảng Ninh là tỉnh trọng điểm biển đảo, với bờ biển dài và nhiều hịn
đảo, trong đó Huyện đảo Vân Đồn là nơi có cảng biển và tập trung chủ yếu
ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ của tỉnh, tuy nhiên đến nay chưa có nghiên
cứu cụ thể chi tiết nào về điều kiện lao động, đặc điểm bệnh tật, cũng như giải
pháp can thiệp đảm bảo sức khỏe cho ngư dân trong quá trình khai thác hải
sản xa bờ.
Xuất phát từ các lý do nêu trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Điều kiện
lao động, đặc điểm bệnh tật, chăm sóc sức khỏe của ngư dân đánh bắt hải
sản xa bờ tại huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh và hiệu quả một số
giải pháp can thiệp” với các mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Mô tả thực trạng điều kiện lao động, đặc điểm sức khỏe, bệnh tật,
chăm sóc sức khỏe của ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ huyện đảo Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh năm 2013.
2. Đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp nhằm cải thiện điều
kiện chăm sóc bảo vệ sức khỏe của ngư dân đánh bắt xa bờ thuộc nghiệp
đoàn nghề cá Cái Rồng, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh năm 2014.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1.MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐÁNH BẮT HẢI SẢN XA BỜ CỦA CỘNG
ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN, HẢI ĐẢO

1.1.1. Hiện trạng nghề đánh bắt hải sản ở nước ta
Các lĩnh vực hoạt động của ngành thủy sản bao gồm đánh bắt (khai
thác), nuôi trồng, chế biến và nhiều ngành nghề dịch vụ hầu cần đi kèm khác.
Đánh bắt hải sản được định nghĩa “Hoạt động đánh bắt thủy sản liên
quan đến nguồn lợi tự nhiên trên các vùng nước nói chung, trong đó đánh bắt

hải sản liên quan đến việc khai thác nguồn lợi hải sản trên biển và các vùng
nước lợ” [24].
Quy trình lao động của ngư dân đánh bắt xa bờ được thể hiện qua sơ đồ sau:
Lao động (nam) đánh bắt
trên biển
2

Lao động (nữ) tiêu thụ
sản phẩm trên bờ
3

Sản phẩm
đánh bắt

4

1
Lao
Laođộng
độngchuẩn
chuẩnbịbịcho
chorara
khơi
khơi

Thanh
Thanhtốn
tốncơng
cơngnợnợvàvà
lao

động
trên
lao động trênbờbờ
bờbờ

Sơ đồ 1.1. Chu trình lao động của ngư dân đánh bắt xa bờ
* Nguồn: theo Nguyễn Thế Tràm (2010) [60].

Dựa vào khu vực đánh cá, đánh bắt hải sản được chia thành đánh bắt hải
sản gần bờ (tuyến bờ và tuyến lộng vùng này chỉ chiếm dưới 10% diện tích
vùng đặc quyền kinh tế) và đánh bắt hải sản xa bờ (tuyến khơi). Vùng đánh bắt
hải sản xa bờ được quy định trong Nghị định số 123/2006/NĐ-CP trong đó
quy định vùng đánh bắt xa bờ nằm ngoài đường nối các điểm cách bờ biển 24
hải lý và quy định đăng ký tàu đánh bắt hải sản xa bờ phải có cơng suất từ


5

90CV trở lên và tàu cá lắp máy có tổng công suất từ 50 sức ngựa trở lên làm
các nghề câu, rê, vây, chụp mực được hoạt động ở tuyến khơi [15].
Đánh bắt hải sản xa bờ là ngành nghề truyền thống của cư dân ven biển,
hải đảo. Trong những năm gần đây hoạt động đánh bắt xa bờ phát triển mạnh
mẽ, chuyển từ tăng trưởng nhỏ lẻ thành “phát triển”. Trong vòng 17 năm
(1990-2007) qua số lượng tàu thuyển tăng gấp 1,3 lần, tốc độ tăng bình quân
1,53%, tổng công suất tàu tăng 6,4 lần, tốc độ tăng 10,87%. Số người tham gia
đánh bắt thủy sản ngày càng tăng từ 1,64 triệu người năm 2000 lên 1,96 triệu
người năm 2007, tốc độ tăng trung bình 2,29%/năm [14]. Phát triển đánh bắt hải
sản xa bờ là xu hướng tất yếu, là yêu cầu bắt buộc để khai thác hải sản bền
vững. Đánh bắt hải sản xa bờ yêu cầu sự đầu tư lớn hơn, tàu lớn hơn, công suất
lớn, thời gian đi biển lâu hơn, rủi ro trong công việc, sự chăm sóc y tế, ứng cứu

trong các tình huống cần hỗ trợ cũng trở nên khó khăn hơn. Đặc biệt nước ta
vẫn đang ở trong “giai đoạn đầu” trở thành một quốc gia mạnh về biển.
Tổng mã lực (100 CV)
Tổng số tàu (1.000 tàu)
Mã lực trung bình/tàu (CV/tàu)

160.0
140.0

120.0
100.0
80.0
60.0
40.0

2007

2006

2005

2004

2003

2002

2001

2000


1999

1998

1997

1996

1995

1994

1993

1992

1991

1990

20.0

Biểu đồ 1.1.Số lượng, công suất tàu khai thác thủy sản của Việt Nam
* Nguồn: theo Trung tâm tin học thủy sản (2008) [14].


6

Bảng 1.1. Cơ cấu tàu thuyền khai thác thủy sản theo vùng biển năm 2010

Công suất Tàu (CV)
TT

Vùng biển

<20 CV

Tổng số
tàu

Chiếc

%

20–90 CV
Chiếc

%

>90 CV
Chiếc

%

1

Vịnh Bắc Bộ

40.339


28.493

44,0

8.954

19,6

2.892

16,0

2

Trung Bộ

54.111

31.379

48,4

17.489

38,4

5.243

29,0


3

Đông Nam Bộ

17.300

3.805

5,9

8.060

17,7

5.435

30,1

4

Tây Nam Bộ

16.669

1.125

1,7

11.081


24,3

4.493

24,9

Cả nước

128.449 64.802

100

45.584

100

18.063

100

* Nguồn: theo Cục KT&BVNLTS- Tổng cục Thủy sản [69].

