Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học Nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên toàn thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.82 KB, 13 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

TIỂU LUẬN
NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ BÙNG NỔ
DÂN
SỐ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

Giảng viên hướng dẫn : TS.Đỗ Sơn Hải - Trưởng khoa
QHQT
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Sinh Hoàng

Lớp

: CT38H

Hà Nội, tháng 5 năm 2013


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................... 1
NỘI DUNG TÌM HIỂU ...................................................................... 2
I. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ BÙNG NỔ
DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI ............................................................ 2
1. Khái niệm.................................................................................... 2
2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số.............................................. 2
II. NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ DÂN SỐ .................................... 4


1. Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử............................................... 4
2. Nhu cầu về lực lượng sản xuất ................................................... 5
3. Quan niệm lạc hậu ...................................................................... 5
III. TẠI SAO VẤN ĐỀ DÂN SỐ LẠI ĐƯỢC COI LÀ VẤN ĐỀ
TRÊN TOÀN CẦU .......................................................................... 6
1. Phạm vi tác động của bùng nổ dân số ........................................ 6
2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số ....................................... 7
3. Bùng nổ dân số là vấn đề mà một quốc gia không thể một mình
giải quyết được ............................................................................... 9
LỜI KẾT............................................................................................ 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 11


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân
số” đã trở nên không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần
nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và
cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng
ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có cái nhìn khác
về vấn đề dân số, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực
trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu
luận này, tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn
đề bùng nổ dân số - vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam - để từ đó làm sáng tỏ vấn đề bùng
nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu
vực và đã trở thành một vấn đề lớn trên toàn thế giới.
Bài tiểu luận của tôi được tìm hiểu theo 3nội dung lớn như sau:
I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới
II. Nguyên nhân bùng nổ dân số
III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề trên toàn cầu


1


NỘI DUNG TÌM HIỂU
I. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ BÙNG NỔ
DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI
1. Khái niệm
Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một quốc
gia, khu vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời
gian ngắn,gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội1.
Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh
chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi
của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia
tăng trên phạm vi toàn cầu.
2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số
a. Cấp độ quốc tế
Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt. Xét trong toàn bộ tiến
trình lịch sử xã hội cho đến nay, tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi
toàn thế giới ngày càng cao.
Vào những năm công nguyên, dân số thế giới chỉ vào khoảng
250 triệu người. Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất
chậm, đến năm 1650 dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên.
Năm 1825, dân số thế giới lên đến 1 tỉ người.
Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số
thế giới tăng gấp đôi, tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người.
Năm 1987, vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người,
tức là chỉ cần 12 năm đã tăng thêm 1 tỉ người.
Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ

XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm
1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong
vòng 12 năm, thế giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 - 1999), là giai
đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người đểcó thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp
theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng
thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới
sẽ đạt 9,1 tỉ người . Như vậy có thể thấy thời gian để dân số thế giới
1

Từ điển bách khoa toàn thư

2


tăng thêm gấp đôi, cũng như thời gian để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công
dân mới ngày càng được rút ngắn một cách nhanh chóng. Người ta
tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng thêm bằng số dân của
nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước Trung Quốc ra
đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất. Đó quả thật là những
con số khủng khiếp.
Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế
giới là không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo
và kém phát triển nhất lại là những khu vực có tốc độ tăng dân số
nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra dân số Mỹ, tốc độ tăng
dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ nhất tại châu Phi,
Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ 7
con. Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là
khu vực châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số
châu Phi sẽ tăng khoảng 2,4 - 3 lần, cao hơn tốc độ tăng dân số toàn
cầu khoảng 1,7 - 1,8 lần. Cũng như vậy tốc độ tăng dân số ở khu vực

Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu 10 -15%.
Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 - 2005, theo thống kê của
Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu
người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số
dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc (11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a,
Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước khác có số dân
tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng hằng năm
2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8
triệu), Cộng hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô
(1,4 triệu), Ai-cập (1,3 triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1
triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1 triệu), U-gan-đa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kêni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-dani-a (0,7 triệu), Cô-lôm-bi-a (0,7
triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân sốcủa nhiều nước, đặc
biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập niên tới,
thì ở một số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế
suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 - 2050) như CHLB Nga (số
dân giảm 35 triệu), U-crai-na (23 triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7
triệu), Ru-ma-ni (5 triệu), CHLB Đức (4 triệu), Bê-la-rút và Bun-ga-ri
(3 triệu)2. Như vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang phát
triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn
trước đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng cải
2

Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam

3


thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu. Dân số tăng nhanh nằm ở
khu vực những nước đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số
nằm ở khu vực này.

Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là
1,2%/năm. Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống
còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành
nước đông dân nhất thế giới.
b. Cấp độ quốc gia
Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề nan giải
đó là sự tăng nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư
tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng cao. Năm
1955, dân số đô thị là 872 triệu người (chiếm 32% dân số toàn cầu),
năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là 2,6 tỉ người
(chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025 số dân
sống ở các đô thị sẽ chiếm 60% dân số toàn cầu. Số thành phố có trên
10 triệu dân cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1975 mới chỉ
có 5 thành phố như vậy thì tới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo dự
đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có tới 20 thành phố trên 10
triệu dân3. Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ (cứ 38 năm lại tăng gấp
đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại trừ Tokyo sẽ bị tụt xuống
cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế chúng là các đô thị nhỏ hơn
mà ở đó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo dự đoán này, Bombay
và New Delhi sẽ trở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên thế
giới thay thế cho Mexico city và New York hiện nay.
II. NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ DÂN SỐ
1. Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử
Trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử phát triển của nhân loại, tỷ
lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và nhu cầu lực
lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng
tương đối cao do điều kiện sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều…
Do đó, trong giai đoạn này tỷ lệ sinh và tử tương đối cân bằng. Ngược
lại, trong giai đoạn “bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy
trì trong khi đó tỷ lệ tử có xu hướng giảm do điều kiện sống được

nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các
nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt là trong công
tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ
của con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân
3

Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195

4


cư thế giới là 21,9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. quá trình toàn cầu
hóa đã mang lại cho các quốc gia kém phát triển khả năng tiếp cận với
những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Những căn bệnh trước kia được coi
là nan y đã tìm ra phương pháp chữa trị, người dân đã biết sử dụng
rộng rãi các loại thuốc vắc-xin, thuốc kháng sinh... Mặt khác khoa học
kĩ thuật cũng góp phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều
cơ hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn… Chính những yếu tố trên
đã làm nảy sinh tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình
trạng tăng dân số một cách chóng mặt.
2. Nhu cầu về lực lượng sản xuất
Ở các quốc gia kém phát triển, những nơi mà khoa học kỹ thuật
chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất còn rất hạn
chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công, sử
dụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là chủ yếu, cộng với những
nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như
vậy thì dân số càng tăng, sức lao động càng nhiều, càng đẩy mạnh sức
sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thế giới của chúng ta không ngừng
tăng lên một cách nhanh chóng, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
của từng quốc gia.

3. Quan niệm lạc hậu
Ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông vẫn còn một
số quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ,
muốn sinh con trai… Điều này có thể thấy rất rõ ở Việt Nam, tại các
vùng dân tộc thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng
sinh càng nhiều càng tốt và nhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các
vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở lên. Ở các nước này vai trò
và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữ nhiều nơi vẫn
chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có thể thấy ở các quốc gia
phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với nam
giới và tham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội
thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền nhiều nước còn phải đề ra các chính
sách khuyến khích tăng tỉ lệ sinh. Ở một số nước nghèo và các nước
đang phát triển thì vấn đề tiếp cận, và nhận thức về dân số còn rất hạn
chế, đặc biệt là châu phi và một số nước ở châu Á, kinh tế nghèo đói,
lương thực không đủ ăn chưa nói đến vấn đề tiếp cận đến vấn đề giáo
dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và
phương tiện cơ bản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các
nhà lãnh đạo cũng có nhận thức chưa đầy đử về vấn đề này, ví dụ cách
5


