Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tịnh độ tông và biểu hiện của nó trong phật giáo việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN VĂN QUÝ

TỊNH ĐỘ TÔNG VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Tôn giáo học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------

NGUYỄN VĂN QUÝ

TỊNH ĐỘ TÔNG VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quốc Tuấn


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những
cứ liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Quý


LỜI CẢM ƠN
Đến nay, trải qua hơn hai năm học tập phấn đấu, luận văn đã hoàn
thành. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dạy
bảo trong suốt thời gian theo học tại khoa Sau Đại học, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả cũng trân
trọng cảm ơn Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Tôn giáo, thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành nhiệm vụ học
tập của mình, đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy
cô khoa Triết học, Cô giáo Chủ nhiệm PGS, TS. Trần Thị Kim Oanh; cảm
ơn tập thể lớp K20, chuyên ngành Tôn giáo học và bạn bè đồng nghiệp.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hướng dẫn, đồng
thời cũng là Thủ trưởng đơn vị nơi tôi đang công tác, TS. Nguyễn Quốc
Tuấn. Thầy đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn này, đồng thời
chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu cho đến khi
luận văn này hoàn thành.
Do khả năng và thời gian học tập, nghiên cứu chưa nhiều, mặc dù bản

thân đã có nhiều cố gắng, song cũng không tránh khỏi những thiếu sót, tác
giả mong nhận được sự chỉ dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng
nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Quý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 7
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................................ 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................... 14
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 14
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 15
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 15
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................... 15
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG.
.................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái quát về lịch sử ra đời và phát triển của Tịnh Độ tông . Error!
Bookmark not defined.
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Tịnh Độ..... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Sự phát triển của Tịnh Độ tông . Error! Bookmark not defined.
1.2. Giáo lý, phương pháp tu tập cơ bản của Tịnh Độ tông. ........ Error!
Bookmark not defined.
1.2.1. Giáo lý ....................................................................................... 30
1.2.2. Phương pháp tu tập.................... Error! Bookmark not defined.

Tiểu kết chương 1 .............................................................................. 43
CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ DU NHẬP, PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG BIỂU
HIỆN CƠ BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG TRONG PHẬT GIÁO VIỆT
NAM ......................................................................................................... 45
2.1. Tịnh Độ tông ở Việt Nam ............................................................... 45


2.1.1. Lịch sử du nhập và phát triển của Tịnh Độ tông ở Việt Nam .. 45
2.1.2. Vai trò của Tịnh Độ tông trong việc hình thành một số tôn giáo
nội sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ................................... 57
2.2. Những biểu hiện cơ bản của Tịnh Độ tông trong Phật giáo Việt Nam
hiện nay ................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Vị trí của Di Đà Tam Tôn trong các ngôi chùa ở Việt Nam
............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Tư tưởng Thiền - Tịnh; Phước - Huệ song tu trong Phật giáo Việt
Nam ...................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Vai trò của tu tập Tịnh Độ đối với tín đồ Phật giáo Việt Nam.. 84
Tiểu kết chương 2 ............................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .............................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 92
DANH MỤC MỘT SỐ CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN .............................................................. 99
PHỤ LỤC ............................................................................................... 101


CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

Tịnh Độ tông

: TĐT


Bửu Sơn Kỳ Hương

: BSKH

Tứ Ân Hiếu Nghĩa

: TÂHN

Phật Giáo Hòa Hảo

: PGHH

Tịnh Độ Cư Sỹ Phật Hội Việt Nam

: TĐCSPHVN

Nhà xuất bản

: Nxb


DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC TRONG LUẬN VĂN

Phụ lục 1: Tranh ván khắc Phật A Di Đà
Phụ lục 2: Tranh ván khắc Di Đà Tam Tôn
Phụ lục 3: Tranh ván khắc A Di Đà Phật tiếp dẫn thiện nhân vãng sinh Tây
phương
Phụ lục 4: Phật A Di Đà trên mũ Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn
Phụ lục 5: Nhân hành quả báo của ba bậc vãng sinh

Phụ lục 6: Nhân hành quả báo của chín phẩm vãng sinh
Phụ lục 7: Tòa Cửu phẩm liên hoa ở chùa Mía, xã Đường Lâm, Sơn Tây
Phụ lục 8: Sơ đồ bài trí tượng thờ của Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo Phật kể từ khi du nhập vào Việt Nam đã hòa quyện với tín ngưỡng,
văn hóa bản địa và trở thành động lực để Phật giáo gắn bó, đồng hành cùng dân
tộc Việt Nam. Trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, đạo Phật đã có
những ảnh hưởng to lớn trên mọi mặt chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa… và
cho đến nay, Phật giáo Việt Nam đã có bản sắc riêng của mình, là một bộ phận
không thể tách rời của văn hóa dân tộc.
Từ Ấn Độ, đạo Phật dần lan tỏa ra các khu vực xung quanh và có những
thăng trầm khác nhau và ở mỗi nơi, mỗi thời điểm, đạo Phật đã có những phương
thức uyển chuyển để thích nghi với môi trường, với phong tục, tập quán của nơi
nó truyền đến. Do đó, đạo Phật cũng trở lên đa dạng hơn, phong phú hơn và cũng
phức tạp hơn với sự xuất hiện nhiều bộ phái, hệ phái... Thậm chí, ngay trong
phương pháp tu hành, đôi khi cũng có sự dị biệt, điều này dường như không quá
quan trọng, bởi cốt làm sao dẫn dắt hành giả chứng ngộ được chân lý tối
thượng…
Phật giáo nguyên thủy, hay phần lớp các tông phái thuộc Phật giáo Đại
thừa như Thiền tông, Mật tông, Hoa Nghiêm tông… chú trọng tự lực, khẳng định
tương lai của con người tùy thuộc vào hành vi của chính mình, bằng sự cố gắng
nỗ lực của chính bản thân người tu hành, thì TĐT với sự nhận thức mới, quan
niệm mới, phương pháp tu tập mới về sự thay đổi, cứu độ bằng sức mạnh của
người khác, bằng niềm tin, sự tôn thờ Phật A Di Đà. Nghĩa là phương pháp này
chú trọng đến tha lực, nhờ Phật lực mà được vãng sinh Tịnh Độ. Do đó, TĐT
ngay từ khi ra đời đã ứng được nhu cầu của mọi người, mọi giai tầng trong xã hội,

