Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra người nộp thuế trong quản lý thuế tại Cục thuế tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.57 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
---------

LƯƠNG ANH DŨNG

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA
NGƯỜI NỘP THUẾ TRONG QUẢN LÝ THUẾ
TẠI CỤC THUẾ TỈNH HƯNG YÊN
Chuyên ngành: KẾ TOÁN
Mã số: 60 34 03 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Thanh

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Thanh tra, kiểm tra Thuế và
vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế trong điền kiện
hiện nay............................................................................................................3
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế tại
Cục thuế tỉnh Hưng Yên.................................................................................3


CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1.“ NNT”: Người nộp thuế.
2.“ MST”: Mã số thuế.
3.“NSNN”: Ngân sách Nhà nước.
4.”KD”: Kinh doanh.


5. “ Thuế GTGT”: Thuế giá trị gia tăng.
6. “ Thuế TNDN”: Thuế thu nhập doanh nghiệp.
7.” Thuế TNCN”: Thuế thu nhập cá nhân.
8.”CNH-HĐH”: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1.

Kết quả cấp, quản lý mã số thuế...Error: Reference source not found

Bảng 2.2.

Bảng kết quả kiểm tra hồ sơ khai thuế, tính thuế như sau:........Error:
Reference source not found

Bảng 2.3.

Bảng tổng hợp tình trạng nợ thuế những năm gần đây:............Error:
Reference source not found

SƠ ĐỒ
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Thanh tra, kiểm tra Thuế và
vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế trong điền kiện
hiện nay............................................................................................................3
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế tại
Cục thuế tỉnh Hưng Yên.................................................................................3



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ tài chính
có tính cuỡng chế để tạo lập nguồn cho ngân sách nhà nước và phân phối thu
nhập trong xã hội. Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ để tác động vào
vào nền kinh tế thông qua việc xác định đúng nguyên tắc và phương pháp
đánh thuế làm sao để thực hiện công bằng, đạt hiệu quả kinh tế, chi phí hành
chính thấp và tính linh hoạt cao; thông qua việc hình thành cơ cấu thuế giữa
các loại, các sắc thuế nhằm tránh chồng chéo, trùng lắp; thông qua việc xác
định mức thuế hợp lý vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa
giảm bớt tình trạng suy giảm tiêu dùng và đầu tư; thông qua việc xác định
đúng đối tượng chịu thuế trong lĩnh vực sản xuất hay lưu thông, tiêu dùng hay
thu nhập để xác định cơ cấu giữa thuế trực thu và thuế gián thu. Do vậy công
tác quản lý thuế giữ vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát
triển, ổn định chính trị và đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Để làm được
điều này, ngoài việc phải xây dựng cho được một chính sách thuế hiện đại,
hợp lý còn cần phải có bộ máy quản lý phù hợp để tổ chức triển khai thực
hiện tốt các luật thuế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không những giúp
cho hoạt động quản lý thuế đạt được các mục tiêu đã đề ra mà còn giúp Nhà
nước phát hiện những hạn chế của chính sách, điều chỉnh kịp thời chính sách,
chế độ về thuế, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của cộng đồng và
góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng trốn thuế, chống thất thu thuế.
Luật quản lý thuế có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 đã đánh dấu sự thay đổi
mới căn bản, tác động toàn diện đối với cơ quan thuế và người nộp thuế, cải
cách đồng bộ từ tổ chức bộ máy, chức trách nhiệm vụ của cơ quan thuế đến
công tác quản lý thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, đồng thời cải cách mạnh mẽ



2

thủ tục hành chính theo nguyên tắc công khai, minh bạch. Để đảm bảo thực
hiện tốt Luật Quản lý thuế, thực hiện thành công công cuộc cải cách và hiện
đại hoá ngành thuế thì việc tập trung kiện toàn, nâng cao năng lực hệ thống
thuế nói chung và hệ thống thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng là một giải pháp
quan trọng, cần thiết.
Hưng Yên là một tỉnh đang trên đà phát triển, hội nhập kinh tế, số lượng
doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời quy mô, hình thức hoạt động
của các doanh nghiệp cũng đa dạng, phức tạp hơn; khả năng, thủ đoạn trốn
thuế, tránh thuế cũng tinh vi, phức tạp hơn trong khi bộ máy quản lý thuế mới
chuyển sang cơ chế quản lý mới còn chưa thực sự phát huy được tính hiệu
lực, hiệu quả của nó; hoạt động thanh tra, kiểm tra còn nhiều điểm hạn chế,
cần được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài: “Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra người nộp
thuế trong quản lý thuế tại Cục thuế tỉnh Hưng Yên” có ý nghĩa thiết thực
cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích hệ thống hoá và làm rõ hoạt
động thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực hiện Luật Quản lý thuế hiện
nay. Đồng thời, nghiên cứu thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế cho phù hợp với thực tiễn quản lý
thuế của Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác
thanh tra, kiểm tra người nộp thuế (NNT) cả về lý luận và thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu công tác thanh tra, kiểm tra
người nộp thuế trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, không đề cập đến công tác thanh

tra, kiểm tra trong nội bộ ngành thuế.


