LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới
ThS. Cao Thị Hạnh, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực
hiện khóa luận.
Qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa Lý
luận chính trị, phòng Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế, Trung tâm thông tin Thư
viện trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu hoàn
thành khóa luận.
Xin gửi lời cảm ơn đến Đảng bộ, Ban văn hóa, Mặt trận tổ quốc và UBND
xã Mường Bằng - huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La, đã nhiệt tình cộng tác, tạo điều
kiện cho tôi có thể hoàn thành khóa luận. Tôi cũng xin cảm ơn tất cả bạn bè, người
thân đã luôn giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi nỗ lực hoàn thành khóa luận
nghiên cứu của mình.
Khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để khóa luận này được
hoàn thiện hơn.
Kính chúc quý thầy cô sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Cà Văn Loan
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UBND
: Ủy ban nhân dân
MTTQ
: Mặt trận tổ quốc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................5
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................6
6. Những đóng góp của đề tài ..........................................................................................6
7. Cấu trúc của đề tài .......................................................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CỦA VIỆC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA Ở XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA ........................7
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở ...................................................7
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng đời sống văn hóa trong thời kỳ đổi mới ...11
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................14
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ....................................................14
1.2.2. Thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mường Bằng, huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La trước năm 2000 ..................................................................................16
TIỂU KẾT CHƯƠNG I.................................................................................................20
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN
LA LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................................................21
2.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
.......................................................................................................................................21
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ..............21
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Mường bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ....22
2.2. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường Bằng,
huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2000 - 2014) ...................................................................23
2.2.1. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường
Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2000 - 2005) .........................................................23
2.2.2. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường
Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2006 - 2011) .........................................................31
2.2.3. Công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ xã Mường
Bằng, huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La (2011 - 2014) .........................................................39
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế và bài học kinh nghiệm .....................................48
2.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế.........................................................................48
2.3.2. Bài học kinh nghiệm ............................................................................................50
TIỂU KẾT CHƯƠNG II ...............................................................................................51
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ XÃ MƯỜNG
BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA .............................................................52
3.1. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ xã Mường Bằng,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ..........................................................................................52
3.1.1. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo ..................................................................52
3.1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo phong trào cấp xã và Ban vận
động bản ........................................................................................................................55
3.2. Nhóm giải pháp nhằm xây dựng đời sống văn hóa xã ở cơ sở xã Mường Bằng,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ..........................................................................................56
3.2.1. Giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, ý thức pháp luật, truyền thống dân tộc và
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” cho nhân
dân .................................................................................................................................56
3.2.2. Tăng cường xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách về xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở .....................................................................................................58
TIỂU KẾT CHƯƠNG III ..............................................................................................63
KẾT LUẬN ..................................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................67
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những vấn đề được Đảng và
Nhà nước hết sức quan tâm. Điều đó được thể hiện ở chủ trương có tính nhất quán của
Đảng ta là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Định hướng phát triển văn hóa của Đại hội X của Đảng nêu rõ: “Đẩy mạnh việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa làm cho đời sống văn hóa thấm sâu vào từng
khu dân cư, từng gia đình, từng người; đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại
chúng và môi trường văn hóa lành mạnh” [17, 213]. Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác
định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [18, 75-76].
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được coi là bước đi ban đầu của sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó là công việc xây dựng kêt cấu hạ tầng văn hóa, các thiết chế văn hóa
như: thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa… mục tiêu chính là giáo dục hoàn thiện nhân
cách và phát triển toàn diện con người. Giáo dục đạo lý “Mình vì mọi người, mọi
người vì mình”, ý thức lao động sáng tạo, phẩm chất đạo đức trong sáng, tình cảm lành
mạnh, giáo dục cách ứng xử văn hóa trong mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thời gian qua, phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa thực sự là sức cuốn hút mạnh mẽ, thấm sâu đến từng cơ sở
thật sự trở thành phong trào quần chúng rộng lớn, thực sự mang lại những thành quả
quan trọng, góp phần tạo dựng diện mạo mới trong đời sống ở cơ sở, đã đi từ phong
trào đến chiều sâu nhận thức trong sinh hoạt văn hóa, trách nhiệm của cộng đồng dân
cư và trong mỗi người dân. Nhiều danh hiệu văn hóa được tôn vinh như: Gia đình
văn hóa, Làng văn hóa, Khu dân cư văn hóa, Cơ quan văn hóa… gây nên ấn tượng
văn hóa tràn ngập khắp mọi nơi. Nhưng sự thẩm thấu những giá trị văn hóa ở những
con người cụ thể, lại không hẳn như vậy. Những thành viên của cộng đồng được tôn
vinh danh hiệu văn hóa đó khi bước ra cuộc sống xã hội dường như hành xử lại
không xứng đáng với danh hiệu đó. Chính vì vậy, mặc dù chúng ta đã có nhiều cộng
1
đồng đạt danh hiệu văn hóa nhưng chẳng vì thế mà các hiện tượng phản văn hóa giảm
đi mà có khi lại gia tăng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đưa ra nhận định: “Hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thông tin, thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa từng bước đi vào chiều sâu” [18, 155]. Tuy nhiên, cũng trong
lĩnh vực này: “Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý
văn hóa, văn nghệ, báo chí xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hóa bị xâm
hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm
và sự xâm nhập của các sẩn phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là
trong thanh thiếu niên, rất đáng lo ngại” [18, 169]. Những đánh giá trên đây về những
thành tựu, hạn chế của nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam thời gian qua
đã phản ánh đúng những gì đã và đang xảy ra tong lĩnh vưc này.