không phân biệt người giàu hay người nghèo, bậc thượng căn hay hạ căn về một
đời sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Vì vậy, TĐT đã và đang tiếp tục được phổ
biến tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
Phật giáo Việt Nam là sự kết hợp giữa Thiền tông, TĐT và Mật tông hay Thiền –
Tịnh song tu... Như thế, TĐT có một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử Phật
1


giáo Việt Nam. Tuy nhiên, cũng thật khó phân tách một cách rõ ràng đâu là Thiền
tông, đâu là Mật tông và đâu là TĐT nếu không xem xét chúng trên các bình diện
khác nhau, chẳng hạn như lịch sử, lịch sử tư tưởng của từng tông phái, phương
pháp tu tập hay cách bài trí tượng thờ trong các ngôi chùa… Vậy, TĐT ở Việt
Nam biểu hiện trên như thế nào; nó được thế hệ các nhà tu hành tu tập ra sao; nó
có vị trí, vai trò như thế nào trong việc hình thành một số tôn giáo nội sinh ở Nam
Bộ trong các thế kỷ 19, 20… không phải là câu hỏi dễ dàng trả lời.
Xuất phát từ nhưng ý tưởng nghiên cứu như thế về TĐT ở Việt Nam, nhiều
chiều cạnh khác nhau về Tịnh Độ ở Việt Nam sẽ còn được tiếp tục nghiên cứu,
chẳng hạn ở Việt Nam có tồn tại TĐT theo tiêu chí có truyền thừa, có tổ đình,…
hay chỉ tồn tại với tư cách là tư tưởng, một pháp môn tu tập. Nhằm tìm hiểu một
cách toàn diện hơn, sâu hơn về TĐT ở Việt Nam, cho nên ở đề tài này, sau khi
được sự góp ý của Hội đồng thẩm định đề cương, về tên gọi, chúng tôi đặt tên là
“Tịnh Độ tông và biểu hiện của nó trong Phật giáo Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Tôn giáo học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đề tài:“Tịnh Độ tông và biểu hiện của nó trong Phật giáo Việt Nam hiện
nay” đã có một số công trình đề cập đến ở các chiều cạnh khác nhau.
Trước hết, về nguồn gốc tư tưởng: TĐT lấy ba bộ kinh làm nền tảng hình
thành “tông” đó là Kinh Vô lượng thọ, kinh Quán vô lượng thọ, kinh A di đà. Ba
bộ kinh này đã đề cập trực tiếp nguồn gốc tư tưởng, giáo lý và phương pháp tu tập

Tịnh Độ. Ngoài ra, liên quan đến tư tưởng Tịnh Độ, chúng ta còn thấy trong các
bộ kinh như Hoa nghiêm kinh, Diệu pháp liên hoa kinh đã thấy sự xuất hiện Bồ
tát Quán Thế Âm. Trong một số bộ luận như Đại thừa khởi tín luận của Mã Minh
đã có sự ngợi ca pháp môn niệm Phật hay những bộ Trung quán luận, Thập trung
luận, Thập nhị môn luận, Đại thừa phá hữu luận của Long Thọ, dù nội dung
chính là đề cập đến giáo lý Đại thừa, nhưng cũng bao gồm cả tư tưởng vãng sinh
Tịnh Độ theo các khuynh hướng khác nhau. Và quan trọng nhất là bộ Vãng sinh
Tịnh độ luận của Thế Thân, mà sau này tín đồ TĐT lấy làm nền tảng lý luận đầu
tiên của tông phái mình.

2


Về sự hình thành và phát triển của TĐT. Trong các công trình nghiên cứu
về lịch sử Phật giáo thế giới đề cập đến sự hình thành và phát triển của TĐT, đáng
chú ý là cuốn Lược sử Phật giáo do Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải (Nxb
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh) cho biết, vào thời Hán, tín ngưỡng thờ Phật A
Di Đà đã phổ biến nhờ vào các bản dịch của An Thế Cao vào năm 150 sau Công
nguyên; cuốn Lịch sử Phật giáo do Nguyễn Tuệ Chân biên dịch (Nxb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh) lại cho biết trên bình diện khác, đó là việc Tông Hiểu
(1151 – 1214) trước tác bộ Lạc bang văn loại để tuyên dương pháp môn Tịnh Độ,
và chính ông là người suy tôn Đông Tấn Lô Sơn Huệ Viễn là vị Tổ đầu tiên của
TĐT. Sau đó, ông còn đề cử năm vị kế nối làm tổ TĐT, hình thành truyền thừa
của TĐT. Trong bộ sách này còn nêu một điểm rất đáng lưu ý, đó là tăng nhân
Chí Bàn đã viết bộ Phật tổ thống ký, trong đó, vị tăng nhân này đã có sự chỉnh sửa
và bổ sung thêm hai vị thành bẩy vị tổ của TĐT; cuốn Lịch sử Phật giáo Trung
Quốc do Pháp sư Thánh Nghiêm trước tác, bản dịch của Thích Tâm Trí (Nxb
Phương Đông) đã giới thiệu khái quát toàn bộ lịch sử Phật giáo Trung Quốc từ
thời Hán cho đến thời Dân quốc, trong đó có nêu mối quan hệ giữa Phật giáo,
TĐT với Nho giáo, Đạo giáo và sự hưng thịnh của từng hệ phái...

Như vậy, qua các công trình nêu trên, có thể thấy, nguồn gốc tư tưởng Tịnh
Độ, phương pháp tu tập, sự hình thành và phát triển của TĐT đã được đề cập trên
các bình diện khác nhau nhưng chưa được làm rõ ở Ấn Độ, nhất trong mối liên hệ,
qua lại với các tông phái Phật giáo khác ở Trung Quốc.
Trong các công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, chúng tôi
đặc biệt quan tâm các bộ lịch sử Phật giáo trong thời gian gần đây như: Lịch sử
Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, 1988);
Lịch sử đạo Phật Việt Nam của PGS. Nguyễn Duy Hinh (Nxb Tôn giáo và Nxb.
Từ điển Bách Khoa); Lịch sử Phật giáo Việt Nam của GS. Lê Mạnh Thát (Nxb
Thuận Hóa. Huế 1999); Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng tọa Mật Thể
(Nxb Tôn giáo, 2004)... Hay các công trình chuyên khảo như: Tư tưởng Phật giáo
Việt Nam, Triết học Phật giáo Việt Nam của PGS. Nguyễn Duy Hinh (Nxb Khoa
học Xã hội; Nxb. Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa), Nghiên cứu về Thiền uyển
tập anh của GS. Lê Mạnh Thát (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh)… đã giới thiệu
3


