Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận Truyền thông và xã hội Kiến tạo xã hội về giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.4 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ – TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG & QUẢNG CÁO
---   ---

TIỂU LUẬN
TRUYỀN THÔNG & XÃ HỘI

KIẾN TẠO XÃ HỘI VỀ GIỚI

Họ tên học viên : Nguyễn Thị Minh Trang
Lớp: Quản trị truyền thông K21.2

Hà Nội, tháng
6/2016

A. Đặt vấn đề
1


Xa xưa trong lịch sử, mỗi giống người đều có thời kỳ dài sống trong chế độ
mẫu hệ, con cái thuộc về mẹ và theo họ mẹ. Sau đó, do nhu cầu hình thành đơn vị
gia đình nhỏ và do phải đi kiếm ăn xa, người đàn ông dần chiếm ưu thế và chế độ
phụ hệ hình thành. Qua bao thế kỷ, xã hội thay đổi và mỗi con người cũng thay đổi
theo.
Qua các giai đoạn lịch sử, do sự thay đổi về hoàn cảnh chính trị, kinh tế nên
vai trò của giới nam và giới nữ trong gia đình và xã hội cũng thay đổi. Do đó, quan
niệm về tính cách, quy tắc xử thế của mỗi giới cũng biến đổi không ngừng.
Cùng với quá trình giao lưu và hội nhập, vào đầu những năm 90 của thế kỷ
XX, bằng nhiều con đường khác nhau, quan điểm giới được nhanh chóng du nhập
và truyền bá vào Việt Nam. Sự xuất hiện cách tiếp cận giới chính là bước đột phá
quyết định sự phát triển mạnh mẽ và ấn tượng của khoa học nghiên cứu về phụ nữ


và cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng quan niệm, thái độ, hành vi của xã hội
và thực tiễn tạo lập bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của xã hội Việt Nam thời kỳ
đổi mới.
Quan điểm giới mới được du nhập vào Việt Nam nhưng đã có tác động
mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự du nhập và truyền bá quan
điểm giới đã trải qua ba giai đoạn với những xu hướng và đặc trưng khác nhau. Để
nâng cao tác động của quan điểm giới thiết thực góp phần tạo lập sự bình đẳng
giới, giải phóng phụ nữ trong đời sống xã hội, cần thực hiện một loạt giải pháp vừa
tổng thể vừa cụ thể. Bên cạnh đó vai trò quan trọng của các phương tiện truyền
thông là không thể thiếu, thậm chí đây cũng là phương tiện quan trọng nhất nhằm
tiếp cận mọi lứa tuổi nhận thức về giới.
Nghiên cứu về Giới và truyền thông cũng là vấn đề nóng bỏng hiện nay.
2


A.
I.

Giải quyết vấn đề
LÝ THUYẾT KIẾN TẠO TRUYỀN THÔNG VỀ GIỚI
1. Khái niệm truyền thông

Truyền thông là một quá trình mà hai hay nhiều người trao đổi thông tin và
hiểu được ý nghĩa của thông tin. Cần phải nhấn mạnh đến việc hiểu ý nghĩa của
thông tin. Ví dụ, khi một người nói tiếng Anh và những người khác không hiểu thì
không được coi là truyền thông. Truyền thông hoàn hảo diễn ra khi người nhận
thông tin sẽ có những suy nghĩ hay ý kiến trong đầu đúng với những điều mà
người gửi thông tin muốn nói. Ví dụ, khi ông chủ nói với bạn "tôi sẽ làm việc đến
10 giờ tối nay, tôi cũng cần cậu ở lại trễ" thì điều mà ông ta muốn nói với bạn là
bạn phải ở lại trễ vì ông quyết định kết thúc công việc này trong ngày hôm nay.

Truyền thông là quá trình trao đổi thông tin, tương tác thông tin với nhau
giữa hai hoặc nhiều người với nhau tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận
thức. Truyền thông là sản phẩm của xã hội con người, là yếu tố động lực kích thích
sự phát triển của xã hội.
Truyền thông theo định nghĩa hẹp là “sự trao đổi tin tức hoặc thông báo”, còn
nghĩa rộng, theo UNESCO là hoạt động của cá nhân hoặc tập thể bao gồm toàn bộ
những chuyển giao và trao đổi ý niệm, sự việc, dữ kiện.
Được thông tin là 1 trong những quyền cơ bản của con người, được pháp
luật bảo vệ. Truyền thông đại chúng (còn gọi là báo chí) có vai trò quan trọng và
không thể thay thế trong việc đáp ứng quyền cơ bản đó và thông tin cũng được
xem là chức năng cơ bản của báo chí. Thật vậy truyền thông đại chúng ra đời là
nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của công chúng và sự phát triển mạnh mẽ
của báo chí cũng dựa trên nền tảng là sự gia tăng nhu cầu thông tin trong xã hội.
3