Xã Mường Bằng, tuy là một trong những xã vùng I của huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp, các thiết chế cho đời sống văn hóa
chưa nhiều nên mức hưởng thụ văn hóa nhìn chung còn thấp. Mặt bằng dân trí vẫn còn
thấp, không đồng đều, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Với 97,6%
[Số liệu thống kê năm 2010] dân số của xã là dân tộc thiểu số, trong quá trình phát
triển các dân tộc trong xã đoàn kết tạo dựng nên bản sắc văn hóa vừa đa dạng, vừa
mang đậm nét riêng của từng dân tộc. Do vậy, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” tại xã Mường Bằng vừa mang những nét chung của các phong
trào trên phạm vi cả nước, tỉnh Sơn La và huyện Mai Sơn, lại vừa mang những đặc
điểm riêng cần được nghiên cứu để có các giải pháp vận dụng phù hợp để xây dựng và
phát triển đời sống văn hóa ở địa phương góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở và thực tiễn triển khai tổ chức thực hiện phong trào ở cơ sở của Đảng bộ xã Mường
Bằng. Với mong muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc xây dựng
và phát triển đời sống văn hóa cơ sở của xã nhà, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ xã Mường
Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong
giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, công tác xây dựng đời sống văn hóa đã diễn ra được hơn nửa thế kỷ
(tính từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay). Định hướng chính trị của Đảng
cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có từ Đại hội III (1960),
IV (1976), nhưng phải đến Đại hội V (1982) mới hình thành rõ nét. Trong nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ V đã chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở bảo đảm ở
mỗi xã, phường, hợp tác xã, mỗi cơ quan, trường học, mỗi nhà máy, công trường, mỗi
đơn vị lực lượng vũ trang đều phải có đời sống văn hóa, phải chú ý xây chăm lo xây
dựng đời sống văn hóa nông thôn, đặc biệt chú ý đến nhiều vùng căn cứ cũ, vùng có
đồng bào dân tộc thiểu số.
Sang thời kỳ đổi mới, Nghị quyết Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991), Đại hội
VIII (1996), Đại hội IX (2001) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh cần phải tiến hành xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở xuyên suốt theo định hướng chỉ đạo chung đã từng
vạch ra cho công cuộc xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam định hướng xã hội
chủ nghĩa, vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Gần đây nhất Đại hội Đảng lần
thứ X (2006) lại tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển
văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người.
Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của
nhân dân. Đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành
mạnh” [24, 213].
Trên cơ sở những định hướng của Đảng, hoạt động nghiên cứu, xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở đã diễn ra sôi nổi, rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nó đã đem lại những mặt tích ban đầu và ngày càng đi vào chiều sâu, thu hút sự
quan tâm chú ý của nhiều học giả khoa học với các công trình nghiên cứu tiêu biểu
như: cuốn sách “Văn hóa và cách tiếp cận mới” (1999) của Phan Ngọc, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội; Cuốn sách “Văn hóa đổi mới” (1994) của Thủ Tướng Phạm Văn
Đồng nêu lên một số luận điểm về mối liên hệ giữa văn hóa và sự nghiệp đổi mới;
Giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” (1998) của Giáo sư Trần Quốc Vượng (Nxb.
Giáo dục, Hà Nội) đưa ra các khái niệm cơ bản về văn hóa học,văn hóa và môi trường
tự nhiên, văn hóa với môi trường xã hội,tiếp xúc và giao lưu văn hóa, cấu trúc, các
thiết chế và chức năng của văn hóa, diễn trình và không gian văn hóa Việt Nam; “Tìm
về bản sắc văn hóa Việt Nam” (1996) của PGS. TS Trần Ngọc Thêm đi tìm những nét
3
bản sắc - đó là những nét đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc tìm hiểu văn hóa Việt
Nam với quy luật hình thành và phát triển của chúng; “Văn hóa và văn minh” (1998)
của Hồ Sĩ Quý. Các công trình nghiên cứu và bài viết trên đã đưa ra những luận điểm
riêng, những cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau và có những cách định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Điều đó chứng tỏ rằng văn hóa đã và đang được tiếp cận và nghiên
cứu dưới nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng. Những tài liệu trên là nguồn tư
liệu mà tôi tham khảo để đưa ra quan niệm về văn hóa trong khóa luận của mình.