khá đầy đủ về quá trình truyền nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam. Trong
các công trình này, các học giả này đã dẫn khá nhiều chi tiết có liên quan đến tư
tưởng Tịnh Độ. Chẳng hạn như PGS. Nguyễn Duy Hinh đã trưng dẫn các tác
phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội và cho
rằng, nội dung bố thí từ bi nhẫn nhục tuy là lý luận Đại thừa, thuộc tư tưởng Đại
thừa nhưng phần nào đó có tư tưởng Tịnh độ và ta vẫn thấy được những sinh hoạt
Phật giáo thời kỳ này khá phong phú, ngoài những tư tưởng Phật giáo Đại thừa
còn thấy tín ngưỡng Tịnh Độ… Trong các công trình của học giả Lê Mạnh Thát,
chẳng hạn bộ chuyên khảo Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh cũng đề cập đến tư
tưởng Tịnh Độ qua một số thiền sư thuộc các thiền phái khác nhau, nhưng các vị
thiền sư này lại hành trì theo pháp môn Tịnh Độ như Thiền sư Tịnh Lực (11121175), Thiền sư Trì Bát (1049 – 1117) nhân tưởng niệm Phật A Di Đà ở thế giới
Cực lạc, nên dựng một đạo tràng lớn... Tác phẩm Cao tăng truyện của Huệ Hạo
(497 – 554) có chép về một nhà sư tên là Đàm Hoằng (? – 455) người Trung Quốc

đến nước ta tu học và chuyên tụng Vô lượng thọ và Quán kinh, lòng thề về An
dưỡng như một bằng chứng về phương pháp tu tập Tịnh Độ và được đề cập đến
trong hầu hết các công nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam nêu trên.
Hơn nữa, các bộ sử Phật giáo Việt Nam khi đề cập đến các giai đoạn trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam đã ít nhiều đề cập đến tư tưởng Tịnh Độ và biểu hiện
của nó. Chẳng hạn vào thời thời Đinh – Tiền Lê, thời Lý – Trần, ngoài những sử
liệu mà các học giả trưng dẫn liên quan đến Thiền tông, Thiền tông kết hợp với tín
ngưỡng bản địa, kết hợp với Đạo giáo mang nhiều yếu tố Mật tông, còn có những
sử liệu được các học giả nghiên cứu và đánh giá thời kỳ này cả chính quyền
phong kiến và nhân dân đã đề cao sự cứu vớt của Phật A Di Đà cùng các vị Bồ
tát, đặc biệt là Quan Thế Âm bồ tát. Vì vậy, tư tưởng Tịnh Độ vẫn tồn tại, phát
triển và được bảo lưu trong sự dung hoà với Thiền tông, Mật tông. Vào thời Trần,
dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử được vua Trần Nhân Tông kiến lập, mang đậm tính
dân tộc, dù tư tưởng mang đậm dấu ấn của Mã Tổ Đạo Nhất nhưng vẫn có sự kết
hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa Thiền tông và Tịnh Độ, đạo và đời… Và trong các
công trình này đều khẳng định, ở Việt Nam, tư tưởng Tịnh Độ không phát triển
thành một “tông” như ở Trung Quốc hay Nhật Bản.
4


Qua các nguồn tư liệu trên đã cho thấy phần nào sự phát triển của tư tưởng,
phương pháp tu tập Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam nhưng chưa đề cập đến
vấn đề bài trí đối tượng thờ phụng hay vai trò tu tập Tịnh Độ của tín đồ Phật giáo
Việt Nam, mặc dù trong các công trình này còn nêu khá rõ đến thế kỷ 16, 17 đã có
một số tác phẩm viết về Tịnh Độ, phiên âm và chú giải kinh tạng Tịnh Độ.
Về nguồn thư tịch Hán Nôm, chúng tôi quan tâm đến ba công công trình
nghiên cứu Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia; Văn bia thời Mạc của
PGS.TS. Đinh Khắc Thuân (Nxb Khoa học Xã hội); Một số vấn đề về văn bia Việt
Nam của Trịnh Khắc Mạnh (Nxb Khoa học Xã hội)… Đây là những công trình cơ
bản nghiên cứu về thư tịch, văn bia Việt Nam qua các thời kỳ trong lịch sử Việt

Nam. Tuy nhiên, trong các công trình này, một số thư tịch và văn bia cho biết từ
thời Hậu Lê đến thời Nguyễn thì tư tưởng Tịnh Độ ngày càng rõ rệt hơn, đó là sự
xuất hiện của Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm trong các ngôi chùa.
Về luận văn, luận án, hiện chúng tôi mới chỉ biết đến công trình Pháp tu
Tịnh độ và tượng Phật A di đà trong các ngôi chùa Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ
của Đinh Viết Lực. Mặc dù luận án tiến sĩ này đã đề cập đến pháp tu Tịnh Độ, quá
trình du nhập và phát triển của pháp môn Tịnh Độ và tượng Phật A Di Đà cùng hệ
thống tượng bài trí trong các cơ sở thờ tự, nhưng công trình này chỉ đề cập trong
phạm vi ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, hơn nữa chúng tôi cũng chưa thỏa mãn về vị
trí của Di Đà Tam Tôn và một số vị trí khác của Phật A Di Đà trong các ngôi
chùa. Về tư tưởng Tịnh Độ cũng chưa được tác giả lưu tâm nghiên cứu sâu và
cũng chưa đề cập đến vai trò của nó trong việc hình thành một số tôn giáo nội sinh
ở Nam Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
Về tượng Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, có
khá nhiều sách viết về Phật A Di Đà và hai vị bồ tát này, nhưng đáng chú ý nhất là
cuốn Tạc tượng và kiến trúc chùa của Mạc Chấn Lương (Nxb Mỹ Thuật) cho biết
ít nhiều hình tượng, vị trí Phật A Di Đà và trưng dẫn khá nhiều hình tượng Bồ tát
Quán Thế Âm,… Ngoài ra còn có các cuốn sách viết về Bồ tát Quán Thế Âm,
chẳng hạn như cuốn Truyền thuyết Quán Thế Âm do Diệu Hạnh – Giao Trinh dịch
(Nxb Phương đông) đã sưu tầm và giới thiệu các dị bản về truyền thuyết liên quan
đến Bồ tát Quán Thế Âm… Tuy nhiên, đây là công trình giới thiệu và cách tạo
5


tượng và kiến trúc chùa ở Trung Quốc, nhưng cho chúng tôi có được sự so sánh
khi viết về vị trí của Di Đà Tam Tôn trong các ngôi chùa ở Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu về vị trí, vai trò của TĐT trong việc hình thành
một số tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đáng chú ý là các
công trình như Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của PGS. Nguyễn Duy Hinh (Nxb
Khoa học Xã hội, 1999), Phật giáo Nam bộ từ thế kỷ XVIII đến năm 1975 của Trần

