1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ổn định chính trị - xã hội là một yêu cầu tất yếu trong sự tồn tại và phát
triển của mọi xã hội. Lịch sử thế giới và Việt Nam đã minh chứng rõ điều đó.
Trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, ở mỗi giai đoạn lịch sử, khi nào giai
cấp thống trị, Đảng phải cầm quyền đưa ra được những chủ trương, giải pháp
đúng, phù hợp quy luật và thâu phục được lòng dân, thì ở đó sẽ tạo ra được
sức mạnh để bảo vệ và xây dựng quốc gia, dân tộc hòa bình - ổn định và phát
triển, và ngược lại, sẽ gây ra sự bất ổn định. Bất ổn định, chiến tranh và các
cuộc xung đột sẽ đẩy lùi sự phát triển của quốc gia, dân tộc trong mỗi thời kỳ
so với xu thế chung của thế giới. Những bất ổn định chính trị - xã hội Liên Xô
và Đông Âu trong cuối những năm 80, đầu 90 đã đẩy các nước này đến đổ vỡ,
chôn vùi thành quả của nhân dân trong mấy mươi năm. Vì vậy, ổn định tình
hình chính trị - xã hội là mong muốn của mọi xã hội, của nhân dân.
Ở Việt Nam, qua mấy ngàn năm lịch sử, ngay cả trong các xã hội
phong kiến, khi nào vua sáng, tôi hiền, lòng dân hòa thuận, đất nước yên bình,
ổn định thì xã hội phát triển, nhân dân hòa mục, đời sống ấm êm, thái bình.
Dân tộc ta đã từng trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giặc
nội xâm và đã thấm đau bao cảnh tương tàn, tang tóc, mất mát, hy sinh, sức
người, sức của. Vì vậy ngày nay, dân ta rất khát khao độc lập tự do, mong
muốn mãi mãi được sống trong hòa hình, ổn định để xây dựng một đất nước
có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Điều đó chỉ
thực hiện được trong tình hình xã hội ổn định. Đó không phải chỉ là mong
muốn của Đảng ta, của Nhà nước ta, mà còn của cả dân tộc ta. Công cuộc đổi
mới do Đảng ta khởi xướng, đất nước ta đã và đang thu được những thành tựu
rất to lớn. Đó là việc Đảng ta đã đưa ra được đường lối chính trị đúng đắn,
lãnh đạo Nhà nước và nhân dân ta giữ được ổn định chính trị - xã hội để xây
2
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong đó
cũng còn tồn tại không ít các nhân tố tiềm ẩn những nguy cơ có thể gây bất ổn
định, làm cản trở phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của
nhân dân. Những nhân tố ấy tồn tại trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong những vấn đề vĩ mô và vi mô, ở mọi cấp độ từ trung ương xuống
đến địa phương và cơ sở. Điểm nóng ở Thái Bình trong những năm 1996 - 1998
và ở nhiều nơi khác, vụ bạo loạn ở Tây Nguyên vừa qua đã minh chứng điều đó.
Vì vậy, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là, để đất nước
phát triển, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, điều kiện tiên quyết là
phải giữ vững được ổn định chính trị - xã hội trên phạm vi cả nước và ở mỗi
địa phương.
Thái Bình là một trọng điểm của các điểm nóng trong cả nước những
năm 1996-1998. Trong những năm qua Thái Bình đã đẩy lùi trạng thái bất ổn
định, đang từng bước đi lên. Song bên cạnh những mặt tích cực trong đời
sống chính trị, trong phát triển kinh tế - xã hội, vẫn còn nhiều điều bức xúc
cần giải quyết, cần có những giải pháp khả thi để ngăn chặn, đẩy lùi những
nhân tố có khả năng dẫn tới tái phát bất ổn định có thể xảy ra.
Trên ý nghĩa đó, tôi chọn "Vấn đề ổn định chính trị - xã hội trên địa
bàn tỉnh Thái Bình - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận án thạc sĩ
khoa học chính trị, khóa đào tạo năm 2002-2004, mã số 60.31.20.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các văn kiện của Đảng, những chủ trương chính sách của Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới, nhiều chỗ nhấn mạnh đến vấn đề ổn định chính trị xã hội. Đề ra những quyết sách lớn, Đảng ta đều phân tích sâu sắc tình hình
chính trị - xã hội trên thế giới, trong nước và đánh giá thực trạng của giữ vững
ổn định chính trị - xã hội. Các chủ trương, chính sách của Nhà nước đều
hướng tới mục tiêu đảm bảo cho đất nước giữ vững được ổn định chính trị xã hội để đất nước phát triển. Do vậy, đường lối chính trị của Đảng, chủ
3
trương, chính sách của Nhà nước đã trở thành cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu ổn định chính trị - xã hội.
Ở nước ta, đã có một số công trình, bài viết về vấn đề ổn định (bất ổn
định) chính trị - xã hội, nhất là từ sau khi xảy ra các điểm nóng chính trị ở
nhiều nơi, đặc biệt ở Thái Bình, trong đó một số luận văn tốt nghiệp cao cấp
lý luận, cử nhân, hoặc luận văn thạc sĩ.
Liên quan đến đề tài điểm nóng, mất ổn định chính trị - xã hội đã có
một số tác phẩm tiêu biểu như:
- "Tổng kết thực tiễn về xử lý điểm nóng chính trị - xã hội" do GS. Lê
Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm, GS. Lưu Văn Sùng làm phó chủ nhiệm.
- GS. Hoàng Chí Bảo: "Bước đầu khái quát lý luận về điểm nóng,
điểm nóng chính trị -xã hội".
- Viện Khoa học Chính trị đã có tập bài giảng về "Xử lý tình huống
chính trị" giành cho hệ cử nhân và hệ cao học.
- Các bài viết của GS. TS Lưu Văn Sùng, GS.TS Hoàng Chí Bảo trên
"Thông tin chính trị học" có nội dung khái quát lý luận về điểm nóng chính trị xã hội, liên quan đến việc mất ổn định chính trị - xã hội ở địa bàn một số tỉnh
ở nước ta.
- Nguyễn Thị Mai Anh: "Điểm nóng chính trị - xã hội ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng - Nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm", Luận
văn thạc sĩ Chính trị học.
