Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Quản lý dạy học môn âm nhạc ở trường trung học cơ sở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.25 KB, 117 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNTT

:

Công nghệ thông tin

GD & ĐT

:

Giáo dục và đào tạo

GV

:

Giáo viên

HĐDH

:

Hoạt động dạy học

HS

:

Học sinh


THCS

:

Trung học cơ sở


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu thế phát triển của đất nước hiện nay, để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải đổi mới giáo dục. Đối với
bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, Giáo dục luôn trở thành nhân tố tích
cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, nhất là trong việc cung
cấp nguồn nhân lực cho xã hội, mở đường cho sự phát triển kinh tế, khoa học,
kĩ thuật và văn hoá… Đại hội XI năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong phần nội dung của “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 20112020” khi nói về giáo dục và đào tạo đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”. Tiếp theo, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI năm 2012, trong phần thông báo kết luận Hội
nghị về nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” lại tiếp
tục khẳng định: “Phải đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc nhận thức và tư duy về giáo
dục và đào tạo; về công tác quản lý giáo dục, về nội dung, phương pháp giáo
dục; hình thức và phương pháp đánh giá giáo dục… Phát triển nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Từ ý nghĩa và tầm quan
trọng ấy mà đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới mục tiêu, nội dung, hình

thức, phương pháp đào tạo và nhất là “quản lý giáo dục” nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo một cách toàn diện có hiệu quả cao, thiết thực. Đặc biệt là hệ
thống giáo dục phổ thông, một bậc học vô cùng quan trọng, đây là bước tạo
nên sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam.
Như vậy, vấn đề đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học, về quản
lý dạy học trong nhà trường phổ thông với những yêu cầu rõ ràng, cụ thể đã

1


được Đảng, nhà nước, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cấp lãnh đạo
thành phố đặt ra như một yêu cầu cấp thiết cần phải thực hiện trước mắt và
trong những năm sắp tới.
Hà Nội là Thủ đô và là thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam,
gồm có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 1 thị xã, 12 quận và 17
huyện, là tỉnh thành có nhiều đơn vị hành chính cấp huyện nhất Việt Nam. Hà
Nội là nơi có nhiều trường Trung học cơ sở (THCS) nhất cả nước: 616 trường
trong đó có 162 trường THCS đạt chuẩn Quốc gia cấp độ 1. Các trường
THCS đạt chuẩn quốc gia có thuận lợi về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học,
khuôn viên trường học, sĩ số trong lớp không quá 45 HS/lớp và đội ngũ cán
bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn về chuyên môn, chất lượng dạy học và khả
năng đào tạo tốt… Tuy nhiên, đi sâu vào hoạt động dạy học trên toàn thành
phố nhất là khi sát nhập thêm tỉnh Hà Tây và một số xã của tỉnh Hòa Bình
vào thành phố Hà Nội, thì chất lượng dạy và học toàn thành phố Hà Nội bị
giảm xuống do có quá nhiều vùng dân cư khác nhau, cả đồng bằng, miền núi,
số trường THCS quá đông, trình độ giáo viên và học sinh không đồng đều và
quá cách xa nhau. Các môn học nói chung và môn Âm nhạc nói riêng- một
môn học thuộc lĩnh vực Nghệ thuật cũng còn nhiều vấn đề vướng mắc về chất
lượng dạy học và nhất là việc quản lý dạy học bộ môn này khi sát nhâp Hà
Tây vào đã nảy sinh ra nhiều vấn đề trong khâu quản lý cần phải có biện pháp

để đáp ứng được trong tình hình hiện nay.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Quản lý dạy học môn âm nhạc ở
trường Trung học cơ sở thành phố Hà Nội” để nghiên cứu, với mong muốn
có những giải pháp quản lý việc dạy học bộ môn này được tốt hơn, đem lại sự
hứng thú cho giáo viên và học sinh và góp phần vào việc giáo dục toàn diện
trong nhà trường, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của ngành giáo dục Thủ đô.

2


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp quản lý
nhằm nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc ở trường THCS trên địa bàn
thành phố Hà Nội
3. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý dạy học môn Âm nhạc ở
trường THCS tại Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý quản lý dạy học môn
Âm nhạc ở trường THCS tại Hà Nội.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Quản lý dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS tại Hà Nội sẽ được
chú trọng, đẩy mạnh và chặt chẽ hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
Âm nhạc nếu đề xuất được các biện pháp quản lý có tính khoa học đảm bảo
tính thực tiễn và khả thi.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
- Khảo sát thực trạng về công tác quản lý dạy học môn Âm nhạc ở một
số trường THCS tại Hà Nội.
- Đề xuất được các biện pháp quản lý quản lý dạy học môn Âm nhạc ở
trường THCS tại Hà Nội.