Hồng Liên (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài do GS.
Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, (Nxb Khoa học Xã hội,1995)… đã đề cập đến sự xuất
hiện của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa… vừa có tinh thần
chống Pháp vừa mang màu sắc Phật giáo, sự kết hợp Phật giáo với lòng yêu nước,
nhưng chưa đề cập đến tư tưởng Tịnh Độ ở vùng Nam Bộ trong hai thế kỷ này. Tuy
nhiên, trong các công trình như Đặc điểm và vai trò của Phật giáo thế kỷ 20 của
TS. Nguyễn Quốc Tuấn (Nxb Từ điển Bách khoa), Phong trào chấn hưng Phật
giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 – 1954) của Lê Tâm Đắc (Nxb Chính trị Quốc
gia) đã cho chúng tôi những điểm nhìn tham chiếu Tịnh Độ ở miền Bắc trên các
chiều cạnh như nguyên nhân, nội dung cơ bản, đặc điểm và vai trò của phong trào
chấn hưng Phật giáo có ảnh hưởng đến Phật giáo Việt Nam. Trong đó, tư tưởng
Tịnh Độ đã được phát triển theo lộ trình mới qua việc xuất bản sách báo, như tạp
chí Viên Âm đã đăng tải những bài thuyết giảng của Tâm Minh Lê Đình Thám về
Pháp môn Tịnh Độ, báo Đuốc Tuệ, báo Phương Tiện đã dành hẳn một chuyên mục
Tôi tu Tịnh Độ, so sánh pháp môn Tịnh Độ với các pháp môn khác để thuyết phục
mọi tu hành theo pháp môn này. Ngoài ra còn có nhiều tạp chí và sách Phật giáo
như tờ Từ Bi Âm, Tiếng Chuông Sớm, Viên Âm, và gần đây là các tạp chí Nghiên
cứu Phật học, Khuông Việt… Nhất là các bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo
trong khoảng 10 năm trở lại đây, chẳng hạn như bài viết “Vài suy nghĩ về tôn giáo
ở Nam Bộ thời cận đại” của GS.TS Đỗ Quang Hưng (Nghiên cứu Tôn giáo, số 1
năm 2000) đã đi sâu về vấn đề hệ thống các tôn giáo ở vùng Nam Bộ, vấn đề nảy
sinh các tôn giáo mới và qua đó, tác giả phân tích một số đặc điểm trong sinh hoạt
tôn giáo ở Nam Bộ thời cận đại đã đem đến cho người đọc biết được nhiều chiều
cạnh khác nhau về các tôn giáo ở Nam Bộ thời cận đại, đặc biệt là nguyên nhân
hình thành các tôn giáo mới, trong đó có Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa…
6


dưới góc độ tôn giáo học; bài viết “Đôi điều về Tịnh Độ Cư Sỹ Phật Hội ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Chơn Lý (Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 năm 2000) đã giới

thiệu khái quát lịch sử ra đời của đạo này, tín đồ và phương pháp tu tập, về nghi lễ
thờ cúng có liên quan mật thiết đến Tịnh Độ; bài “Thiền của người Việt ở Nam Bộ
hiện nay đa số biến thành Tịnh Độ” của tác giả Trần Phước Thuận (Nghiên cứu Tôn
giáo, số 3 năm 2003). Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một cách lý giải mới,
khác thú vị về nguồn gốc Tịnh Độ ở Nam Bộ. Trên cơ sở phân tích các thiền phái
Lâm Tế, Tào Động trước đó và dựa vào đặc điểm trong tính cách người Nam Bộ
nên tác giả cho rằng Phật giáo ở Nam Bộ phần lớn là Tịnh Độ được biến từ Thiền
trước đó; tác giả Đặng Thế Đại trong bài viết “Một nét đặc sắc của văn hóa và tôn
giáo Nam Bộ: sự đối lập và tương đồng giữa đạo Cao Đài và Hòa Hảo” (Nghiên
cứu Tôn giáo, số 2 năm 1999), trên cơ sở phân tích các điểm tương đồng và đối lập
giữa hai tôn giáo này, tác giả cho rằng nghiên cứu hai tôn giáo này cần phải xuất
phát từ chính những đặc điểm của Nam Bộ. Một mặt, người Nam Bộ kế thừa truyền
thống của người Việt Nam, mặt khác họ cũng có những nét đặc sắc về tâm thức
được hình thành trong những điều kiện riêng của công cuộc khai phá Nam Bộ. Do
vậy, bài viết này là một hướng gợi mở cho chúng tôi khi nghiên cứu về sự hình
thành một số tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ nói chung và vì sao Tịnh Độ lại được một
số tôn giáo này “ưu tiên” lựa chọn; Và gần đây nhất là bài “Vai trò của Bửu Sơn Kỳ
Hương trong đời sống tinh thần đồn bào Nam Bộ” của Nguyễn Phước Tài và
Nguyễn Thuận Quý (Nghiên cứu Tôn giáo, số 12 năm 2013) đã nêu khái lược về
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và vai trò của đạo này trong đời sống tinh thần Nam Bộ.
Trong đó, quan niệm về học Phật tu Nhân của đạo này đã được hai tác giả nêu bật
trong phần giáo lý là thành tâm trì niệm Phật A Di Đà đã cho thấy Tịnh Độ có vai
trò quan trọng sự hình thành giáo lý, phương pháp tu hành của Bửu Sơn Kỳ
Hương...
Như vậy, Phật giáo và Phật giáo Việt Nam đã được nhiều thế hệ các học
giả quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình có giá trị. Đối với Tịnh Độ, ở
Trung Quốc hay Nhật Bản đã hình thành và phát triển thành một tông phái, nhưng
ở Việt Nam, tư tưởng, phương pháp tu tập Tịnh Độ du nhập vào thời kỳ nào, được
người Việt tiếp nhận như thế nào? Và nó được luận giải thế nào ở Việt Nam, có
7



