Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phân tích tác động của một số biện pháp và chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong những năm gần đây nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.71 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

II.

Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu

III.

Phạm vi nghiên cứu

IV.

Nguồn tài liệu tham khảo

V.

Phương pháp nghiên cứu

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.
2.
3.
4.

Thâm hụt ngân sách nhà nước
Nguyên nhân dẫn tới thâm hụt ngân sách nhà nước


Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước tới nền kinh tế
Các chính sách và biện pháp nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG
CHƯƠNG III: CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG
I.

II.

Các chính sách
a. Chính sách tài khóa cùng chiều
b. Chính sách tài khóa ngược chiều
Các biện pháp áp dụng chính sách
1. Phát hành tiền
2. Vay nợ
3. Tài trợ thâm hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuế
4. Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách
5. Dự trữ ngoại hối

C. KẾT LUẬN

A.

PHẦN MỞ ĐẦU
1


I.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:


Như chúng ta điều biết, thâm hụt ngân sách là một vấn đề mà mọi quốc
gia trên thế giới đều gặp phải. Ngay cả một cường quốc như Mỹ cũng phải
đau đầu và vật lộn với vấn đề này, và tất nhiên Việt Nam cũng không ngoại
lệ. Việc xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó
không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự
phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu
đang biến động, việc tìm ra giải pháp để điều chỉnh thâm hụt ngân sách ở các
quốc gia trên thế giới nói chung và ở tại Việt Nam nói riêng là hết sức cấp
bách và cần thiết. Ở nước ta, mức độ thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng
và ngày càng tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân cũng như tới toàn bộ
nền kinh tế. Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân
sách diễn ra ở Việt Nam trong các năm qua như thế nào? Giải pháp nào để xử
lý thâm hụt NSNN, ổn định kinh tế vĩ mô? Bài tiểu luận này với đề tài “ Phân
tích tác động của một số biện pháp và chính sách cụ thể mà chính phủ Việt
Nam đã thực hiện trong những năm gần đây nhằm bù đắp thâm hụt ngân
sách” sẽ đưa chúng ta đến câu trả lời.
Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu
Thâm hụt ngân sách và thực trạng thâm hụt ngân sách của nước ta trong
những năm qua.
Các biện pháp và chính sách mà chính phủ Việt Nam thực hiện nhằm bù đắp
thâm hụt ngân sách.
Kết luận về vấn đề nghiên cứu.
III.
Phạm vi nghiên cứu
Ngân sách nhà nước Việt Nam.
IV.
Nguồn tài liệu tham khảo
Tổng cục thống kê.
Giáo trình “Kinh tế học vĩ mô” nhà xuất bản giáo dục.

V.
Phương pháp nghiên cứu
Xác định vấn đề nghiên cứu.
Tìm hiểu các khái niệm, các lý thuyết liên quan.
Thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu dựa trên cơ sở lý thuyết đã học.
II.

-

-

B. NỘI DUNG
2


CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

Thâm hụt ngân sách nhà nước.

Ngân sách nhà nước là tổng các kế hoạch chi tiêu và thu nhập hằng năm của
chính phủ, bao gồm các khoản thu ( chủ yếu từ thuế) , các khoản chi ngân sách.
Thâm hụt ngân sách : tình trạng các khoản chi của ngân sách nhà nước (ngân
sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân
sách.
Ta ký hiệu: T: Thu ngân sách nhà nước
G: Chi tiêu của chính phủ
B: Hiệu số giữa thu và chi ngân sách nhà nước
B =T – G
B>0 : thặng dư ngân sách.

B=0 : cân bằng ngân sách.
B<0 : thâm hụt ngân sách.
*Các loại thâm hụt ngân sách
+ Thâm hụt ngân sách thực tế : là thâm hụt khi số chi thực tế vượt số thu
thực tế trong 1 thời kì nhất định.
+ Thâm hụt ngân sách cơ cấu: là thâm hụt tính toán trong trường hợp nếu
nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
+ Thâm hụt ngân sách chu kì: là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng
của chu kì kinh doanh.



2.