3

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Đề tài hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thanh tra,
kiểm tra người nộp thuế; Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đề tài đánh giá thực
trạng công tác thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, chỉ ra
những kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân, từ đó đưa ra những
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nhằm đáp ứng
yêu cầu của công cuộc cải cách và hiện đại hoá ngành thuế trong giai đoạn
tiếp theo.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Thanh tra, kiểm tra Thuế
và vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế trong điền kiện
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế tại Cục
thuế tỉnh Hưng Yên.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra người
nộp thuế trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.


4

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TRA,
KIỂM TRA THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC
THANH TRA, KIỂM TRA NGƯỜI NỘP THUẾ

TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
1.1 Một số vấn đề chung về công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm thanh tra thuế, kiểm tra thuế.
1.1.1.1 Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế:
Có nhiều khái niệm về thanh tra thuế:
Theo từ điển tiếng Việt: “thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm
của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [tr.882], “thanh tra là loại hình đặc biệt
của kiểm tra” [tr.19]
Theo Luật thanh tra năm 2004: “Thanh tra là việc xem xét, đánh giá,
xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo
thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật và các quy định
khác của pháp luật”.
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của trường Đại học Kinh doanh và công
nghệ Hà Nội: “Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách
làm công tác kiểm tra của cơ quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát
hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp luật”.
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu: Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân
chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế nhằm kết luận đúng,
sai, đánh giá ưu khuyết điểm, góp pháp hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, phòng
ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật thuế.


5

Về kiểm tra thuế cũng có nhiều khái niệm khác nhau:
Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” (Từ điển
tiếng Việt, tr.523); kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật,
thực hiện nhiệm vụ quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao

để đánh giá, nhận xét...” (Từ điển Luật học, tr.265).
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của trường Đại học Kinh doanh và công
nghệ Hà Nội: “Kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem
xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng,
nhiệm vụ yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những nhận xét,
đánh giá”.
Theo giáo sư Michel Bouvier, tác giả cuốn “Nhập môn về Luật thuế đại
cương và lý thuyết thuế”, kiểm tra thuế là “hoạt động nhằm xem xét tính
trung thực, tính chính xác của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai”
[tr.153].
Từ các quan niệm trên có thể hiểu: kiểm tra thuế là hoạt động xem xét,
đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và
cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, phí và lệ phí
(gọi chung là thuế).
1.1.1.2 Đặc điểm thanh tra, kiểm tra thuế:
Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn
diện hơn. Thanh tra thuế được thực hiện theo định kỳ đối với người nộp thuế
lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn và phức tạp hoặc với người
nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các
khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý
thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, mang tính chất nhiệm vụ của
cơ quan quản lý thuế được thực hiện tại trụ sở cơ quan thuế và trụ sở người


6

nộp thuế. Việc kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế được tiến hành thường xuyên
liên tục dựa trên hồ sơ khai thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế tại trụ
sở của người nộp thuế chỉ được thực hiện khi họ không tự giác sửa đổi, bổ

sung những nội dung sai sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu
cầu. Nội dung kiểm tra thuế là việc kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các
thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật về
thuế của người nộp thuế.
Thanh tra thuế cũng là một hoạt động của kiểm tra thuế nên thanh tra
thuế và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau:
- Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý
thuế; có cùng một mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những vi phạm pháp
luật thuế, góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
- Chủ thể thanh tra, kiểm tra thuế là cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
- Đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế là cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ nộp thuế cho Nhà nước và các đơn vị trong nội bộ ngành thuế.
- Nội dung thanh tra, kiểm tra thuế là việc chấp hành pháp luật thuế.
- Phương pháp thanh tra, kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động thực
tế của đối tượng để phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng đối tượng một
cách chính xác, khách quan; làm rõ đúng, sai và chỉ rõ nguyên nhân để có
biện pháp khắc phục, xử lý vi phạm.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được thực hiện ở một giai
đoạn trong hoạt động quản lý thuế mà nó được thực hiện ở tất cả các giai
đoạn của quản lý thuế.


7

Tuy nhiên giữa thanh tra và kiểm tra cũng có điểm khác nhau cơ bản:
Thứ nhất, chủ thể của thanh tra không đồng nhất với đối tượng thanh tra.
Chủ thể thanh tra là tổ chức thanh tra chuyên trách của Nhà nước (Thanh tra