2. Bản chất kiến tạo của truyền thông với xã hội

Truyền thông là hiện tượng xã hội phổ biến, ra đời, phát triển, cùng với sự
phát triển của loài người. Nó là sản phẩm của xã hội là người, là yếu tố động lực
kích thích sự phát triển của xã hội loài người; đồng thời là tiêu chí đáng giá sự phát
triển, chỉ bảo thể hiện diện mạo văn hóa của con người, cộng đồng người và mỗi
quốc gia. Như vậy truyền thông tác động và liên quan đến mọi cá thể xã hội.
Quá trình phát triển của xã hội loài người cũng là quá trình tìm kiếm, sáng
tạo ra những công cụ, hình thức, phương thức, nhất là phương tiện kỹ thuật và
phương tiện truyền thông.
“Bản chất của truyền thông là dòng chảy. Thông tin cần phải được truyền tải
liên tục. Với tư cách dòng chảy, truyền thông là sự mở rộng biên độ không ngừng,
không có ranh giới. Trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta trước
tiên phải thừa nhận sự đa dạng, đa chiều của các dòng chảy và phải đặt câu hỏi làm

sao để thích ứng một cách linh hoạt và chủ động với một thực tiễn luôn biến động.
Hai xu hướng quan trọng, đối lập, nhưng không tách rời của truyền thông
trong xã hội mạng lưới hiện nay, đó là (1) dòng chảy của toàn cầu hóa và (2) đấu
tranh để có được sự nhận diện bản sắc và căn tính riêng trên bản đồ thế giới.”
(TS. Đỗ Anh Đức Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn)

3. Vai trò của truyền thông về giới

4


Có thể khẳng định : nhà báo và các cơ quan báo chí có vai trò to lớn và
trách nhiệm quan trọng trong việc thực hiện công tác truyền thông nói chung và
truyền thông về giới nói riêng . Tuy nhiên thời gian qua, cùng với vấn đề giới ngày
càng được quan tâm hơn, trên nhiều diễn đàn đã đề cập đến sự thiếu nhạy cảm của
báo chí đối với vấn đề này. Mặc dù truyền thông đã và đang tham gia tuyên truyền
và cố gắng làm giảm định kiến về giới, nhưng cũng có khá nhiều trường hợp - vì
PV không hiểu bản chất của Bình đẳng giới, thiếu sự nhạy cảm trong vấn đề này
nên vô tình tham gia vào việc thúc đẩy định kiến.
Nhiều người trong giới truyền thông sẽ ngạc nhiên vì những điều tưởng
như rất thi thiện chí của họ đôi khi lại gây ra tác dụng ngược: thay vì làm giảm đi
định kiến về giới thì lai thúc đẩy định kiến! có thể thấy là sự bất bình đẳng giới
đã ăn sâu ttrong cộng đồng đến đến mức các nhà báo cũng góp tay cổ vũ cho tư
tưởng ‘trọng nam khinh nữ
Có thể khẳng định: trách nhiệm làm công tác truyền thông nói chung và truyền
thông về giới nói riêng là của nhà báo và các cơ quan báo chí, tuy nhiên Vài nét
chấm phá về sự thiếu nhạy cảm về vấn đề bình đẳng giới trong sản phẩm báo
chí,sự lúng túng trong các chuẩn mực giới của truyền thông cũng cho thấy chúng
ta đang ở trong giai đoạn giao thời và những chuẩn mực mới - cũ, trong đó có

chuẩn mực về giới tính đang giằng co, lẫn lộn, và không ít những vấn đề về quyền
con người của phụ nữ vẫn còn hết sức lạ lẫm. Chính trong giai đoạn này, vai trò
của truyền thông càng phải mang tính định hướng, dẫn đường. Người làm truyền
thông càng phải xác định quan điểm về bình đẳng giới một cách rõ ràng mạnh mẽ,
chứ không phải chỉ là tiếng vọng của những chuẩn mực đã dần lỗi thời,ngày càng
không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

II. BẢN CHẤT KIẾN TẠO CỦA TRUYỀN THÔNG ĐỐI VỚI XÃ HỘI VỀ
5


GIỚI
1. Giới – giới tính và sinh học
Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ
Giới tính là một tập hợp những đặc điểm riêng biệt, tạo nên sự khác nhau giữa
nam và nữ, Ví dụ: đàn ông: to khoẻ, bộc trực, cứng rắn; phụ nữ: nhỏ yếu, kín đáo,
dịu dàng.
Giới tính bao gồm cả những trải nghiệm, là các hoạt động, quan hệ, sở thích
riêng, là làm thế nào để ta chính là ta và cơ thể của ta.
Giới tính hình thành từ 2 nguồn gốc. Sinh học: nam và nhiễm sắc thể XY,
nữ là XX. Nhiễm sắc thế quy định tình trạng nam nữ là Y và X . Cấu tạo cơ thể,
nội tiết, tâm sinh lý là bắt nguồn từ đó. Nguồn gốc thứ hai là từ xã hội: Tình cảm, ý
thức nó hình thành qua giao tiếp dưới ảnh hưởng của giáo dục xã hội. Có người
đàn ông nhưng tính đàn bà và ngược lại. Mỗi xã hội có sự phân công lao động
riêng, có quan niệm về giới tính theo những chuẩn mực đạo đức và văn hoá nhất
định.
Như vậy giới tính là hành vi, tâm lý, đạo đức theo kiểu nam hoặc nữ, chịu
ảnh hưởng của xã hội hay một nền văn hoá nào đó, vì vậy nó thay đổi theo thời đại
Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan
hệ xã hội.