Thâm hụt ngân sách chu kì bằng hiệu số giữa thâm hụt ngân sách thực tế và
thâm hụt cơ cấu.
Để đánh giá kết quả của chính sách tài khoá phải sử dụng thâm hụt cơ cấu vì
thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ quan của chính sách tài khoá
như thuế suất phúc lợi, bảo hiểm.
Nguyên nhân dẫn tới thâm hụt ngân sách.
3


Thâm hụt ngân sách không phải là ý muốn của bất kỳ chính phủ nào,mà
ngược lại tất cả các chính phủ đều hứa hẹn và mong muốn đạt tới sự cân bằng
ngân sách.Tuy nhiên đây thực sự là một bài toán hóc búa,mà nguyên nhân chủ
yếu là do vi phạm một số nguyên tắc thu và chi ngân sách.Ngoài ra, các cuộc
khủng hoảng kinh tế cũng dẫn tới tình trạng thâm hụt.Khi đất nước lâm vào
khủng hoảng ,GNP thực tế giảm,các khoản thu nhập của chính phủ giảm (thuế
doanh thu và thu nhập giảm), mà các khoản chi chuyển nhượng lại tăng.

Cụ thể,ở các nước tư bản,một mặt để khuyến khích phát triển khu vực kinh
tế tư nhân,chính phủ đã tiến hành cải cách hệ thống thuế, theo hướng thu hẹp tỷ
lệ thuế trực thu,làm cho tổng số thu của ngân sách nhà nước giảm mạnh.Mặt
khác,cùng với việc tăng chi cho các nhu cầu xã hội,xây dựng các công trình
công cộng,trợ cấp cho các doanh nghiệp tư nhân,nghiên cứu khoa học,thì chi
phí quân sự cũng tăng lên không ngừng,quá sức chịu đựng của ngân sách nhà
nước,dẫn đến tình trạng thâm hụt.
Còn ở Việt Nam,đặc điểm nổi bật của ngân sách nhà nước thời gian qua là
chịu ảnh hưởng nặng nề của hoàn cảnh chiến tranh lâu dài và cơ chế quản lý kế
hoạch hoá tập trung cao độ.Vì vậy ngân sách nhà nước luôn gặp phải những
khó khăn to lớn, trở nên hết sức bị động cả về thu, chi và cân đối.
Thu ngân sách nhà nước tăng chậm và không ổn định,nguồn thu từ nội bộ nền
kinh tế không đủ chi cho hầu hết các lĩnh vực kinh tế,xã hội và cho sản xuất
kinh doanh.Chi ngân sách còn lãng phí ,kém hiệu quả, mà nhu cầu chi tiêu của
nhà nước cao, dẫn tới tình trạng chi lớn hơn thu => thâm hụt ngân sách nhà
nước
3.

Tác động của thâm hụt ngân sách tới nền kinh tê.

a) Thâm hụt ngân sách và vấn đề thoái lui đầu tư.
Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động gây nên thâm hụt cơ cấu và
kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
* Thoái lui đầu tư và thị trường tiền tệ

4


Cơ chế thoái giảm là: Khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các dự án của mình
trong ngắn hạn, theo mô hình số nhân, nếu không có thay đổi nào trong thị

trường tài chính thì GDP sẽ tăng lên ΔG x Số nhân của nền kinh tế.
Nhưng khi GDP tăng lên, nhu cầu về tiền giao dịch cũng tăng lên. Mức GDP
cao hơn có chiều hướng đi đến thắt chặt tiền tệ (đặc biệt là trong trường hợp
NHTW quan tâm đến lạm phát). Lãi suất tăng và thắt chặt tín dụng sẽ có chiều
hướng bóp nghẹt hay “thoái lui” đầu tư và những chi tiêu có nhạy cảm với lãi
suất. Kết quả là dẫn đến tổng cầu giảm, sản lượng và công ăn việc làm giảm
xuống.
Tuy nhiên, cơ chế thoái giảm này chỉ áp dụng cho thâm hụt cơ cấu. Không áp
dụng cho thâm hụt chu kỳ (thâm hụt tăng do suy thoái) vì suy thoái gây ra giảm
cầu tiền và dẫn đến lãi suất giảm. Thoái lui không được áp dụng trong các cuộc
đại suy thoái là một nhắc nhở: không có liên hệ nghiễm nhiên nào giữa thâm hụt
và đầu tư.
* Tác động của thâm hụt cơ cấu
Hầu hết các nhà kinh tế học vĩ mô đều đồng ý rằng: Thoái lui thực sự chỉ là một
hiệu ứng phụ của chi tiêu Chính phủ. Tuy nhiên, vẫn có tranh luận trong vấn đề
đầu tư bị giảm đi bao nhiêu và những khu vực nào chịu tác động nhiều nhất.
Thoái lui hoàn toàn, đây là trường hợp cực đoan nhất của thoái lui khi mà
phản ứng tiền tệ là quá mạnh.
Giả sử rằng, khi mà NHTW xác định bất kỳ sự tăng lên nào trong sản lượng
cũng đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vậy, NHTW sẽ tăng lãi suất lên đủ để
bù lại mọi tác động mở rộng của các chương trình Chính phủ.