Đến năm 2011, số tàu thuyền tăng 70%, công suất tàu tăng 175% so với
năm 2001. Trong đó nhóm tàu có cơng suất < 20CV tăng bình qn 9,1%/năm
(gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn lợi ven biển vốn đang suy giảm);
nhóm tàu cơng suất từ 20- 90CV tăng bình qn 1,8%/năm; nhóm tàu có cơng
suất > 90 CV tăng bình qn 13%/năm, đây là nhóm có mức tăng trưởng cao
nhất thể hiện xu hướng phát triển khai thác hướng ra khơi xa, phù hợp với chủ
trương phát triển khai thác hải sản xa bờ của Đảng và Nhà nước [69].
Cơ cấu tàu thuyền phân bố tương đối đồng đều, trong đó vùng biển

Vịnh Bắc Bộ chiếm 31,4%, vùng biển Trung Bộ chiếm 42%, vùng biển Đông
Nam Bộ chiếm 13,5% và Tây Nam Bộ chiếm 13% tổng số tàu thuyền toàn
quốc. Cơ cấu nghề nghiệp khai thác hải sản thời kỳ 2001-2011 tiếp tục
chuyển dịch theo hướng thị trường: Những nghề mới khai thác có hiệu quả
tiếp tục tăng và những nghề khai thác không hiệu quả tiếp tục giảm: nghề
lưới kéo giảm từ 22,5% năm 2001 xuống còn 17,6% năm 2010, nghề lưới rê
tăng từ 24,5% năm 2001 lên 36,8% năm 2010, các nghề lưới vây, nghề câu,
nghề vó, mành từ năm 2001 đến 2010 đều giảm [69].
Năm 2010, cả nước đạt 2,42 triệu tán thủy sản các loại, tăng 40,7% so
với năm 2001, trong đó khai thác biển chiếm 92%, khai thác xa bờ chiếm
49,4%, còn lại sản lương ven bờ chiếm 50,6% tổng sản lượng khai thác hải


7

sản toàn quốc; Sản lượng khai thác hải sản ở vùng biển gần bờ tăng khoảng
1,1%/năm, ở vùng biển xa bờ khoảng 10,3%/năm ( 2001- 2010); Sản lượng ở
vùng biển Vịnh Bắc Bộ có xu hương tăng từ 14,3% năm 2001 lên 17,45 năm
2010, còn lại các vùng biển khác đều có xu hướng giảm nhẹ [69].
Ngư dân nghề cá sử dụng lao động trên và dưới tuổi lao động chiếm tỉ
lệ cao, ngư dân hành nghề tự do, vãng lai chiếm trên 99%. Nghiên cứu trên
ngư dân miền trung có trình độ văn hóa thấp, mù chữ chiếm tỷ lệ cao (16,7%
với ngư dân nghề cá và 25,5% với ngư dân lặn [63].
1.1.2. Đặc điểm họ nghề đánh bắt hải sản ở nước ta
Bảng 1.2. Tình hình họ nghề khai thác hải sản giai đoạn 2001-2010
TT

Hạng mục

Năm 2001


Năm 2010

chiếc

%

chiếc

%

Tốc độ tăng
trung bình

1

Họ lưới kéo

6761

22,5

22554

17,6

3,4

2


Họ lưới rê

18251

24,5

47312

36,8

11,2

3

Họ lưới vây

5736

7,7

6188

4,8

0,8

4

Họ nghề câu


14676

19,7

21896

17,0

4,5

5

Họ lưới vó mành

5811

7,8

9872

7,7

6,1

6

Họ nghề cố định

5587


7,5

4240

3,3

-3,0

7

Họ nghề khác

7673

10,3

16387

12,8

8,8

74.495

100

128.449

100


6,2

Tổng

* Nguồn: theo Cục KT&BVNLTS- Tổng cục Thủy sản [69].

Các loại nghề khai thác cá biển ở nước ta rất đa dạng, theo thống kê
hiện nay, có trên 20 loại nghề khác nhau, nhưng đối với nghề đánh bắt cá xa
bờ, thì bao gồm lưới kéo: 30,6%; lưới cản (lưới rê): 21,3%, nghề câu: 18,6%,
nghề vây: 7,5% và các nghề khác là 22,0% số lượng tàu thuyền [69].
Đặc điểm các họ nghề đánh bắt hải sản xa bờ khác nhau và phân bố
khác nhau tùy theo vùng, miền ngư trường đánh bắt, cơ bản như sau [24]:
* Nghề lưới kéo


8

Nghề lưới kéo là một phương thức đánh bắt chủ lực, chiếm khoảng 1/3
tổng số tàu thuyền đánh bắt. Đánh bắt thủy sản sinh sống ở tầng đáy, nền đáy
biển tương đối bằng phẳng, độ sâu thường từ 20 - 100m. Thường phải sử dụng
tàu thuyền có cơng suất lớn, kéo chiếc lưới hình dạng túi, miệng túi được mở
lớn bằng giềng phao ở trên, giềng chì ở dưới và hai cánh lưới ở hai bên cào sát
đáy biển để bắt cá [24].
* Nghề lưới vây
Nghề lưới vây (còn gọi là nghề vây rút chì) chiếm khoảng 17% tổng số
tàu thuyền, chuyên đánh bắt các loài cá tầng nổi hoặc tầng giữa như các loài
cá nục, cá ngừ, cá cơm… khi phát hiện đàn cá, dùng tàu thả lưới vây thành
vòng tròn xung quanh đàn cá rồi kéo dây rút gọn giềng chì để thắt kín đáy
khơng cho đàn cá thốt xuống dưới, sau đó thu dần vào lưới, dồn cá vào từng
lưới rồi dùng vợt xúc cá lên tàu. Nghề lưới vây dùng ánh sáng đánh bắt cá ban

đêm gọi là nghề lưới vây ánh sáng. Mùa vụ đánh bắt chính từ tháng 2 đến
tháng 5 hàng năm, lưới vây cá cơm có thể đánh bắt đến tháng 9 [24].
* Nghề lưới cản
Nghề lưới cản (còn gọi là nghề lưới rê) là một trong những nghề đánh
bắt quan trọng, đánh bắt dựa trên nguyên tắc dùng lưới thả trôi chắn ngang
hướng di chuyển của đàn cá để cá mắc dính vào lưới (thân cá đóng vào mắt
lưới). Có các nghề lưới cản (lưới rê nilông), lưới rê cước, rê đáy, lưới chuồn.
Nghề lưới cản đánh bắt cá di chuyển tầng nổi như cá ngừ, cá thu, cá nục lớn.
Ngư trường đánh bắt khá rộng, từ vùng biển ven bờ ra đến vùng khơi [24].
* Nghề mành đèn, mành chà
Nghề mành đèn là nghề truyền thống lâu đời, thường đánh bắt cá nhỏ
ven bờ như cá nục, cá trích, cá bạc má, mực ống, hoạt động vào ban đêm, dựa
trên nguyên tắc dùng ánh sáng đèn măng sông hoặc đèn nê ông để thu hút đàn
cá. Ban đêm, những đàn cá thường bị thu hút vào vùng ánh sáng. Khi quan sát
thấy đàn cá bị ánh sáng thu hút mạnh đến độ "say đèn", thì lựa chiều gió,