Những khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ là không thể thay đổi
được. Những đặc điểm có thể hoán đổi cho nhau giữa nam và nữ được coi là thuộc
về khía cạnh Giới. Ví dụ: Phụ nữ cũng có thể mạnh mẽ và quyết đoán. Phụ nữ có
thể trở thành lãnh đạo, phi công, thợ máy/kỹ sư… Ngược lại nam giới có thể dịu
dàng và kiên nhẫn, có thể làm đầu bếp, nhân viên đánh máy, thư ký… Những đặc

6


điểm có thể hoán đổi đó là những khái niệm, nếp nghĩ và tiêu chuẩn mang tính chất
xã hội. Đó là sự khác biệt về Giới và nó thay đổi theo thời gian, không gian…
Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất (nam và nữ khắp nơi trên thế giới đều có
chức năng/cơ quan sinh sản giống nhau), không thể thay đổi được (giữa nam và
nữ), do các yếu tố sinh học quyết định. Chúng ta sinh ra là đàn ông hay đàn bà:
chúng ta không thể lựa chọn và không thể thay đổi được điều đó.
Giới phản ảnh sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội. Những sự
khác biệt này là do quá trình học mà thành, đa dạng, và có thể thay đổi. Chúng thay
đổi theo thời gian, từ nước này sang nước khác, từ nền văn hoá này sang nền văn
hoá khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do các yếu tố xã hội, lịch sử,
tôn giáo, kinh tế quyết định. (Địa vị của người phụ nữ phương Tây khác với địa vị
của người phụ nữ phương Đông, địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam khác với địa vị
xã hội của phụ nữ Hồi giáo, địa vị của phụ nữ nông thôn khác với địa vị của phụ
nữ vùng thành thị).
Quá trình thay đổi các đặc điểm Giới thường cần nhiều thời gian bởi vì nó
đòi hỏi một sự thay đổi trong tư tưởng, định kiến, nhận thức, thói quen và cách cư
xử vốn được coi là mẫu mực của cả xã hội. Sự thay đổi về mặt xã hội này thường
diễn ra chậm và phụ thuộc vào mong muốn và quyết tâm thay đổi của con người.
2. Qúa trình xã hội hóa về giới
Xã hội hóa là một khái niệm của nhân loại học và xã hội họcđược định nghĩa
là một quá trình tương tác xã hội kéo dài suốt đời qua đó cá nhân phát triển khả

năng con người và học hỏi các mẫu văn hóa của mình[1]. Nói một cách khác, đó
chính là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cáchcủa mình để
sống trong xã hội như là một thành viên.
Theo nguyên tắc giáo dục, mỗi đứa trẻ, khi bước vào nhà trường đều có một
sự khởi đầu như nhau. Trong thực tế, sự khởi đầu của mỗi đứa trẻ hoàn toàn khác
7


nhau. Sự khởi đầu đó phụ thuộc vào vị trí của cha mẹ chúng, vị trí đó nằm ở thang
bậc nào trong hệ thống cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội là một khái niệm xã hội học để
chỉ rằng vào một thời điểm lịch sử nhất định trong một xã hội có sự phân chia dân
cư vào những vị trí xã hội, vốn được xem là những yếu tố ảnh hưởng đến những cơ
may trong đời sống.
3. Kiến tạo xã hội về giới ở nước ta
3.1.

Hình thành quan điểm về giới

Giới là đặc trưng văn hóa, xã hội của đời sống nam và nữ. Giới tính là đặc
trưng sinh thể của đời sống nam và nữ. Những đặc trưng sinh thể của con người
thường ít biến đổi và tuân theo quy luật tự nhiên còn những đặc trưng văn hóa, xã
hội thường biến đổi theo sự biến đổi của cấu trúc một xã hội nhất định và tuân theo
quy luật xã hội. Điều này có nghĩa, theo quan điểm giới, về mặt xã hội, nam và nữ
là hoàn toàn bình đẳng với nhau. Sự khác biệt của hai giới chỉ là do nhân tạo, là do
quan niệm, giáo dục, truyền thống và quyền lực chính trị của các thời đại tạo nên.
Quan điểm giới có nguồn gốc từ các lý thuyết nữ quyền xuất hiện và phát
triển rất sôi động ở các xã hội phương Tây, bắt đầu từ giữa thế kỷ XX. Lý thuyết
nữ quyền tạo nên các phong trào xã hội mạnh mẽ, đấu tranh chống lại sự thống trị
của nam giới, phê phán quyết liệt chế độ áp bức phụ nữ, đòi quyền lợi cho phụ nữ,
tạo lập bình đẳng giới. Mặc dù có chung mục đích là vì sự phát triển của phụ nữ

chống lại chế độ nam trị, nhưng lý thuyết nữ quyền có nhiều trường phái khác
nhau; thậm chí, có những trường phái mâu thuẫn nhau gay gắt. Có thể nêu một số
lý thuyết nữ quyền có ảnh hưởng mạnh đến xã hội phương Tây thời gian qua là:
Nữ quyền tự do, Nữ quyền mác-xit, Nữ quyền xã hội chủ nghĩa, Nữ quyền phúc
lợi, Nữ quyền triệt để, Nữ quyền hiện sinh, Nữ quyền phân tâm;… và gần đây xuất
hiện một số lý thuyết nữ quyền mới, như: Nữ quyền hậu hiện đại, Nữ quyền da
đen, Nữ quyền phụ nữ thế giới thứ ba…
8


3.2.

