Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 158 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN TÂN

PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 62.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trương Thị Hồng Hà

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể. Các tài liệu
tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả

Trần Văn Tân


TRẦN VĂN TÂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1 ...................................................................................................................... 13
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........ 13
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài ....................................... 13
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ......................................................................... 17
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ................................. 31
CHƯƠNG 2.................................................................................................................. 35
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN............................................................................................ 35
2.1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về tổ chức HĐND......................................... 35
2.2. Lịch sử pháp luật về tổ chức HĐND ...................................................................... 64
2.3. Lý luận điều chỉnh pháp luật về tổ chức HĐND .................................................... 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 79
Chương 3 ...................................................................................................................... 81
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HĐND VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TỔ CHỨC HĐND Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................... 81
3.1. Thực trạng pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay............................. 81
3.2. Thực hiện pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay. .............................. 86
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 107
Chương 4 .................................................................................................................... 109
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
HĐND Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................... 109
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay .......... 109
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức HĐND ở nước ta hiện nay .............. 120
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 .......................................................................................... 142
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 143

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 145


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng của
các tầng lớp nhân dân; sự nghiệp đổi mới 30 năm qua đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ hơn bản chất dân chủ và pháp
quyền của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xác
định rõ hơn vị trí, vai trò của Quốc hội: Xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện quyền
lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. Nhận thức và xác định rõ hơn quyền hạn và
trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia
và trong quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Xác định rõ hơn vị trí, chức năng của Chính phủ với tư cách
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan
chấp hành của Quốc hội; đề cao tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của
Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch,
vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; xác định yêu cầu và những nội dung tiếp tục đổi
mới tổ chức chính quyền địa phương; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp. Vị trí, vai trò, chức năng
và tính độc lập trong hoạt động của hệ thống tư pháp được nhận thức rõ hơn, định
hướng xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Chính vì vậy đã làm tăng thêm thế và lực mới của Việt Nam, tạo điều kiện
để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới bộ máy nhà nước Việt Nam từ năm 1986
đến nay, chính quyền địa phương chưa có những kết quả cải cách rõ rệt như chính

quyền trung ương. Chưa có cuộc cải cách nào tạo sự chuyển biến đồng bộ, thay đổi
căn bản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Mô hình tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương chậm được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ
còn chồng chéo, tổ chức bộ máy cồng kềnh, chia cắt, phân tán, nhiều tầng nấc; biên
chế ngày càng phình to; hiệu lực, hiệu quả hoạt động thấp. Việc thí điểm mô hình tổ
chức chính quyền địa phương, nhất là việc không tổ chức HĐND ở quận, huyện,
phường triển khai kéo dài, kết quả mang lại không như mong đợi.
Vấn đề nghiên cứu chính quyền địa phương nói chung, HĐND nói riêng được
đặt ra từ rất lâu. Tuy chưa đủ căn cứ để khẳng định vấn đề này đặt ra từ khi nào,

1


nhưng lịch sử nghiên cứu những vấn đề về chính quyền địa phương và HĐND chắc
chắn có một bề dày đáng kể. Theo đánh giá của các nhà khoa học, hiện nay đã có
hàng trăm, thậm chí hàng nghìn công trình nghiên cứu lớn nhỏ có liên quan về
chính quyền địa phương, về HĐND. Hơn nữa, nghiên cứu vấn đề này không có
nghĩa là chỉ quan tâm đến yếu tố pháp lý hay các công trình nghiên cứu dưới góc độ
pháp luật. Bởi vì, đây là lĩnh vực nghiên cứu được nhiều nhà khoa học tiếp cận dưới
mọi góc độ khác nhau. Các công trình liên quan vì thế ngày càng phong phú, đa
dạng hơn (bao gồm cả sách chuyên khảo, tạp chí các chuyên ngành luật học, chính
trị học, hành chính học, chính sách công, triết học, sử học…). Song cho đến nay,
trong phạm vi các tư liệu đã được công bố, chưa có một công trình nghiên cứu độc
lập nào đối với pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam.
Mặt khác, các công trình nghiên cứu có liên quan về chính quyền địa phương
nói chung, về HĐND nói riêng đã được tập trung nghiên cứu trước khi Quốc hội
Khóa XIII biểu quyết thông qua bản Hiến pháp năm 1992 bổ sung, sửa đổi với tên
gọi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (vào ngày
28/11/2013, tại Kỳ họp thứ 6) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày
19/6/2015. Và đương nhiên cũng trước khi Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI có

chủ trương (tại Hội nghị Trung ương mười một từ ngày 04 đến ngày 07/5/2015):
Tất cả các đơn vị hành chính quy định tại Khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013
đều tổ chức cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND. Bên cạnh đó,
các công trình khoa học nêu trên được tập trung nghiên cứu trong bối cảnh Luật Tổ
chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của HĐND, UBND ngày 03/12/2004; Luật Tổ chức chính quyền địa phương
ngày 19/6/2015; Quy chế hoạt động của HĐND ban hành kèm theo Nghị quyết số
753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại
biểu HĐND ngày 24/11/2010 chưa ban hành hoặc đã được ban hành nhưng chưa
bộc lộ rõ những tồn tại, hạn chế, bất cập qua thực tiễn.
Chính vì vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là:
“Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài luận án
được thực hiện dựa trên cơ sở thực tiễn và lý luận sau đây:
1.1. Trước hết, pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam là một đề tài có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cấp bách xuất phát từ dự báo tình hình thế giới, khu vực và
trong nước thời gian tới
Trong đó có nhiều tác động thuận như: Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu
thế lớn; xu thế đa cực hóa và dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển, tạo

2


thuận lợi cho Việt Nam triển khai hiệu quả chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển nhanh
hơn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Khoa học - công nghệ, kinh tế
tri thức phát triển mạnh mẽ. Kinh tế thế giới từng bước phục hồi và tăng trưởng trở
lại. Thách thức giải quyết, ứng phó các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh sau khủng
hoảng đã để lại những kinh nghiệm quý. Hầu hết các quốc gia đều tiến hành cơ cấu
lại nền kinh tế, điều chỉnh phương thức phát triển, tạo cơ hội để nước ta có cơ hội

tiếp cận, tiếp thu những thành quả và phát triển trong xu thế chung của nhân loại.
Châu Á - Thài Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng
động, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới,
trở thành tiêu điểm cạnh tranh, thu hút sự quan tâm của các nước lớn. Từ năm 2015,
ASEAN trở thành cộng đồng và phát huy vai trò trung tâm ở khu vực. Đây là điều
kiện thuận lợi để chúng ta tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, phát huy vai trò, vị thế
trong khu vực và trên trường quốc tế.
Ba mươi năm đổi mới đất nước ta đã tạo ra thế và lực mới. Thế mới và lực
mới là tổng hòa những thành tựu hết sức to lớn, rất quan trọng về phát triển kinh tế,
ổn định chính trị - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thành
quả và những kinh nghiệm, bài học, thành công, chưa thành công chính là tiền đề
vật chất và tinh thần quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, vẫn tiềm ẩn nhiều tác động không thuận đến Việt Nam như: Tình
trạng bất ổn trong đời sống chính trị thế giới, khu vực (xung đột chủng tộc, tôn giáo;
ly khai, khủng bố, bạo loạn chính trị, can thiệp vũ trang, chiến tranh cục bộ, chiến
tranh mạng…) tác động thường xuyên đến đời sống của các quốc gia, trong đó có
nước ta. Những vấn đề toàn cầu do an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
mạng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu; các vấn đề an ninh truyền thống và phi
truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp… thách thức quyết liệt đến nước ta. Sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt về kinh tế, về khoa học - công nghệ giữa các quốc gia tạo
nên sức ép rất lớn đối với nước ta; trong khi năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả,
sự cạnh tranh kinh tế của Việt Nam còn thấp, trình độ khoa học - cộng nghệ và chất
lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế.
Châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á sẽ tiếp tục là địa bàn
cạnh tranh, tranh chấp gay gắt của các nước lớn; chịu sự tác động, lôi kéo và thỏa
hiệp giữa các nước lớn. Tình trạng tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo, nhất là
trên biển Đông, tiếp tục gây ra những căng thẳng trong quan hệ khu vực và quốc tế