Nhà nước, các tổ chức thanh tra chuyên ngành); đối tượng thanh tra là đối
tượng quản lý của Nhà nước. Chủ thể của kiểm tra có thể không đồng nhất
hoặc đồng nhất với đối tượng kiểm tra. Chẳng hạn, khi đơn vị tự kiểm tra thì
chủ thể kiểm tra và đối tượng kiểm tra đồng nhất với nhau. Như vậy, thanh tra
là kiểm tra từ bên ngoài vào đối tượng; còn kiểm tra có khi do bản thân đối
tượng đó tự thực hiện, không nhất thiết do bên ngoài kiểm tra.
Thứ hai, hoạt động thanh tra thuế chủ yếu được tiến hành ở giai đoạn sau
khi các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh; nội dung thanh tra thuế thường là những
vấn đề phức tạp, bản chất vấn đề thường được che giấu có chủ ý nên khó nhận
biết. Trong khi đó, kiểm tra thuế được tiến hành thường xuyên, bao gồm kiểm
tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau khi các hoạt động kinh tế phát sinh; nội
dung kiểm tra thuế thường là những vấn đề hiện tại, dễ nhận biết.
Thứ ba, tính chất của thanh tra thuế là một hoạt động dựa vào quyền lực
của cơ quan quản lý Nhà nước. Kiểm tra thuế là hoạt động trung tính, có thể là
hoạt động quyền lực của cơ quan quản lý Nhà nước, hoặc có thể chỉ là hoạt động
quản lý đơn thuần.
Thứ tư, do mức độ nghiêm trọng của sự việc cần thanh tra, nên thời gian
để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn một cuộc kiểm tra thuế.
Mặc dù có những điểm khác biệt nhưng thanh tra, kiểm tra thuế đều là
những hoạt động không thể thiếu trong công tác quản lý thuế. Việc phân biệt
thanh tra thuế và kiểm tra thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có
ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành để tránh sự
chồng chéo giữa thanh tra và kiểm tra thuế, giảm phiền hà cho các tổ chức cá
nhân là đối tượng thanh tra và kiểm tra.


8

1.1.2 Nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
Mục đích của thanh tra, kiểm tra thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực;

ngăn ngừa xử lý sai phạm gây tổn thất lợi ích của nhà nước, của nhân dân, của
các doanh nghiệp; góp phần hoàn thiện chính sách thuế; tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục đích trên, công tác thanh tra, kiểm tra thuế
phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, nguyện vọng và lợi ích của nhân
dân. Thanh tra, kiểm tra thuế là kiểm tra việc thực hiện pháp luật nên phải
tuân thủ pháp luật. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế. Thực hiện nguyên tắc này, chủ thể thanh tra, kiểm tra khi
thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra phải căn cứ vào các quy định của pháp
luật để kết luận, kiến nghị những vấn đề thanh tra, kiểm tra và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về kết luận, kiến nghị của mình. Đối tượng thanh tra,
kiểm tra phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định của chủ thể thanh tra,
kiểm tra, cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu và giải trình số liệu khi được yêu cầu.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan và cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế
phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định.
Mọi hành vi lạm quyền hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đều bị coi là
hành vi không tuân thủ quy định của pháp luật và đều phải bị xử lý. Đây cũng
là nguyên tắc cần thiết để đề cao trách nhiệm của chủ thể thanh tra, kiểm tra;
nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm tra thuế; ngăn ngừa tình trạng
làm trái pháp luật, làm vô hiệu hoá hoạt động thanh tra, kiểm tra.
- Nguyên tắc trung thực, chính xác, khách quan:
Đảm bảo tính trung thực, chính xác, khách quan là nguyên tắc cơ bản trong
công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Nguyên tắc này giúp cho cơ quan quản lý đánh


9

giá đúng thực trạng của đối tượng kiểm tra, xử lý đúng người, đúng việc, đúng
pháp luật.

Nguyên tắc khách quan và chính xác đòi hỏi hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế phải tôn trọng sự thực, đánh giá sự vật hiện tượng như nó vốn có,
không suy diễn hay quy chụp một cách chủ quan, phải tiến hành công việc
một các thận trọng.
Nguyên tắc trung thực đòi hỏi hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế phải
phản ánh và đánh giá đúng bản chất của sự vật, hiện tượng; vô tư; không thiên
lệch; không vì quyền lợi cá nhân; phải tỷ mỷ, cẩn thận và phải có kiến thức
chuyên môn vững vàng, hiểu biết sâu rộng và sâu sát thực tiễn.
- Nguyên tắc công khai, dân chủ:
Tính công khai trong thanh tra, kiểm tra thuế tức là phải thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để thu hút sự tham
gia, đồng tình ủng hộ của nhân dân. Việc công khai bao gồm các vấn đề cụ
thể như: công khai quyết định thanh tra, tiếp xúc công khai với các đối tượng
có liên quan và công bố công khai kết luận thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, tùy
trường hợp cụ thể mà xác định phạm vi công khai và hình thức công khai cho
phù hợp để đảm bảo giữ gìn bí mật quốc gia, bí mật người tố cáo, đảm bảo lợi
ích của nhà nước và công dân, đảm bảo hiệu quả thanh tra, kiểm tra cao nhất.
Dân chủ trong hoạt động thanh tra, kiểm tra là thể hiện sự tôn trọng
khách quan, tôn trọng quần chúng, lấy dân làm gốc. Dân chủ trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra nhằm lôi cuốn sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân
dân, sử dụng quần chúng như là những tai mắt của lực lượng thanh tra, kiểm
tra. Thực hiện nguyên tắc này phải coi trọng việc tiếp nhận thu thập ý kiến
của mọi đối tượng có liên quan, tạo điều kiện cho đối tượng thanh tra, kiểm
tra được trình bày ý kiến của mình, nhất là khi giải quyết khiếu nại tố cáo của
công dân.