Những thời kỳ nghiên cứu và truyền bá về giới ở nước ta

3.2.1. Thời kỳ thứ nhất nghiên cứu và truyền bá về giới
Ở nước ta được triển khai rất sôi nổi, phong phú và rộng khắp. Điều thú vị là
mặc dù một lý thuyết được du nhập từ phương Tây vào nước ta nhưng hầu như nó
không gặp bất cứ một sự kỳ thị, phê phán và cản trở nào đáng kể. Thời kỳ đầu, có
nhiều hội thảo, lớp tập huấn, dịch, in, phát hành tài liệu và nhiều dự án nghiên cứu
về giới được triển khai với sự tài trợ của các chính phủ và các tổ chức phi chính
phủ nước ngoài. Đó là những hoạt động hướng vào tuyên truyền và phổ biến một
cách chung nhất quan điểm giới cả lý thuyết và thực hành dưới sự bảo trợ và tham
dự của các tổ chức và chuyên gia nước ngoài. Các đối tượng được hướng tới đầu
tiên là nhà nghiên cứu, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ lãnh đạo chính quyền và đoàn
thể, cán bộ dự án, nhà báo, giảng viên đại học… Công tác học tập, đào tạo, phổ
biến quan điểm giới được diễn ra theo ba hướng: thứ nhất, các chuyên gia nước
ngoài vào nước ta tổ chức hội thảo, tập huấn tại chỗ; thứ hai, các chuyên gia của
Việt Nam được tài trợ tham gia các hội thảo, lớp tập huấn, học tập và nghiên cứu ở
nước ngoài; và thứ ba, biên soạn, dịch thuật, xuất bản tài liệu, sách báo về giới và
lý thuyết nữ quyền.

Cùng với công tác học tập, đào tạo và truyền bá quan điểm giới, các đề tài,
dự án nghiên cứu về phụ nữ, gia đình, dân số, kinh tế hộ, sở hữu đất đai, đời sống
của các nhóm phụ nữ: nông dân, công nhân, ngư dân, tiểu thương… cũng được
tiến hành nghiên cứu theo quan điểm giới, được tài trợ tài chính và sự tư vấn,
hướng dẫn trực tiếp của các chuyên gia nước ngoài về giới. Những nghiên cứu đầu
tiên theo quan điểm giới mặc dù có kết quả cụ thể về nội dung nhưng thực chất chỉ
là những nghiên cứu mang nặng tính chất thực hành lý thuyết, chứng minh sự đúng
đắn của lý thuyết giới và phát giác sự “mù giới” của các nền văn hóa, sự khuyết tật
của các bảng giá trị truyền thống… Có thể đánh giá việc nghiên cứu giới ở những

9


năm đầu cơ bản vẫn hướng về mục tiêu học tập, phổ biến và truyền bá quan điểm
giới là chính.
Với cách làm như thế, chỉ sau vài năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, quan
điểm giới đã thu hút sự quan tâm của xã hội và nhanh chóng được truyền bá rộng
rãi ở nước ta. Tuy nhiên, với cách làm mang tính tự phát và chưa có kế hoạch, lộ
trình chưa được kiểm soát chặt chẽ nên cùng với sự du nhập quan điểm giới và
những lý thuyết nữ quyền tiến bộ, phù hợp với sự phát triển bền vững và ổn định,
hầu như mọi lý thuyết nữ quyền đều được truyền bá vào Việt Nam. Đặc biệt, nhiều
chuyên gia khi tập huấn và đào tạo về giới đã gán ghép nhầm lẫn ý kiến của các
trường phái nữ quyền khác nhau cũng như đã không thể phân biệt được quan điểm
của phụ nữ trong phát triển, phụ nữ và phát triển, giới và sự phát triển.
Dẫu vậy, chỉ một thời gian ngắn với những nỗ lực không mệt mỏi của đội
ngũ nghiên cứu và đào tạo về giới… những tư tưởng cơ bản của quan điểm giới đã
được truyền bá tương đối thành công vào Việt Nam và nhanh chóng trở thành một
công cụ quan trọng của khoa học nghiên cứu về phụ nữ và của phong trào giải
phóng phụ nữ ở nước ta.
3.2.2. Thời kỳ thứ hai của nghiên cứu và truyền bá giới

Ở nước ta được thực hiện trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được,
công tác nghiên cứu và đào tạo về giới bước sang một giai đoạn mới. Đây chính là
thời kỳ tiến hành thực hiện Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và thực hiện các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ. Nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ đầu
nghiên cứu về giới, trước hết, nhiều cán bộ được cử đi đào tạo ở nước ngoài với
nhiều hình thức khác nhau, nhất là đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ về các lĩnh vực giới
và liên quan đến giới. Đây chính là sự chuẩn bị nhân lực quan trọng cho đội ngũ
nghiên cứu và đào tạo về giới trong tương lại.