- Thăm dò tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về biện pháp quản lý một số Chuyên viên môn Âm nhạc
phòng giáo dục và đào tạo các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6.2. Địa bàn nghiên cứu:
- Phòng GD & ĐT Tây Hồ (có 12 trường THCS; 18 giáo viên)
- Phòng GD & ĐT Cầu Giấy (có 19 trường THCS; 31 giáo viên)
3


- Phòng GD & ĐT Thanh Xuân (có 15 trường THCS; 20 giáo viên)
- Phòng GD & ĐT Nam Từ Liêm (có 16 trường THCS; 25 giáo viên)
- Phòng GD & ĐT Chương Mỹ (có 37 trường THCS; 40 giáo viên)
6.3. Khách thể khảo sát
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đề tài có hiệu quả tác giả luận văn
Thạc sĩ đã tiến hành khảo sát các đối tượng:
+ Cán bộ quản lý: Tiến hành khảo sát trên 104 trong đó có 05 cán bộ
phòng giáo dục; gồm 99 Hiệu trưởng các trường THCS thành phố Hà Nội,
cán bộ phòng giáo dục thuộc các quận Tây Hồ; quận Cầu Giấy; quận Thanh
Xuân; Huyện Chương Mỹ; quận Nam Từ Liêm
+ Giáo viên: Tiến hành khảo sát 134 giáo viên dạy môn Âm nhạc ở các
trường THCS thuộc các quận Tây Hồ; quận Cầu Giấy; quận Thanh Xuân;
quận Nam Từ Liêm; Huyện Chương Mỹ trong thành phố Hà Nội.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Công việc là thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận
của đề tài, bao gồm các phương pháp sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, đọc, tìm hiểu, nghiên cứu,
khái quát và hệ thống hóa các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài.

+ Nhận định của các nhà khoa học về vấn đề nghiên cứu để xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Công việc là thu thập cá thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn
của đề tài, gồm các phương pháp như sau:
7.2.1 Phương pháp điều tra
Thu thập thông tin về việc thực hiện dạy học môn âm nhạc, điều tra ý
kiến giáo viên và học sinh các trường THCS về công tác quản lý dạy học âm
4


nhạc thông qua các giáo viên, cán bộ quản lý nhà trường, chuyên viên phụ
trách quản lý môn Âm nhạc ở các phòng giáo dục và đào tạo, từ đó thăm dò
tính cần thiết và khả thi của các biện pháp cần đề xuất.
7.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục
Nhằm xác định thực trạng của biện pháp quản lý các hoạt động dạy học
môn âm nhạc và rút ra bài học kinh nghiệm.
7.2.3.Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu các sản phẩm như: Các văn bản chỉ đạo chuyên môn của
môn Âm nhạc, phân phối chương trình môn Âm nhạc, các phòng học âm
nhạc, các Công văn hướng dẫn giảng dạy bộ môn, quy chế phòng học bộ
môn, các sản phẩm cần thiết giúp cho giảng dạy bộ môn.
7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Cán bộ quản lý chuyên môn các phòng GDĐT, hiệu trưởng, hiệu phó
phụ trách chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn sẽ tham gia đánh giá mức độ
cần thiết và khả thi của biện pháp được đề xuất.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
Dùng phương pháp thống kê toán học, sử dụng các công thức toán học
để xử lý các số liệu đã thu được làm tăng tính chính xác của các số liệu điều
tra, đánh giá kết quả nghiên cứu

Nhằm phân tích và xử lý các số liệu điều tra, đánh giá kết quả nghiên cứu.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài các phần: Mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo,
phụ lục. Luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý dạy học môn Âm nhạc ở trường
THCS
- Chương II: Thực trạng về quản lý dạy học môn Âm nhạc ở trường
THCS tại Hà Nội
5


- Chương III: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn Âm nhạc ở trường THCS tại Hà Nội.
9. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA
LUẬN VĂN
9.1. Những luận điểm cơ bản
- Phân tích thực trạng về quản lý dạy học môn Âm nhạc ở trường
THCS tại Hà Nội
- Đưa ra một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn Âm nhạc ở trường THCS tại Hà Nội
9.2. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã đưa một số biện pháp mang tính cấp thiết và khả thi trong
việc quản lý dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS tại thành phố Hà Nội.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC ÂM NHẠC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục và Đào tạo trong thời đại ngày nay đã có nhiều thay đổi lớn, đặc
biệt là sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và công nghệ đã làm thay đổi
chức năng và nhiệm vụ của người quản lý nhà trường, của giáo viên, đòi hỏi
người quản lý và các giáo viên phải có những kỹ năng và năng lực mới trong
quản lý và giảng dạy. Phương pháp quản lý của cán bộ quản lý với hoạt động
dạy học nói chung và môn Âm nhạc nói riêng cần phải có sự nghiên cứu để đề
ra các biện pháp quản lý hoạt động dạy học phù hợp với thời đại ngày nay.
Trong thời gian qua để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
đã có một số công trình nghiên cứu về công tác quản lý giáo dục nói chung
cũng như công tác quản lý giáo dục đối với bộ môn Âm nhạc ở các trường
THCS nói riêng:
- Tổ chức quản lý quá trình giáo dục - đào tạo của Nguyễn Minh Đường,
Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Hà Nội, 1996.
- Quản lý quá trình đào tạo của Nguyễn Đức Trí, Viện Nghiên cứu phát
triển giáo dục, Hà Nội, 1999.
- Tác giả Hoàng Long, Hoàng Lân với cuốn, Phương pháp dạy học âm
nhạc - Giáo trình dành cho các trường CĐSP đào tạo giáo viên trung học cơ
sở, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 2004 .
- Năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho xuất bản: Hướng dẫn thực hiện
chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Âm nhạc, Nxb Giáo dục Việt Nam.
- Năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho xuất bản: Tập tài liệu tập
huấn giáo viên dạy học, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng
trong chương trình giáo dục phổ thông môn Âm nhạc, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
- Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục của Đoàn Tiến Dũng, năm 2009 với
7