10

- Nguyên tắc bảo vệ bí mật:

Cần quán triệt nguyên tắc này trong thanh tra, kiểm tra thuế là vì trong
quá trình thanh tra, kiểm tra người làm công tác này tiếp cận với nhiều vấn đề,
nhiều tài liệu liên quan đến bí mật, bí quyết kinh doanh của doanh nghiệp, bí
mật quốc gia. Nếu cán bộ thanh tra, kiểm tra để lộ những bí mật này cho
những đối tượng không được phép biết sẽ làm thiệt hại lợi ích của quốc gia và
các doanh nghiệp, do vậy, họ chỉ được báo cáo cho những người có thẩm
quyền biết.
- Nguyên tắc hiệu quả:
Thực hiện nguyên tắc này mới đảm bảo cho thanh tra, kiểm tra thuế đạt
được mục đích của nó. Nguyên tắc này đòi hỏi thanh tra, kiểm tra thuế phải
thực hiện đúng quy trình, quy phạm do ngành thuế đã quy định đồng thời phải
đảm bảo tính hiệu quả, nghĩa là phải có tác dụng đề phòng, ngăn ngừa những
thiếu sót, vi phạm; phải đảm bảo giúp các đối tượng thanh tra, kiểm tra thực
hiện đúng chính sách thuế.
1.1.3 Phương pháp thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.3.1 Phương pháp vận dụng kỹ thuật quản lý rủi ro
Bản chất của việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm
tra thuế là phân loại , đánh giá NNT dựa trên những tiêu thức rủi ro về thuế
nhằm xác định những NNT có mức độ thuân thủ thấp, khả năng gian lận cao
về thuế; từ đó tập trung nguồn lực thanh tra, kiểm tra theo nguyên tắc ưu tiên
nguồn lực để thanh tra, kiểm tra NNT có thể mang lại tổn thất lớn nhất và
những sai phạm có khả năng xảy ra cao nhất.
Có nhiều công thức ước tính mức độ tổn thất và xác suất xảy ra rủi ro,
công thức thường được sử dụng là:
Chỉ số rủi ro = Xác suất xảy ra sự kiện x Tác động của sự kiện


11

1.1.3.2 Phương pháp đối chiếu, so sánh

Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thanh tra,
kiểm tra thuế. Nội dung của phương pháp này là thực hiện việc so sánh, đối
chiếu nội dung cần thanh tra, kiểm tra với các nguồn thông tin khác nhau để
đánh giá, xem xét nội dung cần thanh tra, kiểm tra.
1.1.3.3 Phương pháp kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết
Đây là phương pháp tối ưu để kiểm tra số liệu kế toán. Theo phương
pháp này, trước hết kiểm tra số liệu tổng hợp sau mới kiểm tra số liệu chi tiết.
Việc kiểm tra số liệu tổng hợp được tiến hành với các số liệu đã được tổng
hợp theo nội dung kinh tế, phản ánh trên các báo cáo tổng hợp như: Bảng
tổng kết tài sản, Báo cáo kết quả kinh doanh… Việc kiểm tra tổng hợp nhằm
rút ra những nhận xét tổng quát để từ đó định hướng những nội dung cần đi
sâu kiểm tra (kiểm tra chi tiết). Việc kiểm tra chi tiết là việc kiểm tra số liệu
của từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh thể hiện trên các chứng từ gốc hoặc
những bảng kê chi tiết.
1.1.3.4 Phương pháp kiểm tra chứng từ gốc
Có ba phương pháp kiểm tra chứng từ gốc:
- Kiểm tra theo trình tự thời gian: Là việc thực hiện kiểm tra chứng từ
gốc đã được sắp xếp theo trình tự thời gian phát sinh. Phương pháp này mất
nhiều thời gian và hiệu quả thấp nên ít được sử dụng.
- Kiểm tra theo loại nghiệp vụ: Là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc
đã được phân loại, sắp xếp theo một nghiệp vụ nhất định như: chứng từ thu,
chi tiền mặt, phiếu xuất, nhập kho.. . Phương pháp này được áp dụng khi cần
rút ra kết luận đầy đủ về một loại nghiệp vụ theo yêu cầu của nội dung thanh
tra, kiểm tra, do đó tiết kiệm thời gian và cho hiệu quả cao.
- Kiểm tra điển hình: Là việc kiểm tra ngẫu nhiên một số chứng từ của
một loại nghiệp vụ để rút ra kết luận chung. Phương pháp này tiết kiệm nhiều
thời gian nhưng độ tin cậy của kết luận không cao.