5


Tuy nhiên, do có phản ứng tiền tệ, nên lãi suất tăng lên, làm giảm đầu tư và
xuất khẩu ròng. Vậy, trong trường hợp cực đoan thoái lui 100%, phản ứng này
mạnh đến nỗi đường chi tiêu (tổng cầu) mới dịch chuyển xuống quay trở lại vị trí
của đường tổng cầu ban đầu. Nói cách khác là thắt chặt tiền tệ đã làm triệt tiêu
toàn bộ sự mở rộng tài khóa.


Phản ứng tiền tệ có thể dẫn đến thoái giảm đầu tư hoàn toàn

Chi tiêu Chính phủ làm tăng tổng cầu, nhưng lãi suất cao hơn dẫn đến sự giảm
sút của đầu tư và xuất khẩu ròng (do việc tăng tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ).
Cuối cùng lãi suất phải tăng đủ mạnh để giảm đầu tư và xuất khẩu ròng đúng
bằng lượng G đã tăng lên.

6


Tóm lại, trong trường hợp cực đoan của phản ứng tiền tệ mạnh, đầu tư bị thoái
lui 100% do sự tăng lên trong chi tiêu của Chính phủ. Thoái lui có thể xảy ra khi
NHTW có hành động nhằm triệt tiêu tác động mở rộng tài khóa thông qua thắt
chặt tiền tệ. Từ đồ thị trên ta có thể thấy 2 bước:
Bước 1: Tăng chi tiêu bằng tiền cho hàng hóa và dịch vụ làm dịch chuyển
đường tổng cầu (C+I+G+NX) lên đến đường tổng mới (C+I+G’+NX).
Bước 2: Phản ứng của tiền tệ làm tăng lãi suất và làm giảm những bộ phận
nhạy cảm với lãi suất, dẫn đến tổng cầu giảm xuống đường (C+I”+G’+NX”) và
điểm cân bằng mới là điểm E”, đúng với điểm cân bằng lúc ban đầu tại điểm E.
Trong trường hợp này đầu tư và xuất khẩu ròng bị chi tiêu của Chính phủ làm
thoái lui hoàn toàn.
b) Thâm hụt ngân sách-Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát:
Giả định rằng, chia chi tiêu Chính phủ làm hai phần:
- Chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ (G)
- Chi trả lãi (i.B)
Trong đó:
i: lãi suất danh nghĩa về trái phiếu của Chính phủ.
B: giá trị danh nghĩa của các trái phiếu mà chính phủ chưa thanh toán.
Những nguồn thu nhập chính của Chính phủ gồm:

- Thuế thu nhập (T) chưa khấu trừ các khoản thanh toán chuyển nhượng.
- ΔB là lượng trái phiếu phát hành thêm.
- Phát hành thêm công nợ bằng tiền của Chính phủ (ΔH)-bộ phận này gọi là cơ
sở; ký hiệu là H gồm:

7


+ Tiền mặt do Chính phủ nắm giữ.
+ Tiền dự trữ trong các ngân hàng.
Như vậy cả B và H đều là công nợ của Chính phủ. nhưng khác biệt duy nhất
giữa B và H là các trái phiếu (B) thì được trả lãi, còn lượng tiền cơ sở (H) thì
không. Từ đây ta có thiết lập một phương trình như sau:
(G – T) + (i*B)/P = ΔB/P + ΔH/P
Trong phương trình trên, (G – T) được gọi là số thâm hụt cơ bản tức là
thâm hụt mà Chính phủ phải trang trải, không kể những khoản lãi phải trả cho
những trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Do G và T được biểu hiện bằng số
tiền thực tế vì vậy để đảm bảo tính thống nhất thì ta chia các số hạng còn lại cho
mức giá chung (P).
Qua đây, ta cũng có thể thấy 2 phương pháp có thể dùng để tài trợ thâm
hụt ngân sách của Chính phủ đó là: Phát hành thêm trái phiếu của Chính phủ,
được biểu thị bằng ΔB và phát hành thêm khối lượng tiền cơ sở, được biểu thị
bằng ΔH. Vì vậy, phương trình trên còn được gọi là phương trình biểu thị tài
trợ thâm hụt ngân sách của Chính phủ.
4.