3



cùng với những diễn biến phức tạp về chính trị, kinh tế của một số nước trên thế
giới và khu vực… là thách thức lớn đến an ninh và phát triển của nước ta.
Ở trong nước, kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm tăng trưởng,
nhưng còn nhiều khó khăn và sẽ ứng phó với hai thách thức: “bẫy thu nhập trung
bình” và “bẫy tự do hóa thương mại”. Bốn nguy cơ Đảng ta nêu ra vẫn đang hiện
hữu. Nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế” và sự suy thoái về tư tưởng chính trị đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp. Những biểu hiện xa rời chủ nghĩa xã
hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn tồn tại, phức tạp, xuất hiện những âm mưu
và hoạt động nhằm hình thành các tổ chức đối lập. Các thế lực thù định tăng cường
chống phá, thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn, nghiêm
trọng. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân có mặt giảm suốt.
Nhìn chung, tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ lẫn
thách thức đan xen đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nói chung và tổ chức của chính quyền
địa phương cũng như hoàn thiện pháp luật về tổ chức của HĐND nói riêng trong
thời gian tới.
1.2. Lý do thứ hai là xuất phát từ việc khẳng định chế độ dân chủ ở nước ta là
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển đất nước. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải vừa thể hiện
dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá trị đặc trưng phản ánh bản
sắc, đặc điểm văn hóa, truyền thống của Việt Nam; có nội dung cốt lõi là tôn trọng,
bảo đảm quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân, gắn với trách nhiệm và
nghĩa vụ công dân nhằm tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng
mọi năng lực sáng tạo của con người, gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về tất yếu khách quan phải đẩy mạnh
phát triển các hình thức và phương thức thực hiện dân chủ, nhất là các hình thức
dân chủ trực tiếp. Mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện
quyền lực bằng hai hình thức dân chủ: trực tiếp và gián tiếp, chủ yếu thông qua các
cơ quan đại diện: Quốc hội và HĐND các cấp. Do vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật
về tổ chức của các cơ quan dân cử; trong đó, có HĐND là cần thiết và cấp bách để
thực hiện tốt hơn nữa vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền

4


làm chủ của nhân dân, góp phần tích cực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
1.3. Lý do thứ ba, trên cơ sở định hướng của Hội nghị Trung ương lần thứ
mười một, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
Từ ngày 04 đến ngày 07/5/2015, Hội nghị Trung ương lần thứ mười một, Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI đã quyết định chọn phương án: Tất cả các đơn vị
hành chính quy định tại Khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 đều tổ chức cấp
chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND. Ưu điểm nổi bật của phương án
này là: bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp 2013 và không làm xáo trộn mô hình tổ
chức chính quyền địa phương hiện nay; thể hiện sự thống nhất giữa việc phân chia
địa giới hành chính với việc thiết lập tổ chức chính quyền địa phương cùng với các
tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã hội…; đáp ứng yêu cầu phải có sự giám sát của
HĐND đối với UBND cùng cấp, bảo đảm thực hiện được nguyên tắc cơ quan quản
lý nhà nước ở địa phương phải chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực do nhân dân
địa phương trực tiếp bầu ra; việc tổ chức cấp chính quyền gồm HĐND và UBND ở
đơn vị hành chính cấp cơ sở thể hiện sự gần dân, sát dân của chính quyền và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Việc phân biệt chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt sẽ được thể hiện trong các quy định cụ thể về

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của HĐND, UBND ở từng loại
đơn vị hành chính cho phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau giữa đô
thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Theo đó, chính quyền
nông thôn cần được chú trọng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý toàn diện theo
lãnh thổ ở cả 03 cấp; chính quyền đô thị cần được tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý theo ngành, lĩnh vực với sự phân cấp, ủy quyền phù hợp giữa cấp thành phố
với các thị xã, quận, phường….
Trung ương nhấn mạnh, trên cơ sở thống nhất về mô hình chính quyền địa
phương như đã nêu, cần tập trung tinh giản bộ máy, biên chế phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; đổi mới, quy định thật rõ việc phân cấp,
phân quyền, ủy quyền của cấp trên đối với cấp dưới. Xác định rõ các nguyên tắc,
tiêu chí, điều kiện để thực hiện phân quyền, phân cấp, ủy quyền, tạo điều kiện để
chính quyền các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đồng
thời bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của chính quyền cấp trên đối với chính quyền
cấp dưới. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND phải gắn với đổi mới tổ
chức và hoạt động của UBND, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng,
nâng cao chất lượng cán bộ và đại biểu HĐND, tạo mọi điều kiện để HĐND hoạt

5


động có thực quyền, nhất là trong việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng
của địa phương, giám sát có hiệu quả hoạt động của UBND, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
1.4. Lý do thứ tư, xuất phát từ yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, bản Hiến pháp năm 1992 bổ sung, sửa đổi
với tên gọi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã
được Quốc hội khóa XIII biểu quyết thông qua. Theo đó:
Tại Chương I, Chế độ chính trị: Hiến pháp 2013 đã bổ sung, phát triển nguyên
tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa

các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
theo tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đây là
điểm mới quan trọng của Hiến pháp so với các bản Hiến pháp trước vì lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong Hiến
pháp. Đồng thời, tiếp tục thể hiện xuyên suốt, nhất quán quan điểm “tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” nhưng bổ sung một điểm mới quan trọng
đó là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”. Hơn nữa,
lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp 2013 quy định “Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” được ghi nhận và phát triển thành nguyên
tắc trong Hiến pháp. Theo đó, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện không chỉ thông qua Quốc hội và HĐND như Hiến
pháp năm 1992 quy định mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã đổi tên Chương IX
“Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” ở Hiến pháp năm 1992 thành Chương:
“Chính quyền địa phương” để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan nhà nước
ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ
chặt chẽ giữa HĐND, UBND trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Đồng
thời, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa
phương, cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù
hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do
luật định. Những chế định cụ thể về tổ chức và hoạt động của HĐND do Luật Tổ
chức chính quyền địa phương quy định.

