Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Khóa luận Âm mưu và thủ đoạn của diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.26 KB, 86 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử xã hội loài người đã chi nhận từ năm 1848, “Chủ nghĩa xã
hội đã được tất cả các thế lực ở Châu Âu thừa nhận là một thế lực”. Từ
khi ra đời nó được coi là một bóng ma đang ám ảnh bầu trời Châu Âu và
giai cấp tư sản thế giới đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để
trừ khử bóng ma đó” [16 - 539].
Mưu đồ lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa để xoá bỏ hệ thống xã hội
chủ nghĩa, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và phủ định hình thái
ý thức của chủ nghĩa Mác - Lê nin nhằm thiết lập một trật tự thế giới
mới theo kiểu phương tây luôn luôn là mục tiêu chiến lược cơ bản của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Thực hiện âm mưu đó, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành bằng nhiều chiến
lược phản cách mạng, không ngừng điều chỉnh đường lối, chính sách
hòng đạt mục đích “Bá chủ thế giới”. Hiện nay, chúng đang ráo riết đẩy
mạnh chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ để chống phá chủ nghĩa xã
hội và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “DBHB” là chiến lược cơ
bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ
chính trị - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu
bằng các biện pháp phi quân sự; là chiến lược phản cách mạng của chủ
nghĩa đế quốc gây dao động, mơ hồ, ảo tưởng về mục tiêu cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Mục tiêu của chiến lược “DBHB” đối với cách mạng
nước ta là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trước mắt, chúng tập trung vào thúc đẩy tự do hoá
chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ không giới hạn, thúc đẩy tư nhân hoá
nền kinh tế thị trường theo hướng tư bản chủ nghĩa và “phi chính trị hoá
lực lượng vũ trang để chủ động tiếp cận, chọn lọc và hành động từng
bước, đánh có trọng điểm tiến tới hoá hoại toàn diện.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001),
tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Cuộc đấu tranh
1




dân tộc, đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt hơn. Các thế lực phản
động quốc tế tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “DBHB”, kết hợp
với âm mưu bạo loạn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong
đó chúng coi “DBHB” trên mặt trận văn hoá tư tưởng là khâu đột phá.
Phòng, chống chiến lược “DBHB” bạo loạn lật đổ của kẻ thù nhằm
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
thành quả cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới v ì mục tiêu
“Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” là một
trong những vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là
trách nhiệm của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy,
nghiên cứu đề làm rõ âm mưu, thủ đoạn và tăng cường cảnh giác, chủ
động trong biện pháp phòng chống có hiệu quả chiến lược “DBHB”, bạo
loạn lật đổ của Mỹ đối với Việt Nam là một vấn đề cấp thiết và có ý
nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ :
Ở Việt Nam trong 30 chống chiến tranh xâm lược, vấ đề này được
kết hợp nghiên cứu trong việc tìm hiểu ý đồ, thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động để có đối sách thích hợp, thể hiện trong
các Nghị quyết công tác năm, chỉ thị, quyết định của lực lượng quốc
phòng , nội vụ và tỏng văn kiện của Đảng, Nhà nước chỉ đạo thực hiện
đấu tranh. Với tư cách là những đối tượng của chiến lược “DBHB”,
Trung Quốc và Việt Nam đã nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm
túc về vấn đề này thông qua các công trình như:
- Trung Quốc: “Chiến lược DBHB của Mỹ” (Lương Văn Đồng chủ
biên, Nxb Nhân dân Lĩnh Cát Lâm - Trung Quốc, 1992, Tổng cục II Bộ
quốc phòng 1993), “Cuộc đọ sức hai chế độ xã hội - bàn về chống
“DBHB” (Cốc Văn Khang, Nxb Hồ Nam ấn hành 1991, Nxb Chính trị

quốc gia

và Tổng cục II Bộ Quốc phòng dịch và xuất bản ở Việt Nam

1994), “hãy cảnh giác với cuộc chiến tranh thế giới không có khói súgn
2


(Lưu Đình Á chủ biên,k Nxb Chính trị quốc gia, Tổng cục II, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội 1994).
- Việt Nam: Quyết tâm làm thất bại chiến lược “DBHB” của các
thế lực thù địch (Ban tư tưởng - văn hoá TW, Nxb Chính trị quốc gia ,
Hà Nội 1994), “Chiến lược DBHB” (Nguyễn Anh Lân chủ biên, Nxb
Tổng cục II Bộ Quốc phòng,Hà Nội 1993); Bàn về “DBHB” (Nguyễn Đỗ
Hoàng, Nxb CAND, Hà Nội 1991)…
Những công trình này đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện về
chiến lược “DBHB” của địch. Nhìn chung, đây alf một đề tài khó, đòi
hỏi người viết phải tham khảo nhiều tài liệu, có tư duy sâu sắc và một
trình độ tổng hợp cao. Nhưng đề tài có sức hấp dẫn bởi nó không những
có tính lịch sử mà còn có tính thời sự và được rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Xuất phát từ tình hình thực tế đó, người viết luận văn đã tiếp
cận vấn đề từ một góc độ văn hoá tư tưởng với mong muốn góp một chút
công sức nhỏ bé vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA KHOÁ LUẬN .
* Mục đích: làm rõ thực chất âm mưu và thủ đoạn của “DBHB”
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên mặt trận văn
hoá tư tưởng ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ: Nghiên cứu những hiện tượng, những hình thức biểu
hiện của “DBHB” trên mặt trận văn hoá tư tưởng để phát hiện bản chất

của nó. Từ đó đề xuất những giải pháp tích cực chống lại chiến l ược
“DBHB”, bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng của nhân dân Việt
Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo từ nay về sau.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
* Cơ sở lý luận việc nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin. Khoá luận nghiên cứu một cách khách quan những luận
điểm đối nghịch chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó
khẳng định tính đúng đắn và khoa học của ý thức hệ Mác - Lê nin.
3


* Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích so sánh.
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KHOÁ LUẬN.
Khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cả về lý luận và thực tiễn trong quá khứ, hiện tại và tương lai của
chủ nghĩa xã hội nói chung và Việt Nam nói riêng.
6. KẾT CẤU CỦA KHOÁ LUẬN.