10


Thứ hai, nghiên cứu lý thuyết quan điểm giới, quan điểm nữ quyền và lý
thuyết nghiên cứu phụ nữ được đầu tư và đẩy mạnh. Những nghiên cứu lý thuyết
này, một mặt, nhằm giới thiệu một cách đầy đủ và toàn diện lịch sử phong trào nữ
quyền ở phương Tây, những trường phái nữ quyền cơ bản – nguồn gốc và ảnh
hưởng của nó đến phong trào phụ nữ cũng như các ngành khoa học xã hội và nhân
văn, phụ nữ học và sự hình thành quan điểm giới và vai trò của nó đối với thực tiễn
cuộc sống và các ngành khoa học xã hội ở các nước phát triển…
Thứ ba, những nghiên cứu khoa học về phụ nữ, dân số, gia đình và phát triển
theo quan điểm giới. Đây là thời kỳ các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu
khoa học và thực tiễn theo quan điểm giới được triển khai một cách vừa sâu sắc
vừa quy mô. Quan điểm giới thực sự đã thấm nhuần trong triển khai các hướng
nghiên cứu. Đó là hướng nghiên cứu nhằm xây dựng chính sách, chương trình phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội; nghiên cứu điều tra cơ bản về gia đình, phụ nữ và vai
trò của người phụ nữ, điều tra cơ bản về nguồn nhân lực, điều tra cơ bản về lao
động và việc làm ở nông thôn, ở đô thị và miền núi, điều tra cơ bản về đời sống
ngư dân, điều tra cơ bản về đội ngũ trí thức, điều tra cơ bản về việc thực hiện chính
sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, điều tra cơ bản về sức khỏe sinh sản và trẻ vị
thành niên…; nghiên cứu về tình yêu, hôn nhân, gia đình; nghiên cứu những tiềm

năng và nguồn lực của gia đình trong phát triển kinh tế hộ; nghiên cứu chuyên sâu
về sản xuất, tái sản xuất và phúc lợi gia đình; triển khai các dự án, các chương trình
phát triển kinh tế – xã hội có lồng ghép giới…
Điều dễ nhận thấy là, nếu các đề tài, dự án nghiên cứu theo xu hướng chủ
đạo giới các thời kỳ trước chủ yếu do nước ngoài tài trợ về tài chính thì các đề tài,
dự án nghiên cứu thời kỳ này nguồn kinh phí chủ yếu do chính phủ Việt Nam cung
cấp. Thực tế này cho thấy, vấn đề giới không còn chỉ là mối quan tâm của giới nữ
mà đã trở thành của xã hội.

11


Rõ ràng, vào những năm cuối thế kỷ, vấn đề giới đã trở nên quen thuộc ở
nước ta. Về khoa học, quan điểm giới, lý thuyết nữ quyền và khoa học nghiên cứu
về phụ nữ của các nhà hoạt động vì phụ nữ ở các nước phương Tây phát triển đã
được phổ biến rộng rãi ở nước ta. Các lớp tập huấn về giới không chỉ dành cho
những nhà nghiên cứu, các cán bộ dự án hay các nhà quản lý và lãnh đạo bậc cao
nữa mà đã dành cho các cán bộ chính sách, cán bộ dự án của các ban, ngành, đoàn
thể, cán bộ cơ sở và đông đảo phụ nữ và nam giới cả ở nông thôn và thành thị. Các
nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều được thực hiện với xu
thế chủ đạo giới hay còn được gọi là lồng ghép giới. Những nghiên cứu hướng tới
xây dựng chính sách phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục, sức khỏe và
dân số – kế hoạch hóa gia đình cũng như các dự án, chương trình điều tra cơ bản
theo quan điểm giới ở tầm vĩ mô chính là xu hướng chủ đạo và những thành tựu
nổi bật, những bước tiến bộ vượt bậc của nghiên cứu giới ở Việt Nam.
3.2.3. Thời kỳ thứ ba của nghiên cứu và truyền bá giới
Ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XXI và về thực chất nó
là sự tiếp tục những cố gắng cũng như những thành tựu của hai thời kỳ trên. Có thể
khẳng định, sau 10 năm được truyền bá vào Việt Nam, quan điểm giới đã thực sự
làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của nhiều người Việt Nam đối với các

vấn đề phụ nữ, bình đẳng, hội nhập và phát triển. Xu thế toàn cầu hóa đang ngày
càng tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự chủ động và tích cực của
Việt Nam trong hội nhập quốc tế, những thành tựu to lớn và toàn diện của công
cuộc đổi mới mang lại đang mở ra những cơ hội và thách thức cho sự phát triển
của mọi người Việt Nam nói chung và phụ nữ nói riêng. Trong bối cảnh đó, để đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nghiên cứu
về giới ở nước ta đã có một bước phát triển mới.
Thật vậy, trước hết, để đáp ứng những đòi hỏi về mặt lý luận cần phải thiết
kế và xây dựng lý luận giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam, nhiều tác giả đã
12


