Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý ở tỉnh Xiờng Khoảng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.23 KB, 98 trang )

LUẬN VĂN:
Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ quản lý ở tỉnh Xiờng Khoảng nước Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay

Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn coi trọng
công tác cán bộ, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị trong các giai đoạn cách mạng của Đảng, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, để
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng đó là bảo vệ và xây dựng Tổ quốc
xã hội dân chủ nhân dân Lào. Trước yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo từ Đại hội III của Đảng đến nay.
Đảng và nhân dân Lào đang tiến hành đổi mới đất nước, chuyển từ nền kinh tế tự
nhiên, tự cung, tự cấp sang đẩy mạnh từng bước sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới. Công
cuộc đổi mới đất nước được tiến hành trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước hết
sức phức tạp, có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, chứa đựng những yếu tố
bất trắc khó lường. Điều đó đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi Đảng Nhân dân cách
mạng Lào phải có tầm nhìn sáng suốt để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức
thực hiện thắng lợi. Để đạt được điều đó, yếu tố quyết định là công tác cán bộ và xây dựng
đội ngũ cán bộ ngang tầm, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước, trong đó một
bộ phận quan trọng là luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban TVTU quản
lý.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của cả nước, đội ngũ cán bộ và công
tác cán bộ của tỉnh Xiêng Khoảng đã có tiến bộ, đã đạt được những kết quả nhất định, đó
là yếu tố cơ bản tạo nên thành tựu kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, cán bộ lãnh đạo,


quản lý thuộc diện Ban TVTU quản lý và công tác cán bộ của tỉnh còn những hạn chế yếu
kém cần được khắc phục. Công tác cán bộ nói chung và luân chuyển cán bộ thuộc diện
Ban TVTU quản lý nói riêng còn chậm đổi mới. Việc lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, nhất là cán bộ khoa học và cán bộ bộ quản lý sản xuất kinh doanh còn yếu. Việc
quy hoạch tạo nguồn cán bộ còn chắp vá và cơ cấu cán bộ lãnh đạo, về độ tuổi, tỷ lệ nam nữ, dân tộc thiếu số chưa phù hợp; việc bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ còn biểu hiện tuỳ


tiện, chủ quan, đôi khi không tuân theo quy định của Trung ương. Nhiều trường hợp đề bạt
chưa đúng lúc, đúng tầm, chưa phù hợp năng lực sở trường, chưa xuất phát từ yêu cầu
nhiệm vụ chính trị và của công việc. Hơn nữa, luân chuyển cán bộ ở tỉnh Xiêng Khoảng từ
xưa đến nay chưa có quy hoạch luân chuyển cán bộ.
Toàn bộ những hạn chế, khiếm khuyết nêu trên đã trực tiếp cản trở, gây khó khăn
cho chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của tỉnh.
Để góp phần khắc phục những hạn chế, thiếu sót của đội ngũ cán bộ trong giai
đoạn hiện nay, đồng thời chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của thời kỳ mới. Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã ban hành Nghị quyết số
02-NQ/BCT ngày 14/7/2003 về việc “Bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ”, nhằm tạo điều
kiện để rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ có triển vọng phát triển,
trong quy hoạch, được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, giúp cán bộ trưởng thành
nhanh hơn và toàn diện, vững vàng hơn; từng bước điều chỉnh việc bố trí cán bộ hợp lý
hơn; tăng cường được cán bộ cho những nơi có nhu cầu cấp bách và tạo bước đột phá góp
phần đổi mới sâu sắc công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Việc luân chuyển cán bộ ở tỉnh Xiêng Khoảng trong thời gian qua còn nhiều mặt
hạn chế: chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức và hành động ở các cấp uỷ; còn lẫn
lộn giữa luân chuyển và điều động; luân chuyển cán bộ chưa có quy hoạch đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ. Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU quản lý có thể đáp
ứng được yêu cầu đề ra và giải quyết dựa trên luận cứ khoa học gắn liền với tổng kết thực
tiễn hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, đội ngũ cán
bộ, công chức đã vươn lên, năng động, sáng tạo, góp phần xứng đáng vào thành tựu to lớn