đề tài “ Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các

trường Trung học cơ sở thành phố Thanh Hóa”. Đề tài này đã đi sâu vào
nghiên cứu thực trạng công tác quản lý dạy học môn Âm nhạc tại các trường
THCS thành phố Thanh Hóa và đưa ra một số biện pháp quản lý hoạt động
dạy học môn Âm nhạc nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở
các trường THCS thành phố Thanh Hóa.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều văn bản, tài liệu nói
về công tác quản lý nhà trường, công tác dạy học, hướng dẫn rèn luyện kỹ
năng dạy học... Song các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy trong công tác
quản lý hoạt động dạy học nói chung và quản lý hoạt động dạy học môn Âm
nhạc nói riêng cộng với việc rèn luyện kỹ năng dạy học còn có nhiều vấn đề
cụ thể chưa được giải quyết mà với bộ môn Âm nhạc lại càng ít được đề cập
vì đây là môn học, có tính đặc thù cao.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một dạng lao động xã hội mang tính đặc thù, gắn liền và
phát triển cùng với lịch sử phát triển của loài người. Từ khi có sự phân công
lao động trong xã hội đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt, đó là tổ chức,
điều khiển các hoạt động lao động theo những yêu cầu nhất định. Dạng lao
động mang tính đặc thù đó còn được gọi là hoạt động quản lý.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý theo ngững cách tiếp cận
khác nhau, như:
+ Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ
thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối
tượng quản lý) về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kinh tế, bằng
một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp
và các giả pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển

8



của đối tượng.
+ Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
+ Quản lý là bảo đảm sự hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự
biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống tới trạng thái
mới thích ứng với hoàn cảnh mới.
Theo Fredenck, W. Taylor, tác giả của học thuật quản lý theo khoa học
thì: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì: “Quản lý hành
chính là dự báo và lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý như đã dẫn ở trên,
nhưng chúng ta có thể nhận thấy điểm chung của quản lý mà các khái niệm đó
đã đề cập là:
Một là, Quản lý bao giờ cũng có mục tiêu. Hoạt động quản lý được
thực hiện với một tổ chức hay một nhóm xã hội. Đay là điểm hội tụ cho
những hoạt động cùng nhau của nhiều người.
Hai là, Quản lý là thực hiện nhứng tác động hướng đích từ chủ thể đến
đối tượng. Yếu tố con người, trong đó người quản lý và người bị quản lý, giữ
vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý.
Ba là, Quản lý không chỉ thể hiện ý chí của chủ thể mà còn là sự
nhận thức và thực hiện hoạt động theo quy luật khách quan. Lao động quản
lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và
phát triển.
Từ những dấu hiệu đặc trưng nêu trên, có thể hiểu: Quản lý là sự tác

9



động hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng tổ hợp
những cách thức, những phương pháp nhằm khai thác và sử dụng tối đa các
tiềm năng, các cơ hội của cá nhân cũng như cử tổ chức, để đạt được mục tiêu
đã đề ra.
Quản lý đòi hỏi phải có thông tin, luôn gắn với thông tin. Thông tin về
con người, về xã hội mà ở đó chứa đựng những nhu cầu, những ham muốn,
những năng lực hoạt động và quan hệ của con người theo những định hướng
giá trị. Quá trình quản lý, do vậy, là một quá trình thông tin, truyền tin, xử lý
tin, tiếp nhận tin, biến thông tin thành năng lượng thúc đẩy hoạt động giao
tiếp hướng đích. Trong hoạt động quản lý, thông tin quản lý đóng vai trò vô
cùng quan trọng, nó được coi như là mạch máu của hoạt động quản lý.
*Các chức năng của quản lý
Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng quản lý. Vào
những năm 30 của thế kỷ XX, Gulích và Urwich (1930) đã nêu 7 chức năng
quản lý trong cụm từ viết tắt POSDCORB:
P: Planning – Lập kế hoạch
O: Organizing – Tổ chức
D: Directing – Chỉ huy
S: Staffing – Quản trị nhân lực
CO: Co – ordinating – Phối hợp
R: Reviewing – Kiểm tra
B: Budgeting – Ngân sách
Hiện nay, theo cách tiếp cận quá trình quản lý người ta thống nhất có
bốn chức năng cơ bản: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Thứ nhất, lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu của hệ thống,
các hoạt động và các điều kiện đảm bảo thực hiện các mục tiêu đó. Kế hoạch
là nền tảng của quản lý:
+ Xác định chức năng, nhiệm vụ
10



+ Dự báo, đánh giá triển vọng
+ Đề ra mục tiêu, chương trình
+ Lập kế hoạch chương trình
+ Nghiên cứu xác định tiến bộ
+ Xác định ngân sách
+ Xây dựng các nguyên tắc tiêu chuẩn
+ Xây dựng các thể thức thực hiện
Thứ hai, tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành
và nguồn lực cho các thành viên của tổ chức, để họ có thể hoạt động và đạt
được các mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả:
+ Xây dựng các cơ cấu, nhóm
+ Xây dựng các yêu cầu
+ Tạo sự hợp tác, liên kết
+ Lựa chọn, sắp xếp
+ Bồi dưỡng cho phù hợp
+ Phân công nhóm và cá nhân
Thứ ba, chỉ đạo, lãnh đạo và điều khiển là quá trình tác động đến các
thành viên của tổ chức làm cho họ nhiệt tình, tự giác nỗ lực phấn đấu đạt các
mục tiêu của tổ chức:
+ Kích thích động viên
+ Thông tin hai chiều
+ Bảo đảm sự hợp tác trong thực tế
Thứ tư, kiểm tra là những hoạt động của chủ thể quản lý nhằm đánh giá
và xử lý những kết quả của quá trình vận hành tổ chức:
+ Xây dựng định mức và tiêu chuẩn
+ Các chỉ số công việc, phương pháp đánh giá
+ Rút kinh nghiệm và điều chỉnh