6


1.5. Lý do thứ năm, xuất phát từ quá trình hoạt động thực tiễn của HĐND kể
từ khi Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003 có hiệu lực thi hành
Thời gian qua, HĐND các cấp trong cả nước đã có những bước đổi mới về cơ

cấu tổ chức và hoạt động nên hiệu lực, hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, so
với yêu cầu đặt ra vẫn còn khá khiêm tốn, còn nhiều hạn chế, bất cập, đó là:
Trước hết, cơ cấu tổ chức bộ máy của HĐND bất cập, nhân sự thường xuyên
biến động, nhất là đối với Thường trực HĐND, các Ban HĐND, Tổ đại biểu HĐND,
Văn phòng giúp việc HĐND...
Hai là, chức năng quyết định của HĐND còn nhiều hạn chế do đa số đại biểu
HĐND khi đến kỳ họp mới đọc các báo cáo, tài liệu nên cách tiếp cận thông tin
thường chưa thật sự đầy đủ, dẫn đến việc tham gia thảo luận để thông qua Nghị
quyết đôi khi mang tính hình thức. Trong khi đó, về thời gian, Luật Tổ chức HĐND
và UBND quy định các cơ quan chức năng phải gửi báo cáo đến HĐND tỉnh trước
ngày khai mạc kỳ họp 15 ngày song hầu như không kỳ họp nào thực hiện được điều
này, chỉ gần đến kỳ họp mới nhận được báo cáo chính thức. Bên cạnh đó, công tác
tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết HĐND vẫn còn nhiều hạn chế, có một số Nghị
quyết mặc dù đã ban hành trong thời gian tương đối dài nhưng đại bộ phận nhân
dân, thậm chí các cơ quan, đơn vị liên quan vẫn không nắm được nội dung của Nghị
quyết. Hơn nữa, việc lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu
sự tác động của Nghị quyết là rất cần thiết và mang tính bắt buộc theo quy định của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND ngày 03 tháng 12
năm 2004. Song, trên thực tế, nhiều dự thảo nghị quyết cơ quan chủ trì soạn thảo
không thực hiện được việc lấy ý kiến, đặc biệt là các nghị quyết có liên quan trực
tiếp đến việc thực hiện nghĩa vụ của công dân do quỹ thời gian từ khi soạn thảo đến
khi hoàn chỉnh nghị quyết để trình kỳ họp thường rất ngắn. Ngoài ra, việc phê
chuẩn nghị quyết HĐND theo quy định tại Khoản 1, Điều 10 và Khoản 3, Điều 51,
Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003 có mâu thuẫn với nhau nên rất
lúng túng trong khâu tổ chức thực hiện.
Ba là, hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều bất cập: Nội dung giám sát
chưa trọng tâm, chọn đối tượng giám sát chưa phù hợp; hình thức giám sát chủ yếu
chỉ nghe báo cáo bằng văn bản, thiếu khảo sát, kiểm tra, đối chứng thực tế; thời gian
giám sát quá ít, thường bố trí một buổi nên khó phát hiện được vấn đề; chưa thường
xuyên theo dõi, đôn đốc các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết các kết luận sau

giám sát; việc mời chuyên gia trên từng lĩnh vực cụ thể tham gia các buổi giám sát
còn rất hạn chế; thành viên các Ban HĐND ít tham gia hoạt động giám sát; một số
đối tượng được giám sát còn có biểu hiện cho rằng giám sát là tìm khuyết điểm, gây

7


khó khăn cho công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan liên quan; chưa có quy
định chế tài đủ mạnh đối với hành vi không thực hiện các kết luận, kiến nghị sau
giám sát...
Bốn là, việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ
do HĐND bầu còn nhiều vấn đề hạn chế, bất cập; nhiều ý kiến khác nhau cả về
phạm vi, đối tượng, thời gian lấy phiếu, hình thức phiếu đánh giá; văn bản hướng
dẫn còn một số điểm chưa thật rõ ràng, chưa lường hết được các tình huống trong
thực tiễn như việc tính mốc thời gian để người được lấy phiếu làm báo cáo tự đánh
giá, người được lấy phiếu đã bị khởi tố, điều tra hoặc đang bị tạm đình chỉ công tác;
người được lấy phiếu giữ chức vụ mới được HĐND bầu hoặc người được lấy phiếu
giữ nhiều chức vụ do HĐND bầu…
1.6. Lý do thứ sáu, xuất phát từ xu hướng chung của các Nhà nước dân chủ
trên thế giới
Xu hướng chung của các Nhà nước dân chủ trên thế giới hiện nay là tổ chức
chính quyền địa phương, trong đó có HĐND theo nguyên tắc tự quản. Liên minh
Châu Âu năm 1985 đã thông qua Công ước về tự quản địa phương, nên đối với
những nước mới muốn xin gia nhập Liên minh Châu Âu thì một trong những điều
kiện đòi hỏi là phải tham gia Công ước này. Hiện nay, Liên hợp quốc đang tiến tới
xây dựng và thông qua Hiến chương quốc tế về tự quản địa phương. Vì vậy, chúng
ta cần nghiên cứu tiếp thu những kinh nghiệm hay của tổ chức tự quản địa phương,
những điều kiện và khả năng có thể áp dụng được ở nước ta để hướng đến đổi mới
một cách cơ bản tổ chức chính quyền địa phương trong thời gian tới.
Như vậy, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu đề

tài: “Pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay” là cần thiết và cấp bách, là
đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cuộc sống.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tổ chức của HĐND các cấp ở Việt Nam và
hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức HĐND các cấp ở Việt Nam và pháp luật
về chính quyền địa phương ở một số nước trên thế giới.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: trên phạm vi cả nước.
Thời gian: nghiên cứu pháp luật về tổ chức HĐND từ khi thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nhất là từ năm 2011 đến nay (chủ yếu tập trung
trong nhiệm kỳ Nhiệm kỳ 2011 - 2016 để đánh giá thực tiễn).

8


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống đối với pháp luật về tổ
chức HĐND và việc thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của HĐND. Trên cơ
sở nghiên cứu tổng kết, luận giải làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài đề
xuất các kiến nghị, quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức
của HĐND ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có những nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
Tiến hành phân loại, đánh giá khách quan khoa học về tổng quan tình hình
nghiên cứu và xác định những vấn đề kế thừa, những vấn đề cần phải nghiên cứu
theo mục đích, nhiệm vụ của luận án.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản pháp luật về tổ chức của HĐND ở

Việt Nam hiện nay. Qua đó, làm rõ khái niệm điều chỉnh pháp luật về tổ chức
HĐND; vị trí pháp lý, tính chất, quan niệm, mô hình HĐND hợp lý; khái niệm, đặc
điểm, hiệu quả của pháp luật về tổ chức HĐND; đánh giá tính thống nhất, toàn diện,
khách quan, khả thi và kỹ thuật lập pháp của pháp luật về tổ chức HĐND hiện hành;
trình bày, phân tích được các mô hình tổ chức chính quyền địa phương nói chung,
Hội đồng địa phương nói riêng ở một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm
có thể áp dụng vào Việt Nam.
Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về tổ chức HĐND và
tình hình thực hiện pháp luật về tổ chức HĐND ở nước ta trên cơ sở khảo sát thực
trạng tổ chức của HĐND các cấp ở nước ta từ năm 1945 đến nay (chủ yếu tập trung
trong Nhiệm kỳ 2011 - 2016). Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và chỉ ra
những vướng mắc, bất hợp lý, tồn tại, hạn chế về cơ cấu tổ chức của HĐND cần giải
quyết từ góc độ thể chế, cũng như góc độ thực tiễn pháp lý và chính trị.
Nghiên cứu, đề xuất quan điểm và giải pháp khoa học đúng đắn, hợp lý nhằm
đổi mới, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa; bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân,
tiếp tục hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện, bảo đảm nhân dân thực hiện quyền