khác gì so với nguồn gốc của nó, và đối với sự hình thành một số tôn giáo nội sinh
ở Nam Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Tịnh Độ có vai trò như thế nào…? Khảo
sát các công trình cơ bản nêu trên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ
bản và toàn diện về những vấn đề mà chúng tôi nêu trên. Vì vậy, với vấn đề
nghiên cứu mà chúng tôi đã nêu ở trên và cũng để hoàn thành luận văn của mình,
chúng tôi kế thừa những thành tựu mà thế hệ người nghiên cứu đi trước đã đạt
được và áp dụng những phương pháp nghiên cứu, hướng tiếp cận đa chiều, chúng
tôi hy vọng có được kết quả tốt nhất và đạt được mục tiêu nghiên cứu đã nêu ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu một số nội dung cơ bản của TĐT, tư tưởng Tịnh Độ ở Việt Nam
và biểu hiện cơ bản của nó trong Phật giáo Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khái quát quá trình hình thành và phát triển TĐT trong lịch sử Phật giáo.
Lược sử tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo Việt Nam để thấy được những biểu hiện
cơ bản của nó trong Phật giáo Việt nam như tư tưởng thiền tịnh, phước huệ song
tu; vị trí của bộ tượng Di Đà Tam Tôn trong các ngôi chùa ở Việt Nam; vai trò
của TĐT trong quá trình hình thành một số tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ thế kỷ 19,
20; và vai trò của tu tập Tịnh Độ đối với tín đồ Phật giáo Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
TĐT và những biểu hiện của nó trong Phật giáo Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về mặt thời gian: Từ khi tư tưởng Tịnh Độ hình thành và phát
triển trở thành một tông phái ở Trung Quốc, quá trình truyền nhập của nó vào Việt
Nam đến nay;
- Phạm vi về mặt không gian: Chúng tôi tập trung nghiên cứu Tịnh Độ ở Việt

Nam. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đề cập đến TĐT ở một số nước
thông qua đó so sánh, đối chiếu với Tịnh Độ ở Việt Nam để làm rõ hơn về một số nội
dung cơ bản và những biểu hiện của nó trong Phật giáo Việt Nam hiện nay.
8


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp
luật của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng nhằm hiểu đối tượng nghiên
cứu TĐT, những biểu hiện của ở Việt Nam và có tính đến không những ảnh
hưởng của những điều kiện, trạng thái tồn tại của nó mà còn cả quá trình xuất hiện
của nó; sự phát triển trước đó của nó và xu hướng hoạt động tiếp theo của nó.
- Phương pháp duy vật biện chứng là một bộ phận của học thuyết triết học
do Karl Marx khởi xướng. Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng là coi
một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong
mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Việc áp dụng phương pháp này
còn nhằm bổ trợ cho phương pháp duy vật lịch sử khi nghiên cứu TĐT và tư
tưởng, những biểu hiện của nó ở Việt Nam trong sự vận động không ngừng,
những quan hệ qua lại với các tông phái khác và các sự vật hiện tượng khác để
hiểu rõ hơn về TĐT, tư tưởng của nó trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương
pháp liên quan nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong nghiên cứu của mình.
6. Đóng góp của luận văn
Qua luận văn này, bước đầu tác giả hệ thống hóa các nội dung cơ bản của
TĐT trong lịch sử Phật giáo. Từ đó làm sáng tỏ những biểu hiện của nó trong Phật
giáo Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. Từ luận văn này, tác giả hy vọng sẽ tạo cơ

sở lý luận cho việc đề ra phương hướng nghiên cứu về Tịnh Độ tông cũng như
phương hướng công tác tôn giáo đối với Phật giáo Việt Nam, nhất là cho các cấp
chính quyền, các nhà hoạch định chính sách tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo nói
chung và cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, nội dung chính, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung chính gồm có: 2 chương, 4 mục.
9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG

1.1. Khái quát về lịch sử ra đời và phát triển của Tịnh Độ tông
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Tịnh Độ
Đạo Phật ra đời tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên do
Thái tử Tất Đạt Đa sáng lập. Giáo lý cơ bản nhất là Tứ diệu đế, Bát chính đạo và
Thập nhị nhân duyên dựa trên thuyết Duyên khởi mà phân tích những hiện tượng
“sinh, trụ, di, diệt” nhân sinh. Đạo Phật phát triển đến thế kỷ 3 trước Công
nguyên, dưới vương triều vua A Dục (Ashoka) trở thành quốc giáo và phát triển ra
ngoài biên giới Ấn Độ.
Đạo Phật trong quá trình phát triển của mình đã dần hình thành xu hướng
thể hiện rõ sự khác biệt giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa. Nếu
như các tín đồ theo Phật giáo Nguyên thủy tôn thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni như
một nhân vật lịch sử, thì các tín đồ Phật giáo Đại thừa lại nhìn nhận đức Phật có
mọi quyền lực, là hiện thân của sự sáng suốt, vĩnh cửu và bất tận. Phương pháp tu
tập Tịnh Độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa. Pháp
môn này nhấn mạnh vào đức tin cùng sự cứu độ của Phật A Di Đà dựa trên nền
tảng giáo lý hình thành từ ba bộ kinh tạng là Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ và
A di đà. Phương pháp tu tập chủ yếu là xưng niệm hay tâm niệm Di Đà lục tự với

mục đích mong cầu được vãng sinh Cực lạc.
Hầu hết các tông phái của đạo Phật đều chú trọng đến sự tự tu tâm, dưỡng
tính của chính người tu hành để có được sự giải thoát, tương lai của người tu hành
phụ thuộc vào chính sự cố gắng của chính bản thân họ, tức dựa vào “tự lực”, thì
người tu hành theo TĐT lại dựa vào “tha lực”, dựa vào sự cứu dỗi bằng sức mạnh
của Phật trên cơ sở niềm tin và sự tôn thờ Phật A Di Đà. Do vậy, TĐT với tư
tưởng và phương pháp tu tập mới đã đáp ứng được nhu cầu của mọi người, mọi
giai tầng trong xã hội, không phân biệt người giàu người nghèo, bậc thượng căn
hay hạ căn về một đời sống an vui vĩnh cửu trong thế giới Cực lạc do chính Phật
A Di Đà làm giáo chủ. Cho đến nay, TĐT phổ biến tại nhiều nước, trong đó có
Việt Nam.
10