11



Các chức năng này gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau, khi
thực hiện chức năng này thường cũng có mặt các chức năng khác ở các mức
độ khác nhau.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Trong thực tế, quản lý giáo dục và quản lý hệ thống giáo dục là những
khái niệm đồng nhất và theo hệ thống có sự phân cấp từ Trung ương xuống
các địa phương.
Quản lý giáo dục (nói riêng là quản lý trường học) là hệ thống các tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho cả hệ vận hành theo đường lối và quản lý giáo dục của đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đư hệ thống giáo dục tới mục
tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đảy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển của xã hội hiện nay [26, tr.38].
Vậy quản lý giáo dục thực chất là quản lý quá trình hoạt động của
người dạy, người học và quản lý các tổ chức sư phạm ở các cơ sở khác nhau
trong việc thực hiện các kế hoạch và chương trình Giáo dục và Đào tạo nhằm
đạt được các mục tiêu giáo dục đề ra.
Quản lý giáo dục là nhân tố cơ bản thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống luôn ổn định, phát
triển và đạt mục tiêu đã định.
Như chúng ta đã đề cập ở trên, khái niệm “quản lý giáo dục” là một
khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau, tùy theo cách ta tiếp cận khái niệm
“giáo dục” từ góc độ nào. Được hiểu theo nghĩa rộng nhất thì quản lý giáo
dục là quản lý mọi hoạt động trong xã hội, tác động một cách có mục đích và


12


có kế hoạch vào toàn bộ các lực lượng giáo dục, nhằm tổ chức và phối hợp
hoạt động của chúng, sử dụng một cách đúng đắn các nguồn lực và phương
tiện, thực hiện có hiệu quả chỉ tiêu phát triển về số lượng và chất lượng của sự
nghiệp giáo dục theo phương hướng của mục tiêu giáo dục [11, tr.38].
Nếu chỉ đề cập đến hoạt động quản lý trong ngành giáo dục và đào tạo
thì quản lý giáo dục được hiểu là quản lý hệ thống giáo dục từ Trung ương
đến địa phương, bao gồm tất cả các ngành học, cấp học, trường học theo mục
đích đặt ra cho các thời kỳ.
Nếu thu hẹp khái niệm giáo dục trong phạm vi các hoạt động diễn ra
trong các trường học và các cơ sở đào tạo thì quản lý giáo dục được hiểu là
quản lý nhà trường. “Quản lý giáo dục thực chất là tác động một cách khoa
học đến nhà trường, nhằm tổ chức tối ưu các quá trình dạy học, giáo dục thể
chất, theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, tiến tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới”[11, tr .40].
1.2.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là một bộ phận trong quản lý giáo dục. Nhà trường
(cơ sở giáo dục) chính là nơi tiến hành các quá trình Giáo dục và Đào tạo, có
nhiệm vụ trang bị kiến thức cho một nhóm dân cư nhất định, thực hiện tối đa
một quy luật tiến bộ xã hội là: “Thế hệ đi sau phải lĩnh hội được tất cả kinh
nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền thụ lại, đồng thời
phải làm phong phú những kinh nghiệm đó”[11, tr.45].
Trường học là tổ chức giáo dục trực tiếp làm công tác Giáo dục và Đào
tạo thế hệ đang lớn dần lên. Nó là tế bào cơ sở, chủ chốt vừa là quản lý nhà
nước, lại vừa là một hệ thống độc lập, tự quản của xã hội. Do đó, quản lý
trường học vừa có tính nhà nước, vừa có tính xã hội.
Trong thời đại hiện nay, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một


13


thiết chế chuyên biệt của xã hội để Giáo dục và Đào tạo thế hệ trẻ thành
những người có tri thức, sức khỏe, phẩm chất chung của hệ thống giáo dục.
Từ đó ta thấy: Giáo dục nhà trường giữ vai trò trọng yếu tạo ra sức lao động
mới cho xã hội, đặc biệt là đòi hỏi hàm lượng chất xám trong lao động ngày
càng cao.
Quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường chính là xây dựng
một quan hệ hợp lý giữa các hình thức công tác tập thể đối với các học sinh
và giáo viên. Do con đường giáo dục lâu dài, đặc biệt hàm xúc về trí tuệ và
cảm xúc, do các tình huống trong đời sống nội tại, tâm hồn đời sống tập thể
trong trường có sự biến đổi liên tục. Tất cả những cái đó đặt ra yêu cầu cao
đối với việc quản lý nhà trường, việc tổ chức hợp lý các quá trình Giáo dục và
Đào tạo, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tổ chức sư phạm và các điều
kiện khác của giáo viên và học sinh.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện dường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu
đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”[21, tr.34].
Quản lý trực tiếp trường học bao gồm các nội dung: quản lý quá trình
dạy học, giáo dục, tài chính, cơ sở vật chất, nhân lực, hành chính và quản lý
môi trường giáo dục. Trong quản lý dạy học, giáo dục là trọng tâm.
Nhà quản lý ở mỗi loại hình nhà trường, mỗi bậc học sẽ phải đảm bảo
vận dụng khác nhau khi thực hiện nguyên lý giáo dục. Tuy vậy, nhà quản lý
phải đảm bảo vấn đề cốt yếu đó là: xác định mục tiêu quản lý của nhà trường,
xác định cụ thể nội dung các mục tiêu quản lý.
Mục tiêu quản lý của nhà trường thường được cụ thể hóa trong kế
hoạch năm học, những mục tiêu này là các nhiệm vụ chức năng mà tập thể
nhà trường thực hiện suốt năm học.