12


Ngoài ra còn có các phương pháp kiểm tra bổ trợ như:
+ Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này được sử dụng khi cần thu
thập thông tin từ những người có quan hệ trực tiếp, gián tiếp đến nội dung
thanh tra, kiểm tra
+ Ngoài ra còn một số phương pháp khác như: Phương pháp thẩm tra và
xác nhận từng phần, phương pháp quan sát…
1.2 Nội dung và các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra,
kiểm tra người nộp thuế
1.2.1 Nội dung công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế
Thanh tra, kiểm tra NNT là nội dung cơ bản và quan trọng của công tác
thanh tra, kiểm tra thuế trong quản lý thuế. Theo quy định của pháp luật, các
cơ sở kinh doanh đều phải thực hiện đầy đủ việc đăng ký kinh doanh, đăng ký
thuế, chế độ hạch toán kế toán, hoá đơn chứng từ….Tuy nhiên, trong thực tế
còn nhiều đối tượng vi phạm các quy định trên, vì vậy phải tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra NNT nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành
vi sai phạm đó. Nội dung thanh tra, kiểm tra NNT tập trung vào những vấn đề
chủ yếu sau:
1.2.1.1 Thanh tra, kiểm tra việc đăng ký thuế.
Đăng ký thuế là quyền và nghĩa vụ của đối tượng kinh doanh. Thông qua
việc đăng ký thuế, Nhà nước quản lý được mọi mặt hoạt động sản xuất kinh
doanh của cơ sở ngay từ khi bắt đầu hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác kế hoạch hoá nguồn thu ngân sách.
Nội dung kiểm tra đăng ký thuế là xem xét trên từng địa bàn, trong từng
loại ngành nghề có bao nhiêu cơ sở thực tế có hoạt động kinh doanh, số lượng
cơ sở đã đăng ký và chưa kê khai đăng ký thuế.
Đối với mỗi cơ sở kinh doanh, cần kiểm tra tính trung thực của các tài
liệu, số liệu kê khai trong đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế về vốn, địa



13

điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, thời gian thực tế kinh doanh, hình
thức kế toán áp dụng, tài khoản giao dịch… nhằm phát hiện và xử lý các hiện
tượng gian lận trong việc kê khai đăng ký thuế.
1.2.1.2 Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách,
chứng từ, hoá đơn
Việc thực hiện chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ hoá đơn có liên quan
mật thiết đến việc tính thuế, nộp thuế và công tác quản lý của Nhà nước.
Nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực này là kiểm tra
việc chấp hành chế độ hạch toán kế toán, việc quản lý và sử dụng hoá đơn
chứng từ, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ kế toán (hoá đơn
mua bán hàng hoá, phiếu xuất kho, nhập kho, phiếu thu, phiếu chi…). Đây là
nội dung kiểm tra phức tạp, tốn nhiều thời gian và công sức nhất nhưng lại có
tác dụng lớn trong việc phát hiện và ngăn chặn các hành vi gian lận, khai
man, trốn thuế.
1.2.1.3 Thanh tra, kiểm tra việc kê khai, tính thuế và nộp thuế
Việc kê khai tính thuế, nộp thuế là nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân
kinh doanh. Nội dung công tác kiểm tra bao gồm:
- Thông qua công tác kiểm tra sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn và các
tài liệu có liên quan để xác định các căn cứ tính thuế, làm cơ sở cho việc xác
định thuế phải nộp, số thuế đã nộp, số thuế được hoàn, được miễn giảm trong
kỳ của đơn vị. Đối chiếu các số liệu trên các tờ khai, bảng kê, quyết toán thuế
đơn vị đã kê khai với số kiểm tra để phát hiện số thuế đơn vị hạch toán, kê
khai thiếu, số thuế ẩn lậu.
- Kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của đơn vị: Cần đối chiếu
thời hạn nộp thuế ghi trên thông báo thuế với thời hạn đã nộp tiền thuế vào
kho bạc qua các chứng từ nộp thuế như giấy nộp tiền, biên lai thuế nhằm phát
hiện tình trạng nợ đọng, dây dưa, chây ỳ tiền thuế. Đặc biệt chú trọng đến



14

những cơ sở có biểu hiện vi phạm nhiều lần, với số lượng lớn nhằm giảm
thiểu tối đa khả năng thất thoát tiền thuế của Nhà nước.
Như vậy, việc thanh tra, kiểm tra các đối tượng nộp thuế là một công
việc mang tính tổng hợp cao, đòi hỏi người cán bộ thanh tra, kiểm tra phải
nắm vững các quy trình quản lý thuế, Luật quản lý thuế, các văn bản pháp luật
thuế, phải thông thạo nghiệp vụ kế toán và đặc biệt phải có sự hiểu biết sâu
rộng về nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra người
nộp thuế
Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra NNT không chỉ được xem xét,
đánh giá đơn thuần ở khía cạnh hiệu quả kinh tế mà còn được xem xét, đánh
giá dưới giác độ hiệu quả xã hội chính trị. Vì vậy, các tiêu chí đánh giá hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế được chia 2 nhóm là:
- Các tiêu chí định lượng:
Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế của nghiệp vụ thanh
tra, kiểm tra đã được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc thực hiện nhiệm
vụ được giao hoặc kết quả đem lại của các nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra. Các
tiêu chí này thường gồm:
+ Tình tình thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra về từng chỉ tiêu định
lượng của kế hoạch: Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số đối tượng thanh tra,
kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về thời gian thanh
tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ thanh tra, kiểm tra hàng năm so với
tổng số đối tượng thanh tra, kiểm tra...
+ Tình hình vi phạm pháp luật thuế đã phát hiện qua thanh tra, kiểm tra:
Tỷ lệ vi phạm pháp luật thuế/tổng số đối tượng thanh tra, kiểm tra; Tổng số