- Lê Văn Đính: "Vấn đề điểm nóng tôn giáo ở Thừa Thiên - Huế với
việc giữ vững ổn định chính trị trong công cuộc đổi mới hiện nay" - Luận văn
thạc sĩ chính trị học, năm 1998. Tác giả đã từ cơ sở lý luận và thực trạng mà
tổng kết một số kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp nhằm ngăn ngừa, xử
lý một cách có hiệu quả "điểm nóng" tôn giáo để giữ vững ổn định chính trị
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
4
Các công trình khoa học về điểm nóng chính trị trên đây đã phân tích
khá sâu về nội dung, đặc điểm, những tác động xấu và các giải pháp khắc
phục điểm nóng - một biểu hiện của bất ổn định chính trị - xã hội ở các địa
phương trong những năm qua.
- TS. Nguyễn Văn Vĩnh và tập thể các nhà khoa học với đề tài khoa
học cấp bộ, 2003, về "Những nhân tố có thể dẫn đến bất ổn định chính trị - xã
hội ở nước ta hiện nay". Đề tài này đã đạt những kết quả khá sâu về nội dung
khái niệm bất ổn định chính trị, những nhân tố ảnh hưởng, những yếu tố có
thể dẫn đến bất ổn định chính trị - xã hội và các giải pháp khắc phục trên các
lĩnh vực ở nước ta hiện nay.
- Howrd Wiauch: "Chính trị so sánh" (bản dịch tiếng Việt), Hoa kỳ
1987. Trong tác phẩm này có một nội dung quan trọng là so sánh các nền
chính trị dân chủ thông qua tiêu chí về ổn định chính trị. Tác giả đã đề cập
đến một số nội dung cần tiếp cận về ổn định và ổn định chính trị.
Tóm lại, các bài viết, các luận văn trên đã đi sâu nghiên cứu và vạch
ra những nội dung ở tầm khái quát cao về mặt lý luận về điểm nóng và bất ổn
định chính trị - xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lý luận toàn diện về ổn
định chính trị - xã hội và giải pháp giữ vững ổn định chính trị - xã hội sau khi
điểm nóng đã được giải quyết trên địa bàn của một tỉnh thì chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục đích
Trên cơ sở phân tích lý luận phạm trù ổn định chính trị, làm rõ những
thành tựu, những hạn chế tiềm ẩn nguy cơ có thể gây bất ổn định trên địa bàn
tỉnh Thái Bình, luận văn xây dựng hệ thống phương thức, giải pháp khả thi
nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, coi đó như là điều kiện tiên quyết để
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thắng lợi vào sự nghiệp đổi mới do Đảng
ta khởi xướng trên địa bàn của tỉnh Thái Bình và rộng ra là với cả nước.
5
b) Nhiệm vụ
Đề tài nhằm làm rõ nội dung ổn định chính trị - xã hội với tư cách là
phạm trù khoa học chính trị và vai trò của nó trong hoạt động của hệ thống
chính trị, đặc biệt là ở cơ sở. Cụ thể:
- Làm sáng tỏ nội dung, cấu trúc của khái niệm ổn định chính trị - xã
hội và vai trò của nó trong đời sống xã hội.
- Làm rõ thực trạng tình hình chính trị - xã hội ở Thái Bình trong
những năm sau khi xảy ra điểm nóng (sau 1997 - 1998). Tìm những nguy cơ
tiềm ẩn gây mất ổn định.
- Đưa ra hệ thống những giải pháp nhằm giữ vững ổn định chính trị
-xã hội, từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhằm ổn định tình hình chính
trị - xã hội để phát triển kinh tế - xã hội nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới
trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề ổn
định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình có đặc trưng sản xuất nông
nghiệp là chính, kinh tế kém phát triển đang vận động đi lên trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng của việc giữ vững ổn
định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình sau khi xảy ra "điểm nóng"
chính trị - xã hội (1997 - 1998) đến nay. Từ đó nêu những giải pháp cơ bản để
tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội hiện nay và những năm tiế theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
6
Đề tài cũng sử dụng rộng rãi các phương pháp nghiên cứu tổng hợpdiễn dịch, phương pháp phân tích, gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt là
phương pháp so sánh- phương pháp quan trọng của chính trị học. Đề tài sử
dụng những số liệu báo cáo tổng kết, các số liệu thống kê đã được thẩm
định... để thực hiện những nội dung của đề tài.
6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài tập trung làm rõ những quan điểm lý luận về ổn định chính trị xã hội và hệ thống các giải pháp khả thi qua nghiên cứu từ thực tiễn quá trình
giữ vững ổn định chính trị xã hội sau điểm nóng ở một tỉnh kinh tế kém phát
triển đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Đề tài góp phần làm rõ nội dung lý luận về ổn định nói chung và về
ổn định chính trị - xã hội nói riêng - một vấn đề quan trọng trong khoa học
chính trị.
- Sau khi hoàn thành, có thể sử dụng luận án làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy các khoa học chính trị, nhất là môn chính trị
học. Có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong đổi mới kinh tế- xã hội trên địa
bàn tỉnh Thái Bình.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung
luận án bao gồm 3 chương, 7 tiết.
7
Chương 1
NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG
GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở NƯỚC TA
1.1. NỘI DUNG PHẠM TRÙ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Phạm trù "chính trị - xã hội" được sử dụng phổ biến trong nhiều văn
kiện chính trị. Tuy nhiên chưa có mấy các nhà khoa học bàn đến nội dung
khái niệm này một cách đầy đủ. Theo tôi, để tiếp cận với khái niệm "chính trị
- xã hội", cần tiếp cận nội dung các thuật ngữ chính trị và xã hội.
1.1.1. Nội dung chính trị
a) Nội dung chính trị
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện khi xã hội phân
chia thành các giai cấp, và sự xuất hiện nhà nước.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung chính trị. Có học giả xem
chính trị là một "nhà hát". Trong "nhà hát" này có vở diễn, nghệ sĩ, người xem,
sự bài trí sân khấu và nhà phê bình. Vì thế, Platon coi chính trị là vấn đề mang
tính nghệ thuật, giống như nghệ thuật là tính vốn có của nhà hát nói chung. Mặt
khác, vì là "nhà hát chính trị" nên ngoài những đặc điểm mang tính phổ biến, nó
còn có những điểm riêng biệt của mình. Học giả Max Weiber xem chính trị là
khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực
giữa các tập đoàn người trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia. Cũng có
một số học giả lại xem chính trị chỉ là thủ đoạn, là những mưu đồ nhằm đạt
tới quyền lực của cá nhân, của phe nhóm. Những quan điểm này có chứa đựng
một số nhân tố hợp lý, nhưng chưa làm rõ những nội dung căn bản của chính
trị.