Trên cơ sở hoạch định các mục tiêu một cách cụ thể, quản lý nhà
14


trường phải cụ thể hóa cho từng mục tiêu. Những nội dung này là sức sống
cho mục tiêu, là điều kiện trở thành hiện thực.
Tóm lại, quản lý trường học là quản lý giáo dục được thực hiện trong
phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, thực hiện nhiệm vụ
giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. Hiện nay các nhà quản lý trường
học quan tâm nhiều đến các thành tố mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ
chức quản lý và kết quả; đó là các thành tố trung tâm của quá trình sư phạm,
nếu quản lý và tác động hợp quy luật sẽ đảm bảo cho một chất lượng tốt trong
nhà trường.
Quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có hướng đích của hiệu
trưởng đến con người (giáo viên, cán bộ nhân viên và học sinh) đến các
nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin...) hợp quy luật ( quy luật quản
lý, quy luật kinh tế; quy luật giáo dục; quy luật tâm lý; quy luật xã hội...)
nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học... có
tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường
phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được giáo dục, tức là cụ
thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực,
đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước.
Có thể coi nhà trường là bộ mặt của hệ thống giáo dục quốc dân, các
quan điểm, đường lối, chính sách giáo dục đều được thực hiện trong nhà
trường. Do đó, quản lý nhà trường, còn có nghĩa là tổ chức các lực lượng
trong và ngoài nhà trường biến các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách giáo dục của Đảng và Nhà nước thành hiện thực.
1.2.4. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
- Khái niệm về biện pháp: Theo từ điển tiếng Việt, biện pháp là cách

làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
- Khái niệm về biện pháp quản lý hoạt động dạy học: Là cách quản lý
15


của người lãnh đạo nhà trường với toàn bộ quá trình hoạt động của giáo viên
và học sinh trong nhà trường.
- Khái niệm về biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc: Là
cách thức quản lý toàn bộ quá trình hoạt động dạy và học môn Âm nhạc trong
nhà trường của Hiệu trưởng đối với giáo viên bộ môn và học sinh.
1.3. Một số vấn đề về quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở
trường trung học cơ sở
1.3.1. Khái quát về môn Âm nhạc ở trường Trung học cơ sở
Với tư cách là một chức năng xã hội, giáo dục - đào tạo con người là
nhiệm vụ đặc trách và trực tiếp của nhà trường phổ thông, trong đó có đào tạo
và giáo dục thẩm mỹ, giáo dục nghệ thuật. Nó được tiến hành trong một quá
trình có tổ chức kế hoạch chặt chẽ với nhiều giai đoạn và nhiều hình thức, nội
dung hoạt động giáo dục khác nhau, hợp thành một hệ thống, mà trước đây ta
vẫn gọi là Đức, Trí, Thể, Mĩ, hướng vào việc lĩnh hội những giá trị văn hóa,
những kinh nghiệm xã hội của con người, xây dựng và phát triển ở con người
những nhân cách mới, căn cứ vào mục đích, yêu cầu, điều kiện giáo dục của
xã hội quy định.
Việc “coi trọng đúng mức giáo dục thẩm mĩ, giáo dục âm nhạc” là mặt
giáo dục đến nay đang còn yếu và thiếu, đòi hỏi chúng ta hơn lúc nào hết là
phải đặt mạnh vấn đề không chỉ là triển khai rộng khắp mà là tổ chức học tập
môn Âm nhạc một cách có kết quả ở trường phổ thông, làm cho Âm nhạc
đích thực đi vào các em, làm cho các em yêu thích, và hơn nữa, còn tham gia
tích cực vào việc sáng tạo nên những cái hay, cái đẹp trong Âm nhạc, bằng
Âm nhạc và qua Âm nhạc.
Hiện nay, bên cạnh những tiến bộ ở ngoài xã hội và trong nhà trường

cũng còn kèm theo cái lạc hậu, chưa hay, chưa đẹp. Chúng đan xen, va chạm,
đấu tranh hàng ngày. Có lúc cái lạc hậu còn lấn lướt, có những biểu hiện về