9


làm chủ thông qua Quốc hội, HĐND, các cơ quan khác của Nhà nước và cả hệ
thống chính trị.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào cơ sở phương pháp luận như đã nêu trên, luận án sử dụng các

phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp duy vật biện chứng để tiếp cận nghiên cứu, từ góc độ lý luận
chính trị học - góc độ thể chế chính trị, thể chế Nhà nước để phân tích và cắt nghĩa
các vấn đề đặt ra.
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống và hiện đại
của khoa học luật như phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, lịch sử, điều tra xã hội
học, hệ thống hoá, mô hình hoá, phỏng vấn chuyên sâu.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong chương 1, 2, 3 và 4 của luận án để
làm sáng tỏ các mô hình chính quyền địa phương, các yếu tố cấu thành chính quyền
địa phương, trong nghiên cứu tổ chức và hoạt động HĐND các cấp, các giai đoạn
phát triển của HĐND, các thành tựu và hạn chế của HĐND các cấp ở Việt Nam
hiện nay.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong việc tìm ra các điểm giống và khác
nhau giữa các mô hình tổ chức chính quyền địa phương nói chung và Hội đồng địa
phương nói riêng của các nước khác nhau, đối với việc xác định những thay đổi
trong tổ chức của HĐND các cấp ở các giai đoạn khác nhau. Phương pháp này cũng
được sử dụng để xác định những điểm giống và khác nhau giữa đô thị và nông thôn,
giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tìm hiểu trình độ của đại biểu HĐND, số
Chủ tịch HĐND kiêm Bí thư cấp uỷ đảng cùng cấp, số Trưởng, Phó Trưởng Ban
HĐND hoạt động chuyên trách, số Nghị quyết chuyên đề, số lượng chất vấn và trả lời
chất vấn, các ý kiến đồng quan điểm trong điều tra xã hội học, các ý kiến trái chiều…
Phương pháp lịch sử được áp dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển pháp luật về HĐND ở nước ta, quá trình thay đổi cấu trúc các đơn vị hành
chính lãnh thổ ở nước ta, quy luật phát triển của chính quyền địa phương các nước
trên thế giới.
Phương pháp điều tra xã hội học được áp dụng để tìm hiểu ý kiến của người
dân ở các địa phương khác nhau về tổ chức của HĐND ở nước ta hiện nay.
Phương pháp hệ thống hoá được áp dụng để nghiên cứu pháp luật về tổ chức
HĐND các cấp qua từng thời kỳ và từng địa phương, đồng thời sử dụng để đánh giá

mức độ gắn kết và tác động qua lại giữa các cơ cấu tổ chức HĐND với nhau.

10


Phương pháp mô hình hoá được áp dụng để trình bày kết quả nghiên cứu, nhất
là trong việc đề xuất, kiến nghị xây dựng mô hình HĐND phù hợp với nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị kinh tế - hành chính đặc biệt trong Luật Tổ chức chính quyền
địa phương.
Phương pháp phỏng vấn chuyên sâu được áp dụng để tìm hiểu ý kiến của một
số chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn có hiểu biết sâu sắc về
HĐND ở Việt Nam. Phối hợp, tham gia tổ chức hội thảo để trình bày các kết quả
nghiên cứu, thu thập ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn
trên lĩnh vực này để hoàn thiện công trình nghiên cứu.
Phương pháp diễn giải và quy nạp được áp dụng nhằm lý giải và rút ra những kết
luận cần thiết sau mỗi lần nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận: thu thập, phân tích, xử lý, tổng hợp tư liệu
để xác định những nội dung cốt lõi của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, điều tra, phỏng vấn để thu thập tư
liệu, số liệu.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu độc lập, có hệ thống và toàn diện
đối với “Pháp luật về tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay” nên sẽ góp phần làm
sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức của HĐND: Khái niệm chính quyền
địa phương và chính quyền cơ sở; khái niệm, vị trí, tính chất, quan niệm, mô hình
hợp lý của HĐND; lý luận điều chỉnh pháp luật về tổ chức HĐND; đặc điểm, vai
trò, nội dung của pháp luật về tổ chức HĐND; hiệu quả pháp luật về tổ chức
HĐND; so sánh pháp luật về tổ chức HĐND; tiêu chí hoàn thiện pháp luật về tổ
chức HĐND ở nước ta hiện nay; những kinh nghiệm nước ngoài có thể tiếp thu để
xây dựng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở Việt Nam; trình bày, phân tích được

các mô hình tổ chức chính quyền địa phương nói chung, Hội đồng địa phương nói
riêng ở một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt
Nam.
Luận án tiến hành đánh giá tổng thể, toàn diện đối với thực trạng pháp luật về
tổ chức của HĐND một cách khách quan, khoa học trên cơ sở bộ tiêu chí đánh giá
chi tiết; góp phần tổng kết thực tiễn về tổ chức của HĐND ở Việt Nam hiện nay.
Luận án là công trình nghiên cứu mang tính khái quát cao khi luận chứng hệ
các giải pháp, kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức của HĐND ở Việt
Nam hiện nay. Đây là các giải pháp có tính toàn diện, sát thực, khả thi và hữu ích
cho tổ chức của HĐND các cấp.

11


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án góp phần bổ sung, làm phong phú, hoàn chỉnh thêm các luận chứng
khoa học về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước
nói chung, chính quyền địa phương và HĐND nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học và thực tiễn để các cơ quan có thẩm
quyền ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm đổi mới, hoàn thiện tổ chức của
HĐND; qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của từng địa phương.
Bên cạnh đó, luận án có giá trị tham khảo đối với các hoạt động nghiên cứu lý
luận về chính quyền địa phương nói chung và tổ chức của HĐND nói riêng ở nước
ta hiện nay tại các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo khoa học pháp lý, chính trị
và hành chính.
Nhất là, luận án cũng góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho HĐND các cấp

trên phạm vi toàn quốc có thể nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn để đổi mới, hoàn
thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động của mình.
7. Kết cấu của luận án
Với đối tượng, phạm vi và mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày
nêu trên, luận án được kết cấu gồm: ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, phần nội dung gồm 04 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận và lịch sử của pháp luật về tổ chức HĐND ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về tổ chức HĐND và thực hiện pháp luật về
tổ chức HĐND ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức HĐND ở
Việt Nam hiện nay.