nghiên cứu một cách thấu đáo các lý thuyết nữ quyền; đặc biệt là hai trường phái
nữ quyền: Nữ quyền mác-xit và Nữ quyền xã hội chủ nghĩa – hai trường phái cơ
bản hình thành nên quan điểm giới. Các tác giả đặc biệt quan tâm nghiên cứu hệ
thống quan điểm của các nhà kinh điểm chủ nghĩa Mác – Lê-nin về phụ nữ và giải
phóng phụ nữ với tư cách là cơ sở lý luận của quan điểm giới; đồng thời, các tác
giả cũng tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta và hệ
thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam về phụ nữ, giải phóng phụ nữ và bình
đẳng giới. Hơn thế, nhiều tác giả đã nghiên cứu một cách có hệ thống truyền thống
lịch sử vẻ vang của phụ nữ Việt Nam, truyền thống “tôn trọng phụ nữ”, cũng như
Đạo Mẫu ở Việt Nam nhằm tìm ra cơ sở lịch sử và bản sắc tương đồng của quan
điểm giới.
Những nghiên cứu này, mặc dù mới đạt được một số thành tựu bước đầu
nhưng vô cùng quan trọng, bởi nó thực sự góp phần tích cực xây dựng cơ sở lý
luận và thực tiễn cho sự hình thành một hệ thống quan điểm giới vừa đáp ứng nhu
cầu hội nhập quốc tế, vừa tạo ra cơ sở lý luận và động lực vững chắc cho sự nghiệp
giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở nước ta. Về mặt khoa học, đây cũng là một
bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng ngành phụ nữ học non trẻ ở Việt
Nam.

Các nghiên cứu khoa học thời kỳ này tập trung nghiên cứu hệ thống pháp
luật hiện hành, hệ thống an sinh và bảo trợ xã hội, việc thực hiện chính sách xã hội,
các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô, địa vị của người phụ nữ trong
xã hội, quyền của phụ nữ, phụ nữ tham gia công tác quản lý và lãnh đạo, hệ thống
dịch vụ xã hội hỗ trợ gia đình, giới và công tác xóa đói giảm nghèo, vấn đề buôn
bán phụ nữ và trẻ em, bạo hành chống phụ nữ trong gia đình và xã hội… Trên cơ
sở những kết quả thu được, sự phân tích số liệu tương quan giới từ các dự án điều
tra cơ bản, những đề án nghiên cứu ở tầm vĩ mô có lồng ghép giới… và những
nghiên cứu mới theo xu thế chủ đạo giới, các nghiên cứu đã góp phần nhận diện
13


thực trạng quan hệ giới và bất bình đẳng giới, những sự vi phạm quyền của phụ nữ,
sự bất bình đẳng giới của hệ thống pháp luật, những cản trở sự tham gia lãnh đạo
và quản lý của phụ nữ, những thế mạnh và tiềm năng của mỗi giới trong điều kiện
kinh tế thị trường…; đồng thời, đã đề xuất những giải pháp thực tiễn nhằm phát
huy tiềm năng, nâng cao địa vị của người phụ nữ Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Cùng với các nghiên cứu khoa học chuyên sâu, các dự án, chương trình phát
triển ở mọi lĩnh vực, bộ, ngành, địa phương trong cả nước đều được triển khai theo
xu thế chủ đạo giới (lồng ghép giới). Có thể thấy, thời gian qua, quan điểm giới đã
thấm sâu vào mọi chương trình, dự án và kế hoạch phát triển toàn diện của từng địa
phương và cả nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc trưng và tính chất của
ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ luôn gắn liền với các hoạt động và phong
trào thực tiễn của phụ nữ. Nghiên cứu phụ nữ, nghiên cứu giới phải xuất phát từ
những vấn đề bức xúc của phụ nữ, của quan hệ giới và phải hướng tới giải đáp một
cách khoa học, kịp thời những vấn đề giới và phụ nữ đang đặt ra trong thực tiễn
đời sống. Rõ ràng, quan điểm giới đã và đang trở thành sự định hướng hành động
trong quá trình phát triển bền vững ở nước ta.
Sau 15 năm du nhập vào Việt Nam, quan điểm giới đã nhanh chóng được
tiếp nhận và triển khai sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tế,

vấn đề giới đã trở thành mối quan tâm chung của xã hội và trở thành phong trào
thực tiễn sâu rộng của phụ nữ Việt Nam. Mặc dù đã có sự chuyển biến tích cực
trong quan hệ giới, địa vị, đời sống của người phụ nữ Việt Nam đã từng bước được
nâng cao, cải thiện cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới nhưng
sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tạo lập bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn là những
vấn đề bức xúc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa của cả hai giới và của cả xã hội.