16


thị hiếu thấp kém, lố lăng, thiếu văn hóa, phản thẩm mĩ, không hay, không
đẹp. Nếu không quan tâm, có nguy cơ sẽ dẫn đến hiện tượng tâm lý thờ ơ, tê
liệt những tình cảm thẩm mĩ, đạo đức, không còn khả năng phản ứng nhạy
bén trước những cái không hay, cái dở.
Nếu ở con người, nhu cầu về thẩm mĩ là nhu cầu tinh tế và cao quý, ý
thức về cái đẹp, cái hay là ý thức có tính nhân loại cao thì trong cấu trúc
nền giáo dục phổ thông hiện đại, giáo dục thẩm mĩ nói chung và giáo dục
Âm nhạc nói riêng, phải là bộ phận mang tính đặc thù, có cấp độ cao
tương xứng với nó.
Ở trường phổ thông, các môn học khác đều được xây dựng và lấy tác động
hình thành nhân cách học sinh theo hướng chủ yếu: từ trí tuệ đến tình cảm, thì
ngược lại, môn học Âm nhạc lại được xây dựng, lấy tác động hình thành nhân
cách học sinh theo hướng chủ yếu: trực tiếp từ tình cảm đến trí tuệ, tạo ra một sự
kết hợp hài hòa, và do đó, nó là môn học không thể thiếu được.
Mục đích giáo dục Âm nhạc, bao gồm những mục tiêu yêu cầu giáo
dục cụ thể, là sự phản ánh kết quả mong muốn sau một quá trình giáo dụcdạy học. Kết quả ấy cũng chính là mô hình hay kiểu nhân cách cần hình
thành, kiểu tập thể cần xây dựng ở học sinh thông qua môn học Âm nhạc.
Giáo dục Âm nhạc là một hình thức giáo dục nghệ thuật mang tính đặc thù.
Nó có khả năng liên kết, sử dụngcũng như hỗ trợ, xen lồng vào tất cả các hình
thức nội dung giáo dục khác làm cho chúng đạt đến hiệu quả cao trong việc
thực hiện những yêu cầu mục tiêu giáo dục. Nhưng với nhiệm vụ, chức năng
chủ yếu của mình, giáo dục Âm nhạc trước hết thể hiện cho được mục tiêu,
yêu cầu giáo dục trội bật của mình là giáo dục thẩm mĩ.
Nắm vững mục đích trội bật này là một yêu cầu hết sức quan trọng.

Nhưng để thực hiện trên thực tế có kết quả mục đích yêu cầu giáo dục này lại
đòi hỏi phải tìm hiểu, nắm vững bản chất đặc trưng của nghệ thuật Âm nhạc.
1.3.1.1. Mục tiêu của môn Âm nhạc ở trường trung học cơ sở
17


- Trang bị cho học sinh một số kiến thức, kỹ năng ca hát, đọc và nghe
nhạc, về lý thuyết âm nhạc đơn giản để một chừng mực nào đó, các em có thể
tham gia vào các hoạt động âm nhạc của cộng đồng.
- Hình thành cho học sinh những hiểu biết sơ đẳng về cái hay, cái đẹp
trong nghệ thuật âm nhạc, về ý nghĩa tác dụng của âm nhạc với đời sống.
- Mở rộng hiểu biết về truyền thống âm nhạc dân tộc Việt Nam, tinh
hoa âm nhạc thế giới, góp phần bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, trí tuệ, tạo
không khí vui tươi lành mạnh, làm phong phú thế giới tinh thần nhằm phát
triển hài hòa, toàn diện nhân cách học sinh.
1.3.1.2. Đặc điểm chương trình môn Âm nhạc ở trường trung học cơ sở
Môn âm nhạc có rất nhiều những phân môn nhỏ như: âm nhạc thường
thức, học hát, tập đọc nhạc...Trong đó phân môn học hát được các em tiếp
nhận một cách hết sức nhiệt tình, tự nhiên bởi tính đặc thù của phân môn này
phù hợp với sở thích, tâm lý lứa tuổi... của các em.
- Với phân môn học hát: Hát có vị trí quan trọng trong đời sống con
người, bài hát phản ánh một cách hình tượng những khái niệm sâu sắc về
cuộc sống, thiên nhiên, con người và tất cả các mối quan hệ, tư tưởng, tình
cảm. Hoạt động ca hát ảnh hưởng trực tiếp đến con người bằng tác động của
âm nhạc và lời ca. Giọng hát không chỉ là phương tiện thể hiện cảm xúc suy
nghĩ của người hát mà còn khơi dậy ở người nghe những xúc động tương ứng,
những hiểu biết nhất định đem lại sảng khoái thẩm mĩ, sức diễn cảm của
giọng hát cùng những cử chỉ, thái độ, nét mặt phù hợp rất thu hút học sinh.
Nó khơi dậy ở học sinh những cảm xúc hướng tới Chân, Thiện, Mỹ.
Ca hát là một hoạt động quan trọng, bản chất của nó là thông qua luyện tập

giúp học sinh có tinh thần sảng khoái và tạo cho học sinh có những ước mơ
tươi đẹp. Vì vậy môn học này thực sự tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Trong chương trình dạy ở phân môn “Học hát” bậc THCS, việc giúp các em