12


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1.1. Sách
- Local Government and Urban Affairs in International Perspective. Edition by
Joachim Jens Hesse, Published Nomos verlagsgesellschaft, Postfach 610.7570
Baden-Baden, 1991, Sách chính quyền địa phương và các vấn đề đô thị trong viễn
cảnh quốc tế (Local Government and Urban Affairs in International Perspective)
của tác giả Joachim Jens Hesse (Chủ biên - biên tập), Nxb Nomos
Verlagsgesellschaft Baden-Baden, năm 1991. Cuốn sách được nghiên cứu bởi nhiều
tác giả (gồm 623 trang). Các tác giả đã tập trung phân tích chính quyền địa phương
và các vấn đề đô thị trong viễn cảnh quốc tế của 20 quốc gia công nghiệp phát triển
trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức... Trong đó, các tác giả tập trung phân tích sự

hình thành, phát triển của các chính quyền địa phương, các vấn đề đặt ra đối với đô
thị trong viễn cảnh quốc tế, nhất là trong quá trình nền công nghiệp phát triển, sự đô
thị hóa diễn ra nhanh chóng đã đặt ra vấn đề phải tổ chức các chính quyền đô thị với
tính đặc thù của nó nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Song, De-fu, 2001, Chính quyền và cải cách chính quyền của Trung Quốc,
Legality publishing House. Theo cuốn sách (từ trang 387 - 397), sau cải cách chính
quyền địa phương ở Trung Quốc, các cơ quan chính quyền đã giảm từ 53 xuống còn
40; ở những tỉnh kém phát triển và số dân ít hơn chỉ còn lại 30 cơ quan. Các cơ
quan quản lý nhà nước ở các thành phố trực thuộc trung ương đã giảm từ 61 xuống
còn 45; ở các thành phố lớn giảm xuống còn 40 hoặc ít hơn; ở các thành phố trung
tâm giảm xuống còn 30 hoặc ít hơn. Đối với những thành phố ở các vùng kém phát
triển có dân số ít, số lượng các cơ quan nhà nước thậm chí ít hơn nữa. Đối với các
khu vực tự trị, các cơ quan nhà nước giảm từ 35 xuống còn 25. Cấp quận, huyện
còn 22 cơ quan đối với những quận, huyện lớn, 18 cơ quan đối với những quận,
huyện vừa và 14 cơ quan đối với những quận, huyện nhỏ. Các cơ quan nhà nước ở
những quận, huyện nghèo hoặc ít dân số hơn giảm về số lượng nhưng được tăng
thêm quyền hạn, Như vậy, tác giả cho rằng, đặc điểm của cải cách chính quyền địa
phương gồm: (1) có những điểm tương đồng về số lượng, chức năng và thậm chí là
tên gọi của các cơ quan ở các tỉnh khác nhau; (2) việc xây dựng lại mô hình cơ quan
chính quyền địa phương về cơ bản giống chính quyền trung ương; (3) nguyên tắc cơ
bản của cải cách chính quyền địa phương là giảm những cơ quan trực tiếp quản lý
kinh tế và tăng cường sự quản lý toàn diện cho các cơ quan.

13


- Cuốn sách: “Định hướng cải cách trong lĩnh vực quản trị địa phương của
Nhật Bản cho những năm đầu của Thế kỷ XIX” (The Trends of the legal Goverment
in Japan for the early years of XIX century) của Giáo sư Koju Kuroda, Đại học
Tokyo, do NXB Đại học Tokyo ấn hành năm 2001 đã có ảnh hưởng rất lớn trong

việc hoạch định chính sách tự quản địa phương ở Nhật Bản, theo nhận định của
Giáo sư Aikyo Masanori: “Làm thay đổi quan điểm bảo thủ truyền thống của Đảng
dân chủ tự do thống lĩnh trong nhiều thập niên qua”. Theo đó, các quy tắc về tổ
chức, điều hành bộ máy chính quyền địa phương được pháp luật quy định phù hợp
với nguyên tắc tự trị địa phương. Các địa phương sẽ tổ chức HĐND như một cơ
quan để thảo luận, biểu quyết phù hợp với quy định của luật pháp. Người đứng đầu
cơ quan hành chính địa phương, thành viên của HĐND và các công chức địa
phương khác theo quy định của pháp luật đều được bầu theo phương thức phổ thông
đầu phiếu trực tiếp trong cộng đồng. Chính quyền địa phương có thẩm quyền trong
quản lý tài sản của mình, thực thi công việc, quản trị hành chính và ban hành các
quyết định của mình phù hợp với các quy định của pháp luật. Quốc hội không thể
thông qua một đạo luật để áp dụng cho một địa phương nếu đa số cử tri của địa
phương đó không chấp thuận.
- “Báo cáo đánh giá nhu cầu tăng cường năng lực và kế hoạch hỗ trợ cho
HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam trong lĩnh vực tài chính - ngân sách” do PGS.TS.
Charles Hankla, Chuyên gia Đào tạo Quốc tế, Đại học Georgia - Hoa Kỳ nghiên
cứu vào tháng 5 năm 2013. Theo đó, mục đích của công trình nghiên cứu này là
nhằm xác định khoảng cách về năng lực gây ảnh hưởng đến khả năng của HĐND
cấp tỉnh của Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ quan trọng về giám sát
ngân sách và khuyến nghị các chủ đề đào tạo để xử lý những khoảng cách này. Trên
cơ sở đó, nội dung của báo cáo nghiên cứu gồm: (1) vai trò quan trọng của HĐND
cấp tỉnh trong quy trình ngân sách tại Việt Nam, nhấn mạnh vào các chức năng cơ
bản là đại diện và giám sát mà cơ quan này phải thực hiện; (2) những điểm mạnh
sẵn có của HĐND cấp tỉnh nhằm thực hiện các vai trò theo luật định; (3) những hạn
chế về mặt thể chế mà HĐND phải đối mặt khi thực hiện các vai trò của mình; (4)
nhu cầu và thực tế đào tạo, bồi dưỡng đại biểu HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện
nay. Đây chính là công trình nghiên cứu nước ngoài rất có giá trị cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn trong quá trình tổ chức, hoạt động của HĐND nói chung và đào tạo,
bồi dưỡng cho đại biểu HĐND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay nói riêng.
- Báo cáo nghiên cứu (2014), Kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa phương

của Nhật bản, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Nội dung của Báo cáo
nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: (1) những đặc trưng trong hệ

14


thống chính quyền địa phương Nhật Bản; (2) mối quan hệ giữa chính quyền địa
phương với chính quyền Trung ương và người dân; (3) một số kết quả đạt được từ
quá trình đổi mới tổ chức chính quyền địa phương. Có thể khẳng định rằng đây là
nguồn dữ liệu hết sức quý báu để Nghiên cứu sinh tham khảo, xem xét giải quyết
những vấn đề có liên quan của luận án mà mình đang nghiên cứu như: thúc đẩy quá
trình phân công chức năng, nhiệm vụ giữa chính quyền trung ương và địa phương;
đẩy mạnh phân cấp, nâng cao tính tự chủ của chính quyền địa phương; tăng cường
sự tham gia của người dân và sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chính quyền địa
phương trong quá trình cải cách hay nói cách khác, chủ quyền nhân dân cần được
phát huy tích cực hơn vào việc cải cách hệ thống chính quyền địa phương; mở rộng
quyền độc lập về tài chính của các cơ quan chính quyền địa phương, đi đôi với việc
thống nhất quyền lực hành chính và tài chính tự quản; giải quyết tình trạng phát
triển không đồng đều giữa các địa phương và sự cách biệt giữa các vùng, miền
trong cả nước...
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đăng tải trên tạp chí
- Ở Nga và các nước Đông Âu vốn là các quốc gia xã hội chủ nghĩa trước đây,
trong quá trình cải cách, chuyển đổi chế độ chính trị và chế độ kinh tế - xã hội, vấn
đề tự quản hành chính địa phương cũng nổi lên bức xúc và song song với đó là hàng
loạt các công trình nghiên cứu có giá trị như: Tự quản địa phương - tính Nhà nước
hay tính xã hội, M.A.Kraxnop, Tạp chí Nhà nước và pháp luật Xô Viết, số 10 /1990,
(tiếng Nga); Tự quản địa phương, kinh nghiệm hiện đại của Nga về điều chỉnh pháp
luật, Viện Nhà nước và Pháp luật Liên bang Nga ấn hành năm 1998; Sự hình thành
quyền sở hữu tự quản ở Liên Bang Nga , E.M.Anđreieva Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 3/2001 (tiếng Nga).