4


CHƯƠNG I : “DBHB” VÀ “DBHB” TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ
TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC “DBHB”.
1. Diễn biến hoà bình là gì ?
Cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917 và sự ra đời của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước Nga đã mở ra con đường phát triển
mới cho nhân loại. đó là con đường giải phóng dân tộc, giải phóng con

người thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và các giai cấp bóc
lột. Việc mở ra con đường này đồng nghĩa với sự bắt đầu một thời đại
lịch sử mới mà trong đó địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản bị thách
thức.
Ngay lập tức, chủ nghĩa tư bản thế giới, các thế lục phản động đã
xúm lại tìm cách bóp chết chủ nghĩa xã hội ngay từ khi còn “trong trứng
nước”. Ỷ vào tiềm lực hơn hẳn về kinh tế, quân sự, chúng đã phát động
cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc chống nước Nga Xô Viết
non trẻ trong những năm 1918 - 1922. Chúng đã hướng sức mạnh tàn phá
do chủ nghĩa phát xít nhằm tiêu diệt Liên Xô (1941 - 1945). Song những
nỗ lực của chủ nghĩa đế quốc trong việc dùng sức mạnh quân sự và chiến
tranh để tiêu diệt Liên Xô - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới đã bị thất bại thảm hại. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xo đang đứng vững
trước những cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực đế quốc - phản
động quốc trê. Trong khi đó, cách mạng lần lượt thành công ở các nước
Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam. Sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội - các cao trào giải phóng dân tộc đã thu hẹp đáng kể phạm
vi thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Từ kinh nghiệm lịch sử ở giai đoạn
trước, lẫn thực tế tình hình tư bản và đế quốc hiếu chiến nhận thấy rằng,
không thể xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội hiện thực - xâm chiếm các nước
xã hội chủ nghĩa bằng cách trực tiếp dùng thủ đoạn quân sự. Hơn nữa,
việc phát động một cuộc chiến tranh qui mô lớn, trực diện tấn công v ào
các nước xã hội chủ nghĩa có thể đưa tới hậu quả ngược chiều là chủ
5


nghĩa tư bản thế giới tiếp tục bị đe doạ và thất bại nặng nề hơn nhiều.
Bằng chứng hùng hồn là hại cuộc chiến tranh thế gới do chủ nghĩa đế
quốc gây ra đã đưa tới thắng lợi mở rộng phạm vi của chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, sau chiến tranh thất bại ở Việt Nam, những phần từ diều hâu

phản động nhất buộc phải xem xét, cân nhắc lại những khả năng và hiệu
quả của việc sử dụng sức mạnh quân sự, kinh tế của mình. Một loạt tác
giả hàng đầu về nghiên cứu chiến lược của Mỹ như : Kitxingiơ,
Brêdinxki, Mắcnamara… bắt đầu đưa ra những khuyến cáo về sự thay
đổi chiến lược từ chỗ dùng sức mạnh quân sự “lấy thịt đè người” chuyển
sang giải pháp “chiến tranh không cần khói súng”. Nhờ việc hoàn thiện
chiến lược “DBHB” mà những năm gần đây chúng đã và dang giành
được những thắng lợi nhất định. Chúng tấn công và làm cho mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu xụp đổ. Hiện nay, mũi nhọn của
“DBHB” đang được ráo riết thực hiện thâm độc, quyết liệt, hướng trọng
tâm vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như : Cu Ba, Việt Nam, Trung
Quốc và Bắc Triều Tiên nhằm thực hiện mục đích “Bá chủ toàn cầu”,
làm “xanh hoá cái đầu đỏ”.
Vậy khái niệm về “DBHB” là gi ?
Khái niệm v“DBHB” được thể hiện qua rất nhiều cụm từ như :
“Chuyển hoá hoà bình” (Peaceful change); “Biến đổi hoà bình”
(Peaccful transformaton). “cách mạng hoà bình” (pcaceful revolution),
“cạnh tranh hoà bình” (peaccful competitison); “Phương pháp hoà bình”
(peacegul means). Thậm chí, các thế lực thù địch còn đưa ra khái niệm
“Bom F”, chữ đầu của chữ Food, tức là “thức ăn” trong tiếng Anh. Khi
nói về “Bom F”, Kitxinh giơ đã nói : “con đường bằng phẳng nhất để đi
vào các nước đang phát triển là đi qua cái dạ dày của họ”. Mặc dù được
gọi dưới nhiều tên khác nhau, nhưng thuật nghwx “DBHB” vẫn được sử
dụng phổ biến nhất.
“DBHB” theo cách hiểu chung nhất đó là, chiến lược tấn công trên
qui mô toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch do Mỹ
6


khởi xướng với những ý tưởng ban đầu từ cuối những năm 40 nhằm thủ

tiêu chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản quốc tế trong điều kiện
không thể giành thắng lợi bằng biện pháp quân sự. chiến lược “DBHB”
được thực hiện thông qua việc sử dụng các phương thức tổng hợp, thủ
đoạn hd phá hoại thâm độc, tinh vi với tính chất, phạm vi và mức độ
khác nhau , kể cả biện pháp răn đe quân sự, diễn ra trên mọi lĩnh vực mà
kinh tế chính trị, tư tưởng và nội bộ là mặt trận nóng bỏng, dân tộc tôn
giáo là “ngòi nổ”. Các hoạt động này chủ yếu làm xuất hiện ngay trong
lòng các nước xã hội chủ nghĩa những nhân tố phản cách mạng, hỗ trợ và
tiếp sức cho các nhân tố này mạnh dần lên trở thành lực lượng chính trị
đối trọng với Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa; từng bước
làm suy giảm tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; làm
suy yếu và làm mất dần bản sắc của chế độ xã hội chủ nghĩa; kết hợp tác
động từ bên ngoài tạo ra sự vận động từ bên trong một cách toàn diện
theo hướng tư bản chủ nghĩa từng bước chuyển hoá theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Chiến lược này lợi dụng các đặc điểm tỏng môi trường
quan hệ quốc tế, như sự đan xen và tương tác giữa hợp tác và cạnh tranh,
xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá đồng thời với xu hướng đề cao chủ
nghĩa dân tộc. Chúng lợi dụng các khẩu hiệu “dân chủ”, “nhân quyền”
giả hiệu để kích động quần chúng, gây rối loạn xã hội. Chúng triệt để
khai thác những sơ hở, thiếu sót, sự chưa hoàn chỉnh của đường lối chính
sách trong cải tổ và đổi mới; Khoét sâu sai lầm trong tổ chức thực hiện,
trong lãnh đạo và quản lý các mặt của đời sống xã hội. Quá trình
“DBHB” là qúa trình đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và
xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa đang cải tổ, cải
cách, đổi mới, tức là xã hội đang trong qúa trình biến động, đang chứa
đựng nhiều yếu tố ổn định. Tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa
cách mạng và phản cách mạng, việc giải quyết tình thế chính trị này
không nhất thiết diễn ra dưới dạng chuyển hoá “hoà bình” mà có thể xảy
7



ra hỗn loạn chính trị - xã hội, thậm chí bạo loạn phản cách mạng, lật đổ
không ngoại trừ khả năng can thiệp vũ trang từ bên trong.
2. Bản chất của “DBHB”.
Đối với thế giới tư bản chủ nghĩa, việc chủ nghĩa xã hội hiện thực
ra đời, tồn tại và phát triển là điều chúng không thể chấp nhận được. Bởi
vì :
Thứ nhất: Theo bản chất riêng của mình, chế độ xã hội chủ nghĩa
là một con đường phát triển tất yếu của lịch sử mang chức năng phủ định
trực tiếp mô hình đối lập - là cntb.
Thứ hai: Đối với thị trường thế giới vốn đã được chủ nghĩa tư bản
giành giật và phân chia từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mỗi nước
cũng như toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa do sự tồn tại, độc lập và chủ
quyền quốc gia của mình, đặc biệt do thể chế chính trị và kết cấu, cơ chế
kinh tế đặc trưng và hoàn toàn mới mẻ của nó, đã thực sự là những vùng
mà chủ nghĩa tư bản khó bề kiểm soát.
Do vậy, mọi hoạt động của giai cấp tư sản chống chủ nghĩa xã hội
đều mang bản chất phản động và ngăn trở tiến trình lịch sử nhân loại.
chiến lược “DBHB” dù không sử dụng các biện pháp quân sự, mục đích
của nó vẫn là loại bỏ chủ nghĩa xã hội khỏi vũ đài chính trị thế giới, loại
bỏ một hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến nhất, kéo lịch sử trở về chủ
nghĩa tư bản. Vì thế, chiến lược này mang bản chất chống cộng rất phản
động, nguy hiểm. chiến lược “DBHB” là sự can thiệp toàn diện, thô bao
vào công việc nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn
đầu, chủ yếu nó can thiệp ở khu vực ngoại vi, đặt trọng tâm v ào các hoạt
động bao vây, ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô với các nước xã hội
chủ nghĩa và của các nước xã hội chủ nghĩa đối với phong trào giải
phóng dân tộc. Nhưng sang giai đoạn “Vượt trên ngăn chặn” thì sự can
thiệp này trở nên lộ liễu, trắng trợn. Nichsơn khẳng định rằng : “Không
được chấp nhận quan điểm cho rằng, cộng sản có quyền cạnh tranh với