15

tiền thuế truy thu qua thanh tra, kiểm tra; Số tiền thuế truy thu bình quân/đối
tượng thanh tra, kiểm tra.
+ Chi phí vật chất và thời gian cho thanh tra, kiểm tra: Thời gian bình quân
1 cuộc thanh tra, kiểm tra; Số đối tượng được thanh tra, kiểm tra bình quân/thanh
tra viên hàng năm; Chi phí bằng tiền trực tiếp cho thanh tra, kiểm tra.
+ Hiệu quả trực tiếp của thanh tra, kiểm tra: Chi phí thanh tra, kiểm tra
so với số thuế truy thu được đã nộp NSNN; Tỷ lệ giữ nguyên, sửa đổi hoặc
huỷ bỏ quyết định truy thu thuế theo biên bản thanh tra, kiểm tra thuế khi giải
quyết khiếu nại của đối tượng thanh tra, kiểm tra; Tỷ lệ các trường hợp đối
tượng thanh tra, kiểm tra chấp nhận hoàn toàn kết luận thanh tra, kiểm tra; Tỷ
lệ số thuế truy thu được nộp vào NSNN/tổng số thuế truy thu…
Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên song thực
tế đa số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu quả kinh tế của công tác
thanh tra, kiểm tra. Bên cạnh việc tính toán chỉ tiêu này trong năm, để đánh
giá chính xác hơn tính hiệu quả cần phải so sánh với những năm cũ để đánh
giá xu hướng biến động của các chỉ tiêu, có như thế mới thấy rõ những tiến bộ
của từng khâu công tác.
- Các tiêu chí định tính:
Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của công tác thanh tra, kiểm tra
mà không thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu quả
có tính xã hội, chính trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Tiêu chí này có thể
đo lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng
thanh tra, kiểm tra qua các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được thanh
tra, kiểm tra.
+ Tác dụng trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế, tạo sự
công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.



16

Có thể đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử
lý truy thu thuế và xử phạt hành chính thuế.
Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra, kiểm tra được đánh giá
theo kỳ (qúy, năm) và được chia theo sắc thuế, theo hình thức thanh kiểm tra,
theo loại đối tượng nộp thuế và từng nội dung thanh tra, kiểm tra tương ứng.
1.3 Sự cần thiết phải tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra người nộp thuế
1.3.1 Những nhân tố tác động tới công tác thanh tra, kiểm tra người
nộp thuế
1.3.1.1 Sự phát triển phong phú, đa dạng và ngày càng phức tạp của NNT
Điều kiện kinh tế xã hội là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp đến quản lý thuế nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nói
riêng. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập sâu rộng
hiện nay thì hệ thống luật pháp sẽ dần được hoàn thiện, cơ sở trang thiết bị vật
chất kỹ thuật ngày càng được hiện đại hoá và số lượng NNT không ngừng tăng
lên nhanh chóng...Tất cả những biến đổi trên đều tác động lớn tới hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Số lượng người nộp thuế ngày càng tăng sẽ là
một thách thức không nhỏ đến công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Bởi cùng với
sự gia tăng về số lượng sẽ là sự đa dạng các loại hình doanh nghiệp và các hình
thức kinh doanh, kèm theo đó là sự phức tạp, tinh vi hơn về thủ đoạn trốn,
tránh, gian lận thuế của người nộp thuế. Nếu không chuẩn bị cho mình một
hành trang đầy đủ (pháp lý, nhân lực, vật lực...) cơ quan quản lý thuế, nhất là
bộ phận thanh tra, kiểm tra sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát hiện và xử
lý kịp thời các vụ gian lận, ẩn lậu thuế, gây thất thu cho NSNN.
Những năm gần đây, trình độ dân trí và sự hiểu biết về pháp luật thuế
cũng như ý thức tuân thủ của người nộp thuế tại Việt Nam ngày càng được
cải thiện; họ hiểu rõ quyền, lợi ích và trách nhiệm của mình khi tham gia vào