8
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã có quan niệm khoa học về chính trị. Những
người mác-xít cho rằng phải xem xét chính trị trong quan hệ với giai cấp, với
lợi ích giai cấp và với nhà nước cùng thiết chế chính trị bảo đảm hiện thực
hóa những nhu cầu của các lực lượng tham gia vào đời sống chính trị.
Xét về bản chất, chính trị có nguồn gốc từ kinh tế, là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại. Đây là luận điểm mang tính duy
vật về chính trị, bởi vì chính trị không phản ánh nhu cầu kinh tế ngẫu nhiên
mang tính chất đơn nhất, mà nó phản ánh tính tất yếu khách quan của kinh tế.
V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế...chính trị
không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [26, tr. 349]. So với
kinh tế, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu, vì khi giải quyết các
vấn đề kinh tế, chính trị của giai cấp cầm quyền phải định hướng vào việc bảo
vệ và phát triển cơ sở kinh tế của mình dựa trên việc củng cố quyền lực chính
trị. Cho dù xét đến cùng, kinh tế tuy là điểm xuất phát và là mục tiêu của
chính trị, nhưng chính trị đến lượt nó là tiền đề để thực hiện các lợi ích kinh
tế. Trong các quan hệ chính trị, quan hệ giữa các giai cấp là quan hệ cơ bản.
Đó là biểu hiện các quan hệ mang tính bản chất của đời sống chính trị.
Chính trị có quan hệ hữu cơ với lợi ích các giai cấp, các lực lượng, các
quốc gia, dân tộc. Nhưng do vị trí khác nhau trong hệ thống sản xuất của xã
hội, các giai cấp có lợi ích khác nhau. Việc thỏa mãn các nhu cầu lợi ích của
mỗi lực lượng do địa vị chính trị của nó quy định, và cái quyết định nhất là vị
trí của các lực lượng ấy đối với chính quyền như thế nào. Do vậy, hướng đến
nắm quyền lực chính trị là khát vọng. V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng, lợi ích
kinh tế cơ bản của giai cấp công nhân chỉ được thỏa mãn nhờ giai cấp công
nhân tiến hành cuộc cách mạng chính trị giành lấy chính quyền từ tay các giai
cấp bóc lột.
Chúng tôi tán thành các quan điểm cho rằng, chính trị là mối quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan tới vấn đề
9
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế, được quy định bởi những lợi ích cơ bản của giai cấp, của các lực
lượng chính trị, là vấn đề công việc chính quyền. Chính trị theo nguyên nghĩa
của nó, là những công việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những
quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là
vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Cái quan trọng nhất của chính trị, theo Lênin là "tổ chức chính quyền
nhà nước". Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước,
các định hướng của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt
động của nhà nước... Bất kỳ vấn đề xã hội nào cũng mang tính chính trị vì
việc giải quyết nó, trực tiếp hay gián tiếp đều gắn với lợi ích giai cấp, với vấn
đề quyền lực.
b) Cấu trúc chính trị
Để hiểu được nội dung của chính trị, cần thiết phải tìm hiểu các nhân
tố cấu thành của chính trị.
Cho đến nay, trong lý luận chính trị hiện đại, khi xác định cấu trúc
chính trị còn có nhiều ý kiến khác nhau. đáng chú ý là quan điểm cho rằng
cần xem xét cấu trúc chính trị trên hai phương diện:
Phương diện thứ nhất - Coi chính trị với tư cách là những quan hệ
đặc biệt, thì cấu trúc chính trị bao gồm:
- Quan hệ giữa công dân với nhà nước.
- Quan hệ giữa các tập đoàn, các giai cấp khác nhau với vấn đề nhà
nước.
- Quan hệ giữa các dân tộc khác nhau với nhà nước.
- Quan hệ giữa các quốc gia khác nhau thông qua nhà nước.
Phương diện thứ hai - Coi chính trị với tư cách là một hoạt động xã
hội đặc thù - Cấu trúc của chính trị sẽ bao gồm:
- Mục tiêu hoạt động chính trị của các chủ thể.
10
- Phương pháp, phương tiện hoạt động chính trị.
- Những hình thức tổ chức hoạt động chính trị, các thiết chế chính trị
nhằm đạt tới mục tiêu.
- Những lực lượng xã hội chính trị và hình thức tổ chức các lực lượng
đó nhằm đạt mục tiêu.
- Nhà chính trị, những chính khách thực hiện nhiệm vụ chính trị.
- Hoạt động chính trị thực tiễn nhằm hiện thực hóa mục tiêu đã đặt ra.
Cách xác định cấu trúc chính trị trên đây có ưu điểm bao quát và chi
tiết hóa được hầu hết các nhân tố của chính trị. Tuy nhiên, nếu xem xét như
vậy, có phần chia tách các yếu tố của chính trị, trong khi chính trị là một chính
thể, là một hệ thống. Theo tôi, có thể xác định cấu trúc chính trị bao gồm:
Một là, ý thức chính trị, các mục tiêu lý tưởng chính trị - biểu hiện tư
tưởng, chính trị thông qua sự nhận thức và phương hướng hoạt động chính trị
của các chủ thể tham gia vào đời sống chính trị.
Xét về mức độ phản ánh, ý thức chính trị có hai cấp độ liên quan với
nhau một cách biện chứng: trình độ lý luận và trình độ kinh nghiệm. ý thức
chính trị dưới góc độ trình độ lý luận thể hiện ở khả năng nắm bắt các yếu tố
khách quan chi phối đời sống xã hội và khả năng đáp ứng các yêu cầu của quy
luật khách quan, là khả năng nhận thức lý luận chính trị, cương lĩnh - đường
lối chính trị, mục tiêu lý tưởng chính trị của mỗi lực lượng chính trị, là trình
độ, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị.
Hai là, hệ thống chính trị, bao gồm các tổ chức chính trị (các đảng
phái chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội khác) gắn
liền với những thể chế chính trị tương ứng. Sự hoạt động của tất cả các nhân
tố cấu trúc hệ thống chính trị hướng trọng tâm vào thực hiện quyền lực nhà
nước. Vị trí của mỗi hệ thống chính trị đối với vấn đề chính quyền do tương
quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội quy định.