9

hướng nước chảy thích hợp rồi thả lưới giăng sẵn; sau đó di chuyển ánh sáng
để dẫn đàn cá vào trên miệng lưới rồi nhanh chóng cất lưới lên để bắt cá.
Nghề mành chà cũng là nghề truyền thống lâu đời, lợi dụng tập tính các
lồi cá nổi thường tập trung núp bóng ở các gị, rạn, vật trơi nổi trong nước,
ngư dân thường thả những gốc chà rạo dọc ven biển để thu hút các loại cá nổi
nhỏ, khi đàn cá di chuyển qua, gặp các gốc chà rạo chúng thường tụ tập lại để
"dựa bóng" bắt mồi. Khi thấy đàn cá tụ tập nhiều, người ta lựa chiều gió,
hướng nước chảy thích hợp rồi thả lưới mành để bắt cá [24].
* Nghề câu khơi
Nghề câu khơi thường đánh bắt các loại cá nhám, cá mập để lấy vây cá
(vi cá) làm hàng thủy sản xuất khẩu. Tàu thuyền nghề câu khơi có cơng suất

tới 155CV, có kết cấu vững chãi đủ sức chịu đựng sóng gió biển khơi dài
ngày, mỗi chuyến biển có khi kéo dài tới 2 - 3 tuần. Cấu tạo vàng câu gồm có
dây câu chính, chiều dài có khi hàng chục cây số, dọc trên chiều dài là các
thẻo câu có gắn lưỡi câu, chiều dài thẻo câu có thể thay đổi tùy theo độ sâu
tầng nước cá di chuyển. Mồi câu là các loại cá nhỏ như cá chuồn, cá nục được
móc vào lưỡi câu. Khi trời bắt đầu tối người ta tiến hành móc mồi thả câu,
quá nửa đêm về sáng người ta bắt đầu thu câu, gỡ cá [24].
* Nghề pha xúc
Nghề pha xúc du nhập vào từ những năm cuối thập kỷ 90 (thế kỷ XX)
trở lại đây, chủ yếu đánh bắt những đàn cá cơm xuất hiện di chuyển theo dòng
hải lưu vào sát ven bờ. Nguyên lý đánh bắt của nghề pha xúc là sử dụng ánh
sáng cực mạnh của chùm đèn pha có cơng suất từ 5.000W - 10.000W để thu
hút đàn cá nổi lên gần mặt nước, rồi ngay lập tức dùng lưới để xúc cá lên
thuyền. Mùa vụ khai thác chính là từ tháng 2 đến tháng 4 [24].
* Nghề lặn biển
Dụng cụ lặn đơn giản chỉ gồm máy nén khí và đường ống dẫn khí. Thợ


10

lặn ngậm ống cao su được cung cấp khí liên tục bằng máy nén khí, nhờ đó thợ
lặn có thể lặn dưới nước hàng giờ để bắt các loài cá, tôm hùm, ốc biển, hải
sâm. Ngư trường của nghề lặn bắt hải sản là các gò rạn từ vùng ven bờ cho tới
các quần đảo ngoài khơi xa như Trường Sa, Hoàng Sa [24].
1.1.3. Đặc điểm cấu tạo tàu đánh bắt hải sản xa bờ
Đặc điểm cấu tạo tàu ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính chất mơi trường
lao động của ngư dân. Do đặc điểm ngư dân ngoài việc thực hiện quá trình
lao động khai thác thì mọi hoạt động khác như sinh hoạt, ăn ngủ đều diễn ra
trên tàu. Đặc điểm cấu tạo, đặc điểm chất liệu ảnh hưởng nhiều đến điều kiện
môi trường trên tàu, nhất là các chỉ số vi khí hậu như nhiệt độ, bức xạ nhiệt,

ồn-rung và các chỉ số an toàn lao động kèm theo như trơn trượt.
Tàu đánh bắt hải sản là tàu có kết cấu và tính năng phù hợp với u cầu
hoạt động của từng loại ngư cụ nhằm đạt hiệu quả đánh bắt cao. Phân loại tàu
thuyền đánh cá dựa vào các yếu tố sau:
Trang bị động lực: tàu đánh bắt xa bờ đều là tàu có lắp máy với cơng
suất trung bình – cao trở lên (theo quy định phải từ 90 CV trở lên) [15].
Loại ngư cụ
- Tàu thuyền làm nghề lưới kéo
- Tàu thuyền làm nghề lưới vây
- Tàu thuyền làm nghề lưới rê
- Tàu thuyền làm nghề câu
- Tàu thuyền làm nghề chụp mực

Vật liệu vỏ tàu
- Tàu vỏ gỗ
- Tàu vỏ thép
- Tàu vỏ xi măng lưới thép
- Tàu vỏ composit

Đặc điểm cấu tạo vỏ tàu ảnh hưởng quan trọng đến khả năng điều
nhiệt, đến điều kiện vi khí hậu bên trong tàu. Trong đó chất liệu vỏ tàu ảnh
hưởng lớn đến khả năng hấp thụ, phản xạ nhiệt trong điều kiện bức xạ nhiệt
trên biển nước ta rất cao, nước ta cấu tạo chủ yếu vỏ tàu là chất liệu gỗ [69].
1.1.4. Tổ chức lao động của ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ


11

Vấn đề tổ chức lao động trong hành trình trên biển cũng có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến sức khỏe người lao động. Nghề đánh bắt hải sản Việt Nam vẫn

mang tính chất nhỏ lẻ và theo kinh nghiệm. Trong suốt hành trình đi biển
đánh bắt cá ngồi thời gian di chuyển tới ngư trường là thời gian lao động,
ngư dân rất ít thời gian được nghỉ ngơi hồn tồn. Thời gian đánh bắt hải sản
lại thường về đêm và có thể kéo dài phụ thuộc vào luồng cá, và công việc
đánh bắt. Lao động dài ngày, thời gian làm việc kéo dài và thường làm việc
về đêm có thể gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người lao động. Kết quả
nghiên cứu của Lê Hồng Minh (2012) cho thấy thời gian lao động trung bình
trong ngày của ngư dân là 12,3 ± 1,9 giờ, khơng có nghỉ giữa ca. Mỗi chuyến
đi biển đánh bắt xa bờ trung bình là 19,5 ± 6,2 ngày. Hầu hết ngư dân khi
đánh bắt hải sản xa bờ đều lao động vào ban đêm (86,1%) [37] .
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Yến (2007) trên ngư dân đánh bắt hải sản
xa bờ thuộc xã Lập Lễ, Hải Phịng thấy thời gian lao động trung bình một ngày
của ngư dân dài (11,17 giờ), khơng có thời gian nghỉ giữa ca và chủ yếu là lao
động về đêm (87,8%) [71] .
Lao động nặng nhọc trong môi trường khắc nghiệt, thời gian lao động
kéo dài kết hợp với sự đảo lộn nhịp sinh học là những yếu tố bất lợi ảnh
hưởng đến sức khỏe của ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ. Mặt khác, tổ chức
lao động khi tàu hành trình trên biển thường theo quy trình đơn điệu và buồn
tẻ, lặp đi lặp lại, gây buồn chán dẫn tới tình trạng căng thẳng về tâm sinh lý,
gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thuyền viên.
Như vậy, đánh bắt hải sản xa bờ là một ngành nghề truyền thống, lâu
đời. Trong giai đoạn tiếp theo sẽ có nhiều hứa hẹn thay đổi, và trở thành một
ngành nghề khai thác đại dương quan trọng của mỗi quốc gia có biển, trong
đó có nước ta. Nhiều vấn đề cần nghiên cứu như sự thay đổi trong cơ cấu lao
động (sẽ không chỉ là ngành nghề truyền thống đơn thuần như trước đây), yếu
tố khoa học công nghệ trong chế tạo tàu, đánh bắt hải sản, công nghệ khai