Việc phân kỳ lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo đem đến sự
nhận thức rõ ràng hơn và sâu sắc hơn về đạo Phật. Tuy nhiên, việc phân chia
thành các giai đoạn khác nhau cũng chưa được thống nhất, chẳng hạn như Edward
Conze chia thành ba giai đoạn: “Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy, phần lớn trùng khớp với giai đoạn mà sau này được gọi là Tiểu thừa. Thời
kỳ thứ hai được đánh dấu bởi sự phát triển của giáo lý Đại thừa. Thời kỳ thứ ba là
sự phát triển của Mật tông và Thiền tông. Các thời kỳ này kéo dài đến khoảng thế
kỷ 11. Sau đó Phật giáo không còn sự thay đổi nội tại nào đáng kể nữa mà tiếp tục
duy trì”[83, tr.16]. Nhưng cơ bản, như Nguyễn Tuệ Chân phân định thành ba giai
đoạn: giai đoạn Phật giáo Nguyên thủy, giai đoạn Phật giáo Bộ phái và giai đoạn
Phật giáo Đại thừa [6, tr.31]. Đối với Phật giáo Đại thừa, theo Nguyễn Quang Cư
“sự hình thành tư tưởng Phật giáo Đại thừa là phong trào phát triển một đường lối
Phật giáo mới, hình thành từ năm 150 trước Công nguyên đến năm 100 sau Công
nguyên. Phong trào này là kết quả của sự kế thừa và phát huy nhưng mang tính
độc lập, khởi dậy từ miền Nam, miền Tây Bắc và miền Đông Ấn Độ. Ba đặc tính
nổi bật là vũ trụ quan mới, kiến giải mới về Abhidhama (abhidhamma là giáo

pháp vi diệu, hay thù thắng vì giúp cho người tự giải thoát bằng sự “minh tâm
kiến chánh” tức là Vipassanā) và quan niệm mới về Bồ tát đạo làm phương châm
thực tiễn, từ đó phát sinh một cách nhìn mới về Đức Phật và Phật pháp, đưa ra
nhiều kiến giải mới, dần cấu thành phong trào Phật giáo Đại thừa. Đây là một sự
mở đầu cho bước phát triển mới trong hệ thống tư tưởng Phật giáo”[9, tr. 36-37].
Vào thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa, tư tưởng về tha lực, tức là nhờ vào
lực khác ngoài bản thân người tu hành như Phật lực, Bồ tát lực… để được giải
thoát không phải bắt nguồn từ kinh tạng Phật giáo Đại thừa nói chung và kinh
tạng Tịnh Độ nói riêng. Mà tư tưởng này lại bắt nguồn từ kinh tạng của Phật giáo
Nguyên thủy, từ bộ Na tiên tỳ kheo kinh (Nagasena) xuất hiện vào khoảng thế kỷ
1 Công nguyên, điều này cũng phù hợp với nhận xét của Nguyễn Quang Cư về
thời gian và kết quả của sự kế thừa và phát huy tư tưởng trước đó của Phật giáo
Đại thừa. Ban đầu, bản kinh này truyền sang Tích Lan và các nước theo Phật giáo
Nguyên Thủy với tên gọi là Milindapanhà hay Di Lan Dà vấn kinh thuộc văn hệ
Pàli. Sau đó, bản kinh này cũng được truyền sang Trung Quốc và dịch sang văn hệ
11


Hán với tên gọi là Na Tiên tỳ kheo kinh[3, tr.147-148]. Đương nhiên, nội dung
kinh Na Tiên tỳ kheo là giáo nghĩa Phật giáo Nguyên thủy, nhưng vấn đề “tha lực”
lại được xem là tư tưởng độc đáo của sự chuyển tiếp từ thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy và Phật giáo Đại thừa. Chính tư tưởng Phật lực là khởi nguyên của tư tưởng
“tha lực” trong giáo nghĩa các bộ kinh thuộc Phật giáo Đại thừa sau này. Nội dung
kinh Na Tiên tỳ kheo ghi lại những lời vấn đáp giữa Tỳ kheo Na Tiên, người
Trung Ấn, sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ II trước Công nguyên và vua Di Lan
Đà (Milinda) tại kinh thành Sa Yết La (Sàkalà) thuộc thượng lưu Ngũ Hà. Trong
cuộc đối thoại này, nổi bật quan điểm cho rằng, nếu ai đó từng làm việc bất thiện,
nhưng khi lâm chung biết tưởng nhớ đến Phật thì người đó sẽ được Phật lực nâng
đỡ và được sinh trong các cõi trời. Hay, hễ ai tin Phật, tưởng nhớ đến Phật thì khi
lâm chung đều được Phật cứu độ. Junjiro Takakusu cũng nhắc đến tư tưởng “được

cứu độ” là mới mẻ trong Phật giáo khi ông đọc Na Tiên tỳ kheo kinh và cho rằng
“nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ
đi đến một lý tưởng về Phật, nghĩa là đức Phật của ánh sáng vô tận (Vô lượng
quang) và của tuổi thọ vô tận (Vô lượng thọ). Khi lý tưởng về Niết bàn, vốn là phi
không gian, phi thời gian, bất sinh, bất diệt, bất động được thể hiện, thì đất chính
là Vô tận hay Vô lượng (Adiđà, Amita hay Amitabha). Sự mô tả về cõi Cực lạc, ý
nghĩa Vô lượng quang và Vô lượng thọ và nhân cách giác ngộ của trí tuệ và từ bi
vô cùng tận, tất cả giản dị là những giải thích về “Vô lượng” [85, tr.318]. Tất
nhiên, tư tưởng cứu độ đơn giản thế, bởi trong kinh tạng Tịnh Độ không chỉ dạy
con người biết niệm Phật mà còn dạy con người thọ trì Tam qui, Ngũ giới, hành
Thập thiện, phát Bồ đề tâm, nghiên cứu kinh điển, học tập giáo pháp, tạo lập công
đức, hộ trì tam bảo, phóng sinh…
Sau bản kinh Na Tiên tỳ kheo kinh, ở thời kỳ Phật giáo Đại thừa có nhiều
bản kinh đề cập đến cảnh giới của chư Phật như các cõi Tịnh Độ và vấn đề tha lực
mà hành giả tu tập mong muốn có được sự giải thoát, vãng sinh Cực lạc khi dựa
vào Tín tâm, công phu tu tập và nguyện lực của mình. Như thế, nhờ chí nguyện
của người tu hành, nhờ vào tha lực của Phật hay Bồ tát mà người tu hành có được
sự hộ trì hay tiếp dẫn của Phật và Bồ tát để có thể vãng sinh về các quốc độ của
chư Phật. Từ phương diện kinh tạng TĐT, hầu hết mọi tín đồ đều đặt niềm tin sâu
12