Các chính sách và biện pháp nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách.
*Các chính sách: Để giảm thâm hụt ngân sách, chính phủ cần thực hiện các
chính sách tài khóa như: chính sách tài khóa cùng chiều và chính sách tài
khóa ngược chiều.

+ Nếu mục tiêu của chính phủ là luôn giữ cho ngân sách được cân bằng dù
sản lượng thực tế có thể thay đổi như thế nào đi nữa thì đó là chính sách tài
khóa cùng chiều.
+ Nếu mục tiêu của chính phủ là giữ cho nền kinh tế luôn ở mức sản lượng
tiềm năng với mức việc làm đầy đủ thì chính phủ đó phải thực hiện chính
sách tài khóa ngược chiều.
*Các biện pháp thực hiện
8


-

Biện pháp cơ bản trong tình hình thâm hụt quá lớn và kéo dài là tăng thu,
giảm chi.
Khi biện pháp tăng thu giảm chi không giải quyết được toàn bộ thâm hụt,
chính phủ phải sử dụng các biện pháp tài trợ cho thâm hụt bao gồm:

+ Vay nợ trong nước.
+ Vay nợ nước ngoài.
+ Sử dụng dự trữ ngoại tệ
+ Vay ngân hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG
Tóm tắt thực trạng thâm hụt ngân sách Việt Nam trong từng thời kì.
* Giai đoạn trước năm 1986, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình
trạng cao quá mức, thu ngân sách không đủ bù đắp cho chi thường xuyên, chi
tiêu của Chính phủ Việt Nam phải dựa chủ yếu vào sự viện trợ của nước ngoài,
đặc biệt là Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
* Sang giai đoạn 1986-1990, trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến
hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những

bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy
nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải
vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
* Giai đoạn 1991-1995, cơ cấu chi ngân sách đã dần dần thay đổi theo
hướng tích cực. Nguồn thu trong nuớc đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi
vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai
đoạn này chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách đã giảm dần qua
từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài.
Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 1991-1995
Đơn vị: %

9


Năm

1991

Bội chi so 1,4
với GDP

1992

1993

1994

1995


1,5

3,9

2,2

4,17

=> Bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp (bình quân 2,63%)
thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ 1991-1995 và
đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát.
* Giai đoạn 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến
tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển,
thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn 1996 - 2000
do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế
gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bị giảm dần từ 1996 đến
1999 và đến năm 2000 tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút.
Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 1996-2000
Đơn vị: %
Năm

1996

Bội chi so 3
với GDP

1997

1998


1999

2000

4,05

2,49

4,37

4,95

*Giai đoạn 2001-2010: trong những năm gần đây, NSNN cũng đã có chuyển
biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi
bình quân hàng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản
đuợc cân đối ở mức 5% GDP.

Thâm hụt ngân sách việt Nam giai đoạn 2001-2010
10


Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm

Số Bội chi

Bội chi so với GDP

2001


25.885

4,67%

2002

25.597

4,96%

2003

29.936

4,9%

2004

34.703

4,85%

2005

40.746

4,86%

2006


48.500

5%

2007

56.500

5%

2008

66.200

4,95%

2009

142.355

6,9%

2010

119.700

6,2%




Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là thành tựu
đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này đă góp phần to
lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những năm 80. Giảm thâm hụt
ngân sách đạt được là do kết quả của những biện pháp cứng rắn như cắt giảm
chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ cấp qua giá, lương, trợ cấp cho xí
nghiệp quốc doanh… Nhiều năm thâm hụt giảm xuống dưới 5% so với GDP –
một kết quả đáng khích lệ.