12


thác, công nghệ hàng hải, công nghệ bảo quản, các dịch vụ hỗ trợ hậu cần
nghề cá v.v… những thay đổi đó cũng sẽ có những tác động khác nhau đến
sức khỏe và công tác bảo đảm sức khỏe của ngư dân.
1.2. ĐIỀU KIỆN LAO ĐỘNG CỦA NGƯ DÂN ĐÁNH BẮT HẢI SẢN XA BỜ

1.2.1. Đặc điểm khí hậu, thời tiết, thủy văn trên biển
Môi trường tự nhiên là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến sức khỏe người
lao động, đặc biệt là đặc điểm khí tượng, thời tiết, thủy văn trên biển. Đặc
điểm khí hậu, thời tiết, thủy văn trên biển tại hầu hết các ngư trường mang
nhiều đặc điểm bất lợt như tính chất thay đổi thất thường, khó dự báo, thay
đổi q mức đột ngột từ bình thường sang nguy hiểm, tính chất khắc nghiệt và
nhiều các hiện tượng thời tiết khí hậu cực đoan khác như bão, giơng, áp thấp.
1.2.1.1. Đặc điểm khí hậu – thời tiết
Nước ta nằm bên bờ biển Đơng, phía Bắc giáp biển Nam Trung Hoa,
Phía Nam giáp các nước Đơng Nam Á như Indonesia, Philipin, Malaysia…
Vị trí địa lý và địa hình vùng biển nước ta tạo nên chế độ khí hậu, thời tiết đa
dạng và phức tạp. Nước ta chịu tác động của nhiều loại hệ thống thời tiết như:
- Hệ thống thời tiết phía Bắc chịu ảnh hưởng chủ yếu đến biển nước ta
và mùa đông xuân (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) với biểu hiện chủ yếu là
gió mùa Đơng Bắc. Vào thời điểm này nhiệt độ khơng khí thường thấp (trung
bình 15oC đến 20oC ), khơ hanh, lạnh. Gió mùa Đơng Bắc có khi mạnh cấp 6,
7 có thể đến cấp 8, 9.
- Hệ thống thời tiết phía Nam chịu tác động của áp thấp mùa hạ Châu Á
và giải áp thấp xích đạo. Hệ thống thời tiết này kéo dài từ tháng 5 đến tháng
11, mạnh nhất vào tháng 8 và tháng 9. Đặc trưng của hình thái thời tiết này là
gió mùa Tây Nam, là nguyên nhân hình thành nên các cơn áp thấp nhiệt đới
và bão.
- Hệ thống thời tiết phía tây chịu tác động của áp thấp Ấn Miến. Hệ
thống này chịu ảnh hưởng từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau. Trong thời gian
này biển thường có giơng bão, mưa rào, sương mù, lốc, vòi rồng …trong



13

giơng bão gió có thể giật cấp 8, 9 thậm chí cấp 12 là loại hình thời tiết đặc
biệt nguy hiểm.
- Hệ thống thời tiết phía Đơng chịu tác động mạnh mẽ của hai hệ thống
là lưới cao áp cận nhiệt đới và nhiều giông bão nhiệt đới như bão, áp thấp,
giông … Hệ thống này chịu tác động đến vùng biển nước ta từ tháng 5 đến
tháng 11, nhưng mạnh nhất vào tháng 8 đến tháng 9. Đây là loại hình thời tiết
nguy hiểm rất lớn đến tính mạng, sức khỏe của ngư dân.


14

Hình 1.1. Bản đồ vùng biển, thềm lục địa Việt Nam
* Nguồn: theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương (2015) [67].

Biển là nơi hình thành các cơn áp thấp, giông, bão và các trận cuồng
phong, hậu quả gây nên những trận biển động với độ cao của sóng rất lớn và
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sản xuất cũng như an toàn sinh
mạng của ngư dân.
1.2.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện thủy văn
Đặc điểm thủy văn gồm các yếu tố như thủy triều, dòng chảy, nhiệt độ,
độ mặn nước biển, sóng biển. Trong các yếu tố này thì tính chất và mức độ
sóng biển ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động nghề nghiệp cũng như sức
khỏe của ngư dân. Độ cao sóng biển trung bình ở nước ta 1m, khi biển động
sóng có thể cao 3- 4 m, và trong giơng bão có thể cao 5- 6m và cao hơn.
Khi lao động trên biển, sóng biển gây rung, lắc tàu và dẫn đến say
sóng. Tình trạng rung lắc của tàu phụ thuộc vào trạng thái sóng, gió, kỹ thuật

điều khiển tàu, cấu trúc, trọng tải và tốc độ di chuyển của tàu [7], [27].
- Thời gian chịng chành tự nhiên của tàu có trọng tải lớn và rộng nhiều
hơn so với những tàu có trọng tải nhỏ, nên chòng chành êm dịu và nhịp nhàng
hơn. Chịng chành nhanh của tàu có trọng tải ít và tốc độ nhanh dẫn tới say
sóng hơn so với chịng chành lên xuống nhịp nhàng của tàu có trọng tải lớn,
tốc độ chậm [27].
- Chịng chành có thể theo mạn tàu (chòng chành ngang) hoặc theo dọc
tàu. Càng ở ngoại vi tàu (mạn tàu, đầu, đuôi tàu) biên độ dao động của chòng
chành càng lớn. Chỗ giao điểm giữa hai đường trung tuyến dọc và ngang tàu là
nơi ít xảy ra chòng chành nhất, được sử dụng như là nơi để tránh say sóng [27].
- Chịng chành do sóng lừng: xuất hiện sau khi biển động, gió đã
ngừng. Mặt biển hầu như im lặng, nhưng trên thực tế sóng vẫn di chuyển
chậm và nhịp nhàng, làm cho tàu chìm xuống và nổi lên theo chiều thẳng


15

đứng và di chuyển chậm, có đặc điểm gần giống như chòng chành theo dọc
tàu. Lúc này người ở trên tàu phải chịu lực tác động của lực kéo chìm của tàu
và lực nâng lên của sóng nên trọng lượng của cơ thể lúc tăng, lúc giảm. Khi
tàu nhô lên đỉnh sóng, thủy thủ có cảm giác như “người như bị nhấc bổng lên,
chân như rời khỏi boong tàu”, còn khi tàu chìm xuống chân sóng thì cảm thấy
như “chân đè và ấn mạnh vào mặt boong tàu” [27].
- Chòng chành ngang tàu gây say sóng (3,2%) ít hơn so với các chòng
chành khác (chòng chành dọc tàu: 29,7%, chòng chành do sóng lừng: 30,8%).
- Chịng chành của tàu giảm đi nếu tàu đi xi theo chiều của sóng.
Nếu đi xi theo chiều của sóng chịng chành ở mức 30 - 40 o, nhưng nếu đi
ngược chiều sóng hoặc sóng đánh tạt ngang vào thành tàu thì chịng chành
ngang tàu tăng lên tới 130 - 140o [27].
Tốc độ gió càng lớn thì chiều dài của bước sóng chiều cao của sóng và