chúng ta trong thế giới tự do, còn chúng ta thì không có quyền cạnh
8


tranh với họ trong thế gới cộng sản, chúng ta phải phát triển chiến lược
thi đua hoà bình với Matxcơva ở Đông Âu và ở cả Liên Xô, phải thúc
đẩy ch “DBHB” dưới chế độ của họ [33].
Chúng ta biết rằng, chiến lược “DBHB” là âm mưu và hành động
của chủ nghĩa đế quốc chống lại sự phát triển của xã hội loài người. Tuy
nhiên, những thủ đoạn tiến công lắt léo, tinh vi dưới các chiêu bài mị
dân như : “Sự nhích lại gần”, “Giải phóng tư tưởng” hoặc “Cạnh tranh
hoà bình”… đã đánh trúng tâm tư, nguyện vọng và ước mong của quần
chúng nhân dân và một bộ phận cán bộ, đảng viên chiến lược “DBHB”
đã che đậy được bản chất xấu xa, phản động của nó. Ở nhiều nước xã hội
chủ nghĩa, trong giới ktrí thức và chính khách do mơ hồ, mất cảnh giác,
ảo tưởng nên có nhiều người đứng ra bào chữa cho các hành động của
chủ nghĩa đế quốc. Họ tự cho rằng, chủ nghĩa xã hội xụp đổ là do “tự
DBHB” chứ không phải do can thiệp, tiến công của chủ nghĩa đế quốc từ
bên ngoài.
3. Âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “DBHB”.
Để thực hiện chiến lược “DBHB”, chủ nghĩa đế quốc huy động và
sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp : chính trị, tư tưởng, kinh
tế, ngoại giao, phá hoại ngầm, bạo loạn lật đổ, chiến tranh ngoại vi…
nhằm gây cản trở cho việc phát triển và mở rộng các nước xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, tạo ra nhêìu khó khăn trong đời sống kinh tế - xã hội
tinh thần ở các nước xã hội chủ nghĩa. Khi môi trường khách quan của
“DBHB” xuất hiện thì chuyển hướng chiến lược “Vượt trên ngăn chặn”
làm xụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc tiến công bằng các biện pháp mềm dẻo, thúc
đẩy ch đánh từ trong lòng của nước xã hội chủ nghĩa. Chú trọng vận

dụng các thủ đoạn phi quân sự, tổng hợp và đa dạng cả về chính trị, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, ngoại giao… trên cơ sở bí mật, êm thấm và xảo
quyệt.
9


Hiện nay, trong chiến lược “DBHB”, vũ khí lợi hại nhất và được
đặt lên hàng đầu trong suốt qúa trình thực hiện là vũ khí văn hoá - tư
tưởng. Thực chất, đó là kế sách phá vỡ thành luỹ chủ nghĩa xã hội từ bên
tỏng; là chiến lược “mối xông nhà”; là “thủ thuật làm nhụt ý chí dẫn đến
mất niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất sức mạnh, mất
nhuệ khí và nội lực của chủ nghĩa xã hội; tạo “Khoảng trống để đưa hệ
tư tưởng tư sản, dẫn đến mục tiêu cuối cùng là xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa.
Với thủ đoạn “mối xông nhà” để thực hiện ý đồ làm ruỗng nát cơ
cấu kinh tế chính trị , xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong,
cuộc chiến tranh văn hoá - tư tưởng được chủ nghĩa đế quốc phát động
lần này xoay quanh trò bịp “phi ý thức hệ”, coi như không có tư tưởng
phản nghịch, coi như không có đối kháng tư tưởng phản nghịch mà chỉ là
sự “đồng nguyên” hoặc “đa nguyên” tư tưởng… Trò bịp “phi ý thức hệ”,
“phi tư tưởng” thực chất hòng làm lu mờ bản chất giai cấp của hệ tư
tưởng mác xít, làm xoá nhoà ranh giới và lập lờ “đánh lộn con đen”, làm
cho nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa lơ là, mất cảnh giác, bị chia rẽ
và suy yếu từ bên tỏng. Cách làm của chúng là “mưa dầm thấm lâu”,
“nước chảy đá mòn”, kết hợp đẩy nhanh phá hoại với kiên trì chờ chuyển
hoá. Tất nhiên cũng không loại trừ rằng khi tình thế cho phép chủ nghĩa
đế quốc có thể lợi dụng tình hình phức tạp ở bên trong các nước để gây
sự cố và xâm lược bằng quân sự.
Tóm lại, từ những nội dung trên chúng ta rút ra một số đánh giá
sau:

Một là, chiến lược “DBHB” là con đẻ của quyết tâm tiêu diệt chủ
nghĩa xã hội, với tư cách là một hệ tư tưởng, ột con đường phát triển
của xã hội loài người. Chiến lược này ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa đế
quốc đánh giá cùng với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành
cải tổ, cải cách, cuộc đấu tranh lịch sử giữa hai hệ thống xã hội đối lập chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới đã chuyển
10


sang giai đoạn có ý nghĩa quyết định: “một mất một còn”. Vấn đề “Ai
thắng ai” theo đánh giá của các chiến lược gia của chủ nghĩa đế quốc đã
trở thành một vấn đề thời sự trực tiếp chứ không còn là triển vọng lịch
sử lâu dài.
Hai là, Thực chất của chiến lược “DBHB” căn cứ vào diễn biến
tình hình ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa và dựa vào các nhân tố chống đối
ở bên trong mỗi nước mà tác động và tấn công một cách thích hợp trên
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thực hiện một cuộc vận động phản cách
mạng nhằm đưa các qúa trình kinh tế - xã hội, chính trị đang diễn ra ở
mỗi nước chuyển sang con đường tư bản chủ nghĩa, đánh đổ Đảng Cộng
sản và công nhân, đưa các lực lượng phục hồi chủ nghĩa tư bản lên cầm
quyền.
Ba là, Chiến lược “DBHB” lấy mặt tấn công vào các nước xã hội
chủ nghĩa làm chính, đồng thời, tăng cường, bao vây, gây sức ép từ bên
ngoài.
Bốn là, trong chất lượng “DBHB”, mặt trận văn hoá - tư tưởng nổi
lên hàng đầu. “DBHB” trước tiên diễn biến về mặt tư tưởng trên các lĩnh
vực đời sống chính trị và kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, việc phòng và chống “DBHB” là một trong những vấn đề
cấp bách đối với chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung và Nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói rêing. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta
phải có một chiến lược tập trung chỉ đạo và phối hợp thống nhất các lực

lượng nhằm đánh bại âm mưu và hoạt động “DBHB” của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch. Đồng thời, việc nghiên cứu và xác lập
những luận cứ khoa học làm cơ sở cho đấu tranh chống “DBHB” cũng là
một yêu cầu hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ vấn đề trên, Đảng ta khẳng định rằng: “Bản chất của
chiến lược “DBHB” này là chống chủ nghĩa xã hội, chống độc lập dân
tộc. “DBHB” và đấu tranh chống “DBHB” thực chất là một cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc rất quyết liệt và gay gắt, giải quyết vấn
11


đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa độc lập
dân tộc và chủ nghĩa đế quốc [2 - 4].
Như vậy, mục đích của “DBHB” vẫn được thực hiện bằng việc
chống phá đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa các nước xã
hội chủ nghĩa tham gia vào bộ máy “thế giới tự do” tvc. Qúa trình thực
hiện v“DBHB” đối với các nước xã hội chủ nghĩa cho thấy mục tiêu này
đã được bọn đế quốc diều hâu kiên trì theo đuổi và rõ ràng trên thực tế
đã có những kết quả nhất định.
II. DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
1. Việt Nam đứng trước những thử thách mới:
Trong tình hình quốc tế đang diễn ra phứctạp như hiện nay thì tình
hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á cũng có nhiều
biến động mạnh mẽ. Ý thức độc lập, tự chủ, tự cường quốc gia và xu thế
thúc đẩy các mối quan hệ khu vực phát triển, bình thường hoá, đa dạng
hoá quan hệ ngày càng tăng trên cơ sở lấy lợi ích dân tộc, lợi ích kinh tế
làm cơ sở. Kết quản quan trọng của Hội nghị cấp cao các nước “Không
liên kết” họp ở Inđônêxia (9.1927) cũng như quan hệ giữa các nước
Đông Nam Á phát triển đã phản ánh rõ nét xu thế đó.
Bước vào cuỗi thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX sự khủng

hoảng toàn diện, sâu sắc dẫn đến sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội về mặt Nhà
nước ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho các nước đang phát triển mất đi
một chỗ dựa hùng hậu trên nhiều phương diện. Sau khi Liên Xô xụp đổ,
Mỹ ra sức lợi dụng LHQ can thiệp, xâm nhập vào nhiều nơi hòng lập nên
một trật tự thế giới mới do Mỹ thóng trị. Các nước lớn mâu thuẫn với
nhau nhưng cũng thoả hiệp để giành lợi ích chiến lược.
Tình hình Đông Nam á - Đông Dương, vì vậy vẫn tiếp tục diễn
biến phức tạp như vtrong vấn đề Campu chia, Đông Timo, vấn đề tranh
chấp biển Đông… Với vị trí tiền đồn quan trọng, Đông Nam á - Đông
Dương đã và đang là khu vực tranh chấp gay gắt giữa cách mạng và phản
12


cách mạng, giữa các nước lớn trong các vấn để: Biên giới, lãnh thổ, dân
tộc, tôn giáo…
Tổng thống Mỹ - Burh (28.9.1991) cho rằng: Hầu hết 45 năm qua,
trọng điểm số một của chúng ta là ngăn chặn ý thức hệ cộng sản - Đến
nay chúng ta mới đối phó với thử thách đó một cách thành công…
Nhưng Đông Nam á - Thái Bình Dương vẫn là xứ sở của những xã hội
phát triển mạnh mẽ nhất về kinh tế chính trị. Ở đây vẫn còn một số chế
độ cộng sản cuối cùng và những điểm nóng khu vực chiến lược như
Campuchia, Bắc Triều Tiên và lãnh thổ tranh chấp chưa được giải quyết.
Trong mọi trường hợp phức tạp này khi kỷ nguyên phiêu lưu của Liên
Xô giảm xuống Mỹ vẫn cần có lực lượng mới ở Việt Nam, Cămpuchia,
Bắc Triều Tiên.
Đến ngày 9.1.1992, Burh khẳng định tiếp : Lịch sử sẽ viết thời
điểm này là một trong những bước ngoặt quan trọng nhất tiến tới một
trật tự thế giới mới và chắc chắn là một bước ngoặt trên đường tiến tới
tự do dân chủ trên toàn thế giới; đó là một bước ngoặt trên đường tiến
tới tự do dân chủ trên toàn thế giới; đó là một việc lớn lao đối với nước

Mỹ… Chúng ta phải có sự quan tâm cốt tử với Châu Á - Thái Bình
Dương. Phải tăng cường hợp tác tổ chức kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương như là khuôn khổ thiết yếu trong khu vực. Phải khuyến khích
Trung Quốc theo chính sách cải cách và công khai trong cả lĩnh vực kinh
tế và chính trị để hoà nhập Trung Quốc vào cộng đồng quốc tế. Phải đảm
bảo thực hiện đầy đủ Hiệp định hoà bình Pari về Campuchia và ủng hộ
cải cách kinh tế chính trị nhằm thúc đẩy hoà bình và dân chủ ở Việt Nam
- Lào - Cămpuchia - Và Burh cho rằng : “Xu hướng cải cách dân chủ ở
Đông Âu vẫn chưa lan tới các xã hội Khổng tử - Lê nin ở Việt Nam, Bắc
Triều Tiên, Trung Quốc và phải tăng cường sức ép chính trị ở những
nước này.
Trung Quốc cho rằng, chuyến đi của Burh sang ChâuÁ - Thái Bình
Dương (1.1992) là để triển khai chiến lược chống phá và tìm mọi cách
13


cản trở việc bình thường háo quan hệ Việt - Trung, tìm cách tách Lào và
đặc biệt là Cămpuchia ra khỏi Việt Nam, biến Cămpuchia phụ thuộc ảnh
hưởng của Mỹ, thành lập mặt trận chĩa mũi nhọn vào Trung Quốc và
Việt Nam sau khi đã thành công trong công cuộc làm tan rã Liên Xô.
Trong bối cảnh đó của khu vực, từ những năm 80 Mỹ đã tích cực
tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt ở Việt Nam. Từ năm 1989, nhất
là khi Liên Xô và Đông Âu xụp đổ, thực hiện chiến lược “Toàn cầu”
vượt trên ngăn chặn”, chúng ngày càng thúc đẩy chiến lược “DBHB”
chống phá Việt Nam mà mũi nhọn là trên lĩnh vực văn hoá - tư tửơng.
Nich Sơn (12.1.1992) phát biểu : Giữa lúc chủ nghĩa cộng sản hất
ra hỏi cuối cùng tại đế quốc ác quỷ (chỉ Liên Xô), Phương tây lại hướng
đến những chính sách muốn nó sống ở Việt Nam. Đây là một diễn biến
đang khinh hoàng. Bình thường hoá quan hệ và giải toả cấm vận thương
mại của phương Tây đối với chính phủ cộng sản ở Hà Nội, là cung cấp