- Diao, Tian-ding and Ning Fu, 1999, Cải cách tổ chức chính quyền ở Trung
Quốc, lý thuyết và thực hiện, Law Publishing House. Tác giả đã khẳng định trong
nghiên cứu của mình luận điểm cải cách chính quyền trung ương là hình mẫu và có
ảnh hưởng tới cải cách chính quyền địa phương. Cải cách chính quyền trung ương
được chỉ đạo theo một nguyên tắc cơ bản: “Quyết định số lượng nhân sự trong mỗi
cơ quan; quyết định vị trí trong mỗi cơ quan và quyết định ai sẽ ở vị trí nào”. Mô
hình cơ bản đã được hình thành, bao gồm việc tổ chức lại hoặc giải thể một số bộ
phận trực tiếp quản lý kinh tế; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong việc
điều tiết kinh tế vĩ mô; tăng số lượng các cơ quan dịch vụ xã hội và phát triển các cơ
quan trung gian xã hội. Như vậy, cải cách chính quyền trung ương cung cấp một số
hình mẫu cho cải cách chính quyền địa phương như về tỷ lệ giảm các cơ quan, về
các bước thực hiện và chính sách sắp xếp lại nhân lực dôi dư (ví dụ: chính sách

15


hưởng những lợi ích vật chất, đào tạo định hướng nghề nghiệp, bổ sung các doanh
nghiệp, tối ưu hoá tổ chức).
- Shi, Shu-guang, 2001, “Bốn tương quan trong cải cách tổ chức chính quyền
địa phương”, Law and Public Administration, số 1, trang 22-23. Theo tác giả, khó
khăn lớn luôn luôn tồn tại trong cải cách chính quyền địa phương. Vì vậy, các địa
phương phải xác định được cái gì quan trọng nhất, cấp thiết nhất để giải quyết.
Trong quá trình cải cách, các địa phương được khuyến cáo nên thực hiện theo
những nguyên tắc sau: (1) thay đổi nhận thức là hàng đầu; (2) thành lập một hệ
thống phúc lợi xã hội tương đối hoàn thiện được ưu tiên hơn là giải tán và sắp xếp
lại nhân lực dôi dư; (3) thay đổi chức năng Nhà nước được ưu tiên hơn việc sắp xếp
lại các cơ quan nhà nước; (4) tăng cường ngân sách tài chính được ưu tiên hơn giảm
quy mô của các cơ quan nhà nước.
- Nadja Charaby - Giám đốc Văn phòng Quỹ Rosa Luxemburg khu vực Đông
Nam Á (2014), Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương Cộng hòa liên

bang Đức, cơ chế kiểm soát giữa chính quyền liên bang và địa phương. Trong bài
viết của mình, tác giả đã khẳng định cơ quan lập pháp bang (Landtag) ở Đức là cơ
quan lập pháp duy nhất đại diện cho cơ quan Quốc hội cấp bang theo Hiến pháp
(Bundesland); được bầu theo nhiệm kỳ 04 hoặc 05 năm và do người dân của bang
bầu; có nhiệm vụ: kiểm soát chính quyền bang, kiểm soát ngân sách của bang,
chuẩn bị cho bầu cử Thủ tướng, chuẩn bị một phần bầu cử Bộ trưởng và tham gia
lập pháp. Hội đồng quận là cơ quan lập pháp của quận, chịu trách nhiệm tự quyết
các vấn đề của địa phương; được bầu 5 năm một lần, trừ bang Bavaria là 6 năm. Hội
đồng thành phố (Gemeinderat) là cơ quan chính quyền của một đơn vị hành chính
cấp đô thị; cơ quan này còn được gọi là Stadtrat (Hội đồng thành phố hoặc thị trấn);
việc bầu cử diễn ra theo nhiệm kỳ 04 năm, 05 năm hoặc 06 năm một lần tùy theo
các bang và theo Luật tổ chức thành phố.
Qua tham khảo các công trình nêu trên cho thấy, theo cách tiếp cận ở những
góc độ khác nhau, các nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền luôn xác định hoàn
thiện cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, trong đó nhiều công
trình xác định vai trò của chính quyền địa phương, tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương nói chung. Chính vì vậy, một số nội dung, quan điểm trong các
công trình là những tài liệu có giá trị cả về lý luận và thực tiễn làm nền tảng, cơ sở
lý luận quan trọng trong quá trình chọn lọc, kế thừa, phát triển trong luận án.

16


1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến đề tài
1.2.1. Các công trình nghiên cứu xuất bản trên các sách
- Vũ Quốc Thông (1973), các cơ quan đại diện dân chúng Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc (trong cuốn sách Pháp chế sử) Nxb. Tủ sách Đại học, Sài Gòn. Với
công trình nghiên cứu này, nhà nghiên cứu Vũ Quốc Thông đã chỉ ra rằng trong thời
kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, lần đầu tiên cơ quan đại diện của dân chúng
được thành lập. Cơ quan đại diện của dân chúng chỉ mang tính chất hình thức vì

bầu cử theo đầu phiếu hạn chế và Hội đồng dân cử chỉ là cơ quan tư vấn cho cơ
quan hành pháp và ý kiến của Hội đồng dân cử chỉ được chấp nhận khi được cơ
quan bảo hộ Pháp đồng ý. Tuy vậy, đây là thiết chế bầu cử xuất hiện đầu tiên tại
Việt Nam và nhiều chí sĩ yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng đã sử dụng công cụ này
để đấu tranh đòi các quyền và tự do người Việt Nam.
- PGS.TS Lê Minh Thông và PGS.TS Nguyễn Như Phát (Đồng chủ biên),
(2002), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách này đã thể hiện những nội
dung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay;
kinh nghiệm lịch sử trong xây dựng và phát triển chính quyền địa phương ở nước ta
từ năm 1945 đến nay; đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
- PGS.TS Lê Minh Thông (Chủ biên), (2006), Chính quyền địa phương trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách có giá trị khoa học cao, đã được biên soạn bởi các
nhà khoa học có uy tín lớn như PGS.TS Lê Minh Thông, PGS.TS Nguyễn Như
Phát, PGS.TS Bùi Xuân Đức, PGS.TS Vũ Thư. Công trình này thể hiện nội dung
nghiên cứu lý luận, thực trạng và đưa ra giải pháp đổi mới tổ chức chính quyền địa
phương gắn với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- GS.TS Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), (2006), Nhà nước và trách nhiệm
của Nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Cuốn sách khẳng định cần đổi mới chính
quyền địa phương, trong đó không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường và cải
cách cơ quan hành pháp ở cấp quận, phường (trong đó có việc đổi tên gọi là Ủy ban
hành chính quận, phường) nhằm nâng cao trách nhiệm và đảm bảo sự quản lý điều
hành thông suốt của các cơ quan hành pháp từ trung ương đến địa phương.
- GS.TS Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), (2006), Tổ chức bộ máy nhà nước
Việt Nam theo các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi, bổ sung
2001, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tổng quan những vấn đề chung
về quy định tổ chức bộ máy nhà nước trong các bản Hiến pháp. Theo đó, tác giả đã
tập trung phân tích sâu những quy định về tổ chức bộ máy nhà nước của Hiến pháp