18


nắm được các kỹ năng hát thực sự còn có những điểm hạn chế, chưa đi sâu
vào việc biểu diễn, thể hiện nội dung tác phẩm… Hầu hết các em chỉ hát theo
cảm tính, phản xạ tự nhiên là thuộc lời ca và giai điệu của bài hát. Nhiều em
hát còn không rõ lời, nhiều tiếng địa phương... Song trong thực tế để thể hiện
thành công được một bài hát hay chúng ta cần rất nhiều yếu tố như: Tư thế
hát, đứng, biết cách luyện tập hơi thở, luyện giọng, tập hát rõ lời, và tập các kĩ
thuật hát như: hát liền tiếng ( Legato), hát nẩy tiếng ( Stacato)...
Các kỹ năng nêu trên chưa hình thành thì khi hát cũng kém phần sôi
nổi, hào hứng, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng bồi dưỡng một số học sinh có
năng khiếu âm nhạc.
- Với phân môn Nhạc lí -Tập đọc nhạc: Phân môn này được coi như
bước khởi đầu cho những người bắt đầu học nhạc, được coi như những con số
với nhà toán học; những chữ cái đầu tiên với người học văn hóa…Từ những
ký hiệu được trình bày trên 5 hàng kẻ được gọi là khuông nhạc, các em học
sinh sẽ biết được đó là những ký hiệu âm nhạc hoặc nốt nhạc, mỗi nốt có một
tên gọi khác nhau( có 7 nốt), có một vị trí âm thanh cao thấp khác nhau. Từ
đó các em có thể “giải mã” được những giai điệu mà các nhạc sĩ sống cách
chúng ta hàng trăm năm hay nhạc sĩ đương thời, không phân biệt màu da,
châu lục…Các em có thể hiểu được nội dung chủ đề, tư tưởng của các tác
giả…. Bên cạnh đó, môn học giúp các em có thể ghi lại được những giai điệu,
những âm thanh mang thuộc tính nhạc…các em có thể chép lại những giai
điệu đó thành những nốt nhạc, bản nhạc… quả là điều kỳ diệu. Phân môn Tập
đọc và ghi nhạc là môn học đầu tiên với những người học nhạc nhưng cũng là

môn học gắn liền với những học sinh trong các Học viện, Nhạc viên, hoặc các
trường Âm nhạc trong thời gian tương đối dài ( từ Sơ cấp, Trung cấp đến Đại
học đều phải học môn môn này. Tuy nhiên, với học sinh Trung học cơ sở,
mục tiêu đặt ra cho chúng ta chỉ cần trang bị cho học sinh nắm được tên nốt,

19


các ký hiệu đơn giản, đọc được các bài nhạc dễ, có khả năng nhận biết, chép
ra được những nốt, những giai điệu đơn giản mà thôi. Tránh tình trạng để học
sinh thấy khó, gây tâm lý ngại học hoặc sợ môn học này.
- Với phân môn Âm nhạc thường thức: Là phân môn trang bị cho học
sinh hiểu được thân thế, sự nghiệp hoặc cao hơn là nắm được đặc điểm
sáng tác của các nhạc sĩ từ các thời kỳ xa xưa đến nay và các kiến thức
khác về Âm nhạc. Phân môn cũng giới thiệu nhiều câu chuyện, nhiều
gương học tập phấn đấu, vượt khó của các nhạc sĩ, qua đó giáo dục cho học
sinh nhiều bài học bổ ích…
1.3.1.3. Nội dung chương trình môn Âm nhạc ở các trường THCS
Nội dung môn Âm nhạc ở trường THCS được tiến hành thông qua ba
phân môn: học Hát; Lý thuyết Âm nhạc và Tập đọc nhạc; Âm nhạc thường thức.
Học Hát là trọng tâm, lý thuyết và Tập đọc nhạc là cơ sở và Âm nhạc thường
thức làm nhiệm vụ nâng cao nội dung giảng dạy Âm nhạc ở trường THCS.
Phân môn học Hát
Toàn cấp Trung học cơ sở, học sinh được học 28 bài hát, mỗi lớp 8 bài,
riêng lớp 9 học 4 bài.
- Chủ điểm: Các bài hát về quê hương đất nước, hòa bình và hữu nghị
các dân tộc Việt Nam và thế giới, truyền thống dân tộc, gia đình, nhà trường,
các sinh hoạt của tuổi học sinh…
- Thể loại: bao gồm các ca khúc thiếu nhi, các ca khúc quần chúng, ca
khúc nghệ thuật, dân ca Việt Nam và bài hát nước ngoài…

- Hình thức: Các bài hát ở hình thức Một đoạn, Hai đoạn, Ba đoạn đơn.
- Âm vực: Các bài hát có âm vực trong phạm vi quãng 11
- Qua việc học tập và rèn luyện các bài hát, rèn luyện cho học sinh những
kĩ năng ca hát thông thường như:
+ Tư thế ngồi, đứng hát

20


+ Hơi thở (cách lấy hơi)
+ Phát âm, nhả chữ
+ Hát theo tay chỉ huy…
Thông qua học hát, rèn luyện cho các em có ý thức tham gia hoạt động
ca hát, bước đầu biết diễn cảm bài hát( biểu cảm). Từ đó giáo dục học sinh
yêu thích nghệ thuật ca hát.
Phân môn Nhạc lý- Tập đọc nhạc
Nhạc lý: Dạy những kí hiệu ghi chép âm nhạc đơn giản, thông thường
nhất. Có khái niệm về yếu tố cơ bản của âm nhạc như cao độ, trường độ, giai
điệu, tiết tấu, nhịp, sắc thái, cường độ, giới thiệu sơ lược về cung, quãng,
gam, giọng trưởng, giọng thứ.
Tập đọc nhạc: Tập đọc nhạc các bài nhạc giọng Đô trưởng hoặc La thứ
là chủ yếu, áp dụng các nhịp thông dụng như 2/4; 3/4; 4/4; 6/8 với các âm
hình tiết tấu đơn giản và những giai điệu dễ đọc.
Phân môn Âm nhạc thường thức
Nghe nhạc có dẫn giải khoảng 20 tác phẩm, qua đó giới thiệu một số
tác giả tiêu biểu của âm nhạc Việt Nam và thế giới (một số nhạc sĩ Việt Nam
được giải thưởng Hồ Chí Minh, một số nhạc sĩ quen biết với trẻ em và một
vài nhạc sĩ thuộc trường phái cổ điển và lãng mạn phương Tây)
- Giới thiệu một vài nhạc cụ dân tộc và nhạc cụ phương Tây phổ biến
- Giới thiệu sơ lược về dân ca Việt Nam, một số sinh hoạt âm nhạc dân