Hậu quả của thâm hụt ngân sách trong 5 năm trở lại đây:
Thâm hụt ngân sách liên tục tăng cao. Do thường xuyên trong tình trạng
thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong thời gian qua. Theo bộ Tài
Chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng 44,3%, dư nợ quốc gia
bằng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP. Mặc dù tỉ lệ nợ công Việt
Nam được coi là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên cao hơn hẳn so
với tỉ lệ phổ biến 30% -40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác.
Nếu xét mức nợ công bình quân đầu người trong vòng 8 năm(từ 2001 đến
2009), mức nợ công đầu người đã tăng lên 4 lần, từ 144 USD lên tới 548 USD,
tức trung bình hơn 18%/ năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người
11


của cùng thời kì chỉ là 6%/năm. Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt
ngân sách cao và kéo dài đã đe doạ tính bền vững của quản lí nợ công và gây áp
lực lên lạm phát, cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc gia
của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp.

Biểu đồ 1: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 - 2011


N
guồn: Bộ Tài chính

Biểu đồ 2: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước chấu Á
(2005 - 2009)
12


CHƯƠNG III: CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG
I. Các chính sách
Để giảm thâm hụt ngân sách, chính phủ cần thực hiện các chính sách tài
khóa cùng chiều và ngược chiều.
a.Chính sách tài khóa cùng chiều
Trong trường hợp này chính phủ sẽ giảm chi tiêu để giảm thâm hụt. Nhưng như
ta đã biết tổng cầu AD tỉ lệ thuận với chi tiêu của chính phủ(G). Như vậy khi G
giảm =>AD giảm => sản lượng Y giảm, thu nhập giảm=>thuế tiếp tục giảm.
Mà theo thống kê cho thấy thuế chiếm tới 25% tổng thu ngân sách năm 2008.
Như vậy khi thuế giảm thì ngân sách lại thâm hụt trở lại.
Xét một ví dụ: khi thâm hụt ngân sách, chính phủ quyết định giảm chi tiêu 70
nghìn tỷ đồng =>AD giảm 70 nghìn tỷ đồng=> tổng thu nhập quốc dân giảm 70
nghìn tỷ đồng.
Giả sử thuế thu nhập cá nhân là 10%

13


Như vậy theo như tổng thu năm 2008 thì ngân sách sẽ mất 141700 tỉ từ
thuế thu nhập cá nhân. Mà trên thực tế , 10% thu nhập là mức thấp nhất
trong thang tính thuế thu nhập của Việt Nam hiện nay ( mức cao nhất là 35%
với người có thu nhập trên 80 triệu đồng /tháng )

Như vậy khoản thu mất đi từ thuế lớn hơn rất nhiều khoản chi tiêu giảm của
chính phủ . Nếu nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái thì việc áp dụng
chính sách này sẽ làm cho suy thoái trầm trọng hơn .
Vậy cách giảm G để giảm thâm hụt chỉ là biện pháp tạm thời .Nó chỉ được áp
dụng khi cần giảm thâm hụt bằng mọi giá .

b, Chính sách tài khóa ngược chiều .
Đây là cách tăng G để giảm thâm hụt .
G tăng → AD tăng → sản lượng tăng → thu nhập tăng→thu từ thuế tăng →
ngân sách được cải thiện
Ví dụ :trong trường hợp trên nếu chỉnh phủ không giảm mà tăng G lên thêm
70000 tỉ .Khi đó tổng thu nhập quốc dân tăng thêm 70000 tỉ . như vậy lượng
tiền thu thêm từ thuế là 155700 tỉ . Như vậy ngân sách đã được cải thiện.
Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra ở đây là ngân sách đang thâm hụt thì tiền ở
đâu ra để tăng chi tiêu của chính phủ , và nếu có tiền thì đầu tư vào đâu .Khi
đó chính phủ sẽ có các biện pháp sau để tài trợ cho ngân sách:
1.Phát hành
2.Vay nợ gồm vay nợ trong nước và viện trợ nước ngoài
3.Tăng thu giảm chi
4.Sử dụng dự trữ ngoại tệ