14


4. Truyền thông về giới
Thời gian qua, truyền thông đại chúng (TTĐC) có nhiều đóng góp quan
trọng trong việc tuyên truyền, cổ vũ, định hướng cộng đồng thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề giới và bình đẳng giới.
Khẳng định, tôn vinh vị trí, vai trò và khả năng của phụ nữ trong việc xây dựng,
duy trì, phát triển kinh tế-chính trị-xã hội và văn hoá truyền thống của Việt Nam.
Trong nhiều sản phẩm truyền thông đã lồng ghép vấn đề bình đẳng giới góp phần
quan trọng trong việc định hướng, thay đổi hành vi ứng xử, suy nghĩ, thái độ và
tình cảm của phụ nữ và nam giới, xoá bỏ dần những định kiến giới.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều sản phẩm truyền thông củng cố các định kiến giới
một các không ý thức. Các bài viết, các câu chuyện trên báo chí thường nhấn mạnh
vai trò của phụ nữ và nam giới dựa trên những khuôn mẫu giới như: phụ nữ thường
làm công việc đơn giản, liên quan đến dịch vụ và luôn gắn với công việc gia đình,
chăm sóc con cái, nội trợ; trong cuộc sống vợ chồng luôn là những người vợ biết
nhẫn nhịn, phục dịch thiếu độc lập. Còn nam giới thường làm công việc quan
trọng, tham gia vào các lĩnh vực nổi bật, thu nhập cao; là người trụ cột, có tiếng nói
quyết định trong gia đình và nắm giữ quyền lực; năng động, tự chủ, thành đạt…
Ngoài những khuôn mẫu giới vô tình được phản ảnh trong các tác phẩm báo
chí, định kiến giới còn thể hiện ngay trong các câu hỏi, lời bình, dẫn dắt của một số
nhà báo cho rằng phụ nữ phải biết nấu ăn ngon, là người nội trợ chăm chỉ và chiều

mọi thành viên trong gia đình, nhất là gia đình chồng.
Một quan niệm mang dấu ấn đậm nét của định kiến giới nữa đó là sự trông
đợi phụ nữ phải biết nấu ăn ngon, là người nội trợ chăm chỉ và chiều lòng mọi
thành viên trong gia đình, nhất là gia đình chồng.

15


Ví dụ: Trong bài “Phụ nữ đừng đánh mất mình”, đăng trên chuyên đề “Đời
sống gia đình” (của Báo Phụ nữ Thủ đô) số 20, (14-5-2014), có đoạn “Dọn dẹp nhà
cửa thì có gì nhiều nhặn đâu, vậy mà một số chị em cũng thuê người một tuần dọn
dẹp, giặt giũ một lần… Có người đã tự hỏi không biết mình lấy vợ để làm gì ? khi
người phụ nữ bị tước đoạt đi tất cả những công việc gia đình thì họ tự mình đánh
mất vai trò “người giữ lửa trong nhà”, do đó không khí trong nhà có phần lạnh lẽo
hẳn đi”. Tiêu chí và chuẩn mực đánh giá phẩm chất, giá trị của người phụ nữ mang
nặng định kiến đối với phụ nữ.
Công tác tuyên truyền về bình đẳng giới đã góp phần làm chuyển biến nhận
thức và hành vi của cộng đồng dân cư về giới và bình đẳng giới trong quan hệ đối
xử giữa nam và nữ, trong thực hiện kế hoạch hoá gia đình, trong lựa chọn sinh con
theo giới tính, về vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Trong công
cuộc đổi mới, công tác này góp phần không nhỏ vào việc thay đổi nhận thức của
phụ nữ theo hướng tiến bộ về vị trí, vai trò của họ và giúp họ khẳng định được bản
thân mình trong xã hội. Các tấm gương tiêu biểu của giới nữ ở nhiều độ tuổi, trình
độ học vấn, chuyên môn, lĩnh vực hoạt động khác nhau là minh chứng sáng rõ cho
vấn đề nêu trên.
Bên cạnh tuyên truyền chính thống thông qua các cuộc họp, hội thảo, hội
nghị thì các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã tích cực đẩy mạnh công tác
truyền thông bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: phát thanh, truyền
hình, tạp chí, tờ rơi, hội thi tìm hiểu... Các hoạt động này đã góp phần tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục về giới tới các cấp, các địa phương, tới mọi đối

tượng dân cư trong cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết về giới và bình đẳng giới.
Đồng thời vấn đề bình đẳng giới còn được tiến hành lồng ghép trong nhiều hoạt
động chuyên đề của từng cơ quan và trong nhiều chương trình, dự án kinh tế - xã
hội khác ở các cấp, các ngành, các địa phương.
16


Tuy nhiên, hoạt động truyền thông hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Điển hình là
trên các phương tiện truyền thông vẫn còn nhiều sản phẩm truyền thông mang tính
củng cố định kiến giới một cách vô thức, hoặc nhấn mạnh đến vai trò của nữ giới
và nam giới trên những khuôn mẫu giới (khuôn mẫu giới là những mẫu hình giá trị,
niềm tin được định sẵn, quy định những đặc điểm điển hình của nam và nữ)… tác
động không nhỏ đến nhận thức của con người, nhất là đối với giới trẻ.