17

hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra thuế vì NNT sẽ phải tự cân nhắc các hành vi của
mình trước khi thực hiện. Tuy nhiên, trình độ dân trí và sự hiểu biết về pháp
luật thuế của NNT nâng cao trong khi pháp luật thuế chưa hoàn thiện, còn
nhiều kẽ hở cũng đã tạo điều kiện cho không ít đối tượng nộp thuế có các
hành vi, thủ đoạn trốn, tránh thuế ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây khó
khăn cho cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế trong việc phát hiện ra các gian lận.
1.3.1.2 Hệ thống chính sách pháp luật thuế chưa hoàn thiện
Hệ thống chính sách pháp luật thuế đồng bộ, hoàn thiện, nội dung các
sắc thuế rõ ràng, minh bạch sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động thanh
tra, kiểm tra người nộp thuế đi vào khuôn khổ. Từ đó giúp NNT hiểu và thực
hiện nghiêm túc nghĩa vụ thuế theo qui định của pháp luật và công tác thanh
tra, kiểm tra thuế thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, hệ thống
chính sách thuế hiện hành tại Việt Nam mặc dù không ngừng được chỉnh sửa,
bổ sung nhưng vẫn còn nhiều kẽ hở và chưa thực sự minh bạch, nhiều qui
định phức tạp, không rõ ràng, thủ tục hành chính thuế còn rườm rà… Đây
chính là kẽ hở để NNT lợi dụng, tạo ra những hành vi trốn thuế, tránh thuế và
gây ra những khó khăn, phức tạp cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
1.3.1.3 Sự thay đổi của mô hình quản lý thuế theo chức năng và cơ chế
tự khai, tự nộp thuế
Hiện nay, cơ quan quản lý thuế Việt Nam thực hiện cơ chế kê khai, tính
thuế theo mô hình NNT tự khai và tự nộp thuế. Trong cơ chế này, NNT căn
cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của mình và các quy định của pháp luật
về thuế để tự khai, tự tính toán số thuế phải nộp, chủ động nộp thuế cho nhà
nước theo đúng thời hạn quy định của pháp luật. Cơ quan thuế không can
thiệp vào quá trình kê khai nộp thuế của các NNT trừ khi phát hiện các sai

sót, vi phạm hoặc các dấu hiệu không chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế có


18

trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ và tự giác thực
hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế
của NNT và thông qua công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện, xử lý kịp thời
những hành vi trốn thuế của NNT.
Thực hiện quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai tự nộp thuế, bộ máy quản
lý thuế tại cơ quan thuế được tổ chức tập trung theo các chức năng, bao gồm
các chức năng chính: tuyên truyền, hỗ trợ NNT; xử lý tờ khai và kế toán thuế;
thu nợ, cưỡng chế thuế và thanh tra, kiểm tra thuế; trong đó, thanh tra, kiểm
tra thuế là chức năng trọng tâm của cơ quan thuế trong cơ chế tự kê khai, tự
nộp thuế. Quản lý theo chức năng cho phép cơ quan thuế chuẩn hoá mạnh hơn
về quy trình thủ tục làm việc đối với các loại thuế, đơn giản hoá hệ thống tin
học và giao tiếp với NNT, đồng thời nâng cao hiệu quả chung của ngành. Mô
hình này thích ứng với mọi sự thay đổi về NNT và tạo ra sự kiểm tra chéo
giữa các cán bộ thuế ở các bộ phận khác nhau, hạn chế tiêu cực nên giảm
nguy cơ gian lận thuế, thất thu thuế bởi bất kỳ sự thông đồng nào giữa NNT
và cán bộ thuế. Ngoài ra, mô hình này còn thúc đẩy chuyên môn hóa và nâng
cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế; thanh
tra, kiểm tra thuế phải dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế để
lựa chọn đối tượng kiểm tra thuế, thanh tra thuế (phương pháp quản lý rủi ro,
tìm khâu yếu nhất để tập trung giám sát, kiểm tra). Theo đó, các cơ quan
thanh tra được chia thành các nhóm chuyên trách như: nhóm thanh tra người
nộp thuế, nhóm kiểm tra người nộp thuế.
Để thực hiện phân tích rủi ro trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế;,
ngành thuế phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và tập
trung về đối tượng thanh tra, kiểm tra. Hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng

trên cơ sở thông tin từ nội bộ ngành thuế và thông tin từ các ngành liên quan
được kết nối tự động với cơ quan thuế và được chia sẻ trên phạm vi toàn


19

quốc. Bên cạnh đó, lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế ngày
càng được chuyên môn hoá để đáp ứng đòi hỏi của hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế trong điều kiện thực hiện đổi mới quản lý thuế.
1.3.2 Vai trò công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế
Thứ nhất, Thanh tra, kiểm tra NNT là công cụ quan trọng để cơ quan
thuế nắm bắt thông tin về NNT.
Nắm bắt thông tin về NNT là một trong những yếu tố quan trọng tác
động tới hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. Việc thực hiện cơ chế tự
khai, tự nộp thuế đã đổi mới phương thức quản lý thuế tại Việt Nam từ “tiền
kiểm” sang “hậu kiểm”, với hai chức năng cơ bản là tuyên truyền, hỗ trợ
người nộp thuế và giám sát việc chấp hành pháp luật thuế. Triển khai cơ chế
này còn làm thay đổi phương thức quản lý của cơ quan thuế, chuyển từ quản
lý truyền thống mang tính thủ công sang phương thức quản lý hiện đại, dựa
trên cơ sở dữ liệu thông tin tổng hợp và kỹ thuật quản lý rủi ro, vì vậy đòi hỏi
cơ quan thuế phải có cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ về người nộp thuế. Cơ
quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở thu thập đủ các thông
tin cần thiết về NNT (từ tờ khai, báo cáo tài chính và thông tin từ các nguồn
khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro để lựa
chọn NNT cần thanh tra, kiểm tra. Các thông tin về NNT được thanh tra,
kiểm tra được cập nhật ngay khi có biến động trên cơ sở dữ liệu chung do
Tổng cục thuế quản lý và được chia sẻ, khai thác trên phạm vi cả nước.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, số lượng NNT tăng lên
nhanh chóng, ngành nghề kinh doanh phong phú, đa dạng dẫn đến công tác
quản lý thu thuế ngày càng khó khăn, phức tạp. Để đảm bảo nguồn thu cho