II. Các biện pháp để áp dụng chính sách
1. Phát hành tiền
a. Giới thiệu phương pháp

14


Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có thể tài trợ số thâm hụt của
mình bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp

nền kinh tế đất nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng
tiềm năng thì việc tài trợ số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm
lượng tiền cơ sở sẽ góp phần thực hiện mục đích của chính sách ổn định hoá
kinh tế thông qua việc đưa nền kinh tế tiến đến gần mức sản lượng tiềm năng
mà không gây lạm phát.
Ngược lại, khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế cao hơn
mức sản lượng tiềm năng ) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm hụt của
mình bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như vậy sẽ càng kích tổng cầu
lên cao và đẩy sản lượng thực tế vượt xa mức sản lượng tiềm năng,hậu quả là
làm tăng lạm phát .
b. Thực trạng phát hành tiền bù đắp thâm hụt ở nước ta
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta vô cùng yếu kém, thu
không đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình trạng cao
quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là
chính. Tuy nhiên, mức thâm hụt quá lớn khiến việc bù đắp thâm hụt NSNN
không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát
hành.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm

Phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách

1984

0,4

1985

9,3


1986

22,9

1987

89,1

1988

450

1989

1.655

1990

1.200

15


Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt của Ngân sách nhà
nước được hệ thống ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Trong bối
cảnh mà tỷ lệ tích lũy nội bộ của nền kinh tế còn rất thấp (có thể nói là không
đáng kể), làm không đủ ăn, tỷ lệ chi đầu tư phát triển lại quá lớn và nguồn bù
đắp thâm hụt ngân sách lại chủ yếu do phát hành tiền như trên chính là một
trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trong giai đoạn 1986-1990.
c. Ưu, nhược điểm

- Ưu điểm: Nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một
cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ
nần.
- Nhược điểm:Tài trợ thâm hụt ngân sách theo phương pháp này thì xu hướng
sẽ tạo ra một tổng cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tăng nhanh
.Như vậy, biện pháp này có nhược điểm lớn là chứa đựng nguy cơ lạm phát,gây
tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị ,kinh tế và xã hội.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm
phát đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ...
Vì vậy biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992, nước ta đã
chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
16


Ngày 1/4/1990 thành lập hệ thống kho bạc nhà nước trực thuộc bộ tài chính
(chịu trách nhiệm về thâm hụt ngân sách nhà nước) độc lập với ngân hàng nhà
nước (chịu trách nhiệm phát hành tiền vào lưu thông ). Đây là một cuộc cách
mạng về cơ cấu nhằm tách chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước ra khỏi
chức năng phát hành tiền. Cơ chế đó đã đóng góp có kết quả vào việc kiềm chế
bội chi và lạm phát trong thập kỷ vừa qua.Từ năm 1991 nhà nước đã tiến hành
vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
2. Vay nợ
a,Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công
trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà
nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các
dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng.
Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành
trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu

công trình.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm

Số tiền vay trong nước để bù
Số bội chi
đắp bội chi ngân sách nhà nước

2010

98.700

119.700

2009

88.520

115.900

2008

51.200

66.200

2007

43.000


56.500

2006

36.000

48.500

2005

32.420

40.746

2004

27.450

34.703

2003

22.895

29.936

2002

18.382


25.597

17


Biểu đồ minh họa.

Ưu điểm:
- Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách
mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện
pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
- Tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư,tránh được nguy cơ
khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai.

Nhược điểm:
-

Chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của nền kinh tế.

Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay như phát
hành trái phiếu, tín phiếu, công trái... Đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp
để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về
thuế thu nhập... ngoài ra còn phải triển khai các biện pháp khác, kể cả tuyên
truyền, vận động... để huy động tối đa nguồn tiền trong dân cư nhằm hoàn thành
kế hoạch vay đã định.
Tuy nhiên, tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho chính
phủ vay bị giới hạn trong tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ huy
động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm đi.

Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng tiền
huy động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh nghiệp và
dân cư đó sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu tư
phát triển kinh tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của ngân
hàng càng có lãi suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển từ các khu
18


vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài chính ngân hàng mà không chảy
vào sản xuất kinh doanh.
Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn chứa đựng
nguy cơ kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu
chấn hưng kinh tế của chính phủ thông qua con đường phát hành trái phiếu, tín
phiếu... bị chính bản thân giải pháp này cản trở ngay từ nguồn gốc.
Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều tránh các
biện pháp có nguy cơ làm giảm khả năng tự đầu tư của các thành phần kinh tế,
kể cả doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh và các tầng lớp dân cư. Biện
pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực hiện trong trường hợp nền
kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành
trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân trách nhiệm nộp thêm thuế trong
tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu đấy.
-

Việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ
khi những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu
cho các dự án đầu tư có sức sinh lời).
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện

nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở
nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ

thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có
thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc
huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau.
Tuy nhiên điều này chưa xảy ra ở Việt Nam. Ngược lại, thực tế hiện nay, lãi
suất trái phiếu chính phủ vẫn không đáp ứng được lãi suất kỳ vọng của thị
trường nên phát hành trái phiếu luôn bị thất bại. Hậu quả có khi cũng tệ
không kém, thị trường gần như không có thanh khoản.

b, Vay nợ nước ngoài
19


Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài
thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính
phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức
liên chính phủ, tổ chức quốc tế...
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức
liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm
thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu
là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu
bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...