một hệ thống cứu chết đuối cho một chế độ đang xâm lược ở nước ngoài
và đàn áp tàn bạo ở trong nước… Một chế độ như chế độ ở Hà Nội
không đáng và không nên được công nhận là một thành viên có tư cách
tốt của cộng đồng quốc gia… Trong lúc chào mừng thất bại của ý thức
hệ cộng sản, chúng ta phải cam kết chấm dứt ách áp bức ở Hà Nội đối
với những người Việt Nam đã từng chiến đấu quả cảm với chúng ta”.
Như vậy, Mỹ cho rằng Liên Xô xụp đổ là “Hồi chuông báo tử
giành cho phong trào cộng sản quốc tế”và là “cú trời giáng đánh vào các
chính phủ cộng sản khác”. Do đó, phải tận dụng thời cơ chuyển trọng
điểm sang xoá bỏ các nước XHCN còn lại, tập trung ở châu Á “DBHB”.
Mỹ và các thế lực phản động cho rằng, thời cơ hành động đã chín muồi
vf “cộng sản đã hết thời ở Việt Nam. Cho nên chủ trương phát triển và
thống nhất lực lượng trong nước, chuẩn bị hành động. Chúng đánh giá
Việt Nam không khỏi có những chuyển biến to lớn. Bởi vậy, phải kích
động quần chúng với lá bà dân chủ đa nguyên, nhân quyền, chống tham
nhũng và phải tận dụng thời điểm bùng nổ do “lực lượng chính không ai
14


khác chính là những ngườicộng sản với nhau”. Chúng cho rằng, muốn
chuyển hoá chế độ trước hết thúc đẩy “chính những người cộng sản đặt
quyền lợi dân tộc lên trên”, lật đổ nhau từ tỏng nội bộ Đảng, vì không
một nước lớn nào trực tiếp lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam mà chỉ có
“cộng sản lật đổ cộng sản”, từ đó tập hợp lực lượng phản động trong tôn
giáo nguỵ quân, nguỵ quyền và “dân chủ cấp trên” chớp thời cơ giành
chính quyền.
Tóm lại, chiến lược “DBHB” đối với Việt Nam của Mỹ và các lực
lượng phản động là một chiến lược cực kỳ nguy hiểm. Vì vậy, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải vững vàng trong thế trận đấu tranh
trên mặt trận văn hoá - tư tưởng, làm vô hiệu hoá âm mưu và hoạt động

“DBHB” của chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam.
2. Các chiến lược “DBHB” chủ yếu được Mỹ và các thế lực thù
địch sử dụng chống Việt Nam.
Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, từ giữa
những năm 80 của thế kỷ XX, Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại nhiều
mặt chống phá Việt Nam. Ngày 23.9.1992, Thượng nghị Viện Mỹ đã
thông qua dự luật số 954 để thực hiện “DBHB” chống Việt Nam, trong
đó nhấn mạnh các vấn đề : “yêu cầu cải cách dân chủ”, đòi Việt Nam “tự
do hoá chính trị”; “tôn trọng quyền con người”; “xây dựng một chính
phủ dân chủ ở Việt Nam theo quan điểm của Mỹ: Thông qua dự luật này
Mỹ không chỉ thể hiện quan điểm bảo vệ quyền lợi của giai cấp t ư sản
cầm quyền Mỹ, mà còn xác định Việt Nam là mục tiêu tác động của
chính quyền Mỹ về “Nhân quyền”, “Tự do dân chủ” và phát triển kinh tế
thị trường tự do tư bản chủ nghĩa làm cơ sở để Mỹ tiến công Việt Nam
trong “DBHB”.
Ngày 12.7.1995, trong diễn văn tuyên bố bình thường hoá quan hệ
đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ B.Clintơn đã công khai chủ trương và
ý định của Mỹ là “bình thường hoá quan hệ để nhằm thúc đẩy “sự nghiệp
tự do ở Việt Nam” như đã từng diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
15


“Cuốn Việt Nam vào cải cách kinh tế, cải cách dân chủ là biện pháp
chính để thúc đẩy tự do ở Việt Nam theo quan điểm phương Tây. Với
tinh thần đó, Mỹ đã nêu ra 3 bộ phận chiến lược quan trọng để đẩy mạnh
hoạt động “DBHB” chống Việt Nam là:
Thứ nhất, chiến lược chi phối đầu tư, thực hiện “DBHB” bằng con
đường kinh tế.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện đổi mới về kinh tế, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý và điều

tiết của Nhà nước, rất cần vốn, tri thức và công nghệ, Mỹ hiểu rất rõ
điều đó và đề ra chủ trương điều phối tư bản của các nước vào thị trường
Việt Nam bằng 3 đợt sóng: Đầu tiên là Đài Loan, Hồng Công và các
nước Asian ; Thứ hai, là Hàn Quốc và các nước phương Tây; giai đoạn
ba là các công ty Mỹ và các tập đoàn tư bản đa quốc gia, các tổ chức
kinh tế tài chính quốc tế do Mỹ chi phối.
chiến lược chi phối đầu tư với mục tiêu sâu xa là : Vực dậy nên
kinh tế tư nhân, tạo ra những yếu tố có lợi về kinh tế cho phát triển tư
bản chủ nghĩa. Thông qua đõ, Mỹ tìm cách nắm, hướng thành phần kinh
tế tư nhân vào quỹ đạo của mình, lấn át kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể, xoá bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có những công ty Mỹ núp
dưới danh nghĩa các nước khác vào Việt Nam, đến nay ra hoạt động
công khai bằng cách mua lại cổ phần trong các công ty đó. Đối với
những công ty của các tập đoàn tư bản lớn của các nước, Mỹ đang tiến
hành đàm phán, mua lại các cổ phần sao cho trong các liên doanh lớn và
quan trọng Mỹ chiếm được số đa.
Đồng thời, chủ nghĩa tư bản triệt để viẹc ta mở rộng giao lưu quốc
tế và nhu cầu thu hút vốn đầu tư (kể cả hình thức viện trợ phi chính phủ,
từ thiện, nhân đạo) để gây sức ép đòi ta chấp nhận đa nguyên chính trị,
để cho Đảng phái hoạt động công khai, khuyến khích phát triển nền kinh
tế thị trường tự do theo hướng tư nhân hoá, để hình thành và phát triển
giai cấp tư sản ở Việt Nam, thu hẹp kinh tế quốc doanh, làm suy yếu cơ
16


sở vật chất của chế độ mới. Chính quyền một số nước đang gia tăng chỉ
đạo và tài trợ các tổ chức phi chính phủ vào Việt Nam tổ chức các lớp
học, các cuộc hội thảo; ký các chương trình giáo dục - đào tạo với các
trường Đại học, hình thành các trung tâm nghiên cứu ở Việt Nam. Nhiều
tổ chức phi chính phủ lâu nay mang danh nghĩa “nhân đạo” nay thấy rõ