Có nhiều tác phẩm có liên quan đến công tác xây dựng đời sống văn hóa, trong
đó có tác phẩm “Đời sống mới” (1947) của Chủ Tịch Hồ Chí Minh dưới bút danh Tân
Sinh đưa ra khái niệm “Đời sống mới” bao gồm đời sống mới riêng cho từng người và
đời sống mới chung cho cộng đồng, tập thể như các gia đình, làng xã, nhà máy, trường
học, công sở… Về tinh thần, đời sống mới cần phải cần, kiệm, liêm, chính; nếu không
làm được như vậy, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Tác phẩm “Mấy
vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay” (1985) của Nguyễn Văn Huy đưa
ra khái niệm văn hóa và vai trò của nhân tố văn hóa như là mối quan hệ giữa con
người với thế giới bên ngoài, nó như lát cắt đi qua toàn bộ mối quan hệ phong phú và
phức tạp của con người với thế giới hiện thực, văn hóa là sự biểu hiện của phơng thức
của sự tồn tại người, là sự tổng thể mọi giá trị người; “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta” (1999) của GS. Hoàng Vinh đưa ra khái niệm
về đời sống văn hóa như là sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần
trong toàn bộ hoạt động thực tiễn…
Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cũng thu hút được nhiều tác giả chọn làm đề
tài nghiên cứu khoa học, luận văn tốt nghiệp, luận văn Thạc sĩ của mình như: năm
2004, TS. Nguyễn Xuân Hồng đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ với tên “Đổi
mới phương pháp xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
trong giai đoạn hiện nay”, mục đích chính của công trình nghiên cứu là nhằm đề xuất
những giải pháp mới khả thi, có tính khoa học, góp phần hoàn thiện, nâng cao chất
lượng công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn vùng Đồng bằng Sông
Cửu Long và những vùng khác có điều kiện tương tự; Đề tài “Thực trạng và giải pháp
xây dựng đời sống văn hóa cho thanh niên nông thôn huyện Chợ Mới tỉnh An Giang”
(2010) của tác giả Quách Thị Hồng; Đề tài “Đảng bộ huyện Quảng Xương (Thanh
Hóa) lãnh đạo tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn 2001 –
2010” (2012) của tác giả Bùi Thị Thu...
4
Nhìn chung các tác phẩm và các công trình nghiên cứu khoa học trên đã khẳng
định được tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, trong đó
có đời sống văn hóa, nêu bật được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thể
hiện bằng các đường lối, chính sách phát triển và sự vận dụng đường lối, chính sách đó
vào các địa phương cụ thể, nêu ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng
đời sống văn hóa phù hợp với từng địa phương. Do đó, việc xây dựng đời sống văn
hóa ở địa phương mang tính đặc thù bên cạnh những đường lối chỉ đạo chung của
Đảng, đó là một vấn đề rất rộng lớn và phong phú mà các tác giả còn chưa cập tới
nhiều nội dung, đặc biệt là chưa có công trình khoa học nào đi sâu vào việc nghiên cứu
quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở. Việc tìm hiểu đời sống văn hóa ở các địa phương mới được
triển khai bước đầu và đạt được kết quả còn khiêm tốn so với giá trị vốn có của văn
hóa và khả năng thực hiện của nhân dân.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả là cơ sở để tôi định hướng và xác định mục
tiêu nghiên cứu phù hợp cho khóa luận tốt nhgiệp của mình.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
- Góp phần tổng kết các kết quả hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
trên địa bàn xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Làm rõ vai trò của Đảng Bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đối
với công tác lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp khả thi từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong quá trình
địa phương triển khai tổ chức thực hiện cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”, nhằm góp phần nâng cao công tác lãnh đạo xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở hiện nay tại xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hoá cơ sở.
- Khảo sát quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; tổng kết thực trạng, những thành tựu và
hạn chế khó khăn trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
5
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở.
Phạm vi nghiên cứu
- Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
- Quá trình Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo các
cơ sở bản, cụm bản, các khối cơ quan ban nghành đoàn thể, trường học, trạm y tế…
xây dựng đời sống văn hóa ở các cấp độ và phạm vi khác nhau trong giai đoạn từ năm
2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Đề tài nghiên cứu còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, lịch sử, so sánh… Cùng với đó là kế thừa những
kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan trên cơ sở chọn lọc và nâng cao.
6. Những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Góp phần cung cấp các thông tin về phương diện hoạt động của đời sống văn
hóa; nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
trên địa bàn xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên trường Đại
học Tây Bắc và những ai quan tâm đến vực xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm có
ba chương:
Chương 1. Cơ sở của việc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mường
Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Chương 2. Đảng bộ xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La lãnh đạo xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ CỦA VIỆC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở
XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở
Khái niệm văn hóa
Ai đó đã từng nói rằng: “Mất nước còn có thể sáng tạo ra Đất nước nhưng mất
văn hóa là mất tất cả” điều đó cho thấy rằng văn hóa hóa có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với vận mệnh của con người. Cho tới nay, khái niệm văn hóa có rất nhiều
cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nghĩa là việc xác
định khái niệm khái niệm văn hóa là không hề đơn giản vì mỗi tác giả đều xuất phát từ
những nguồn cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề nghiên
cứu của mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã
hội loài người đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ
bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa đó, theo nghĩa rộng, văn
hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất là năng lực
sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Theo nghĩa
hẹp, văn hóa chủ yếu được hiểu với ý nghĩa là văn hóa tinh thần. Văn hóa tinh thần là
tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và
hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá
trình lịch sử của mình. Văn hóa biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ
lịch sử nhất định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, khoa học, pháp
luật, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” [3, 431].
7
Người còn ghi thêm: “Năm điều lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế” [3, tr.431].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần
và phương thức sử dụng chúng do loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc là phát triển
tất cả các mặt của đời sống: từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý, tư tưởng…
theo hướng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất giữa các quan niệm trên là đều xem lao động sáng tạo là cội
nguồn của văn hóa và chính văv hóa đã đem lại cho con người khả năng suy xét về bản
thân, làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc,
có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng
vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ.