NSNN, thu đúng, thu đủ, cơ quan thuế phải tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm
soát nhằm phát hiện những đối tượng mới phát sinh đưa vào diện chịu thuế.
Ngoài ra, thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế, cơ quan thuế nắm bắt


20

được các thông tin NNT như: tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình chấp
hành pháp luật thuế… từ đó đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả
đối với từng loại hình đối tượng nộp thuế.
Thứ hai, Thanh tra, kiểm tra NNT nhằm phát hiện gian lận thuế, thực
hiện nghiêm pháp luật thuế và chống thất thu cho NSNN:
Gian lận thuế là một tồn tại không thể tránh khỏi trong bất kỳ một nền
kinh tế nào, ở nước ta, vấn đề này càng trở nên bức xúc nhất là trong điều
kiện thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, đề cao tính tự giác của đối
tượng nộp thuế qua việc tự tính, tự kê khai và nộp thuế. Gian lận thuế không
những gây thất thu cho NSNN mà còn làm giảm hiệu lực quản lý thuế, tạo ra
môi trường cạnh trang không bình đẳng giữa NNT chấp hành tốt pháp luật
thuế và những người gian lận. Vì vậy, cần phải nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra, kiểm tra thuế để ngăn chặn kịp thời các hành vi khai man, trốn lậu
thuế, đảm bảo tính bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế.
Thứ ba, Thanh tra, kiểm tra NNT nhằm cảnh báo, ngăn ngừa hành vi vi
phạm pháp luật và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của NNT:
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế khuyến khích và nâng cao tính tự nguyện
tuân thủ pháp luật của NNT: NNT được cơ quan thuế hỗ trợ có việc tự kê
khai, tính và nộp thuế, nhưng cũng bị xử phạt nghiêm khắc khi vi phạm pháp
luật thuế. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra NNT, cơ quan thuế phát hiện
và xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi gian lận, trốn thuế. Qua đó, cơ
quan thuế cảnh báo nghiêm khắc đối với những đối tượng nộp thuế vi phạm
pháp luật: NNT sẽ bị xử phạt rất nặng khi vi phạm pháp luật thuế và cơ quan

thuế có khả năng phát hiện ra các sai phạm này. Vì vậy, việc tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra NNT không những chống thất thu cho NSNN mà còn
có ý nghĩa đối với nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của NNT, cảnh báo và
ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thuế.


21

Thứ tư, Thanh tra, kiểm tra NNT góp phần hoàn thiện pháp luật thuế:
Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam thời gian qua không ngừng được
sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của kinh tế- xã hội và yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do có độ “trễ” nhất định giữa chính sách
ban hành và diễn biến kinh tế- xã hội nên hệ thống chính sách thuế không thể
tránh khỏi những tồn tại, hạn chế nhất định. Công tác thanh tra, kiểm tra NNT
không những phát hiện và xử lý các sai phạm pháp luật thuế, mà còn góp
phần tìm ra những kẽ hở của pháp luật thuế; những bất cập, không phù hợp
giữa chính sách thuế đời sống kinh tế- xã hội. Đây là một kênh cung cấp các
thông tin, căn cứ cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp
luật thuế phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
1.4. Kinh nghiệm thanh tra, kiểm tra người nộp thuế của các nước
trên thế giới và bài học đối với Việt Nam
Kinh nghiệm hiện đại hoá công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Khảo sát kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy để đổi mới công tác quản
lý thuế cần phải đảm bảo đủ bốn thành phần chủ yếu: Chiến lược, Tổ chức
nhân sự, quy trình tác nghiệp và công nghệ. Trong đó Chiến lược là yếu tố cơ
bản của quá trình hiện đại hoá, với mục tiêu, chương trình và kế hoạch thực
hiện cụ thể, rõ ràng và thống nhất gắn với từng nhiệm vụ cụ thể của từng bộ
phận trong cơ quan thuế. Tổ chức nhân sự phải thay đổi phù hợp với mục tieu
mới, thay đổi nhận thức mới, phong cách làm việc mới của cán bộ công chức,
tập trung đào tạo kỹ năng chuyên sâu, phương pháp nghiệp vụ mới cho tất cả

cán bộ thuộc cơ quan thuế. Quy trình nghiệp vụ phải thay đổi theo hướng hiện
đại, quản lý bằng kỹ thuật rủi ro. Công nghệ là trụ cột cơ bản của quá trình
hiện đại hoá cơ quan thuế; vấn đề thiết yếu là công nghệ phải phù hợp và đáp
ứng yêu cầu nghiệp vụ, phù hợp với trình độ quản lý tổ chức của cơ quan thuế
và trình độ kỹ năng của cán bộ thuế.


×