17


năm 1992; đồng thời chỉ ra những điểm hạn chế, bất cập dẫn đến nhu cầu tất yếu
phải sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Với những nội dung mà cuốn sách đã cung cấp,
những nhà khoa học có được nguồn tài liệu cần thiết để tiếp tục nghiên cứu, phân
tích đưa ra những luận chứng khoa học tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước, trong đó có chính quyền địa phương.
- PGS. TS Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Cuốn sách bao gồm các bài viết, các
công trình đã công bố của tác giả trong suốt thời gian dài theo sát quá trình cải cách
bộ máy nhà nước. Cuốn sách được chia gồm 03 phần: Phần 1 - Những vấn đề
chung về đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước; Phần II - Đổi mới hoàn thiện các cơ
quan nhà nước ở trung ương; Phần III - Đổi mới chính quyền địa phương.
- Vũ Hùng (Chủ biên), (2007), Hội đồng nhân dân - quá trình hình thành và
biến đổi, Nxb. Đà Nẵng. Cuốn sách đã giới thiệu quá trình hình thành và biến đổi
của HĐND từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến ngày nay.
Về phương pháp biên soạn, tác giả chia ra thành từng vấn đề theo lịch đại nhằm
cung cấp thông tin đến người đọc theo một hệ thống nhất định. Sự phân kỳ trong
cuốn sách này là căn cứ vào nội dung các văn bản quy phạm pháp luật; có 3 giai
đoạn chính, từ Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 đến trước khi ban hành Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 1958, từ Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 1958 đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 và từ Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1983 cho đến nay (2007). Nội dung cuốn sách chỉ tập trung
vào những vấn đề đã quy định trong Hiến pháp, trong các văn bản quy phạm pháp
luật, không đề cập đến những vấn đề đang có ý kiến khác nhau và hạn chế bình
luận. HĐND và Ủy ban hành chính hay UBND sau này, thường song hành với nhau
như hình với bóng, nhưng người viết chỉ tập trung nêu những quy định về HĐND,
những quy định về UBND được nêu trong một số trường hợp cần thiết. Cuốn sách
chia thành 6 chương, sắp xếp theo từng vấn đề hay nhóm vấn đề, bảo đảm phản ánh

cơ bản những quy định về HĐND; không sắp xếp theo trật tự các chương như trong
các Luật Tổ chức HĐND và UBND hay trong các Quy chế về hoạt động của
HĐND. Trong cuốn sách này, không có chương về mối quan hệ giữa Quốc hội và
Chính phủ với HĐND, mối quan hệ giữa các Ban HĐND với UBND, mối quan hệ
giữa HĐND với Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Các
mối quan hệ đó được nêu trong các Quy chế về hoạt động của HĐND các năm
1990, 1996 và 2005, nhưng không quy định trong Luật Tổ chức HĐND và UBND
trong các giai đoạn tương ứng. Tuy nhiên, bên cạnh một số nội dung đã được phản

18


ánh trong các chương, những quy định về các mối quan hệ đó trong các Quy chế
cũng được đưa vào phần phụ lục của sách.
Qua nội dung các chương, tác giả là trình bày một cách hệ thống các quy định
về HĐND, hy vọng sẽ giúp người đọc hình dung được những nét chính, những gam
màu cơ bản về chân dung HĐND trong thời gian qua, tự rút ra những nhận xét, suy
nghĩ về dấu ấn của từng giai đoạn lịch sử lên HĐND, sự biến đổi về nhận thức, tổ
chức và hoạt động của HĐND và kỹ thuật lập pháp qua từng giai đoạn. Sự biến đổi
không hàm nghĩa sự biến đổi về bản chất, bản chất xuyên suốt của chính quyền nói
chung và của HĐND nói riêng vẫn là của dân, do dân và vì dân. Biến đổi là sự linh
hoạt, biến hóa, sự phù hợp về quyền hạn, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động trong từng
giai đoạn lịch sử.
- PGS.TS Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đây là cuốn sách chuyên khảo về đổi
mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay; là công trình khoa học
đồ sộ thể hiện những tri thức về vai trò của khoa học Luật Hiến pháp đối với xây
dựng, đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước; quan điểm tổ chức cơ chế quyền lực
nhà nước ở nước ta và sự thể hiện, phát triển qua các Hiến pháp; những điểm mới
trong tổ chức bộ máy nhà nước qua Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết sửa đổi, bổ

sung một số điều của Hiến pháp năm 1992; nhận thức và vận dụng nguyên tắc
thống nhất, tập trung quyền lực trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; nền hành chính nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đổi mới, hoàn thiện các cơ quan nhà
nước ở trung ương; đổi mới chính quyền địa phương.
- GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đặc biệt,
trong phần III của cuốn sách, các tác giả đã tập trung phân tích khái quát về thực
trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam; nêu lên những
nguyên tắc xác định mô hình tổng thể tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương và đề xuất mô hình tổng thể về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong đó, các tác giả đặc biệt quan
tâm đến việc xác định tính chất, vị thế của HĐND trong Nhà nước pháp quyền.
Theo các tác giả, đã đến lúc phải thừa nhận tính chất tự quản của HĐND nhưng
không vì thế mà phủ nhận tính chất quyền lực của cơ quan này. Theo đó, HĐND
vẫn có vị trí là cơ quan quyền lực của Nhà nước tại địa phương, lại vừa có vị trí là
cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư để quyết định những vấn đề của địa phương
và thực hiện theo thẩm quyền của Nhà nước.

19


- PGS, TS Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số cộng giản
đơn, Nxb Lao động, Hà Nội. Là một nghiên cứu chuyên sâu, có nhiều kinh nghiệm
về thể chế và bộ máy nhà nước, tác giả đã có cách tiếp cận khá độc đáo khi nói về
sự giản đơn trong tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước vô cùng phức tạp nhằm
điều hành những vấn đề xã hội đa dạng, muôn màu, muôn vẻ với mục tiêu trở thành
Nhà nước dân chủ với "các cơ thể cấu thành chịu trách nhiệm trước nhân dân".
Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích những "phép cộng: giữa xã hội chính trị
với xã hội công dân, giữa lập pháp và hành pháp, chính trị và hành chính; trung