11
Bà là, các quan hệ chính trị được hình thành do sự tác động qua lại
giữa các chủ thể chính trị (nhóm, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, quốc
gia...). Các quan hệ chính trị phản ánh các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã
hội khác, nhưng có vai trò chi phối các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội
khác. Các quan hệ chính trị có thể hình thành dưới hình thức liên minh hợp
tác đấu tranh, hoặc xung đột xung quanh các công việc chính quyền.
Sự vận động của các quan hệ chính trị là sự vận động liên tục, thể hiện
thông qua những sự kiện, những biến cố chính trị trong từng giai đoạn khác
nhau, khi thì sôi động quyết liệt, khi thì trầm lắng êm ả. Thời kỳ mà đời sống
chính trị êm ả là thời kỳ ổn định, và ngược lại thời kỳ có nhiều biến cố xung
đột, mâu thuẫn gay gắt là thời kỳ bất ổn định. Thực trạng chính trị ổn định
hay bất ổn định do nhiều yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội chi phối. Điều đó
tùy thuộc trước hết bởi chính thể chế chính trị đương thời, bởi hệ thống chính
trị, bởi phẩm chất, năng lực, bản lĩnh của các chủ thể chính trị cầm quyền.
Trên ý nghĩa đó, Lênin cho rằng: "Chính trị là khoa học và nghệ thuật".
1.1.2. Nội dung vấn đề xã hội
Xã hội là những cộng đồng người. Con người là tổng hòa các quan hệ
xã hội. Do đó, xã hội là một khái niệm để chỉ rõ:
Thứ nhất: Xã hội trước hết nói đến một cộng đồng dân cư sống trong
một phạm vi ranh giới địa lý - lãnh thổ.
Thứ hai: Nói xã hội không thể không nói đến các hoạt động của con
người liên quan tới các quá trình sản xuất (sản xuất theo nghĩa rộng, bao gồm
tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất và các hoạt động dịch vụ, nghiên cứu
khoa học). Các hoạt động đó lại gắn liền với các hoạt động văn hóa, tinh thần,
tâm linh của con người, của cộng đồng người.
Thứ ba: Sự tồn tại của xã hội có giai cấp, tất yếu gắn liền với đời sống
chính trị, cả xã hội bị lôi cuốn vào guồng máy chính trị (chính thể, đường lối,
thiết chế, con người chính trị...).
12
C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh: "Xã hội không phải gồm các cá
nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của
các cá nhân đối với nhau". Theo C.Mác, "xã hội - cho dù nó có hình thức gì
đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người" [34, tr. 657].
Nhân loại đã trải qua nhiều kiểu xã hội. Nếu lấy đặc trưng sản xuất thì
nhân loại đã trải qua xã hội săn bắn, xã hội làm vườn, xã hội nông nghiệp, xã
hội công nghiệp. Nếu căn cứ vào hình thái thì có các xã hội nô lệ, phong kiến,
tư bản và xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu căn cứ vào chính thể thì có các xã hội
chính thể quân chủ, độc tài, dân chủ... Mỗi xã hội tồn tại như những nấc thang
của sự phát triển xã hội. Nền tảng chung của các cơ cấu cụ thể này là những
mối quan hệ sản xuất vật chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người và
người, trên đó sẽ hình thành một thượng tầng kiến thức phù hợp. C.Mác cho
rằng, "tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi
là những quan hệ xã hội, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng
biệt... một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại" [30, tr. 553].
Mỗi xã hội đều được đặc trưng bởi một tổng thể các quan hệ sản xuất.
Nhưng quan hệ sản xuất chỉ là cái biểu hiện bên ngoài, là hình thức xã hội của
một phương thức sản xuất nhất định. Cái quyết định nội dung của nó lại chính
là lực lượng sản xuất - trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ biện chứng, chúng luôn quy định và
chế ước nhau, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định.
Xã hội với tư cách là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người
và người cũng được hình thành một cách khách quan và tất yếu. Sự vận động,
biến đổi và phát triển của xã hội phải tuân theo những quy luật nội tại vốn có
của nó, trước tiên là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào trình độ
13
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, làm cơ sở cho một chế độ chính
trị nhất định [20, tr. 401].
Từ những lý giải trên, có thể quan niệm về xã hội như sau: Xã hội,
theo nghĩa rộng nhất là một khái niệm phản ánh các hoạt động và các mối
quan hệ giữa con người với con người trên mọi lĩnh vực ở một giai đoạn phát
triển nhất định của lịch sử. Một xã hội xác định vận động, phát triển theo
những quy luật nội tại, trước tiên là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phù hợp
với cơ sở hạ tầng.
Theo nghĩa rộng khái niệm xã hội rộng bao quát các hoạt động của
con người, bao trùm cả khái niệm chính trị. Nhưng theo nghĩa hẹp, khái niệm
xã hội dùng chỉ một lĩnh vực của hoạt động của con người. Khái niệm này
ngang cấp với khái niệm chính trị, kinh tế, văn hóa... đó là khái niệm xã hội
theo nghĩa hẹp, phản ánh những quan hệ, những hoạt động, những mặt cụ thể
hơn của đời sống xã hội, như vấn đề việc làm và thu nhập, giáo dục và đạo
đức, y tế và sức khỏe, giàu và nghèo, phong tục và tập quán, công bằng và
bình đẳng xã hội, dân tộc và tôn giáo...
Do vậy, hiểu quan niệm về xã hội cần phải hiểu theo cả nghĩa rộng (gồm
nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa...) và cả là vấn đề xã hội theo
nghĩa hẹp. Ở luận văn này, khái niệm xã hội sử dụng cả theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp khi đề cập đến vấn đề chính trị - xã hội và ổn định chính trị - xã
hội.
1.1.3. Nội dung chính trị - xã hội
Trong các công trình nghiên cứu, những văn kiện chính trị thuật ngữ
chính trị - xã hội được dùng phổ biến. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một
định nghĩa khoa học nào về thuật ngữ này.
Có quan điểm khẳng định, các quan hệ xã hội trong xã hội có giai cấp
đều có tính chất chính trị nên gọi là các quan hệ chính trị - xã hội. Cách giải
14
thích này đã cho chúng ta hiểu được phần nào khái niệm chính trị - xã hội.