20


Năm

Số tiền vay nước ngoài để bù Số bội chi

đắp bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
21.000

119.700

2009

27.380

115.900

2008

15.000

66.200

2007

13.500

56.500

2006

12.500

48.500


2005

8.326

40.746

2004

7.253

34.703

2003

7.041

29.936

2002

7.125

25.597

2010

Ưu điểm:
Nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp được
các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng
là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp

phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhược điểm:
- Việc vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng
lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ.
- Dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí,
nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều
khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc
nhiều.
Vay nước ngoài phụ thuộc vào đối tác cho vay và thường phải chịu những
điều kiện ngặt nghèo về lãi suất và thời hạn vay trả. Hình thức vay thường qua
21


các hiệp định song phương,nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay
trên thị trường tài chính quốc tế. Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thường cho
vay với các điều kiện ưu đãi, nhưng ngày càng hiếm hoi và do vậy có sự cạnh
tranh gay gắt. Dù thế nào, thì vay nước ngoài cũng chịu sự ràng buộc của nhiều
điều kiện vay áp đặt từ nước cho vay.
Ví dụ, Quỹ MIYAZWA của Nhật Bản quy định :Trong tống số vốn được cho
vay tài trợ, phải có ít nhất 50% được sử dụng để mua hàng của Nhật hoặc các
công ty Nhật đóng tại nước sở tại. Ngoài ra còn kèm theo các điều kiện, thủ tục
không thành văn khác như phải qua khâu trung gian là Ngân hàng xuất nhập
khẩu Nhật Bản (JEXIM) hoặc các trung gian tài chính khác của Nhật thì mới có
thể vay được tiền từ MIYAZAWA
Như vậy nếu ta vay được của Nhật 1 tỷ ta đã góp phần trực tiếp chấn hưng
nền kinh tế Nhật tới trên 500 triệu, chưa kể các áp lực về thủ tục đấu thầu,giá
cả,công nghệ...
Thực trạng
Theo báo cáo cục Quản lí nợ và Tài chính đối ngoại, tính đến ngày
31/12/2010, tổng số dư nợ công ở mức 1,122 nghìn tỉ đồng, tương đương với

56,7% GDP năm 2010 và dự kiến tổng số nợ công sẽ ở mức 1,375 nghìn tỉ
đồng, bằng khoản 58,7 %GDP năm 2011.Cũng theo báo cáo này,ước tổng mức
dư nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 835 nghìn tỉ đồng bằng 42,2 % GDP năm
2010 và dự kiến nợ nước ngoài của quốc gia sẽ ở mức 44,5 %GDP.
Theo khuyến cáo của một số nhà kinh tế và kinh nghiệm của một số nước thì
nợ công ở mức 60% GDP là giới hạn an toàn. Mặc dù vậy, xu hướng gia tăng
các khoản nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia là đáng chú ý, đặc biệt khoản
vay nước ngoài của các doanh nghiệp đầu năm 2011 do chính sách tiền tệ, tín
dụng trong nước thắt chặt, huy động vốn trong nước khó khăn. Đơn vị này đã
và đang chủ động nghiên cứu để xây dựng khuôn khổ pháp lý, có các đề xuất về
hoạt động quản lý rủi ro nhằm kiểm soát nợ công và nợ nước ngoài hiệu quả.