gian, dân ca một số vùng miền tiêu biểu…
- Một vài thể loại âm nhạc phổ biến. Đôi nét về sáng tác âm nhạc cho thiếu
nhi.
- Tác dụng và ảnh hưởng của âm nhạc trong đời sống xã hội.
- Về cấu trúc môn học có chỗ cũng còn chưa hợp lý, ví dụ:
+ Bài số 4 lớp 6 (bài tập đọc nhạc của Mô Da): giai điệu trúc trắc, học

21


sinh đọc thường đứt hơi giữa chừng(tiết tấu móc đơn từ nốt Đô1 đến Đô
2 sẽ hay dừng lại; lớp 6 là lớp đầu cấp, bài lại sử dụng một loạt nốt có
cao độ phức tạp); nếu giáo viên không vững vàng về chuyên môn thì cũng
sẽ bị vấp, khó khăn? Học sinh thành phố còn đỡ, học sinh nông thôn nắm
bài chắc là khó khăn?
+ Lớp 9: tập bài hát “Nối vòng tay lớn” trong 1 tiết cuối chương trình,
trong khi bài hát thì rất quen thuộc, phải chăng là quá dễ?
+ Tiết 2 lớp 9: bài giới thiệu về quãng; tính chất quãng; giọng son trưởng;
tập đọc nhạc, phải chăng là nặng?
+ Tiết 19 lớp 7: sơ lược về quãng sau đó bỏ đi một năm lớp 8, đến lớp 9
mới quay lại, phải chăng là bất hợp lý?
- Giáo viên bộ môn Âm nhạc hiện nay nói chung khả năng sử dụng công
nghệ tin học vào bài giảng còn hạn chế, có nhiều trường hợp chỉ sử dụng
mang tính hình thức. Các giáo án điện tử chưa khai thác được nhiều công
năng cũng như kiến thức cho học sinh tiếp thu.
- Khả năng sử dụng nhạc cụ đàn Orgal của giáo viên nói chung còn hạn
chế. Phần lớn chỉ sử dụng nhạc cụ ở mức độ bấm đúng nốt theo giai điệu của
bài? Mà chưa khai thác được các tính năng của cây đàn để từ đó sử dụng đàn
thành thạo, có thể đệm hát cho bản thân giáo viên hay học sinh trong giờ học,
trong các chương trình văn nghệ của nhà trường.

- Việc sưu tầm các học liệu cho môn học Âm nhạc ở các trường còn nhiều
hạn chế, đang còn giới hạn ở việc phô tô, phóng to các tranh, ảnh trong tài
liệu sách giáo khoa. Ít trường chịu đầu tư mua sắm học liệu hay cho làm mô
hình mô phỏng hoặc sưu tầm các loại băng đĩa hình (kể cả việc Downlload từ
mạng về).
1.3.2. Hiệu trưởng với việc quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở

22


trường Trung học cơ sở
1.3.2.1. Vai trò của Hiệu trưởng trong việc quản lý hoạt động dạy học
môn Âm nhạc ở trường Trung học cơ sở :
- Hiệu trưởng là người thường xuyên giáo dục tư tưởng cho giáo viên và
học sinh trong trường nhìn nhận một cách đúng đắn về môn Âm nhạc
- Âm nhạc là một môn học đặc thù, số lượng giáo viên môn này trong
trường thường là ít, không thể thành lập được tổ chuyên môn riêng nên phải
ghép vào tổ khác, vì vậy Hiệu trưởng có vai trò quan trọng trong việc giải
quyết các vấn đề về tâm lý của các giáo viên và bản thân giáo viên môn Âm
nhạc.
- Hiệu trưởng là người vạch ra các kế hoạch hoạt động, các yêu cầu về đổi
mới dạy, học nhằm nâng cao chất lượng dạy- học môn Âm nhạc.
- Hiệu trưởng là người chỉ đạo tất cả các hoạt động trong nhà trường, trong
đó mọi hoạt động bề nổi như các cuộc thi văn nghệ, các cuộc giao lưu văn hoá
trong trường, ngoài trường.
- Hiệu trưởng dựa trên các đề nghị của giáo viên bộ môn Âm nhạc, xem
xét giải quyết, đầu tư về cơ sở vật chất cho bộ môn, nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học môn Âm nhạc.
Để thực hiện các vai trò trên một cách có hiệu quả, Hiệu trưởng cần chú ý
tới một số nhiệm vụ sau đây:

- Xây dựng kế hoạch, tổ chức chỉ đạo các thành viên trong trường (có phối
hợp với các lực lượng bên ngoài), phát huy vai trò làm chủ, ra sức thi đua
“Dạy tốt. học tốt”, tiến hành các hoạt động giáo dục cơ bản theo chỉ thị,
hướng dẫn của cấp trên nhằm thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục của địa
phương và nâng cao chất lương đào tạo. Đây là nhiệm vụ trung tâm của Hiệu
trưởng vì nó quyết định trực tiếp việc đào tạo học sinh theo mục tiêu giáo dục.
- Chỉ đạo xây dựng các điều kiện giáo dục (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật

23


×