đây 8 năm thị trưởng thành phố Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm
y tế cung cấp các biện pháp ngừa thai hiện đại như bao cao su, thuốc
tránh thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị cuộc sống.
III. TẠI SAO VẤN ĐỀ DÂN SỐ LẠI ĐƯỢC COI LÀ VẤN ĐỀ
TRÊN TOÀN CẦU
1. Phạm vi tác động của bùng nổ dân số
Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ.
Trên phạm trù quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề bùng nổ dân

số chỉ diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát triển,
có thể thấy 60% dân số tập trung tại các nước châu Á và châu Phi, các
khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ chiếm 40% dân
số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát triển này
tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát
triển. Trong giai đoạn 2000 - 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc,
hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6
nước có số dân tăng thêm chiếm 45% và 16 nước khác có số dân tăng
thêm chiếm 25% thì ngoài 4 nước là Mỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin
ra thì còn lại đều là các quốc gia châu Á và châu Phi, và ngoài trừ Mỹ,
Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều là các nước
đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở một số nước phát triển như
Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế
suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 - 2050). Như vậy nhìn vào
bề mặt của vấn đề có thể nhiều người sẽ nghĩ vấn đề bùng nổ dân số
chỉ là vấn đề của các nước đang phát triển, và quả thật những hậu quả
mà vấn đề bùng nổ dân số mang lại cho các nước này là không phải
bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày nay không một vấn đề nào có thể
tách ra riêng lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác.
Vân đề bùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ suy nghĩ rằng
Việt Nam sinh nhiều thì ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không ảnh
hưởng nhiều thật nếu chỉ có Việt Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt
Nam ra còn có rất nhiều các nước trên thế giới cũng đang trong tình
trạng như vậy,điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởng không nhỏ tới các
quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu là khi
dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các
nước khác, chủ yếu là các nước phát triển. Điều mà tôi muốn nói tới là
vấn đề người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh thế giới II
đã từng xuất hiện một làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có
chiến sự sang nước Mỹ, nguồn nhập cư này đã góp phần không nhỏ

vào thành công của nước Mỹ sau này, tuy nhiên vấn đề hiện nay là
mặc dù nhiều nước đã thắt chặt chính sách người nhập cư nhưng số
6


lượng người nhập cư vẫn không giảm, chủ yếu là qua con đường nhập
cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp pháp sẽ dẫn tới những hậu quả
không nhỏ cho các nước phát triển cả về an ninh và xã hội. Đó là tình
trạng tội phạm gia tăng, xã hội bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc.
2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số
a. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu
Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì
thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển
thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu
muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới tăng đó thì thu nhập quốc dân
bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô cùng khó
khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc
gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số
sẽ khiến cho mức sống của người dân trong nước bị hạ xuống,mức
sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối thiểu không
được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân
số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các khu vực,
khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ
nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống.
b. Dân số và vấn đề bệnh tật
Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ
giữa vấn đề bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các
quốc gia đang và kém phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân
số cao nhất thế giới cũng là những nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh
đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ sau để thấy được điều

đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu người bị
nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở
các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh). Bùng nổ
dân số dẫn tới điều liện sống nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền
miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân không
được đảm bảo chính là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở
châu lục này.
c. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt
Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống
của mỗi nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong
lòng đất. Tài nguyên dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ
như trong thập niên 90 của thế kỉ trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016.
Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn dùng được 1500 năm nữa,
và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm nữa là
7


cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước
ngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là
Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt
hoàn toàn.
d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng
Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quân
ruộng đất canh tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình
quân ruộng đất theo đầu người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960
giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6
mẫu và tới năm 1980 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác giảm đi tất
nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều nguyên nhân
khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên
nhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm,

dân số tăng nhanh làm cho vấn đề lương thực trên phạm vi toàn cầu
ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa qua đã xảy ra cuộc
khủng hoảng lương thực lớn và chưa bao giờ vấn đề an ninh lương
thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay đại đa số các đang
phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập lương thực,
đó là một minh chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại
các nước này.
e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
đang diễn ra trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình
hình ô nhiễm môi trường ngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các
nước đang phát triển, do sức ép của việc phát triển kinh tế, cho đến
nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các loại thuốc trừ
sâu, khai thác đất quá mức… khiến cho sự phá hoại môi trường sinh
thái ngày càng tăng lên.
g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội
Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp
bóc, khủng bố… Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn
sẽ ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình
người ta có thể sẵn sàng làm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn,
xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu
“không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột, chiến tranh giữa
các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn.
Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói,
dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ
trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang
8


tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự tồn vong của nhân loại, chính vì

vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ dân số cũng là một
vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của nhân loại.
3. Bùng nổ dân số là vấn đề mà một quốc gia không thể một mình
giải quyết được
Thực vậy, các nước nghèo là những nước có tốc độ bùng nổ dân
số nhiều nhất nhưng bản thân các nước này vì thiếu các yếu tố về vốn,
công nghệ nên không đủ khả năng thực hiện các chương trình dân số
một cách hiệu quả, do đó nhất thiết phải có sự giúp đỡ, tài trợ của các
quốc gia phát triển hơn. Trên thực tế, từ cuối thế kỉ XX, khi hiện
tượng bùng nổ dân số xuất hiện thì cũng là lúc các nước bắt đầu ngồi
lại với nhau để bàn bạc về vấn đề này. Có thể kể đến 3 hội nghị toàn
cầu lớn bàn về vấn đề dân số là hội nghị năm 1974 tại Bucharest, hội
nghị năm 1984 tai Mexico city và hội nghị năm 1994 tại Cairo. Đặc
biệt là trong hội nghị Cairo năm 1994, các nước đã đề ra được một
chương trình kế hoạch hành động 20 năm cho vấn đề dân số, các nước
giàu còn còn cam kết sẽ dành 0,7% GNP để giúp đỡ các nước kém
phát triển, lạc hậu trong vấn đề dân số (tuy nhiên trên thực tế chỉ có
vài nước Bắc Âu là thực hiện cam kết này). Ngoài các hội nghị trên
còn phải kể tới hàng loạt các hội nghị cấp khu vực và vai trò của các
tổ chức quốc tế khác mà nổi lên là vai trò của UNFPA-Quỹ dân số
Liên Hợp Quốc. Thành viên của UNFPA là tất cả các nước thành viên
Liên Hợp Quốc. Vai trò của UNFPA là trợ giúp các nước đang phát
triển thông qua việc cung cấp các dịch vụ có chất lượng trong sức
khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình; thúc đẩy việc thực hiện chiến
lược dân số do hội nghị Cairo thông qua năm 1994; thúc đẩy sự hợp
tác và điều phối giữa các tổ chức Liên Hợp Quốc, các tổ chức song
phương, các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân
trong việc giải quyết các vấn đề về dân số và phát triển. Từ khi bắt đầu
hoạt động năm 1969 đến nay, tổ chức này đã cung cấp 5 tỉ USD cho
việc viện trợ các nước đang phát triển. Giữa Việt Nam và UNFPA

trong thời qua cũng đã có sự hợp tác khá chặt chẽ và hiệu quả. Những
nỗ lực trên đã chứng tỏ rằng vấn đề bùng nổ dân số đã và đang nhận
được ngày càng nhiều sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, do đó có
thể khẳng định lại một lần nữa vấn đề bùng nổ dân số là một vấn đề
toàn cầu.

9


LỜI KẾT
Khi mà nguồn tài nguyên trên trái đất đang ngày một cạn kiệt,
việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên này luôn là vấn đề tối quan
trọng đối với sự tồn vong của con người. Dân số toàn cầu bùng nổ tạo
nên yêu cầu phải kìm hãm đà tăng dân số. Mặt khác, việc kiềm chế
tình trạng dân số già ở các nước phát triển cũng là vấn đề cấp bách.
Bùng nổ dân số là yếu tố có ảnh hưởng lớn tới quan hệ quốc tế trong
thời kỳ hội nhập và toàn cầu hoá. Như vậy, việc lựa chọn một giải
pháp thích hợp để đạt được hiểu quả mong muốn, đồng thời giảm
thiểu tối đa tác dụng phụ đối với cân bằng xã hội, chất lượng dân số là
một câu truyện dài kỳ. Giải pháp tối ưu cần có sự đóng góp tích cực
của các nhà chuyên môn để có thể áp dụng trên phạm vi toàn cầu, giúp
nhân loại hướng tới một kỷ nguyên văn minh.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề toàn cầu trong hai thập
niên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Nguyễn Trần Quế: Những vấn đề toàn cầu hóa hiện nay. NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006.
3. Vương Dật Châu (Chủ biên), An ninh Quốc tế trong thời đại
toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004
4.
5.

11



×