Tuy vậy, theo chúng tôi, cần phân tích rõ hơn về khái niệm chính trị - xã hội
thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa chính trị và xã hội.
Chính trị là một bộ phận nằm ở thượng tầng kiến trúc của một hình
thái kinh tế - xã hội. Chính trị có ảnh hưởng rất lớn đối với các yếu tố khác ở
thượng tầng kiến trúc như pháp luật, tôn giáo, văn nghệ... và đối với cơ sở
kinh tế. Chính trị bị chi phối bởi kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
khác của kiến trúc thượng tầng. Nhưng chính trị lại tác động đến cơ sở kinh tế
và các lĩnh vực khác của kiến trúc thượng tầng. Những mối quan hệ đó biểu
hiện ra như là các mối quan hệ nhân - quả. Sự tác động của chính trị đến các
quan hệ xã hội có thể trực tiếp có thể gián tiếp, có thể tác động tích cực hoặc
ngược lại. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, nhân tố chính trị thâm nhập vào
nhân tố xã hội, và nhân tố xã hội cũng thâm nhập vào nhân tố chính trị. Các
quan hệ xã hội tốt đẹp sẽ làm cho chính trị bền vững, các quan hệ xã hội rối
loạn sẽ làm cho kinh tế bị kìm hãm, xã hội mất ổn định và chính trị có thể bị
lung lay.
Do mối quan hệ khăng khít giữa chính trị với những vấn đề xã hội,
cho nên trong các xã hội khác nhau thì chính trị - xã hội có những biểu hiện
khác nhau, mang bản chất khác nhau. Điều đó do bản chất chính trị của các
giai cấp nắm quyền chi phối. Trong các xã hội do các giai cấp bóc lột cầm
quyền, chính trị - xã hội nhằm phục vụ củng cố quyền lực của số ít, và phục
vụ cho lợi ích của số ít người. Trái lại trong chủ nghĩa xã hội, chính trị - xã
hội nhằm củng cố quyền lực của nhân dân lao động và phục vụ cho lợi ích của
đa số nhân dân.
Từ việc phân tích trên, ta có khái niệm như sau: Chính trị - xã hội là
khái niệm phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa mặt xã hội nói chung với vấn
đề chính trị. Khái niệm chính trị- xã hội vừa chỉ một xã hội với tổng thể các
mối liên hệ của xã hội, vừa biểu thị một chế độ chính trị - xã hội.
15
1.2. QUAN NIỆM VỀ ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG NHÂN
TỐ ẢNH HƯỞNG
1.2.1. Quan niệm về ổn định
Thuật ngữ ổn định được dùng khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội như ổn định đời sống, ổn định gia đình, ổn định thu nhập, ổn định
kinh tế... Nó được xác định trong một hoàn cảnh nhất định về trạng thái của
sự vật.
Dưới góc độ triết học, thuật ngữ ổn định phản ánh trạng thái trong quá
trình vận động của sự vật. Thế giới vật chất luôn vận động không ngừng,
trong đó bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối. Sự vật tồn tại trong sự
đứng im tương đối. "Trong vận động của các thiên thể, có sự vận động trong
cân bằng và có cân bằng trong vận động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ
vận động tương đối, riêng biệt nào cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự
đứng yên tương đối - sự cân bằng tương đối. Khả năng đứng yên tương đối
của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự
phân hóa vật chất" [32, tr. 740].
Ăngghen đã chỉ rõ: Mọi sự cân bằng chỉ là "tương đối" và "tạm thời"
trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất. ổn định phải
được xem là mặt "nhất thời" của trạng thái vận động, phát triển. C. Mác
nhấn mạnh: "Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện
chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại
đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, về mỗi hình thái đã hình thành đều được
phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của
hình thái đó" [33, tr. 35].
Như vậy, trạng thái ổn định nhất thời của sự vật có hai mặt: mặt khẳng
định và mặt phủ định. Hai mặt này có sự tác động qua lại với nhau. Do đó là
16
mối quan hệ biện chứng của sự vật, làm cho sự vật tồn tại trong thế "nó vừa là
nó" lại "không phải là nó".
Nói đến ổn định là nói đến trạng thái đối lập với rối loạn, khủng
hoảng. Đồng thời trạng thái ổn định này cũng xa lại với sự tĩnh lặng hoàn toàn
hay bất biến, cố định tuyệt đối. ổn định không làm triệt tiêu hay kìm hãm sự
vận động, phát triển mà có quan hệ mật thiết với vận động, phát triển. Mặt ổn
định của sự vật là điều kiện để sự vật tự khẳng định, tự định hình, đồng thời là
môi trường tốt để cho các thuộc tính, các mặt bên trong sự vật tiến hành quá
trình chuyển hóa biến đổi.
Nhờ có trạng thái ổn định, sự vật trong quá trình vận động sẽ biến đổi
từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ mức độ bấp bênh, không chắc chắn đến
mức độ bền vững.
Từ ý nghĩa đó, ta thấy: ổn định là một dạng đặc biệt của vận động,
phát triển. Vận động, phát triển là quá trình thay đổi các trạng thái ổn định
của sự vật. ổn định gắn với phát triển, đồng nghĩa với phát triển. Không có ổn
định thì không có sự phát triển, nhưng không phát triển thì cũng khó duy trì
ổn định được lâu dài và vững chắc.
Như vậy, ổn định và biến đổi vừa là tiền đề, là điều kiện cho nhau,
vừa là nhân và quả cho nhau, là thể hiện mối quan hệ giữa vận động và đứng
im.
Ta có thể rút ra kết luận: ổn định chỉ một trạng thái của tự nhiên, xã
hội, tư duy trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Xétcả về thực
tiễn và lý luận thì ổn định mang tính tương đối vì nó chính là sự vận động
trong những mâu thuẫn, trong sự thống nhất của các mặt đối lập và cũng là
sự thống nhất tương đối.
Ổn định chính trị - xã hội, cũng vậy, không phải là trạng thái đứng
yên, trì trệ mà là trạng thái động, phát triển. Đó là trạng thái của quá trình
17
thường xuyên giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh về chính trị - xã hội, về
kinh tế, văn hóa trong nội bộ nhân dân và trong hệ thống chính trị.