Từ đó ta có thể khái quát lại như sau: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động (bao gồm cả lao động
chân tay và lao động trí óc) bị chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách của
từng tộc người. Văn hóa là nền tảng chi phối hành vi ứng xử của con người với thế
giới xung quanh, được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực của ời sốg xã hội. Văn hóa
là những giá trị có tính ổn định tương đối, có cái trường tồn khá lâu trong lịch sử
nhưng cũng có cái thay đổi hết sức nhanh chóng. Văn hóa giúp con người tự hoàn thiện,
khắc họa bản sắc tính cách riêng của một cộng đồng, có tầm quan trọng to lớn và ý
nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh con người. Chính vì vậy, văn hóa giúp cho xã
hội duy trì trạng thái cân bằng động, là nội lực thúc đẩy cho sự phát triển toàn xã hội.
Khái niệm đời sống văn hóa ở cơ sở
Từ khái niệm văn hóa trên ta thấy cần phải xây dựng đời sống văn hóa ở tất cả các
cơ sở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội hay nói cách khác chính là xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở. Tuy nhiên, đời sống văn hóa cơ sở là khái niệm mang tính phổ
quát và cần có sự thống nhất về cách hiểu để có thể vận dụng đúng và phù hợp.
8
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã làm rõ khái niệm “Đời sống văn hóa” trong cuốn
sách “Đời sống mới” (3/1947). Thực chất đời sống văn hóa là “đời sống mới” với ba
nội dung: đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. Ba nội dung có quan hệ mật thiết
với nhau, trong đó đạo đức mới giữ vai trò chủ yếu. Đạo đức mới là thực hành đạo đức
cần, kiệm, liêm, chính. Người cũng nhiều lần khẳng định: “Nếu không giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân…” [23, 104/110].
Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa
giữa truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Nếp sống mới là nếp sống
văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần trở thành thói quen, kế thừa và phát
triển thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Theo người, đời sống mới không phải
cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ,
cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát
triển thêm. Cái gì mới thì phải làm, phải bổ sung. Người cũng chỉ rõ xây dựng đời
sống mới phải bắt đầu từ việc sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông trong đời
sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm
việc của mỗi người, mỗ gia đình có như vậy, xây dựng đời sống mới mới thực sự phổ
biến trong toàn xã hội. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những khó khăn, phức
tạp khi xây dựng cái mới phải đấu tranh với sức ỳ của cái xấu. Khi những thói xấu đã
trở thành nếp thì việc xóa bỏ nó không hề dễ dàng, ngay một lúc khó có thể làm được,
mà phải kiên trì, thường xuyên xây dựng để tạo ra nếp sống mới.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đời sống văn hóa bao gồm toàn bộ các hoạt động
xây dựng đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới của cá nhân và cộng đồng nhằm
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và phát triển của con người trong điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định.
Trong cuốn “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở
nước ta” (1999), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội của GS. Hoàng Vinh viết: “Đời
sống văn hóa là sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần trong toàn bộ
hoạt động thực tiễn xã hội. Đời sống văn hóa với mọi sản phẩm vật chất và tinh thần,
với mọi hoạt động của con người thuộc mọi lĩnh vực của xã hội. Đời sống văn hóa bao
gồm một tổng thể các hoạt động văn hóa, những tác động qua lại trong đời sống của
mỗi cá nhân với cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu của con người và thúc đẩy sự phát
triển của đời sống xã hội” [20, 65].
9
Từ đó cho thấy rằng, nhu cầu văn hoá thể hiện phương diện chất lượng hoạt
động sống của con người nhằm hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp trong cả lĩnh vực
hoạt động vật chất và tinh thần. Còn hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động
xã hội nhằm tạo ra các thành tựu văn hóa, vừa thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, vừa
hướng con người tới các giá trị của cái đúng, cái tốt đẹp thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Hoạt động văn hóa bao gồm quá trình sáng tạo, sản xuất, bảo quản, phổ biến và
tiêu dùng các sản phẩm văn hóa.
Các sản phẩm văn hóa bao gồm có: sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể.
Trong đó, sản phẩm văn hóa vật thể là loại sản phẩm văn hóa hữu hình dưới dạng vật
thể như các công trình kiến trúc, các tác phẩm văn chương, danh lam thắng cảnh, cổ
vật và bảo vật… Các sản phẩm văn hóa phi vật thể là loại sản phẩm văn hóa không
hiện hữu một cách cố định, tồn tại dưới dạng các quan niệm về giá trị và chuẩn mực xã
hội, được ghi nhận và lưu truyền trong ký ức của xã hội. Đó là các huyền thoại, truyền
thuyết, không gian văn hóa, lễ hội, diễn xướng dân gian, tinh thần dân tộc và các giá
trị đạo đức, thẩm mỹ… Sự tồn tại kết hợp hai loại sản phẩm văn hóa trên tạo ra môi
trường văn hóa tinh thần liên kết sức mạnh của các nhóm xã hội và các thế hệ tạo nên
sức sống của một dân tộc, một đất nước góp phần hình thành, phát triển và hoàn thiện
nhân cách con người. Các sản phẩm văn hóa tác động đến cộng đồng thông qua các
thiết chế văn hóa - xã hội như gia đình, trường học, thư viện, trung tâm văn hóa… Đây
là “cốt vật chất” để tổ chức và truyền tải các giá trị văn hóa tới cộng đồng.
Tóm lại, đời sống văn hóa là tất cả nội dung, cách thức và hình thức hoạt động
văn hóa nhằm đáp nhu cầu hưởng thụ và phát triển của con người trong điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định. Đó cũng chính là quá trình hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn
hóa vì sự phát triển của con người và cộng đồng.