17


III.

LỜI KẾT LUẬN

Để thiết thực góp phần thúc đẩy bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ ở nước
ta những năm tới, cần tập trung vào các hướng nghiên cứu chính sau:
-Sớm có một chương trình nghiên cứu quốc gia về xây dựng chuyên ngành khoa
học nghiên cứu về phụ nữ và nghiên cứu giới ở Việt Nam. Ở đó, cần thiết kế đầy
đủ cấu trúc, khung lý thuyết, đối tượng, nội dung, phương pháp và mục tiêu của
ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ.
- Xây dựng đề án nghiên cứu một cách nghiêm túc và hệ thống về các quan điểm
nữ quyền trên thế giới và Việt Nam. Nghiên cứu sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phụ nữ, con đường giải

phóng phụ nữ và thiết lập bình đẳng nam nữ trong xã hội – cơ sở lý luận và khoa
học cơ bản để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo về phụ nữ và giới ở Việt Nam.
- Nghiên cứu sự tác động của toàn cầu hóa đến hai giới ở nước ta giai đoạn hiện
nay. Nhận diện những thuận lợi và khó khăn, những tiền năng và lợi thế, những cơ
hội và thách thức của mỗi giới…, đề xuất những giải pháp quan trọng hỗ trợ phụ
nữ hội nhập cùng xu thế toàn cầu.
- Tìm hiểu hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam dưới lăng kính giới, qua đó
tích cực góp phần tham gia xây dựng hệ thống pháp luật mới trong điều kiện nhà
nước pháp quyền theo xu hướng chủ đạo giới. Luật pháp có lồng ghép quan điểm
giới và về bình đẳng giới sẽ là những yếu tố mang ý nghĩa điều chỉnh quan trọng
của một xã hội công dân đang hội nhập vào xu thế toàn cầu.
- Nghiên cứu, rà soát một cách cơ bản hệ thống chính sách xã hội hiện có, từ đó
kiến nghị việc điều chỉnh, xây dựng chính xã hội mới phù hợp với giai đoạn phát
triển của đất nước. Bởi lẽ, trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa,
vấn đề thực hiện các chính sách xã hội, phúc lợi xã hội của nước ta sẽ ngày càng
trở thành một vấn đề nhạy cảm và dễ tổn thương.

18


- Nghiên cứu và kiến nghị những giải pháp tích cực nhằm thúc đẩy nâng cao địa vị
kinh tế của phụ nữ, nâng cao tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý đất nước,
phát triển hệ thống dịch vụ xã hội từng bước giải phóng gánh nặng công việc nội
trợ gia đình của phụ nữ… Đây chính là những nghiên cứu cụ thể, thiết thực hướng
vào những vấn đề cốt lõi và nhậy cảm của bình đẳng giới ở Việt Nam.
- Tăng cường mở các lớp đào tạo, tập huấn về giới và bình đẳng giới cho các đối
tượng là cán bộ lãnh đạo, quản lý của các ban ngành, đoàn thể, những cán bộ trực
tiếp tiến hành các hoạt động liên quan đến việc bảo đảm và thực hiện các quyền
bình đẳng của phụ nữ. Thông qua các khoá đào tạo, tập huấn này mà góp phần
nâng cao nhận thức và kỹ năng về bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ, giúp họ có

khả năng lồng ghép các chính sách về giới vào các chương trình kinh tế - xã hội ở
địa phương có hiệu quả hơn. Các nội dung đào tạo, tập huấn cần cung cấp cho đội
ngũ cán bộ này các kiến thức mang tính toàn diện khách quan về bình đẳng giới.
Cần phân tích thực trạng bất bình đẳng giới đang tồn tại ở nước ta hiện nay đã cản
trở sự phát triển kinh tế - xã hội để họ có được nhận thức và hành động đúng đắn
hơn trong việc lồng ghép giới vào phát triển kinh tế - xã hội ở từng ngành, từng địa
phương đạt hiệu quả.

19


Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thanh Bình, Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, NXB Chính trị
Quốc gia, (2008).
2. TS. Đỗ Anh Đức, Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn.
3. TS. Nguyễn Thị Thu Nga, Bình đẳng giới trong nghiên cứu khoa học ở Việt
Nam, Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Khu vực IV, (02/07/2015).
4. ). Đưa vấn đề giới vào phát triển. NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội – 2001,
tr. 83, 84
5. Đặc thù Giới ở Việt Nam và bản sắc dân tộc, Trung tâm nghiên cứu Giới,
Gia đình và Môi trường trong Phát triển (CGFED.
6. Ngân hàng Thế giới – Liên Hợp Quốc tại Việt Nam “Chuẩn bị cho tương lai:
Các chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam”. Hà Nội,
2005
7. Ngô Công, Nghiên cưú về Giới qua các thời kỳ, Tạp chí Cộng sản, số 4
(124) năm 2007.
8. Một số thông tin từ các trang mạng: laodong.com.vn, www.phununet.com,
www.thanhnien.com, dantri.com.vn


20



×