Trong xã hội, quy luật lực lượng sản xuất luôn quy định quan hệ sản
xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất vào
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng chính trị, giữa kinh tế với văn hóa trong sự phát triển đều mang
ý nghĩa tương đối. Nó luôn có xu hướng bị phá vỡ bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Chính sự phát triển khách quan, liên tục của lực lượng sản
xuất đã làm cho mọi sự phù hợp của các nhân tố xã hội sẽ phá vỡ sự cân
bằng, sự phù hợp trước đó để tạo ra sự cân bằng mới, tức là sự ổn định ở
mức độ cao hơn. Với từng lát cắt ở bình diện ổn định tư tưởng, ổn định các
quan hệ chính trị xã hội, ổn định hệ thống chính trị của xã hội chúng ta sẽ
thấy điều này rõ hơn.
Trong xã hội có các giai cấp, các tầng lớp khác nhau, nhưng chịu sự
chi phối của hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nếu tư tưởng của giai cấp
thống trị phù hợp với xu thế khách quan, phù hợp với lợi ích xã hội... sẽ tạo ra
sự ổn định chính trị - xã hội. Nhưng sự ổn định về chính trị của xã hội chỉ là
trạng thái tạm thời, tương đối. Sự ổn định này có thể bị phá vỡ nếu như có sự
mâu thuẫn về lợi ích của các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, hệ thống
chính trị do giai cấp thống trị lập ra để bảo vệ lợi ích cho giai cấp ấy. Nếu như
giai cấp thống trị bảo đảm lợi ích cho toàn xã hội thì hệ thống chính trị sẽ hoạt
động bình thường, ổn định. Ngược lại, nếu nó xem nhẹ, chà đạp lên lợi ích xã
hội thì sẽ xuất hiện những mâu thuẫn, làm cho hệ thống chính trị, chế độ
chính trị - xã hội không còn hoạt động trong trạng thái ổn định. Chính trị- xã
hội có thể bị rối loạn.
1.2.2. Quan niệm về ổn định chính trị - xã hội
18
Trong các văn kiện chính trị, thuật ngữ "ổn định chính trị - xã hội"
được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, chưa có một định nghĩa đầy đủ thuật ngữ
này. Để hiểu rõ nội hàm của phạm trù ổn định chính trị - xã hội cần tiếp cận
trên những góc độ sau.
Có thể nói, khái niệm "ổn định chính trị" tưởng như là một vấn đề đơn
giản, nhưng thật ra, đây cũng là vấn đề có nội dung phức tạp cả về phương
diện lý luận lẫn thực tiễn. Bởi, nói đến ổn định của một thể chế nào đó là nói
đến cái khả năng của thể chế đó có thể tồn tại một cách nguyện vẹn hay
không. Nhưng đến lượt nó, khả năng này lại phụ thuộc vào khả năng đối phó,
giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đang đặt ra trước thể chế đó
có được linh động, mềm dẻo hay phải dùng các giải pháp bạo lực cứng rắn
trước những biến cố xã hội hay không.
Để làm rõ khái niệm ổn định chính trị - xã hội, cần thiết phải làm rõ
nội dung khái niệm "nguyên vẹn" và chỉ ra được cách đo lường khả năng
(nhiều hay ít) tồn tại của một thể chế?
Theo tôi, có thể đánh giá trên các tiêu chí sau đây:
- Tiêu chí thứ nhất: Sự ổn định của hệ thống chính trị (political system).
Đối với các thể chế có tính lịch sử, tức là nó xuất hiện và biến mất thì
tính ổn định có thể đơn giản được đo bằng khoảng thời gian nó tồn tại. Nhưng
đối với một chế độ xã hội (một chế độ xã hội - một thể chế "Liên tiến" như xã
hội tư bản Mỹ, Pháp, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...) thì vấn đề
không giản đơn như vậy. Ngay cả khi chúng ta đo lường tính ổn định của một
chế độ xã hội theo cách lấy thước đo sự tồn tại của chế độ đó được bao lâu
theo những thông số xác định nào đó, thì chúng ta vẫn thấy rằng tất cả các chế
độ xã hội đều tồn tại lâu hơn sự tồn tại của tất cả các hệ thống chính trị của
mỗi chế độ xã hội.
19
Như vậy, tốt nhất là coi khái niệm "ổn định chính trị - xã hội" như là
một khả năng mà một thể chế có thể kéo dài sự tồn tại của mình. Cũng có một
khuynh hướng nghiên cứu khác coi khái niệm "ổn định chính trị" như là một
khái niệm đa chiều, được tổng hợp lại từ những tư tưởng thường được sử
dụng trong chính trị học so sánh như: Sự duy trì hệ thống, trật tự công dân,
tính chính thống và tính hiệu quả. Điều chắc chắn là, khi bạo lực gia tăng ở
mức độ cao, tính chính thống của thể chế đó bị hạ thấp và bộ máy nhà nước
vận hành kém hiệu quả thì ít có khả năng duy trì một sự ổn định. Do vậy, có
thể dùng tiêu chí này làm tiền đề để so sánh tính ổn định chính trị của mỗi xã
hội và giữa các xã hội.
Cũng có trường hợp hiệu lực của một thể chế ở mức thấp, nhưng bạo
lực có thể ở mức cao, mặc dầu vậy chế độ chính trị - xã hội vẫn bền vững.
Điều này xảy ra khi nhà nước có một tiềm năng thúc đẩy được những mối liên
hệ mạnh mẽ giữa những nhóm quyền lực trong xã hội, hoặc khi những nhóm
chính trị, kinh tế, xã hội cơ bản không coi sự thay đổi thể chế là có lợi cho họ.
(thí dụ, phải sử dụng bạo lực trấn áp trong vấn đề bất ổn định ở Tây nguyên,
nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta vẫn bền vững).
Có thể nói rằng: khái niệm về tính ổn định của các hệ thống chính trị xã hội, mặc dù có thể cảm nhận được bằng kinh nghiệm, song đến tận bây
giờ, khái niệm này vẫn chưa trở thành một luận điểm xuất phát có tính thuyết
phục trong việc phân tích tính ổn định của một chế độ xã hội.
- Tiêu chí thứ hai: Về sự vận hành của hệ thống chính trị (System
performance).
Chúng ta có thể sử dụng khái niệm "sự vận hành hệ thống" như là một
tiền đề lý luận nghiên cứu tính ổn định của hệ thống chính trị. Các mâu thuẫn
khác nhau về các hệ thống chính trị giải quyết những khía cạnh khác nhau trong
sự vận hành của các nền chính trị và điều này được đo lường bởi những biến
cố về những kết quả của quá trình chính trị và quá trình kinh tế - chính trị.