thời gian của một chu kỳ sóng càng nhiều. Nếu bước sóng dài tới 60 - 70m thì
chịng chành lên xuống càng cao và càng dễ gây say sóng [27].
Các nghiên cứu đều cho rằng đáp ứng của cơ thể với tác động của sóng
gió có nhiều biểu hiện khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại tàu,
cấp sóng biển, số lần đi biển, vị trí cơng tác trên tàu, tình trạng sức khoẻ.
1.2.2. Ảnh hưởng môi trường lao động trên tàu biển
Trong suốt thời gian hoạt động trên biển, con tàu vừa là nơi lao động,
phương tiện lao động, đồng thời vừa là nơi ở, sinh hoạt, vui chơi giải trí 24/24
giờ trong ngày của ngư dân và thuyền viên. Vì vậy, người lao động phải chịu
đồng thời nhiều tác động của môi trường trên tàu đến sức khoẻ không những
trong lúc lao động mà ngay cả lúc nghỉ ngơi, cả trong ngủ, nghỉ.
1.2.2.1. Đặc điểm vi khí hậu trên tàu biển
Mơi trường vi khí hậu gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió và
bức xạ nhiệt. Những yếu tố này có ảnh hưởng lớn và thường xuyên đến sức
khoẻ ngư dân.


16

Lao động trên biển, con người chịu tác động trực tiếp của nhiệt độ
khơng khí nóng vào mùa hè và lạnh vào mùa đơng. Về mùa hè, ngồi các bức
xạ trực tiếp từ mặt trời chiếu xuống, người lao động cịn phải chịu sức nóng
gián tiếp từ các tia bức xạ từ mặt nước phản chiếu lên cộng với sức nóng do
các máy móc hoạt động toả ra. Chính điều này làm cho nhiệt độ bên trong con
tàu tăng lên, đặc biệt trong buồng máy. Sự chênh lệch nhiệt độ khá cao giữa
buồng máy với các vị trí khác trên tàu, giữa trong và ngoài tàu, người lao
động phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác làm cản trở q trình điều nhiệt,
làm cơ thể khó thích nghi, gây mệt mỏi, giảm khả năng lao động, thậm chí
gây các biến chứng ảnh hưởng sức khỏe.
Việt Nam nằm ở khu vực nhiệt đới nóng ẩm nên độ ẩm của khí hậu nói

chung đều rất cao, cao nhất là vào mùa xn hè. Tàu đánh bắt hải sản chỉ có
thơng gió tự nhiên nên ẩm độ tuỳ thuộc hoàn toàn vào môi trường tự nhiên
của biển. Mặt khác, do môi trường lao động của nghề cá luôn luôn ẩm ướt nên
độ ẩm ở trên tàu thường xuyên ở mức cao.
Nghiên cứu của tác giả Lê Hồng Minh (2012) đo vi khí hậu tại các vị
trí buồng lái, buồng nghỉ, hầm máy và boong tàu tại ngay bến đỗ cho thấy có
65,2%- 80,4% số mẫu nhiệt độ, 65%- 73,9% số mẫu đo độ ẩm và 34,8%73,9% số mẫu đo bức xạ nhiệt cao hơn TCVSCP [37].
Tác giả Lê Hoàng Lan và cs. (2012) đo vi khí hậu trên 08 tàu cơng ty
VOSCO và 05 tàu công ty Vitranschart thấy nhiệt độ trung bình tại các vị trí
trên tàu đều vượt q TCVSCP, nhiệt độ buồng máy cao nhất (37,5 0c), tốc độ
gió tại boong cũng vượt quá TCVSCP (2,8m/s), chỉ có độ ẩm tại cả 3 vị trí
đều trong giới hạn cho phép [32].
1.2.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố vật lý và hóa học khác trên tàu biển
* Tiếng ồn
Lao động tên tàu biển, ngư dân phải tiếp xúc thường xuyên tiếp xúc với
tiếng ồn. Đây là vấn đề nan giải nhất trên tàu biển, rất khó để khắc phục.


17

Trong khi hành trình trên biển, tàu phải vận hành tất cả các máy chính có
tiếng ồn cịn cao và diễn ra liên tục suốt ngày đêm. Và ô nhiễm tiếng ồn trên
các tàu biển còn thấy ngay cả khi tàu ở trong cảng chỉ có các máy hoạt động.
Rapisarda. và cs. (2004) đo tiếng ồn trên 6 tàu đánh cá ở các phòng động cơ,
khu vực làm việc trên boong, khu vực phòng ăn, phòng ngủ... thấy mức áp âm
trong các phịng động cơ ln vượt q 90 dBA trên tất cả các tàu thuyền khi
vận tốc của tàu là 3-4 hải lý trong giai đoạn khai thác và khoảng 10 hải lý/giờ
trong thời gian di chuyển qua các ngư trường. Các tác giả cho rằng cần phải
đề xuất các biện pháp nhằm làm giảm ảnh hưởng của tiếng ồn đến sức khỏe
của ngư dân [105] .

Tiếng ồn tần số cao sẽ gây giảm sức nghe, điếc nghề nghiệp. Tiếng ồn
tần số thấp, tuy không gây điếc nghề nghiệp nhưng cũng gây giảm sức nghe
và nguy hiểm hơn là gây rối loạn hoạt động chức năng của hệ thần kinh thực
vật, qua đó nó ảnh hưởng đến chức năng của hàng loạt các cơ quan như tim
mạch, tiêu hóa Ngoài ra, nếu tiếng ồn kết hợp với rung sẽ làm tăng tác dụng
có hại của nhau lên vì vậy ồn và rung trên tàu biển có tác động tệ hại nhất đến
sức khỏe thuyền viên [28], [30].
* Xóc và rung lắc trên tàu biển
Rung lắc gây nên do tác động bởi hoạt động cơ học, máy móc của tàu
hoạt động như chân vịt, môtơ và các bộ phận phụ trợ, kết hợp với sóng biển.
Ngay cả khi tàu khơng hoạt động vẫn xuất hiện rung lắc do tác động của sóng
biển. Trong điều kiện tàu rung lắc, chịng chành người lao động ở tư thế bất
lợi nên cơ thể luôn phải thực hiện các phản xạ để điều chỉnh tư thế và trong
điều kiện như vậy, đòi hỏi hệ tiền đình và tiểu não phải vững vàng. Rung, lắc
gây ảnh hưởng xấu lên hệ thống tuần hoàn và thần kinh cũng như hệ thống
xương khớp. Rung, lắc làm tăng tác dụng có hại của tiếng ồn lên chức năng
cơ thể. Đây là rung toàn thân, tần số thấp, là nguyên nhân gây rối loạn tiền
đình với biểu hiện say sóng [28].