Từ khái niệm đời sống văn hóa ta có thể kết luận rằng: đời sống văn hóa cơ sở
là đời sống văn hóa diễn ra ở cơ sở như cộng đồng, gia đình, làng bản, trường học,
các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp ở cơ sở… Đó là các hoạt động văn hóa gắn
liền vật chất và tinh thần của cá nhân, cộng đồng trong các mối liên kết thường xuyên
và trực tiếp với không gian địa lý nhất định cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
và các thiết chế văn hóa nhất định. Các cộng đồng dân cư sống cố định hình thành nên
các tổ chức hành chính (xã, phường, thị trấn, trường học, bệnh viện…) hay các cộng
đồng nhỏ hơn (bản, tổ dân phố, tiểu khu…) đều có thể được gọi là các đơn vị văn hóa
cơ sở.
10
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng đời sống văn hóa trong thời kỳ đổi mới
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn coi trọng việc xây
dựng nền văn hóa dân tộc, xây dựng đạo đức mới, nếp sống mới, lối sống mới tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau Đại hội VI năm 1986, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện từ kinh tế, chính
trị, ngoại giao,văn hóa… Trong đó, đổi mới về văn hóa là một vấn đề rất quan trọng.
Cụ thể, trong nghị quyết của Đại hội VI, Đảng ta chủ trương: “…xây dựng nền nếp
sống và làm việc theo pháp luật, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của
nhà nước và sinh hoạt xã hội; nêu cao tính tự giác, ý thức tôn trọng của mỗi người kết
hợp với các biện pháp giáo dục và hành chính của các tổ chức xã hội và các cơ quan
nhà nước. Sự quan tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một
tiêu chuẩn đạo đứctrong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội nhất là trong các dịch
vụ phục vụ đông đảo nhân dân” [12, 88-89]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng (1996) đánh dấu bước phát triển trong tư duy của Đảng về văn hóa, vai trò
của văn hóa và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng lối sống, nếp sống văn hóa lành mạnh. Trong nghị quyết của Đại hội VIII, Đảng
ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh cho sự phát triển của xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo
đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc” [14, 110-111]. Đặc biệt,
Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) năm 1998 về “Đẩy mạnh phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hoá đất nước nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa với tư cách là một trong bốn nhóm giải
pháp lớn được đề ra trong Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) nhằm xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hội nghị xác định
phương hướng xây dựng và phát triển văn hoá là: “phát huy chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
11
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo
ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển,
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [15, 5455]. Trong đó, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tạo ra ở
các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp,
nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị, nông
thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa
dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân... Phát triển và không ngừng
nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một
số công trình văn hoá trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức
văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn
hóa, nghệ thuật” [15, 59-60].
Trên cơ sở quan tâm sâu sắc đến vấn đề đời sống văn hóa và xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa VIII chủ trương xây
dựng một xã hội: "Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái" [15, 58-59].
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX Đảng ta nhấn mạnh những nhiệm vụ trọng
tâm cần thực hiện trong giai đoạn này:
Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ
chức cơ sở… Cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách,
vừa cơ bản, lâu dài. Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh
đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, lối sống cho phù hợp với từng đối
tượng cụ thể. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam
theo năm đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Chú trọng
12
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa
đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân dân đi đôi với nhiệm vụ
bồi dưỡng các tài năng văn hóa, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công
trình văn hóa - nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng - nghệ thuật, tương xứng
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc đổi mới.
Những nhiệm vụ trên đây phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và phải
được cụ thể hoá ở từng giai đoạn, từng địa phương.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng
và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội” [17, 106]. Đại hội nhấn mạnh đến ba lĩnh vực quan trọng cần
phải tập trung chỉ đạo, đó là:
Xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở.
Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong
việc tổ chức và xây dựng đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Phát huy tiềm năng, khuyến khích các sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra
những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Đây là một trong những
nhiệm vụ trung tâm nhằm tạo ra những tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu, phản
ánh sức sáng tạo của nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng.
Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng các công
trình văn hóa lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa,
bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện,...
Đây là những tư tưởng cơ bản, cốt lõi có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược cho quá
trình xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói
chung trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Tiếp tục kế thừa và phát triển những quan của các kỳ Đại hội trước đó, gần đây
nhất, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng xác định nền văn hóa ở
nước ta là: “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho
văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
13
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[18, 75]. “Kế thừa và
phát huy những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ nhận thức, đạo đức, thể lực
và thẩm mĩ ngày càng cao”[18, tr.76]. Quan điểm trên của Đảng thể hiện sự nhất quán
của Đảng trong nhìn nhận đánh giá, chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với
chiến lược xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội tiếp tục
khẳng định củng cố và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đưa phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả.