sắc rằng tư tưởng, phương pháp tu tập Tịnh Độ là do chính Phật Thích Ca Mâu Ni
vì “nhân duyên” với chúng sinh mà vui lòng thuyết giảng. Mặc dù các bản kinh
tạng của Tịnh Độ chỉ xuất hiện trong thời kỳ Phật giáo Đại thừa và được dịch khá
muộn vì tư tưởng “Phật lực” hay “tha lực” chỉ xuất hiện tiền Đại thừa đôi chút,
còn chủ yếu hình thành trong giai đoạn Phật giáo Đại thừa. Chẳng hạn, Phật
thuyết Vô lượng thọ kinh được khoảng thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên đã ca ngợi
công đức của Phật A Di Đà và sự tốt đẹp của thế giới Cực lạc, đặc biệt là nêu bật
những thệ nguyện của Phật A Di Đà khi còn là một vị Tỳ kheo nhằm cứu độ hết

thảy chúng sinh, nếu chúng sinh có niềm tin và niệm hồng danh Phật A Di Đà là
có thể vãng sinh Tịnh Độ. Kinh A Di Đà được dịch muộn hơn, khoảng thế kỷ thứ
5, mà nội dung thì gần với kinh Vô lượng thọ, chỉ với hơn 2.000 chữ đã chỉ bày
phương pháp tu tập nên ảnh hưởng sâu rộng đến tín đồ đạo Phật. Kinh Quán vô
lượng thọ cho chúng ta biết vào thời Ấn Độ cổ đại, có vị vua tên Bình Sa Vương
(Tần Bà Sa La) do báo ứng từ kiếp trước nên bị chính con trai mình là thái tử A
Xà Thế nhốt vào ngục và chết ở đó, còn hoàng hậu Vi Đề Hy cũng bị con nhốt
vào ngục, trong lòng buồn rầu, chỉ muốn chết nên thỉnh cầu đức Phật với hy vọng
được giải thoát. Đức Phật vì hoàng hậu mà thuyết giảng cách quán tưởng. Hoàng
hậu đã theo phương pháp do đức Phật chỉ dạy mà cuối cùng thấy được Phật A Di
Đà và Tây phương Cực lạc. Ngoài ra, nhiều kinh sách liên quan đến tư tưởng Tịnh
Độ cũng được kết tập sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, trong đó, đáng chú
ý nhất là kinh Hoa Nghiêm, PGS. Nguyễn Duy Hinh nhận xét về bộ kinh này như
sau: “Nội dung cơ bản của kinh Hoa Nghiêm là một hạt bụi phản ánh thế giới,
trong một sát na chứa đựng cả vĩnh viễn, đưa ra pháp giới duyên khởi. Pháp giới
phiếm chỉ mọi sự vật, chỉ cội nguồn hiện tượng và bản chất. Pháp chỉ sự vật, giới
chỉ sự phân giới tức phân biệt giới hạn sự vật”[27, tr.363], và cũng ở trong kinh
này, hình tượng Bồ tát đã xuất hiện, nhất là Bồ tát Quán Thế Âm; kinh Diệu pháp
liên hoa (Pháp Hoa) mà “tư tưởng chủ yếu của bộ kinh này là “thán Tiểu bao đại”
(nghĩa là chê Tiểu thừa theo Đại thừa), “hội tam qui nhất” (hợp ba về một) nhiều
chỗ trong kinh đều chỉ ra một cách rõ ràng Tiểu thừa thuyết giáo là phương tiện
thiện quyển, phi cứu cánh thuyết, do đó đức Phật từng cảnh báo các đệ tử không
thỏa mãn quả vị Tiểu thừa đạt được, ngài dùng rất nhiều ví dụ để dẫn dắt đệ tử đi
13


vào con đường tu hành Đại thừa. Từ đó có thể suy ra, thời kỳ “Pháp Hoa kinh” ra
đời, chính là thời kỳ quá độ của Phật giáo Tiểu thừa phát triển lên Đại thừa” [6,
tr.255].
Tóm lại, về mặt kinh tạng thì “chỉ với kinh Pháp Hoa và kinh A di đà thì tư

tưởng cứu độ mới toàn vẹn, thay vì lên Niết bàn chúng sinh được cứu vớt lên cõi
Cực lạc. Đó là tinh thần cơ bản của tông Tịnh Độ. Với tông Tịnh Độ thì tư tưởng
Đại thừa thể hiện rõ ràng tư tưởng cứu thế”[28, tr.234]. Mặc dù chỉ có ba bộ kinh
tạng và một bộ luận triển khai giáo lý, phương pháp tu tập Tịnh Độ, nhưng trong
hệ thống kinh tạng Phật giáo Đại thừa cũng ngợi ca tư tưởng Tịnh Độ, làm cho
pháp môn Tịnh Độ trở nên phổ biến và nổi bật trong nền tư tưởng Phật học Trung
Hoa.
1.1.2. Sự phát triển của Tịnh Độ tông
Ấn Độ thời cổ đại là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Jaina, đạo
Sikh,… trong đó có hai tôn giáo lớn là Hindu giáo và Phật giáo. Giáo lý của các
tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại “chia sẻ những khái niệm chung như tin vào nghiệp
chướng (karma) và đầu thai”[81, tr.106]. Chẳng hạn như đạo Hindu ra đời trong
thời kỳ Văn minh sông Ấn (2.800 – 1.900 tr.CN), tôn thờ Brahman - một linh hồn
bất tử hiện diện trong mọi thứ, do vậy có nhiều giáo lý và nghi thức thực hành
xoay quanh Brahman. Đạo Jaina ra đời vào thế kỷ thứ 6 (tr.CN) cho rằng cách để
có được sự tự do từ vòng luân hồi chính là tu khổ hạnh và không gây hại cho bất
cứ sinh linh nào. Ba giáo lý cơ bản của đạo Jaina là lòng tin đúng, hiểu biết đúng,
hành xử đúng và tín đồ phải tuân theo năm lời thề lớn là không làm ác, không có
tài sản, không nói dối, không trộm cắp và tiết chế nhục dục. Đạo Phật ra đời vào
thời điểm khi quan điểm về luân hồi đang lớn mạnh trong đạo Hindu, đạo Jaina.
Do đó, ngay từ đầu đạo Phật nhắm vào sự phát triển tinh thần của mỗi cá nhân, để
mỗi cá nhân tự hiểu thấu các chân lý cuộc đời như là một cách tốt nhất để thoát
khỏi vòng luân hồi. Trong 49 năm kể từ khi thành đạo đến khi nhập diệt, đức Phật
đi khắp nơi truyền bá, giảng dạy về luân hồi Dharma bao gồm Tứ diệu đế và Bát
chính đạo. Đức Phật đã truyền bá thuyết Vô ngã (anatta) nhằm bác bỏ một cái tôi
vĩnh cửu mà ngài tin rằng đó chính là nguyên nhân của mọi đau khổ của con