20
ở đây cần chú ý một số vấn đề:
- Thứ nhất: Việc sử dụng khái niệm "Sự vận hành hệ thống" không có
nghĩa là từ bỏ vấn đề về tính ổn định của hệ thống, cũng không có nghĩa là
việc xem xét tính ổn định chính trị - xã hội không căn cứ vào thời gian tồn tại
nguyên vẹn của hệ thống chính trị.
- Thứ hai: Nói sự vận hành của hệ thống là nhấn mạnh đến khả năng
cũng như thực hiện phối hợp giữa các yếu tố của hệ thống (giữa đảng chính
trị- nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội). Một xã hội ổn định là xã hội
có đủ khả năng điều chỉnh các hoạt động của hệ thống chính trị cho phù hợp
với những thách thức mà nó phải đương đầu.
- Thứ ba: Xem xét tính ổn định chính trị - xã hội về mặt vận hành hệ
thống cần thiết phải xem xét đến những nhân tố ảnh hưởng đến sự vận hành
của hệ thống chính trị (chẳng hạn, tính ổn định của nội các chính phủ, sự
khủng hoảng chính trị trong nội bộ của đảng cầm quyền...).
Trong những năm gần đây, việc đánh giá tính ổn định chính trị - xã
hội về mặt vận hành của hệ thống chính trị đã trở thành một luận đề cơ bản
trong việc nghiên cứu tính ổn định chính trị - xã hội. Những nhân tố chủ yếu
quyết định tính ổn định trong sự vận hành hệ thống chính trị, đó là:
- Sự ổn định của chính phủ (ở Trung ương), hay của các cơ quan
công quyền địa phương.
Có hai cách đo lường tính ổn định của chính phủ hay các cơ quan
công quyền địa phương.
Thứ nhất: Khoảng thời gian tồn tại.
Thứ hai: Mức độ kiểm soát của ngành hành pháp, được đo bằng việc
chính phủ có hay không có một đa số trong ngành lập pháp, tức sự ủng hộ của
cử tri (dân). Chính sách có được dân đồng tình, có được thực thi tốt không.
21
Một chính phủ (hay các cơ quan quyền lực công ở địa phương và cơ
sở) đương nhiệm chỉ trong một thời gian ngắn sẽ rất khó có thể đảm bảo trách
nhiệm đối với kết quả của chính sách. Mặt khác, nếu một chính phủ không có
được một đa số ủng hộ trong ngành lập pháp cũng có thể làm mờ đi tính trách
nhiệm của mình bằng cách lập luận rằng, những chính sách của chính quyền
thiếu hiệu quả vì không có sự ủng hộ của đa số lập pháp, đây chính là một
biểu hiện về tính ổn định chính trị.
- Bạo lực chính trị.
Một trong những dấu hiệu căn bản của một hệ thống chính trị hoạt
động tốt là sự hạn chế những bất đồng chính trị và sự thừa nhận những phản
kháng hợp pháp. Trong một chế độ dân chủ, cần thiết phải tạo ra những
khoảng rộng cho sự phản kháng chính trị bằng cách áp dụng những biện pháp
ít hà khắc về những hành động đối với những người bất đồng chính kiến.
Trong trường hợp đó, quy mô của những phản kháng có thể tăng lên.
Tuy nhiên, sự xác định và sự đo lường các phong trào phản kháng
(biểu tình, khiếu kiện đông người) vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật là
những công việc đầy khó khăn. Vì thế bất kỳ một đánh giá nào về vấn đề này
cần phải được xem xét thận trọng. Tuy vậy vẫn có một vấn đề mà người ta có
thể đo lường được: Quy mô của bạo lực chính trị trong hệ thống chính trị
(như bạo loạn, biểu tình, làm vô hiệu các bộ phận của hệ thống chính trị, hoặc
hệ thống chính trị không còn hoạt động bình thường...). Phạm vi và quy mô
bạo lực càng nhỏ thì hệ thống chính trị càng vận hành tốt hơn. Có hai chỉ số
thường được áp dụng cho vấn đề này: 1- số lượng các cuộc biểu tình phản
kháng
và
2- số lượng các cuộc bạo động chống lại hệ thống chính trị. Tuy nhiên cần
xem xét về lợi ích của các cuộc biểu tình cũng như các cuộc bạo động. Không
có nghĩa là không phải cứ biểu tình, khiếu kiện là bất ổn định v.v...
- Những kết quả kinh tế - chính trị
22
Một vấn đề cơ bản để đánh giá tính ổn định chính trị - xã hội là hệ
thống chính trị đó có tạo điều kiện tốt cho việc phát triển kinh tế và đời sống
của các công dân hay không.
Những kết quả kinh tế - chính trị có thể được sử dụng như là những
thước đo sự vận hành của hệ thống chính trị là: Tỷ lệ tăng trưởng trung bình
hàng năm của GDP, của con số thất nghiệp, của con số lạm phát, quy mô vay
nợ của nhà nước (dĩ nhiên các vấn đề trên không thể đo lường hết sự vận hành
của hệ thống). Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngược lại. Tức là, nếu
dựa vào các chỉ số nói trên đôi khi lại không giải thích được là, tại sao đôi thi
người ta phải chấp nhận một sự vận hành tồi (hoặc phải đi đường vòng) trong
một thời gian ngắn để vươn tới một sự vận hành tốt hơn trong một thời gian
dài.
Các cuộc đình công, khiếu kiện đông người là một vấn đề đặc biệt
phản ánh sự vận hành kinh tế - chính trị. Một mặt nó chỉ ra một bức tranh rối
loạn trong sự vận hành kinh tế - chính trị, mặt khác, nó không đơn giản chỉ là
sự phản ánh tình trạng kinh tế (chẳng hạn như vấn đề thất nghiệp).
Cần phải nhấn mạnh rằng: Các kết quả kinh tế - chính trị của một hệ
thống chính trị nào đó không chỉ là sự phản ánh thực trạng bên trong hệ thống
đó, mà nó còn có ảnh hưởng lan tỏa rộng ra các vùng lân cận (các quốc gia,
các vùng...) và nếu không có giải pháp kịp thời, ảnh hưởng đó như một phản
ứng dây chuyền, rất khó giới hạn (như phản ứng Domino).