ương và địa phương” v.v... thực chất là miêu tả và đề xuất những phương cách giải
quyết mối quan hệ giữa các phạm trù đó trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền dân chủ XNCN nhằm đổi mới hệ thống chính trị phục vụ xây dựng, củng cố
và hoàn thiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Đồng thời, tác giả cũng khẳng định, về nguyên tắc hiện nay mọi Nhà nước đều phải
là Nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về toàn thể nhân dân. Nhưng xu thế
của việc thiết lập một Nhà nước đại diện buộc Nhà nước này phải chịu trách nhiệm.
Muốn có một Nhà nước chịu trách nhiệm rõ ràng, thì cách thức tổ chức của Nhà
nước phải hết sức đơn giản. Chính sự đơn giản này là lý do buộc Nhà nước phải tổ
chức thành cơ cấu những con số cộng đơn giản hai số hạng và mỗi số hạng phải
chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Đặc biệt, trong Chương 5 của cuốn
sách, tác giả đã tập trung phân tích sâu mối quan hệ giữa trung ương và địa
phương dưới các giác độ phân quyền; phân tích các mô hình tổ chức chính quyền
địa phương của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam hiện nay, từ đó tác giả
khẳng định để chính quyền địa phương hoạt động thực sự hiệu lực, hiệu quả thì
cần tăng cường phân cấp rõ ràng cụ thể hơn và phải được cụ thể hóa trong các văn
bản pháp luật.
- GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS. TS Phạm Hữu Nghị (đồng chủ biên) (2009),
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội. Cuốn sách
tập hợp nhiều bài viết của các tác giả, như: GS. TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Phạm
Hữu Nghị, TS Nguyễn Minh Đoan, PGS.TS Bùi Xuân Đức, PGS.TS Nguyễn Như
Phát, PGS.TS Lê Minh Thông, TS Nguyễn Thị Việt Hương, PGS.TS Võ Khánh
Vinh, PGS.TS Dương Đăng Huệ, PGS.TS Hà Thị Mai Hiên... Hầu hết các bài viết
tập trung phân tích các yếu tố đảm bảo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền,
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong Nhà nước pháp quyền, khắc phục sự
chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan Đảng và chính quyền, vai

20



trò của Nhà nước, quyền công dân, xã hội dân sự, phân cấp quản lý, hệ thống pháp
luật, cải cách tư pháp... Trong đó, PGS.TS. Lê Minh Thông đã tập trung phân tích
làm rõ vai trò của phân cấp quản lý trong việc đảm bảo thực hiện quyền lực nhà
nước ở địa phương, xác định rõ mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, khẳng
định phân cấp quản lý là một xu thế tất yếu, là cơ sở đảm bảo quyền lực nhà nước từ
trung ương đến địa phương được thực hiện thống nhất và thông suốt.
- PGS.TS Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là một công trình chuyên khảo về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền. Điều này liên quan chặt chẽ tới việc xây dựng những cơ sở pháp lý đối
với chính quyền địa phương, trong đó có HĐND ở nước ta.
- PGS.TS Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách gồm 4 chương: Chương 1, Yêu cầu đổi mới bộ máy
nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Chương 2, Quá trình đổi mới bộ máy nhà
nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam; Chương 3, Thực trạng mô hình tổ chức bộ
máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam từ năm 1992 đến nay; Chương 4,
Phương hướng đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã cung cấp cho độc giả nguồn tư liệu phong
phú với những luận điểm hết sức khoa học về vấn đề cải cách bộ máy nhà nước
trong đó có chính quyền địa phương ở Việt Nam. Đặc biệt, trong mỗi chương tác
giả đều dành những phần riêng cho nghiên cứu về chính quyền địa phương, chỉ ra
những ưu điểm và những hạn chế của chính quyền địa phương, xác định đổi mới
chính quyền địa phương là tất yếu. Tác giả cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
trong giai đoạn hiện nay.
- Cuốn sách “Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992 - Những vấn đề lý luận và thực

tiễn”, Nhà xuất bản Hồng Đức (2012), trong đó có các tác giả như PGS.TS Trương
Đắc Linh, PGS.TS Lê Thiên Hương, TS Hoàng Thị Ngân khi viết về chính quyền
địa phương đã cho rằng việc bỏ HĐND huyện, quận, phường là hợp lý và cần đổi mới
HĐND theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự quản của HĐND. Các tác giả trong cuốn
sách này đều có chung quan điểm cần phải tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền
nông thôn khác nhau và cần đa dạng hoá hình thức tổ chức chính quyền đô thị để tăng
cường tính năng động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương.

21


- Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: có 03 cuộc Hội thảo quốc tế về chính quyền địa
phương do Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Dự án hỗ trợ thực hiện chính sách
(PIAP) tổ chức tại Đà Nẵng từ ngày 06- 08 tháng 12 năm 2012 và Viện Nghiên cứu
lập pháp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Tổ chức Phát triển Quốc tế của
Mỹ (USAID) tổ chức tại Nam Định từ ngày 07 - 08 và tại Cần Thơ từ ngày 9 - 10/
01/2013. Tại các cuộc Hội thảo quốc tế này, đã có các báo cáo đề xuất nhiều quan
điểm mới về đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, trong đó có đổi mới
HĐND các cấp. Hầu hết các bài tham luận đều chỉ ra những bức xúc trong tổ chức
và hoạt động của HĐND ở nước ta và vấn đề đổi mới tổ chức, hoạt động của
HĐND hiện nay là vấn đề cần thiết và cấp bách.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học,“Xây dựng Luật Tổ chức chính quyền tại địa
phương phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của
Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Hội thảo khoa học này
được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng vào ngày 17 - 18/4/2014). Hội thảo đã tập
trung trao đổi, thảo luận các nội dung cơ bản như: (1) phương hướng thiết kế mô
hình tổ chức chính quyền địa phương đa dạng ở nước ta; cơ sở của việc tổ chức
chính quyền hoàn chỉnh có HĐND, UBND và chính quyền không có HĐND; mối
quan hệ giữa cơ quan quản lý hành chính ở chính quyền không có HĐND với
HĐND và UBND cấp trên; (2) căn cứ để tổ chức chính quyền địa phương vùng

thành thị; cơ sở quy định thẩm quyền đối với chính quyền địa phương vùng thành
thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; (3) các yếu tố cơ bản
liên quan đến mô hình tổ chức và thẩm quyền của chính quyền địa phương để phát
huy vai trò tích cực của hệ thống chính quyền địa phương; (4) kinh nghiệm tổ chức
chính quyền địa phương của một số nước trên thế giới, kinh nghiệm tổ chức chính
quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và kinh nghiệm xây dựng chính quyền
đô thị; (5) thực trạng phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương, phương
hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương đặt trong bối
cảnh đa dạng hóa mô hình tổ chức chính quyền địa phương.
Nhiều tham luận chỉ ra cần phải thực hiện phân cấp quản lý, cải cách mô hình
chính quyền địa phương ở nước ta trên cơ sở tiếp thu các hạt nhân hợp lý của thuyết
phân quyền, tản quyền. Về mặt nguyên tắc, mô hình tổ chức nên kết hợp phân
quyền với tản quyền trong phân cấp quản lý. Về mặt phương pháp, chủ đạo phải là
phân quyền, tản quyền chỉ là giám hộ, tập quyền chỉ là chủ trương bảo đảm sự
thống nhất chung trong toàn quốc, mà về cơ bản không thể hiện trong các hình thức
tổ chức và hoạt động cụ thể. Về mặt phân quyền thì từng bước thực hiện chế độ tự
quản địa phương. Bảo đảm lãnh đạo tập trung thông qua luật, giám sát qua cơ chế

22


×