họ được Quốc hội, Chính phủ của họ tài trợ; thông qua các cá nhân với
những thành phần khác nhau, có địa vị hợp pháp để thực hiện các
chương trình thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày càng tự do, chuyển
hoá chính trị ngày càng dân chủ hơn, văn hoá độc hại ngày càng có chỗ
đứng trong lòng xã hội Việt Nam. Ý đồ của họ là thông qua lĩnh vực
kinh tế và pháp luật để từng bước làm biến dạng, chuyển hoá chế độ
chính trị ở nước ta.
Ngoài việc chi phối, đầu tư trên lĩnh vực kinh tế, Mỹ và các thế lực
thù địch với Việt Nam luôn tìm cách mua huộc, lôi kéo cán bộ làm công
tác quản lý kinh tế, nhất là cán bộ cấp cao của các ngành kinh tế mũi
nhọn, hối lộ cán bộ thoái hoá, biến chất. Thủ đoạn này tạo cho chúng
vừa có khả năng thâm nhập sâu vào nền kinh tế nước ta, vừa cài cắm
những phần từ thân Mỹ và phương Tây trong bộ máy quản lý kinh tế ở
nước ta.
Như vậy, mục tiêu chiến lược chi phối đầu tư, thực hiện “DBHB”
trên lĩnh vực kinh tế của Mỹ và các thế lực phản động là nhằm gây ra sự
chệch hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, dần dần thực hiện
sự chuyển hoá từ kinh tế sang chính trị, làm xụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, chiến lược ngoại giao thân thiện.
Cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam trước đây
đã gây nên biết bao tội ác với nhân dân Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu
“ngoại giao thân thiện” trong qúa trình thực hiện “DBHB” là nhằm xoá
đi hình ảnh nước Mỹ xấu xa, tàn bạo và gây dựng một hình ảnh mới của
nước Mỹ: Mỹ là bạn của Việt Nam, và sẽ giúp Việt Nam xây dựng, phát
17


triển kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam đến “ấm nó”, “tự do”, “hạnh phúc”;
rằng sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ); Trung Quốc các nước xã hội chủ

nghĩa trước đây, cũng như các nước tư bản khác ngày nay không thể so
sánh được với sự giúp đỡ của Mỹ. Chiến lược này nhằm thúc đẩy tự do
theo kiểu Mỹ ở Việt Nam, lôi kéo Việt Nam về phía Mỹ.
Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm lịch sử và tinh thần cảnh giác, chúng
ta thấy rằng việc viện trợ của Mỹ cho Việt Nam không đáng là bao so
với những lời hào phóng của họ, thậm chí còn chưa bằng một số nước
khác. Hơn nữa các viện trợ đó của Mỹ thường gắn với những điều kiện
chính trị ngang ngược, cũng như trong chiêu bài nhân đạo, chúng ta sẵn
sàng hợp tác với Mỹ trong vấn đề POW/MIA. song, ngược lại Mỹ lại
thiếu thiện chí trong vấn đề giải quyết nạn nhân chất độc màu da cam ở
Việt Nam do Mỹ gây ra…
Vì thế, chiến lược “ngoại giao thân thiện” của Mỹ chỉ là một chiêu
bài đánh vào lòng người dân Việt Nam mà thôi.
Thứ ba, chiến lược khoét ssau mâu thuẫn nội bộ, thực hiện “nội
công ngoại kích” cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm nòng
cốt để chuyển hoá Đảng, Mỹ tập trung lôi kéo đảng viên phụ trách kinh
tế, kích động nói xấu cán bộ chính trị gây ra sự phân hoá, đối lập giữa
“nhóm cán bộ kinh tế” và “nhóm cán bộ chính trị”, cố gắng làm phân
hoá xã hội bằng tham nhũng, buôn lậu, tạo ra sự phân cực sâu sắc trong
các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Mỹ tiến hành lôi kéo đội ngũ trí thức là
tầng lớp trẻ và những người dễ dao động để “Nuôi dưỡng hạt nhân”,
“Gieo mầm dân chủ”, “Tạo dựng ngọn cờ”, từ đó tạo thành phong trào
chống đối Đảng và chế độ. Lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây
áp lực dối với chính quyền.
Mỹ rất chú ý khai thác các khía cạnh tiêu cực vè kinh tế - văn hoá,
xã hội ở Việt Nam để chống lại Đảng và Nhà nước ta. Tìm mọi cách thổi
phòng và kích động những mâu thuẫn giữa Việt Nam với các nước, nhất
là Trung Quốc, Campuchia và Lào đẻ gây chia rẽ. Chẳng hạn, khi ta và
18



Trung Quốc ký hiệp định phân định biên giới trên bộ theo đúng các
nguyên tắc và thông lệ quốc tế, Mỹ và các thế lực thù địch với Việt Nam
tung tin rằng, chúng ta quá nhượng bộ Trung Quốc trong vấn đề lãnh
thổ; gây nghi ngờ trong nhân dân ta và chia rẽ mối quan hệ hữu nghị
Việt Nam - Trung Quốc.
Mỹ cho rằng, nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại. Xuất
phát từ mục đích đó, Mỹ đã không từ bỏ bất kỳ cơ hội thuận lợi nào, từ
lợi dụng bối cảnh quốc tế mới có lợi cho Mỹ và những khó khăn tạm thời
của Việt Nam, sử dụng tối đa ưu thế của phương Tây với hai mũi nhọn :
văn hoá - tư tưởng và kinh tế. Kết hợp với bạo loạn lật đổ ở các địa bàn
trọng điểm (VD như ở Tây Nguyên).
Trong thực hiện “DBHB” ở Việt Nam, Mỹ và các thế lực thù địch
đã và đang ra sức thao túng, lợi dụng các tổ chức quốc tế, nuôi dưỡng
các lực lượng phản động, chỉ đạo các hoạt động phá hoại từ bên ngoài
vào nước ta, tìm mọi cách đưa các phần tử thân Mỹ vào các cơ quan kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội để phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, lũng đoạn chính sách của Nhà nước ta, nhằm tiến tới xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ở nước ta hiện nay, tình hình lộ bí mật Nhà nước, bí mật nội bộ
xảy ra ở nhiều nơi gây tác hại nghiêm trọng. Kẻ địch đã lợi dụng các
hoạt động hội thảo, tập huấn, trao đổi… để khai thác bí mật quốc gia.
Một số cán bộ ta đã cung cấp tài liệu cho nước ngoài. Có tổ chức nước
ngoài đã nắm bắt được hơn 800 bộ hồ sơ cán bộ khoa học kỹ thuật của
nước t.
Tình hình trên là do địch tăng cường hoạt động, đồng thời do ta sơ
hở yếu kém, nhất là khâu quản lý đoàn ra, đoàn vào. Nhiều cán bộ Đảng
viên vi phạm qui định của Nhà nước về qui chế làm việc trong các cơ
quan văn phòng đại diện nước ngoài (ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí

Minh, thao thống kê có hàng trăm trường hợp nhận làm việc trong các
19


văn phòng đại diện mà không xin phép). Một số do hám lợi về vật chất,
muốn được học bổng của nước ngoài… nên tự ý quan hệ với nước ngoài,
vi phạm nguyên tắc Đảng và qui định Nhà nước.
Sự cấu kết giữa các loại phản động trong và ngoài nước mang tính
qui luật, phức tạp, nguy hiểm; vừa hoạt động gián điệp, tình báo, vừa
hoạt động phá hoại gây rối, gây bạo loạn, tạo thời cơ lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa của nước ta.
3. Mục tiêu chiến lược “DBHB” của Mỹ và các thế lực thù địch
chống phá Việt Nam trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.
Trong cuộc chính sách xâm lược Việt Nam, Mỹ ngày càng sa lầy
nghiêm trọng. Đặc biệt, sau cuộc tấn công nổi dậy của quân dân miền
Nam tết Mậu Thân (1968), Mỹ nhận thấy thất bại là không thể tránh
khỏi. Vì thế, các chiến lược gia của Mỹ đã nhanh chóng vạch ra “kế
hoạch hậu chiến” chuẩn bị cho cuộc rút quân viễn chinh ra khỏi miền
Nam Việt Nam. Quả nhiên, tháng Giêng năm 1973, Mỹ buộc phải ký
Hiệp định Pari rút quân ra khỏi miền Nam nước ta. Chúng cũng dự kiến
sau thất bại trực tiếp của Mỹ trong hoạt động can thiệp bằng quân sự,
chính quyền Sài Gòn do Mỹ nâng đỡ, bảo trợ cũng sẽ bị lật đổ. Do vậy
cùng một lúc Mỹ vừa chỉ đạo chính quyền Sài Gòn phá bỏ Hiệp định
Pari, vừa ráo riết hoàn tất kế haọch “hậu chiến” - Đó chính là kế hoạch
mở đầu thực hiện “DBHB” ở Việt Nam.
Thất bại về mặt quân sự ở Việt Nam là một sự cay đắng, một “cú
sốc”, một nỗi nhục rất lớn đối với Mỹ. Qua đó chúng hiểu rằng muốn
đánh bại Việt Nam thì phải đánh từ bên trong, và điều cốt yếu là dùng
những người cộng sản lật đổ chế độ cộng sản”. Với mưu đồ xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, “chuyển hoá” Việt Nam theo quỹ đạo của chủ

nghĩa tư bản , và tăng cường vai trò thóng trị của Mỹ tại Đông Dương…
chúng chủ trương phá hoại chúng ta về văn hoá - tư tưởng gây biến động
về chính trị. Tất cả các biện pháp đều được đem ra thi thố; nào là cấm
vận kỹ thuật cao, kích động tư nhân hoá, tung tiền giả, buôn lậu, làm
20


chảy máu vàng, đô la…; nào là kích động nổi dậy đòi ruộng đất, cải
thiện đời sống… gây đột biến kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó chúng truyền
bá văn hoá, lối songs đồi truỵ độc hại, sa đoạ; kích động đòi hưởng thụ,
mức sinh hoạt cao quá khả năng kinh tế cho phép. Chúng đẩy mạnh
chiến tranh gián điệp, các hoạt động tình báo của CIA. Sử dụng sức
mạnh quân sự để răn đe, xây dựng các tổ chức phản động lưu vong
chống phá cách mạng. Chúng tập hợp, đỡ đầu, cổ vũ các tổ chức, những
hoạt động của người Việt Nam ở nước ngoài chống phá ta dưới nhiều
hình thức.
Mỹ tiêu diệt để lợi dụng và cấu kết với các thế lực phản động tiến
hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt như đã nêu trên nhằm đánh vào
“dạ dày” và “cầu não”, làm suy yếu ta, từ đó chúng dễ bề thôn tính khắc
phục. Đặc biệt, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu xụp
đổ, đế quốc Mỹ cùng các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam không thể
tránh khỏi những biến động, chuyển hướng nên đã nôn nóng đẩy mạnh
các hoạt động chống phá từ nhiều phía và tập hợp lực lượng phản động
trong nước chuẩn bị nổi dậy và lật đổ.
Để nhận diện rõ nét mục tiêu chiến lược “DBHB” của thế lực thù
địch đối với nước ta hiện nay, có thể khái quát thành ba mục tiêu như
sau :
Một là, Mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
Hai là, Mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa xã hội - mục tiêu, lý tưởng của

Đảng và dân tộc ta.
Ba là, Mưu toan xoá bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam.
Ba mục tiêu trên mà các thế lực thù địch nhằm vào là ba vấn đề cốt
tử của cách mạng nước ta và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bất
cứ yếu tố nào trong ba yếu tố đó bị đánh sập đều làm rung chuyển và kéo
theo sự sụp đổ của các yếu tố kèm theo.
21


* Mục tiêu của chiên lược “DBHB” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh .
Chủ nghĩa Mác, từ khi ra đời năm 1848, đã hơn 150 năm nay luôn
luôn là mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch. Chủ nghĩa Mác vừa ra
đời người ta đã hô hào hãy xua tan ngay các “bóng ma” đang ám ảnh
Châu Âu lúc bấy giờ. Nhưng rồi hơn 150 năm trôi đi, “bóng ma” ấy
không những bị xua tan mà ngày càng thấm sâu vào hàng trăm triệu trái
tim, khối óc những người lao khổ trên thế giới vf nó thực sự là vũ khi tư
tưởng lợi hại, là kim chỉ nam cho hành động của giai cấp công nhân,
nhân dân các dân tộc bị áp bức đưng lên tự giải phóng mình. Chính vì lẽ
đó mà chủ nghĩa đế quốc coi chủ nghĩa Mác là mục tiêu tấn công, là đối
tượng số một của các chiến lược phản động của chúng, trong đó có chiến
lược “DBHB”. Xoá bỏ chủ nghĩa Mác là xoá bỏ thế giới quan, phương
pháp luận khoa học và cách mạng của chúng ta.
Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, văn hoá… chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch mới nổi với các thế lực phản động, các phần tử cơ
hội chĩa mũi nhọn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác - Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tuyên truyền luận điệu cho
rằng : chủ nghĩa Mác- Lênin là “chủ nghĩa lý tưởng” kiểu không tưởng,
là sự “suy ngẫm trong phòng đọc viện báo tàng Anh quốc”.
Theo quan điểm của giai cấp tư sản, chủ nghĩa xã hội là “sai lầm

của lịch sử”, là sự đi ngược lại qui luật khách quan của sự phát triển lịch
sử. Khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, họ cho
rằng : chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chứng minh - Lênin đã mất sức hấp
dẫn toàn cầu của nó. Brêdinxki, tác giả cuốn sách “Thất bại lớn - sự
hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX cho rằng, chủ nghĩa Mác
không phải là sản phẩm có tính tất yếu và tính kho học của qúa trình
phản ánh hiện thực khách quan, mà chỉ là ý tưởng chủ quan áp đặt, vi
phạm những qui luật lịch sử, rằng đó là do “một phần tử di dân nước
Đức ở dòng máu do Thái suy ngẫm ra trong phòng đọc sách” của Viện
22