Từ sự phân tích trên có thể thấy, vấn đề văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến từ rất sớm và coi việc
phát triển văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu, là động lực lớn cho thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
đặc biệt là trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng và toàn toàn dân ta
đang xây dựng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Đời sống văn hoá ở cơ sở là một bộ phận cấu thành có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống xã hội nói chung. Vì nó góp phần thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá
nhân, gia đình và cộng đồng. Việc đánh giá những thành quả của đất nước qua mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử không chỉ bằng thước đo về điều kiện vật chất, mức
sống, mức thu nhập mà còn thể hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần, sự
tiến bộ về nếp sống, lối sống, sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của người dân. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở nhằm xoá bỏ sự chênh
lệch về mức sống, mức hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi
và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Tạo sự công bằng xã hội mà
ngay từ Đại hội V, Đảng ta đã đặt ra và trở thành định hướng chung cho toàn ngành
văn hoá thông tin phấn đấu thực hiện mà thành tựu của nó ngày nay đã chứng minh
cho điều đó.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ
khi có Đảng lãnh đạo thì văn hoá luôn luôn chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Điều
đó được thể hiện rõ qua các thời kỳ cách mạng cụ thể:
14
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc thì “Văn hoá nghệ thuật cũng
là một mặt trận”. Xây dựng nền văn hoá không thể không bắt đầu từ nơi văn hoá đã
ngấm sâu, đã có cội rễ bền chắc như các cơ sở xã, phường, thị trấn và các cơ sở khác.
Xây dựng đời sống văn hoá cũng có nghĩa là xây dựng con người, bởi thế phải bắt đầu
từ những con người cụ thể với địa chỉ cụ thể. Việc xây dựng đời sống văn hoá có ý
nghĩa như bước đi ban đầu của toàn bộ sự nghiệp văn hoá và phải do chính nhân dân
xây dựng. Nhân dân phải là chủ thể sáng tạo văn hoá chứ không phải chỉ là người tiêu
dùng văn hoá. Nhận thức đúng đắn vấn đề này có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức chỉ
đạo mọi hoạt động văn hoá ở cơ sở.
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là xây dựng văn hoá ngay từ trong gia đình
và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng nghề nghiệp diễn ra sinh hoạt văn hoá thường
nhật của quần chúng nhân dân, có mối quan hệ hữu cơ với kinh tế, chính trị. Đại hội lần
thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một
trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ
trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở cũng là một động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội ở cơ sở. Muốn xoá đói giảm nghèo mà không có trình độ hiểu biết,
trình độ văn hoá thì khó có thể thực hiện được. Muốn có môi trường xã hội lành mạnh
phải xây dựng con người lành mạnh. Phương châm lấy xây dựng đời sống văn hoá để
phòng, chống tệ nạn xã hội vẫn là phương châm đúng đắn và có hiệu quả cao. Mặt
khác việc xoá đói giảm nghèo, việc xây dựng điện, đường, trường, trạm… ở các cơ sở
lại là điều kiện tốt cho việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
Ở một phương diện khác, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là cuộc đấu tranh
gay gắt trên mặt trận tư tưởng văn hoá. Đó là cuộc đấu tranh nhằm khẳng định các giá
trị dân chủ, nhân văn và tiến bộ của văn hoá; giáo dục nếp sống đạo đức và phong cách
ứng xử có văn hoá cho mọi người; phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với việc mở rộng
giao lưu văn hoá nước ngoài; vừa giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu
chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới.
Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực và hiệu quả trực
tiếp vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động, có ảnh
hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Cụ thể nó tác động trực tiếp tới việc hình thành
15
nhận thức đúng đắn trong nhân dân về chính trị, kinh tế được giải phóng về nhân cách
và lối sống. Tạo ra một sự liên hợp giữa cá nhân và cộng đồng, bảo vệ văn hóa dân
tộc, quyết tâm đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dù phải hy sinh đến cuộc
sống của mỗi người.
1.2.2. Thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở xã Mường Bằng, huyện
Mai Sơn, tỉnh Sơn La trước năm 2000
Thành tựu
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998, Đảng ta đưa ra
nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa với tư cách là một trong bốn nhóm giải pháp lớn
được đề ra trong nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) nhằm xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện nghị quyết trên của
Đảng, Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta được chú trọng phát triển. Bước
đầu triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên
phạm vi toàn quốc. Hưởng ứng kế hoạch trên, ở nước ta xuất hiện nhiều phong trào
vận động khác nhau của nhiều nghành, nhiều giới hướng về xây dựng văn hóa ở cơ sở.
Hòa chung với các phong trào trên cả nước để thực hiện chủ trương của Đảng về xây
dựng đời sống văn hóa, Tỉnh ủy tỉnh Sơn La đã ban hành nhiều chương trình, đề án, dự
án quan trọng để chỉ đạo thực hiện phong trào như: Chương trình hành động số 04
CTr/TU về đẩy mạnh phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên
địa bàn tỉnh Sơn La, Tỉnh ủy cũng ban hành nhiều chỉ thị như: Chỉ thị 11/CT – TU về
“Đẩy mạnh thực hiện đề án xây dựng thiết chế văn hóa, thông tin, thể thao đồng bộ ở
cơ sở”; Chỉ thị số 06, 08 và Chỉ thị 19/CT – TU về thực hiện nếp sống văn hóa trong
việc cưới, việc tang, lễ hội... triển khai tới các ban nghành đoàn thể và tới cá địa
phương cụ thể. Huyện ủy Mai Sơn, tiếp thu triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị và
các chương trình hành động của Tỉnh ủy Sơn La thông qua các chương trình hành động,
phong trào thi đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hóa để vận động quần
chúng nhân dân thực hiện; cụ thể hóa thành lực lượng vật chất, thành phong trào cách
mạng; tạo ra những kết quả cụ thể nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Là một trong những xã trọng điểm của huyện Mai Sơn về thực hiện cuộc vận
động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Từ
16
năm 1998 đến trước những năm 2000, Đảng bộ xã Mường Bằng bắt đầu thực hiện
phong trào hết sức khó khăn do điều kiện kinh tế - xã hội thời bấy giờ quy định. Ban
đầu gắn với các chương trình như: làm đường giao thông, vệ sinh đường làng ngõ
xóm; phát quang bụi rậm; tổ chức ra các đội văn nghệ trong các bản và thường xuyên
giao lưu với nhau... đến năm 2000 trong toàn xã có 50% số bản có đường ô tô đến
trung tâm, có 12 đội văn nghệ quần chúng. Tiêu biểu như các đội bản Bằng, bản Bó,
bản Liềng, bản Mé... góp phần thực hiện có hiệu quả cuộc vận động.