14



người. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng thuyết giáo về Trung đạo nhằm tiết chế, điều
độ những đam mê lạc thú và nhục dục.
Trong quá trình phát triển, đạo Phật phân chia thành hai hệ phái chính là
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) và Phật giáo Đại thừa (Mahayana), và từ hai
hệ phái này lại có nhiều trường phái nảy sinh qua thế hệ các nhà tu hành đạo Phật.
Về cơ bản, Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống khắc
khổ trong quá trình tu hành và tin rằng chỉ có Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật lịch
sử duy nhất, còn Phật giáo Đại thừa nhấn mạnh vào sự giác ngộ sẽ mở ra cho bất
cứ ai tu hành và coi đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong số rất nhiều đức Phật.
Trong thời trị vì của vua Ashoka, vương triều Maurya (272-231 tr.CN), đạo
Phật nhận được sự bảo trợ của vị vua này đã có bước phát triển vô cùng quan
trọng. Đạo Phật không những phát triển thịnh trị trong nước mà còn được truyền
bá ra ngoài Ấn Độ. Về cơ bản, vào thế kỷ thứ 4, 5 sau Công nguyên, khi Phật giáo
ở Ấn Độ suy vi thì ở vùng Trung Á, Trung Hoa, Phật giáo ngày càng được phổ
biến sâu rộng.
Sự phát triển của Phật giáo gắn liền với sự hoàn thiện tam tạng, gồm kinh,
luật, luận trên cơ sở nền tảng từ Tứ diệu đế, Bát chính đạo và Thập nhị nhân
duyên. Có thể nói, kinh tạng Phật giáo phần lớn xa vời, khó hiểu, khó tiếp cận với
đa phần tín đồ. Bởi nó được viết bằng những trải nghiệm của đời sống tinh thần
sâu sắc, hay sự thâm diệu của các nhà tư tưởng Phật giáo… cho nên, tín đồ muốn
nắm bắt phải nhờ đến những bậc thầy giảng giải hoặc phải bằng những phương
pháp khoa học mới có thể hiểu được phần nào, do đó định đề “chỉ có tâm linh mới
có thể hiểu những sự kiện tâm linh” thường được chúng ta tạm bằng lòng. Tuy
vậy, đạo Phật trong quá trình phát triển, khá nhiều nhà tư tưởng Phật giáo đã cố
gắng, thậm chí nhấn mạnh tính chất lý trí và gần gũi với khoa học của đạo Phật
với những viện dẫn ngôn từ do chính đức Phật thuyết giảng. Nhưng dưới góc độ
tôn giáo, đạo Phật là một tôn giáo hơn là cái gọi là giống khoa học, bởi đặc tính
tôn giáo của nó được thể hiện trên niềm tin, sự thực hành và tính cộng đồng.
Ở Ấn Độ, Luận sư Mã Minh được tôn thờ là vị tổ thứ 12 của Thiền tông
Ấn Độ, lại là người từng tham gia kiết tập lần 4 diễn ra khoảng 400 năm sau khi

đức Phật nhập diệt, tức khoảng thế kỷ 1 trước Công nguyên, trong các trước tác
15


của ông có tác phẩm Đại thừa khởi tín luận, đây không chỉ là tác phẩm luận bàn
về Đại thừa như thuyết Chân như duyên khởi, vạn pháp nhất tâm mà còn là tác
phẩm ca ngợi pháp môn niệm Phật, không những thế chính ông cũng phát nguyện
vãng sinh Tây phương Cực lạc:“... Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn chuyên
niệm Tây phương cực lạc giới A Di Đà Phật, dĩ chư thiện căn, hồi hướng nguyện
sanh quyết định vãng sanh, thường kiến bỉ Phật, tín tâm tăng trưởng, vĩnh bất thối
chuyển, ư bỉ văn pháp, quán Phật pháp thân, tiệm thứ tu hành đắc nhập chánh vị”
[90, tr.591]. Nghĩa là: Nếu ai chuyên tâm niệm đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực
lạc phương tây, đem các căn lành do mình tu được mà hồi hướng nguyện cầu sinh
về thế giới ấy thì liền được vãng sinh. Bởi lẽ, người ấy thường được thấy Phật,
nên không bao giờ còn bị thối lui. Nếu ai quán pháp thân chân như của đức Phật
ấy và thường siêng năng tu tập thì cuối cùng sẽ được sinh về, vì đã an trú trong
chính định rồi. Và không thể không nói đến Long Thọ, người sáng lập Trung
Quán tông. Tương truyền, truyền khi mới xuất gia ông tu tập theo Tiểu thừa, sau
chuyển sang Đại thừa và hết sức cổ xuý cho phong trào chấn hưng, phát triển Đại
thừa. Và vì thế, Long Thọ được coi là một trong những luận sư vĩ đại nhất trong
lịch sử Phật giáo và được suy tôn làm tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Trước tác
của ông khá nhiều, tiêu biểu là Trung quán luận, Thập trung luận, Thập nhị môn
luận, Đại thừa phá hữu luận… Nội dung những tác phẩm này, trước hết triển khai
giáo lý Đại thừa, nhưng những vấn đề ông đề cập đến bao gồm cả tư tưởng vãng
sinh Tịnh Độ.
Tuy nhiên, ở Ấn Độ thời kỳ này không chỉ có một dòng tư tưởng Tịnh Độ
do Phật A Di Đà làm giáo chủ, mà còn có hai dòng tư tưởng Tịnh Độ khác cùng
tồn tại, đó là Tịnh Độ ở cõi trời Đâu Suất, nơi Phật Di Lặc (Maitreya - Từ Thị)
đang giáo hóa chúng sinh, và cõi Tịnh Độ Diệu Hỷ của Phật A Sơ (Aksobhya Bất Động Phật) ở phương Đông. Nhưng hai dòng Tịnh Độ này không phát triển
như dòng Tịnh độ Cực lạc của Phật A di đà (Amitaba, Amitayus - Vô Lượng

Quang, Vô Lượng Thọ).
Như vậy, tư tưởng, phương pháp tu tập Tịnh Độ ở Ấn Độ mới chỉ là nền
tảng, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của nó sau này. Cho nên, khi nói

16


×