22


3. Tài trợ thâm hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuê

Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu ngân
sách từ thuế lớn nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế
suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế suất đã cao hơn mức tối ưu
này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách chỉ giảm đi. Hàm ý của
đường cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì giảm thuế suất sẽ có lợi
vì thu ngân sách tăng đồng thời lại khuyến khích khu cực tư nhân hăng hái đầu
tư.
- Ưu điểm: Khi còn trong vùng có thể chịu đựng được,tăng thuế suất thuế thu
nhập sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các
đối tượng mở mang các hoạt động kinh tế,tăng khả năng sinh lời,một phần nộp
ngân sách nhà nước,còn lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng
thuế thu nhập có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Nhược điểm: Khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng thuế suất

trực thu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước và thúc đẩy trốn
thuế, lậu thuế
Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng
thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế,
phụ thuộc vào hiệu quả làm việc của hệ thống thu, phụ thuộc vào hiệu suất của
23


từng sắc thuế. Trong thời kỳ kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì
tăng thuế không những không khả thi mà còn cản trở hoạt động sản xuất kinh
doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các
doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm nguồn thu
ngân sách.
Ở Việt Nam, năm 2009 Chính phủ đã giải quyết THNS bằng cách: Tăng
thuế thu nhập cá nhân và thuế bất động sản. Liên quan tới các ưu đãi về thuế
TNDN: Từ 1-1-2009 thuế suất thu hẹp chỉ còn 10% và 20%, bỏ thuế suất ưu đãi
15%.
Các ưu đãi miễn giảm thuế thu hẹp lại, không mặc nhiên áp dụng cho các
DN mới thành lập hay đang đầu tư mở rộng nữa. Chỉ ưu đãi với các dự án đầu
tư vào lĩnh vực mang tính chất nhà nước đặc biệt khuyến khích.
Ví dụ: lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ,
đầu tư hạ tầng quan trọng, sản xuất phần mềm, các dự án đầu tư vào các khu
kinh tế... Mức để miễn giảm thuế tối đa là miễn 4 năm giảm 9 năm.
Các doanh nghiệp đã thành lập trước ngày 1-1-2009 và đang được hưởng
các ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành sẽ tiếp tục được áp dụng thời gian ưu
đãi như cũ.
Luật mới cũng khống chế cách xác định thời gian bắt đầu tính thuế ưu đãi:
tính từ năm có thu nhập chịu thuế. Nếu doanh nghiệp nào lỗ trên 3 năm, thì năm
đầu tiên tính ưu đãi là năm thứ 4.
Thay đổi về thuế GTGT: Thu hẹp nhóm hàng hoá dịch vụ có thuế suất 5%.

Đây là bước chuyển tiếp để tiến đến chỉ duy trì hai mức thuế suất là 0% và phổ
thông 10%.
Ví dụ: hiện nay qui định sản phẩm cơ khí phục vụ sản xuất là 5% còn phục vụ
tiêu dùng là 10%, tuy nhiên rất khó phân biệt hai loại này nên sẽ chuyển hết
sang 10%; sản phẩm luyện cán kéo kim loại cũng chuyển hết sang thuế suất

24


10%; hóa chất cơ bản, thông thường được chuyển qua nhóm 10%; máy xử lý tự
động; than đá, đất đá sỏi, bốc xếp trục vớt cứu hộ…cũng vậy.

4. Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với
mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm
các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ
đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không
đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những
khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu
những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Xét theo góc độ kinh tế học,cắt giảm chi tiêu với hy vọng giảm tổng chi
nhằm giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước là một biện pháp ‘tiêu cực’.
Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên,bao gồm cả chi lương ,chi mua sắm
trang thiết bị cho bộ máy quản lý hành chính,thậm chí sẽ trì hoãn hoặc cắt giảm
đầu tư phát triển.
Đương nhiên, ở đây cần phân biệt tính hiệu quả, tiết kiệm trong mỗi khoản
chi ngân sách với khái niệm cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước,cần phân biệt
khái niệm lãng phí và phạm trù kích cầu. Nếu như công việc trung gian gián
tiếp kích thích hoạt động kinh tế thì đó không phải là lãng phí mà là những việc

cần làm ngay giúp cho nền kinh tế phục hồi.Dù trước mắt ,ngân sách có thiếu
hụt cũng phải tạo nguồn để chi cho khoản đó nhằm chấn hưng nền kinh tế và
nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai.
Chẳng hạn ở Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của ta,
cần tăng khả năng lưu thông,muốn tăng khả năng lưu thông cần giảm chi phí
vận chuyển,muốn giảm chi phí vận chuyển nhà nước cần đầu tư vào cơ sở hạ
tầng giao thông vận tải, cải tạo, hoàn thiện và xây mới các tuyến đường...
5. Dự trữ ngoại hối:
25


×