Tuy còn khiêm tốn nhưng trong giai đoạn 1998 - 2000, phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư” đã từng bước đi vào khu dân cư,
bước đầu hình thành cho người dân ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, có lối
sống văn minh... đồng thời tạo điều kiện để thực hiện các phong trào khác như “Gia
đình văn hóa”, “Gia đình hiếu học”... Năm 1998 toàn xã có 80 hộ đạt danh hiệu Gia
đình văn hóa thì đến năm 2000 toàn xã có 167 hộ. Phong trào xây dựng Gia đình văn
hóa góp phần nâng cao vị trí, vai trò của gia đình trong xây dựng đời sống văn hóa,
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần cho người dân.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về chiến lược con người trong
thời kỳ đổi mới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Sự nghiệp
giáo dục của địa phương cũng có bước phát triển tích cực. Số học sinh đến trường tăng
7,3% so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ chuyển lớp, chuyển cấp đạt từ 90 - 96%. Chất
lượng dạy và học tiếp tục được đổi mới, nâng cao. Quan hệ giữa nhà trường và địa
phương trong việc vận động con em trong độ tuổi đến trường được triển khai hiệu quả,
đạt tỉ lệ trung bình cứ 3 người dân có 1 người đến lớp học. Năm 1998, xã Mường Bằng
được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ.
Đại hội Đảng bộ huyện Mai Sơn lần thứ XV (1996) xác định: “Quyết tâm giữ
vững ổn định chính trị, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp
hóa nông thôn, nâng cao đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, huyện mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVI (nhiệm kỳ 1995 - 2000), các phong
trào thi đua thi đua trên lĩnh vực kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức như: Phong
trào làm kinh tế giỏi từ vườn rừng, vườn đồi; chăn nuôi kết hợp với trồng cây ăn quả,
tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 2000 đạt 3.500 tấn... nhiều hộ gia đình thoát
nghèo vươn lên làm giàu, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao. Kinh tế khởi
sắc tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội.
17
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác lãnh đạo tổ chức, xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở ở xã Mường Bằng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định:
Đội ngũ cán bộ đảng viên tham gia vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự
bám sát vào Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy và Huyện ủy. Cấp ủy Đảng, chính
quyền chưa nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới, nên
chưa thật sự thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Chưa chú trọng việc sơ kết,
tổng kết thực hiện nghị quyết; việc kiểm tra, giám sát của các cấp ủy thực hiện Nghị
quyết chưa thường xuyên, liên tục.
Nhiều chương trình lên kế hoạch hoạt động nhưng không tổ chức được, những
chương trình được tổ chức thì kém hiệu quả... chưa lôi kéo, tác động đến toàn bộ dân
chúng tham gia vào cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư”. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động văn hóa thể thao và du lịch còn
thiếu thốn. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
còn nhiều hạn chế, chưa hình thành được chi hội văn học, nghệ thuật, chưa quy tụ
được đội ngũ văn nghệ sĩ trong địa bàn và chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
sáng tạo, sáng tác.
Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo tinh thần
Chỉ thị 27 - CT/TW của Trung ương có mặt còn hạn chế, đồng bào vùng cao còn chưa
cho người chết vào áo quan, gây dư luận xấu trong nhân dân.
Hệ thống thiết chế phục vụ cho hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch từ huyện
đến cơ sở nhất là ở vùng đồng bào dân tộc và các xã còn khó khăn, bất cập. Đầu tư
nguồn lực cho phát triển văn hóa chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế, kinh phí
bố trí cho sự nghiệp phát triển văn hóa – xã hội chưa bảo đảm theo quy định.
Công tác quản lí về văn hóa có mặt chưa chặt chẽ, chưa tiến hành thường
xuyên và đồng bộ trên cơ sở. Các văn hóa phẩm độc hại, các tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chặn triệt để. Đội ngũ cán bộ làm văn hóa trên địa bàn nhìn chung chưa được
chuẩn hóa về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, chưa làm tốt công tác tham mưu.
Đời sống văn hóa còn nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được khắc phục có hiệu quả, khoảng cách chênh
18
lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng xã hội tiếp tục gia tăng... chưa thể đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa trong nhân dân.
Nguyên nhân của tình trạng trên, đó là:
Nguyên nhân cơ bản nhất chính là do điều kiện kinh tế - xã hội trong giai đoạn
này còn hết sức khó khăn. Đó là tình trạng chung khi mà nước ta vừa thoát khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế và bước vào tiến hành công ngiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do
vậy, nguồn kinh phí cho phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
còn ít và chưa được quan tâm.
Một số nội dung, tiêu chuẩn của phong trào chưa rõ ràng, phù hợp.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm, không có năng lực.