18

Nghiên cứu của tác giả Lê Hồng Minh (2012) cho thấy trên tàu đánh
bắt cá xa bờ rung vượt quá tiêu chuẩn cho phép trên tất cả các giải tần số đều
vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 5 lần [37].
* Chiếu sáng trên tàu biển
Ánh sáng là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến năng xuất lao động, chất
lượng lao động và an toàn lao động, ánh sáng khơng đảm bảo cịn gây ra tình
trạng nhức mắt, mỏi mắt, giảm thị lực và nhức đầu. Trong quá trình hoạt động
trên tàu người lao động phải chịu tác động của nhiều hình thức chiếu sáng

khác nhau như thiếu ánh sáng trong hầm máy, chiếu sáng quá mức trên boong
tàu do ánh sáng mặt trời phản xạ bởi mặt nước biển hoặc ánh sáng đèn trên
các con tàu chụp mực, câu mực.
Yêu cầu chung tiêu chuẩn chiếu sáng không quá 5000 lux đối với
nguồn sáng đèn dây tóc. Tuy nhiên nghiên cứu về chiếu sáng trên tàu câu mực
của ngư dân thì người lao động đã sử dụng về dàn đèn ánh sáng nhân tạo có
cơng suất cực lớn trên 5000 lux gây nguy hiểm cho mắt, làm chói, lố mắt và
mỏi mắt, dẫn đến tỷ lệ bị bệnh mắt ở ngư dân khá cao [37].
* Hơi, khí độc trên tàu biển
Trong quá trình lao động trên biển, thuyền viên và ngư dân cịn có thể
bị ảnh hưởng bởi hơi, khí độc. Những hơi khí độc có nguồn gốc từ xăng, dầu
và các loại hóa chất tích trữ ở trên tàu có thể gây ngộ độc hoặc các bệnh lý
khác nhau, đặc biệt là ung thư [98].
Bùi Thị Hà (2002) thấy trên các tầu vận tải xăng dầu hơi chì trong
buồng thuỷ thủ và trong buồng máy cao gấp nhiều lần TCVSCP
(0,005mg/m3) [21].
1.2.2.3. Điều kiện vệ sinh môi trường, tiếp tế nước ngọt trên tàu biển
Tàu hoạt động trên biển, điều kiện để xử lý, giữ gìn vệ sinh khó khăn
hơn nhiều so với khi tàu cập bến hay so với trên đất liền, nhất là các loại tàu
nhỏ mà nơi ở cũng là nơi sinh hoạt, lao động. Tất cả bó hẹp trong khn khổ
của con tàu, nên điều kiện vệ sinh môi trường không đảm bảo, làm tăng nguy
cơ mắc các bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng, bệnh ngoài da của các ngư dân.


19

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Yến (2007) việc giữ gìn vệ sinh trên tàu
biển khó khăn do khoảng khơng gian trong tàu quá chật hẹp, nơi sinh hoạt và
sản xuất liền kề nhau, ý thức giữ gìn vệ sinh của ngư dân cịn thấp, cơng tác 3
diệt (diệt ruồi muỗi, diệt gián, diệt chuột) gần như không được thực hiện trên

các tàu nên thường xun có cơn trùng và động vật truyền bệnh [71].
Nghiên cứu của Oldenburg M. và cs. (2008) trên 145 người lao động
biển bằng phỏng vấn và test áp da cho thấy 26,9% người cho kết quả dương tính
với dị ngun từ gián, trong đó có 52,8% số người phát hiện IgE với dị nguyên
trên, và 13,5 trong đó có biểu hiện hạn chế thơng khí [101].
Nước ngọt sạch đủ sử dụng trên tàu cũng là vấn đề nan giải, đặc biệt là
tàu nhỏ. Chất lượng nước phụ thuộc vào nguồn nước cấp, công tác vệ sinh
dụng cụ chứa, bảo quản nguồn nước khi sử dụng. Tàu đánh bắt xa bờ thời
gian kéo dài nên lượng nước ngọt chỉ đủ để sử dụng cho nhu cầu tối thiểu.
Nước sạch trên tàu thường có số lượng ít, dụng cụ chứa không bảo đảm.
1.2.2.4. Đặc điểm lao động của ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ
Lao động trên tàu đánh cá xa bờ thường có hai bộ phận cơng việc chính
đó là lao động trên boong, lao động trên bộ phận máy. Trong điều kiện thông
thường ngư dân có thể làm cả hai cơng việc trong một hành trình.
Lao động trên boong thực hiện theo dây truyền sản xuất bao gồm thả
lưới, thu lưới, phân loại cá, bảo quản cá. Ngư dân phải làm việc trong điều kiện
thời tiết phức tạp như sóng, gió, sự rung lắc, mưa, nắng, giá rét thất thường và
trong diện tích chật hẹp.
Lao động của bộ phận máy phải làm việc liên tục trong không gian chật
hẹp của buồng máy với nhiệt độ cao, sự rung lắc, tiếng ồn lớn, thiếu ánh sáng,
lưu thơng khơng khí kém, thường xun phải hít thở khơng khí có mùi dầu
mỡ và các hơi khí độc do máy tàu thải ra.
Để duy trì hoạt động liên tục của con tàu trên biển, ngư dân khai thác
hải sản phải bắt buộc thực hiện chế độ đi ca (mỗi người lao động làm 2 ca


20

trong một ngày), khoảng thời gian rỗi dành để ngủ một phần, phần còn lại là
thời gian dư thừa. Đặc trưng của thời gian rảnh rỗi của mỗi người là các hoạt

động phục vụ gia đình, vui chơi giải trí, quan hệ xã hội, nhưng ở trên tàu
người lao động khơng có điều kiện thực hiện việc này. Tất cả thời gian của họ
tuân thủ theo thời gian biểu đơn điệu, có phần nhàm chán. Những điều này
gây tình trạng tâm lý bất ổn định, đời sống tẻ nhạt và dễ đến các hoạt động
tiêu cực, thiếu lành mạnh như cờ bạc, nghiện thuốc lá, rượu và tâm lý xả hơi
khi tàu được cập bến [9], [32], [78], [119].
Ở CHLB Đức, Oldenburg M. và cs. (2009) xác định các yếu tố gây
stress ở 134 thủy thủ đi biển (81,3% trả lời đúng) với 23 yếu tố gây stress. Kết
quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố gây stress nhiều nhất đối với thủy thủ là
sống xa gia đình (48 lượt), áp lực công việc (30 lượt), làm việc liên tục trong
ngày (28 lượt), vi khí hậu nóng tại nơi làm việc (24 lượt), thiếu sự hiệp đồng
giữa các thành viên (16 lượt) [102]. Ở Anh, Roberts S. E. (2004) thấy ở
thuyền viên và ngư dân cũng thường xảy ra các bạo lực gây chết người. Trong
giai đoạn 1976- 2002 đã xảy ra 46 vụ giết người liên quan đến công việc (44
thuyền viên và 02 ngư dân) với tần suất 1,5/100.000 công nhân/năm. Tỷ lệ
bạo lực gây chết người trên các tàu thuyền ở Anh đã tăng từ 2,7/100.000
người/năm (1961- 1965) lên đến 4,4/100.000 người giai đoạn 1971- 1975 và
giảm xuống 0 trong giai đoạn 1996- 2002 [109].
Bùi Thị Hà (2002) điều tra đặc điểm tâm sinh lý thuyền viên thấy trong
suốt hành trình, thuyền viên Việt Nam ln chịu gánh nặng về tâm lý, cảm
giác cơ đơn giày vị chiếm tỷ lệ cao 72%. Toàn bộ thuyền viên phải sống giam
mình trong khơng gian chật hẹp vừa là nơi lao động, vừa là nơi sinh hoạt nên
họ thường có cảm giác rất gị bó, tù túng. Thêm vào đó là cộng đồng lao động
trên tàu chỉ toàn một giới nam. Hoạt động trên tàu lặp đi, lặp lại dễ gây buồn
chán trong khi thuyền viên bị cô lập với gia đình, bạn bè. Nhu cầu tình cảm