Khi nghiên cứu sự vận hành của hệ thống chính trị, cần phải tập trung
vào nghiên cứu những kết quả của sự vận hành hệ thống và coi đó như là
những kết quả đo lường sự vận hành của hệ thống.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến ổn định chính trị - xã hội
a) Nhân tố kinh tế
23
ổn định chính trị - xã hội là trạng thái xã hội mà ở đó có sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, giữa
kiến thức thượng tầng và cơ sở hạ tầng của xã hội, tạo nên sự vận động theo
hướng phát triển của chính trị - xã hội.
Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của Mác và Ăngghen chỉ rõ: xã
hội là một chỉnh thể các yếu tố hợp thành bao gồm: lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố này có
quan hệ biện chứng với nhau. C.Mác đã nêu ra quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự liên hệ
và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và quan hệ chính
trị tinh thần hình thành trên các quan hệ kinh tế đó qua mối quan hệ giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. "Toàn bộ những quan hệ kinh tế ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên
một kiến trúc thường tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã
hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [31, tr. 15].
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan
hệ biện chứng. Nó có thể phù hợp với nhau và có lúc, có giai đoạn nó không
phù hợp với nhau trong thực tiễn.
Nếu sự thống nhất, sự phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định, sự phát
triển của xã hội. Ngược lại, nếu không phù hợp, không thống nhất giữa chúng
sẽ dẫn đến bất ổn định, sự trì trệ, xã hội rối loạn.
Sự phù hợp giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thường tầng sẽ tạo ra sự
phù hợp của nhân tố chính trị và nhân tố kinh tế. Lịch sử các xã hội có giai
cấp đã chứng minh rằng, không có nền kinh tế nào mà lại không chịu chi phối
điều tiết của chính trị, theo các hướng:
- Một là, theo hướng tích cực, chính trị đồng thuận với kinh tế.
24
- Hai là, theo hướng tiêu cực. Khi đó chính trị là vật cản đối với kinh
tế, kìm hãm kinh tế phát triển.
- Ba là, chính trị có thể hạn chế phần nào phạm vi tác dụng những
khuynh hướng phát triển này hoặc có thể thúc đẩy khuynh hướng phát triển
khác trong một chế độ của một chế độ chính trị - xã hội nhất định.
Sự tác động cùng chiều của chính trị với những yêu cầu khách quan
của vận động kinh tế sẽ làm cho cả chính trị và kinh tế ổn định và phát triển.
Lúc đó chính trị sẽ mở đường cho kinh tế phát triển và kinh tế phát triển sẽ
góp phần củng cố hoàn thiện các yếu tố chính trị.
Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, xã hội cũng thường xuất
hiện sự phát triển cùng chiều của chính trị và văn hóa. Chính trị phát triển
cùng chiều với văn hóa sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Văn hóa phát
triển sẽ thúc đẩy cả chính trị, kinh tế phát triển.
Như vậy, tổng hợp sự phù hợp và phát triển cùng chiều của các nhân
tố chính trị, kinh tế, văn hóa sẽ tạo ra trạng thái ổn định chính trị - xã hội.
b) Những nhân tố trên lĩnh vực chính trị
- Nhân tố tư tưởng
ổn định tư tưởng chính trị của xã hội thực chất là giữ vững sự thống
trị về hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trong xã hội, nền tảng tư tưởng, tinh
thần của xã hội. Xét đến cùng, tư tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền là
định hướng cho lợi ích của giai cấp ấy. Các cuộc đấu tranh giai cấp trước hết
diễn ra trên mặt trận tư tưởng. Sự rối loạn tư tưởng trở thành nhân tố của bất
ổn định chính trị - xã hội.
- Những nhân tố về hệ thống chính trị và các thể chế chính trị - xã hội
Vấn đề chính trị, cái cốt yếu là công việc nhà nước, là giải quyết mối
quan hệ giữa công dân với nhà nước, giữa các lực lượng chính trị, giữa các
dân tộc, giữa các tôn giáo với nhà nước.
25
Tuy nhiên, các mối quan hệ đó trước hết lại được giải quyết thông qua
hai hình thức: 1- Thông qua các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội đại diện,
2- Thông qua cơ quan quyền lực dân cử các cấp.
- Một trong những tổ chức chính trị quan trọng là các đảng chính trị,
đặc biệt là đảng cầm quyền. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân và Đảng Cộng sản là thống nhất. Do vậy
trạng thái ổn định của các quan hệ chính trị đặc biệt đó trở thành nhân tố có
tính quyết định đến ổn định chính trị - xã hội.
Trạng thái hệ thống đảng ôn hòa hay quá khích đều ảnh hưởng lớn đến
ổn định xã hội. Trong thực tế thì một hoặc một số đảng sẽ vươn lên giữ vị trí
cầm quyền. ý chí của đảng cầm quyền trở thành ý chí của xã hội. Hoạt động
của đảng cầm quyền sẽ khống chế các chính đảng còn lại. Nếu đảng cầm
quyền mạnh thì nhà nước mạnh, hoạt động quản lý xã hội của nhà nước có
hiệu quả, chính trị - xã hội được ổn định.
Trong các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng
cộng sản cầm quyền (trong hệ thống nhất nguyên và chỉ có một đảng cầm
quyền) là nhân tố quyết định sự ổn định, phát triển chính trị, xã hội.
Nếu Đảng cộng sản giữ được vị trí lãnh đạo, mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức sẽ giữ được ổn định chính trị, xã hội và ngược lại. Thực tế
đó đã chứng minh qua giai đoạn cải tổ của Đảng Cộng sản Liên xô. Việc từ
bỏ vị trí lãnh đạo của mình dẫn đến khủng hoảng chính trị xã hội ở Liên xô.
Ngược lại, ở Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện công cuộc đổi
mới, vững vàng trước bão táp chính trị, xã hội của thế giới và những phức tạp
trong nước đã đưa đất nước vững bước phát triển.
- ở mỗi xã hội, vai trò của nhà nước trong thực thi các chính sách xã
hội có liên quan mật thiết đến lợi ích công dân, quyết định tới số phận của cả
cộng đồng xã hội. Nếu nhà nước đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội (kinh
tế, văn hóa, chính trị), có những thái độ thỏa đáng, công bằng với các dân tộc