Trình độ dân trí thấp, việc xóa bỏ những hủ tục đã ăn sâu vào trong tiềm thức
của người dân là hết sức khó khăn.
Từ đó có thể rút ra bài học kinh nghiệm sau:
Trước hết cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp phải nắm
vững, quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc để đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp cụ thể.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp ủy, chính quyền phải bám sát vào
chương trình, kế hoạch đã đề ra; thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm, chỉ đạo nhân dân phát huy tính chủ động, sáng tạo phát huy bản sắc văn
hóa tốt đẹp của từng dân tộc; đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, phát huy những phong tục
tập quán tiến bộ, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu; làm tốt công tác khen thưởng, động viên
kịp thời và thực chất các tập thể, cá nhân điển hình, tiên tiến.
Phải phát động được phong trào hành động cách mạng của quần chúng; không
ngừng mở rộng dân chủ. Các phong trào phải thiết thực, đem lại lợi ích cho quần
chúng nhân dân.
Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp phải thật sự nêu gương trong việc xây dựng và thực hiện đời sống văn hóa
(nhất là trong việc cưới, việc tang, giáo dục, quản lý con cháu không vi phạm pháp
luật). Coi trọng việc tuyên truyền nêu gương người tốt, việc tốt; thực hiện phương
châm: “Lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “Lấy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực”.
Gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
19
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Xã Mường Bằng là mảnh đất có ba dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó
hầu hết là bà con dân tộc thiểu số với những phong tục tập quán đa dạng, phong phú;
trình độ dân trí thấp, mức hương thụ văn hóa so với mặt bằng chung còn thấp. Nhiều
tập quán, lối sống lạc hậu đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân không dễ
gì phá bỏ. Chính vì vây, việc lãnh đạo tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa ở xã
Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xuất phát từ nhiều cơ sở khác nhau bao
gồm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. Do đó, trong quá trình lãnh đạo tổ chức, xây
dựng đời sống văn hóa của xã nhà cần xem xét, tìm hiểu kỹ càng đồng thời xuất phát
từ những cơ sở trên để thực sự hiệu quả và lâu dài.
Trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn coi trọng nền văn hóa dân tộc,
đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hóa trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Vì vậy, bên cạnh những điều kiện mang tính đặc thù của địa phương xã
Mường Bằng phải tiếp thu những quan điểm chỉ đạo của Trung ương của tỉnh Sơn La
và của huyện Mai Sơn về công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, góp phần vào
sự nghiệp phát triển đất nước trong giai đoạn cách mạng mới,
20
CHƯƠNG 2
ĐẢNG BỘ XÃ MƯỜNG BẰNG, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của xã Mường Bằng, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Mường Bằng nằm ở phía Tây Bắc của huyện Mai sơn, tỉnh Sơn La. Phía Bắc
giáp xã Mường Bú (huyện Mường La); phía Nam giáp xã Mường Bon, xã Chiềng
Mung; phía Tây giáp xã Chiềng Ngần (thành phố Sơn La); phía Đông giáp xã
Chiềng Sung.
Xã Mường Bằng có đặc điểm địa hình và khí hậu khá đa dạng. Nằm ở độ cao
trung bình là 750m so với mực nước biển, địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần
theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam, dạng địa hình chủ yếu của vùng là các cánh
đồng trải dài nằm xen kẽ với các ngọn đồi thấp sườn thoải thích hợp canh tác sản xuất
nông nghiệp kết hợp với lâm nghiệp tạo ra thế mạnh riêng xã Mường Bằng, các cánh
đồng ở Mường Bằng cũng rất đa dạng phân thành 2 vùng rõ rệt: Vùng Mường Bằng I
(gồm 13 bản) chủ yếu là cánh đồng thoải thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam,
đất màu mỡ có các con suối chảy qua nên rất thuận lợi cho việc canh tác sản xuất lúa
nước 2 vụ và hình thành nên các cánh đồng ruộng bậc thang ở tầm thấp đạt năng suất,
chất lượng cao đảm bảo nhu cầu về lương thực của vùng, ở trên đồi chủ yếu là đất
Feralit, đất phù sa cổ và đất mùn núi cao nên thích hợp trồng rừng, các loại cây công
nghiệp lâu năm như cà phê... đem lại giá trị kinh tế cao, tuy nhiên địa hình của vùng
Mường Bằng I cũng có nhiều khó khăn, đó là địa hình bị chia cắt, giao thông đi lại khó
khăn, nguy cơ lũ lụt vào mùa mưa... ; Vùng Mường Bằng II (gồm 13 bản) chủ yếu là
các cánh đồng rộng bằng phẳng không có các con suối chảy qua nên vào mùa khô
thường thiếu nước, nhưng mùa mưa lại dễ bị ngập úng do đó thích hợp trồng các loại
cây công nghiệp hàng năm như ngô, mía, sắn, các loại cây họ đậu... đem lại hiệu quả
kinh tế cao, do địa không bị chia cắt nên giao thông đi lại thuận tiện hơn, thuận lợi cho
việc xây dựng các khu chế biến, sân bãi sơ chế nông sản trong vùng và trong toàn tỉnh
Sơn La, đặc biệt dự án Khu công nghiệp Mường Bằng đang thi công xây dựng trên địa
bàn dự kiến sau khi hoàn thành có thể giải quyết được 6 nghìn việc làm cho lao động
21