bảo tàng nước Anh, mọi tư tưởng cơ bản về tư biện Tây Âu, cấy ghép
vào một đế quốc Âu - Á xa xôi mang truyền thống chuyên chế phương
Đông, sau đó do một nhà cách mạng nước Nga, chỉ biết ghi chép sổ sách
đóng vai trò là nhà phẫu thuật ngoại khoa của lịch sử dựng nên, kết quả
tất yêu sẽ dẫn tới sự hoang đường”.
Theo chúng, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã lỗi thời, không còn thích
hợp với thời đại ngày nay. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam do bế tắc về
lý luận mới nêu ra tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ thực tế làm gì có tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Chỉ một lập luận thâm hiểm như vậy, chúng nhằm vào ba đích: phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận
nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng dễ bề lừa gạt, lôi kéo những người
mơ hồ, nhẹ dạ cả tin, bất mãn theo chúgn chống lại Đảng ta. Từ phạm vi
một bộ phận người, chúng hi vọng dần dần xoá bỏ ý thức hệ, nền tảng tư
tưởng của toàn xã hội, hòng tước bỏ vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc
đấu tranh cách mạng của Đảng ta.
Để thực hiện mục tiêu bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng đánh
vào những nguyên lý cụ thể của chủ nghĩa Mác. Chúng phủ nhận học

thuyết giá trị thặng dư của Mác và cho rằng, trong lao động xã hội hiện
đại, người công nhân không còn bị bóc lột giá trị thặng dư, không bị bóc
lột lao động sống như thời kỳ lao động thủ công cơ bắp trước đây.
Chúng phủ nhận chủ nghĩa duy vật về lịch sử, phủ nhận lý luận về các
hình thái kinh tế - xã hội. Chúng cho rằng, lịch sử xã hội loài người là
lịch sử phát triển qua các nền văn minh - chứ không phải qua 5 hình thái
kinh tế - xã hội như Mác nêu ra. Chúng phủ nhận lý luận giai cấp và đấu
tranh giai cấp, phủ nhận lý luận về cách mạng xã hội, phủ nhận quy luật
phát triển của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản . Từ việc phủ nhận
những nguyên lý cụ thể như vậy, chiến lược “DBHB” đi đến phủ nhận
toàn bộ lý luận của chủ nghĩa Mác. Theo chúng sự sụp đổ của Liên xô là
xụp đổ từ gốc, xụp đổ từ lý luận về chủ nghĩa xã hội, vì vậy chúng coi
23


việc làm chuyển hoá quan điểm tư tưởng trên phương diện lý luận, nhằm
xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là mũi
nhọn để chúng xâm nhập vào tận sâu lòng Đảng và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Chúng chủ trương “phá vỡ thế đồng nhất một khối của
Đảng Cộng sản Việt Nam”, “phải làm cho được việc phân tán chế độ
cộng sản Việt Nam thành nhiều trào lưu đối kháng nhau và kéo theo một
số phần tử đối kháng tiến bộ về phía ta”.
Đi đối với việc đưa ra những luận điểm chống chủ nghĩa Mác Lênin, cho đó là một giáo lí phi khoa học ; chúng công kích thực tiễn xã
hội chủ nghĩa là “trăm năm hoài phí”, là một “bi kịch lịch sử” hoàn toàn
không có ý nghĩa”. Nich Sơn đã cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã không còn
là “lực lượng hùng mạnh” khếin cho người ta sợ hãi như trước nữa, rằng
chủ nghĩa xã hội sẽ bị biến mất trên hành tinh này vào năm 2000 và cũng
có nghĩa là đến năm 1999 không cần đánh mà chủ nghĩa đế quốc vẫn
chiến thắng. Chúng tách những luận điểm của Lênin ra khỏi những luận
điểm của Mác và cho rằng chủ nghĩa Lê nin là “sai lầm lớn nhất” là

nguồn gốc mọi sai lầm của Liên Xô. Theo chúng, Việt Nam đưa “giáo lý
phương Tây” vào một nước gọi là nông dân chưa thoát khỏi mù chữ” là
điều ngộ nhận, là một thứ xa xỉ tất yếu sẽ dẫn đến cảnh “nồi da nấu thịt”.
Chúng hạ thần tượng Bác Hồ, xuyên tạc đời tư, phủ nhận một số tác
phẩm, luận điểm và phong cách của Bác. Chúng nhận định rằng, muốn
xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trước hết phải xoá bỏ thần tượng
Bác Hồ. Chúng tung ra luận điệu, chủ nghĩa Mác và Bác Hồ chỉ còn tồn
tại về một hình thức, theo chúng thực chất “chủ nghĩa cộng sản đã chết
và chết hẳn ở Việt Nam”. Từ đó, chúng đưa ra quan điểm về con đường
thứ ba : con đường trí tuệ do sinh viên, trí thức đảm nhận trước lịch sử.
* Mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau khi làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu thì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đối tượng cần xoá bỏ. Đây cũng
là nhu cầu “thiết lập trật tự thế giới mới: của Mỹ. Các giới cầm quyền
24


cực hữu của Mỹ đã từng hạ quyết tâm xoá bỏ các nưcớ xã hội chủ nghĩa
còn lại trong vài năm, sau khi Liên Xô và các nưcớ xã hội chủ nghĩa
Đông Âu không còn tồn tại.
Brêdinxki thì luôn mồm nói răng: “học thuyết cộng sản chủ nghĩa
đã lỗi thời” và “đến thế kỷ sau, chủ nghĩa cộng sản sẽ suy vong một cách
không thể đảo ngược trong lịch sử”. Theo ông ta, đến năm 2017, trong
dịp kỉ niệm 100 năm cách mạng tháng 10 Nga cách mạng của Bôn sê
vích thì trên quảng trường Đỏ trước kia sẽ thành quảng trường tự do, và
xung quanh lăng Lênin sẽ là xây dựng thành cửa ra vào một bãi đỗ xe
ngầm dưới đất, làm chỗ kinh doanh cho dịch vụ du lịch. Những khách du
lịch sẽ đến xem cuộc triển lãm “một trăm năm hoài phí - năm mươi triệu
oan hồn” được tổ chức trong điện Kremli, và cuộc triển lãm này sẽ mở
cửa vĩnh viễn.

Nic Sơn còn thả trí tưởng tưởng ra viễn cảnh, trong chương 10
cuốn “1999 chiến thắng không cần chiến tranh” rằng người Mỹ “sẽ cầm
chắc cái gậy chỉ huy, lãnh tụ thế giới” và đó là chịu trách nhiệm tương
lai của nước Mỹ.
Đối với Việt Nam, chúng chủ trương làm thay đổi “định hướng”
lãnh đạo, từng bước xây dựng vị trí và thế lực ho các lực lượng chung
lựa chọn để diễn biến êm ả, không ây nên những phản ứng ồn áo, chúng
dung sự tác động đó hòng tạo ra trong nội bộ Đảng, Nhà nưcớ ta những
phe nhóm màu sắc khác nhau, lấy danh nghĩa “dân chủ bàn bạc trên
đường lối đổi mới” mà đề xướng những chủ trương xa lạ với bản chất xã
hội chủ nghĩa, làm suy yếu địa vị lãnh đạo của Đảng, vai trò, tác dụng
của nguyên tắc tập trung dân chủ, làm suy yếu hệ thống chính trị; thực
hiện phi chính trị hoá lực lượng quân đội, các cơ quan quyền lực bảo vệ
chế độ ta.
Mục tiêu của diễn biến hoà bình là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa,
thủ tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Biết chắc ở Việt Nam hiện nay
không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chúng tập trung
25


×