21

của họ bị thiếu thốn, việc tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí chưa được

chú ý đúng mức, thiếu các thơng tin và các hoạt động văn hố [21].
Nguyễn Đình Khuê và cs. (2014) nghiên cứu trên 1003 ngư dân đánh
bắt hải sản xa bờ của thị xã Cửa Lò thấy tỷ lệ ngư dân làm việc trên 8h/ngày
chiếm 99,2%, trong đó làm việc từ 9-12h/ngày chiếm 62,1%, trên 12h/ngày
chiếm 25,5%, chủ yếu lao động trên boong tàu chiếm 76,4%, lao động theo ca
kíp, cả ban ngày và ban đêm chiếm 75%, chỉ làm đêm chiếm 23,5%, 76,6%
ngư dân làm việc trong điều kiện ẩm ướt, 62,1% làm việc trong điều kiện rất
nóng/rất lạnh [31].
* Bảo hộ lao động
Hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ của của nước ta hầu hết là nhỏ lẻ, tự
phát, trang bị cịn thiếu đồng bộ. Cơng tác BHLĐ cho các thuyền viên còn nhiều
bất cập như trang bị thiếu, sử dụng không đầy đủ, thường xuyên [63], [71].
Nghiên cứu của tác giả Lê Hồng Minh (2012) cho thấy các tàu đã trang
bị cho ngư dân các trang thiết bị bảo hộ lao động (quần áo, găng tay, ủng, áo
cứu sinh, phao bơi). Nhưng số lượng trên thưc tế không đủ so với số thành
viên trên tàu. Tỷ lệ ngư dân mang quần áo bảo hộ, găng tay và ủng, áo cứu
sinh khi lao động chiếm tỷ lệ thấp (23,2%,43,6% và 50,3%,23,4%) [37].
Phỏng vấn ngư dân về kiến thức an toàn về sinh lao động thấy chỉ có
37,6% ngư dân được hướng dẫn an tồn vệ sinh lao động. Trong đó chủ yếu
là từ phương tiện truyền thơng (18,3%), cịn lại là từ nguồn khác như đồng
nghiệp, người thân… (9,3%). Số người được cán bộ kỹ thuật và cán bộ y tế
hướng dẫn chiếm tỷ lệ thấp (5,9% và 4,1%) [37].
Nguyễn Đình Khuê và cs. (2014) nghiên cứu trên 1003 ngư dân đánh
bắt hải sản xa bờ của thị xã Cửa Lò thấy: 38,6% ngư dân khơng được tập
huấn về an tồn lao động, 28,4% ngư dân khơng có bất kỳ một trang bị nào về
bảo hộ lao động, ngư dân không biết về phòng chống cháy, nổ chiếm 48,9%,


22


khơng biết phịng chống điện giật chiếm 61,1%, khơng biết phòng chống đuối
nước chiếm 39,7% [31].
Ngư dân nghề cá lặn độ lặn sâu trung bình 14,2 ± 6,5m, ngư dân nghề lặn,
lặn độ sâu trung bình 15,1 ± 5,7m. Thời gian lặn dài trang bị bảo hộ lặn cũ, kém
chất lượng nên dễ xảy ra sự cố chiếm tỉ lệ cao như đứt ống dẫn khí (86,9%), sặc
dầu máy trong khí thở (80,2%), gấp cuốn ống dẫn khí nén 76,3% [63].
Do khơng hiểu biết về an tồn vệ sinh lao động, nên ngư dân chỉ sử
dụng trang bị bảo hộ lao động khi tiếp xúc trực tiếp với các yếu tố bất lợi của
mơi trường. Cịn khi tiếp xúc gián tiếp, ngư dân không sử dụng trang bị bảo
hộ lao động. Đây là điều nguy hiểm vì các yếu tố nguy cơ của môi trường lao
động thường xuyên tác động đến ngư dân không chỉ phụ thuộc vào liều lượng,
mà còn phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc.
1.2.2.5. Đặc điểm tâm lý, sinh hoạt, dinh dưỡng thực phẩm trên tàu biển
Trong cuộc hành trình trên biển thuyền viên phải sống cách biệt với đời
sống xã hội thường ngày trên đất liền, xa cách gia đình, bạn bè, người thân.
Mọi sinh hoạt, lao động của ngư dân đều bị giới hạn trong khoảng không gian
chật hẹp của con tàu. Mặt khác, môi trường vi xã hội trên tàu biển là môi
trường khá đặc biệt, chỉ có một giới (xã hội đồng giới), tạo ra gánh nặng về
thần kinh tâm lý cho người lao động biển. Điều này làm cho người lao động bị
mất cân bằng về mặt tâm lý, cảm giác buồn chán, tù túng, không được thỏa
mãn những nhu cầu tình cảm khác giới, dễ phát sinh các bệnh rối loạn thần
kinh, tâm lý và các rối loạn hành vi tâm thần.
Ngày nay, việc cung cấp lương thực, thực phẩm, nước uống cho người đi
biển đã có tiến bộ. Nhưng việc bảo quản chất lượng các loại thực phẩm vẫn cịn
nhiều khó khăn, đặc biệt là việc bảo quản các thực phẩm phẩm tươi sống như rau
xanh, hoa quả, thịt… vì rau xanh dù được bảo quản trong hầm lạnh nhưng sau 57 ngày rau vẫn bị biến chất, mất dần các chất dinh dưỡng, nhất là các vitamin.
Hơn nữa, các tàu đánh cá của Việt Nam thường là các tàu nhỏ việc dự trữ thực


23


phẩm như rau xanh, hoa quả, thịt còn tiến hành thủ cơng và khơng có trang thiết
bị bảo quản, thiếu cả số lượng và chất lượng cần thiết.
Tại Thái Lan, tháng 4/2005, Doung-ngern P. và cs. (2007) đã báo cáo
một vụ dịch Beriberi ở các ngư dân đánh cá tại Maha Chai. Dịch Beriberi xuất
hiện trên một tàu với 15/28 thuyền viên (1/4 người Thái Lan, 14/24 người
Myanmar), chiếm tỷ lệ 53,6%. Tất cả các trường hợp đều là nam giới, trung
bình 28 tuổi (từ 20- 45 tuổi). Nguyên nhân là do các ngư dân khơng có nguồn
thực phẩm, chỉ ăn hải sản và gạo đánh bóng trong gần hai tháng và đã có 2
người chết (13%) trong vụ dịch Berberi trên [76].
Do nhiều khó khăn nên các bữa ăn trên tàu khai thác hải sản thường đơn
điệu, mất cân đối về dinh dưỡng, nhất là vitamin. Việc thiếu rau trong các bữa
ăn còn gây nên thiếu chất xơ. Do vậy, sẽ phát sinh các bệnh lý do thiếu xơ,
thiếu vitamin. Thực đơn trên tàu bị mất cân đối sẽ gây một loạt các rối loạn
chuyển hóa về glucid, lipid, protid sẽ làm tăng thêm nguy cơ phát sinh các bệnh
về tim mạch, huyết áp. Đối với người bị say sóng lại càng có nguy cơ thiếu
chất dinh dưỡng do nôn nhiều [21], [32], [37], [48].
Như vậy điều kiện lao động của ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ chứa
nhiều yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến sức khỏe ngư dân và biến đổi thất thường
gây khó khăn nhiều cho việc triển khai áp dụng các giải pháp can thiệp.
1.3. THỰC TRẠNG SỨC KHỎE BỆNH TẬT CỦA NGƯ DÂN ĐÁNH BẮT HẢI
SẢN XA BỜ QUA CÁC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Nghiên cứu sức khỏe ngư dân trên thế giới
Hiện nay công tác chăm sóc sức khoẻ cho thuyền viên, người đánh cá
và các công nhân lao động trong ngành công nghiệp biển khác (như cơng
nhân cảng, thợ lặn, cơng nhân đóng và sửa chữa tàu thuỷ) đã được quan tâm,
trên thế giới có nhiều các nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá đặc điểm
môi trường lao động, đặc điểm sức khỏe, các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến
sức khỏe và hiệu quả các biện pháp nâng cao sức khỏe ngư dân.



24

Roberts S. E. (2004) nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân tai nạn, bệnh
tật gây tử vong của ngư dân Vương quốc Anh từ 1976 – 1995 cho thấy tỉ lệ tử
vong của ngư dân cao gấp nhiều lần (52,4) so với các ngành khác nói chung,
cao gấp 12 lần ngành xây dựng, gấp 10 lần trong ngành công nghiệp điện,
nước[108]. Ngoài ra tác giả Rafnsson V. Và cs. (1993) nghiên cứu nguy cơ tử
vong trên 27.884 lao động biển (thuỷ thủ và ngư dân) Iceland trong thời gian
từ 1958- 1986 cho thấy nguy cơ gây tử vong cho lao động biển cao, ngay cả
khi họ thực hiện các hoạt động trên bờ. Qua đó cho thấy mức độ nguy hiểm
mà ngư dân phải đối mặt [104].
Nghiên cứu của Filikowski J. và cs. (1985) [78]; Filikowski J. và cs.
(1992) [79], cho thấy mơ hình sức khỏe bệnh tật của ngư dân ln có sự biến
đổi do sự tác động của khơng chỉ các yếu tố điều kiện lao động (lý-hóa-sinh
học và tâm lý xã hội). Khảo sát sức khỏe ngư dân trong các giai đoạn khác
nhau theo cùng một phương pháp tiến hành trên nhóm lớn, giai đoạn 1971 –
1973 trên 3000 người cho thấy rối loạn thần kinh chiếm 10,1%, tăng huyết áp
chiếm 4,6%, viêm loét dạ dày tá tràng chiếm 2,8%, nghiện rượu chiếm 1,7%.
Nghiên cứu tương tự trong các năm 1983-1985, 1990-1992 thấy có sự gia
tăng trên các nhóm bệnh thần kinh, tăng huyết áp, viêm loét dạ dày hành tá
tràng, sỏi tiết niệu. Nghiên cứu của Jaremin B. (2005) thấy rằng trong giai
đoạn 1960-1999, trong số 25.525 thuyền viên có 668 trường hợp tử vong trên
405 tàu của Ba Lan, trong đó 66% là do các tai nạn, thương tích (đuối nước,
mất tích và các tai nạn khác). Tỷ lệ tử vong là 1,17/1000 người, tỷ lệ tử vong
do tai nạn, thương tích cao gấp 5 lần so với tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch.
Các nhóm có nguy cơ tử vong cao là ngư dân, thuỷ thủ đi biển dài ngày,
thuyền viên làm việc trên boong tàu và lứa tuổi dưới 40 tuổi [87]. Szymańska
K. và cs. (2006) thấy từ năm 1960-1999 có 51 thuyền viên và ngư dân tự tử.

Tỉ lệ tự tử của ngư dân cao gấp nhiều lần tỉ lệ quần thể tham chiếu (nam giới
trong nước, do trong nghiên cứu không có nữ giới). Các yếu tố có liên quan


25

đến các vụ tự tử ở ngư dân là do ảnh hưởng của môi trường lao động nghề
nghiệp, trạng thái stress và yếu tố tâm lý của cá nhân và trong đó sử dụng
rượu và nghiện rượu cũng là nguyên nhân góp phần [113] .
Đánh giá ngun nhân và hồn cảnh của các trường hợp tử vong ở
người lao động trên biển từ 1976 đến 1995 Roberts S. E. (2002) thấy có 600
trường hợp tử vong do bệnh tật, 427 trường hợp (71%) là do bệnh tim mạch;
247/427 người (58%) đã bị ốm trên biển và 180/427 người (42%) bị ốm tại
cảng. Trên 60% số người chết vì bệnh tim mạch khởi phát khi đang lao động.
Có 55 trường hợp tử vong do bệnh hệ thống tiêu hóa (9%), chủ yếu là do xơ
gan, loét dạ dày (14 trường hợp) và viêm tụy cấp tính (7 trường hợp). Các tác
giả cho rằng thuyền viên luôn phải chịu nguy cơ rủi ro, đặc biệt là các bệnh
cấp tính nếu như khơng được chăm sóc y tế. Do vậy, cần phải cải thiện việc
sử dụng tư vấn y tế từ xa và đào tạo cho cán bộ y tế trên tàu. Ngoài ra, cần
phải tư vấn phòng ngừa các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch như hút thuốc,
béo phì và nghiện rượu [107].
Nghiên cứu tỷ lệ mắc và hoàn cảnh dẫn đến thương tích ở các ngư dân
Iceland giai đoạn 2001- 2005, Sigvaldason K. và cs (2010) đã cách thu thập
số liệu tại bệnh viện bao gồm trường hợp dẫn đến tai nạn, loại tàu, kinh
nghiệm, nhiệm vụ thực hiện và điều kiện thời tiết… Kết quả nghiên cứu cho
thấy có 17 vụ tai nạn chết người xảy ra trong giai đoạn 2001-2005, trong đó
có 14 vụ tai nạn xảy ra trên tàu, với tần suất 54/100.000 người/năm. Thu thập
được 1787 chấn thương được báo cáo (chiếm 7% các ngư dân đăng kí), 87%
các tai nạn xảy ra trên tàu, 51% khi tàu đang hành trình [111].
Lucas D. và cs (2010) nghiên cứu loạt ca bệnh (case series) cho thấy

thuyền viên và ngư dân có thể mắc hen khi tiếp xúc với các kháng nguyên từ
sinh vật biển. Nguyên nhân là do phản ứng quá mẫn cảm qua trung gian IgE
với các kháng nguyên từ cá và nhuyễn thể qua đường hô hấp [96] .


×