của đất nước. Song, trong hoàn cảnh mới, sự tác động của cơ chế thị trường còn bộc lộ
nhiều yếu kém, khuyết điểm của đội ngũ cán bộ, công chức. Trong đội ngũ cán bộ hiện
đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại cả về phẩm chất và năng lực. Một bộ phận không nhỏ
cán bộ đã bị thoái hoá về phẩm chất chính trị, đạo đức, lợi dụng chức quyền để tham ô,
lãng phí, quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, cơ hội và thực dụng. Không ít cán bộ bị giảm
sút uy tín, không còn là công bộc của dân, thậm chí trù dập, ức hiệp dân. Văn kiện Hội


nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ
rõ: “Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều
mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Vừa
qua, tuy có nhiều cố gắng trong công tác cán bộ, nhưng không ít việc còn mang tính chất
ứng phó, chưa đáp ứng tốt các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Hàng loạt vấn đề
lý luận và thực tiễn của công tác cán bộ chậm được nghiên cứu, tổng kết.
Để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tổ chức –
cán bộ nói chung, công tác luân chuyển cán bộ nói riêng, đồng thời từ đó rút ra được một
số kinh nghiệm và những giải pháp hiệu quả của công tác cán bộ trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với tính chất là một trong những khâu đột phá
của công tác cán bộ, công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh. Tuy
nhiên, công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có thể đáp ứng được yêu cầu và
có hiệu quả khi nó được đề ra và giải quyết dựa trên những luận cứ khoa học gắn liền với
tổng kết thực tiễn. Với đặc điểm, tình hình của địa phương; tình hình và kết quả trong
công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh, việc tiến hành nghiên cứu đề tài
“Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý ở tỉnh Xiờng
Khoảng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay " là rất thiết
thực, góp phần vào việc từng bước nghiên cứu, giải quyết những vấn đề cơ sở lý luận - thực
tiễn trong công tác luận chuyển cán bộ nói chung và luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban
TVTU Xiêng Khoảng quản lý nói riêng. Qua đó góp phần vào việc xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ của tỉnh.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Luân chuyển cán bộ là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết, được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập, có nhiều bài viết, nhiều công trình của Việt Nam và của Lào liên quan
đến vấn đề này, tiêu biểu như:
ở Việt Nam:
- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị về “Luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý”.


- Hội thảo khoa học: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá luân chuyển
cán bộ ở nước ta hiện nay” do Ban Tổ chức Trung ương tổ chức ngày 30/05/2004. Tại
cuộc hội thảo, với nhiều bài tham luận đã tập trung làm rõ một số vấn đề cơ sở và căn cứ
cho việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học để luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý là khâu đột phá đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Hội thảo đã chỉ ra những mặt hạn chế của công tác cán bộ, trong đó có đánh giá,
luân chuyển cán bộ, đang đặt ra một cách cấp bách. Đồng thời, nhấn mạnh phương hướng,
nhiệm vụ phải tiếp tục thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời gian tới.
- Bài viết “Luân chuyển cán bộ - khâu đột phá nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới” của tác giả Trần Đình Hoan, đăng trên
Tạp chí Cộng sản, số 7/2002. Trong bài viết tác giả đã nêu ra những kinh nghiệm quý báu
trong việc dùng người của Việt Nam trong lịch sử, đồng thời chỉ ra những thành tựu, hạn
chế trong công tác luân chuyển cán bộ từ khi tiến hành công cuộc đổi mới; tác giả cũng
nêu ra phương châm chỉ đạo, nguyên tắc hành động trong tiến trình luân chuyển cán bộ và
để thực hiện một cách đồng bộ, phù hợp và hiệu quả việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
- Lênin, Hồ Chí Minh nói về luân chuyển cán bộ của tác giả Nguyễn Trọng Phúc,
đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 9/2002. Tác giả đã nêu quan điểm của Lênin trong đào tạo
đề bạt cán bộ trẻ một cách có hệ thống từ dưới lên trên và Lênin quan tâm đến việc đưa
cán bộ ở các cơ quan Trung ương về công tác ở các địa phương. Trong bài, tác giả chỉ ra

nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về luân chuyển cán bộ - Người đòi hỏi phải
khắc phục bệnh hẹp hòi và tăng cường đoàn kết giữa cán bộ Trung ương phái đến với cán
bộ địa phương.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về luân chuyển cán bộ, của tác giả PGS Trần Đình Huỳnh,
đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 8/2003. Tác giả đã nêu mục đích của việc luân
chuyển cán bộ và một số phương châm tiến hành luân chuyển cán bộ.
- Bài viết “Vài suy nghĩ về luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý” của tác giả
Trần Bạch Đằng, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 1/2005. Tác giả chỉ ra một số nguyên tắc


sử dụng quan chức thời phong kiến, thực dân ở nước Việt Nam, nêu lên những hạn chế
trong việc chuẩn bị đầu vào của việc luân chuyển cán bộ và hạn chế trong việc phân biệt
giữa luân chuyển và điều động cán bộ; trong đó tác giả cũng nêu lên một số giải pháp để
luân chuyển cán bộ có hiệu quả.
- Luận văn thạc sĩ: “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Tỉnh uỷ quản
lý ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Tất Thắng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005. Tác giả đã đưa ra các quan niệm luân chuyển, điều động,
thuyên chuyển, vị trí, tầm quan trọng của công tác luân chuyển cán bộ và tác giả đã phân
tích, đánh giá thực trạng công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Tỉnh uỷ
quản lý ở tỉnh Ninh Bình.
- “Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Bắc Giang quản lý giai đoạn hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Năng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh năm 2006. Tác đã đề cập đến quan niệm và tác dụng của luân chuyển cán bộ, trong
đó tác giả đã nêu thực trạng luân chuyển cán bộ tuộc diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ Bắc
Giang quản lý và tác giả đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả luân chuyển
cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
ở Lào:
- Các nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7, khoá V (1993) về
“Phát triển tài nguyên con người ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào”, lần thứ 6 khoá VII
(2003), và các nghị quyết Hội nghị toàn quốc về công tác tổ chức (1991), Hội nghị toàn

quốc công tác cán bộ (1995), đặc biệt gần đây nhất là (2001) có “Chiến lược công cán bộ
giai đoạn 2001 đến 2020”.
- Nghi quyết Bộ Chính trị số 02-NQ/BCT... ngày 14/7/2003 về việc “Bổ nhiệm
và luân chuyển cán bộ” đã xác định mục tiêu chung luân chuyển cán bộ; xác định điều
kiện và cách thức bổ nhiệm, bố trí, luân chuyển cán bộ và quy định còn nói rõ mọi
bước về bố trí, luân chuyển cán bộ.
- Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương số 359/ BTCTW ngày 02/07/2004 về
cách thực hiện Quy định số 02/BTC ngày 14/07/2003. Hướng dẫn đã nói rõ mục đích và
nội dung của công tác luân chuyển cán bộ.


- Luận văn thạc sĩ: “Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Trung ương Đảng
nhân dân cách mạng Lào quản lý giai đoạn hiện nay” của Thong Chăn Khổng Phum
Khăm. Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005. Tác giả đã nêu
khái niệm, mục đích, tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ; tác giả đã làm rõ thực
trạng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
quản lý, ngoài ra tác giả đã nêu nêu phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công
tác quy hoạch cán bộ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu lý luận về luân chuyển cán bộ; phân tích, đánh giá thực trạng công tác
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý, chỉ ra nguyên nhân và
rút ra những kinh nghiệm. Từ đó, luận văn đưa ra phương hướng và những giải pháp chủ
yếu góp phần thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ và nhằm xây dựng được đội ngũ
cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý có đủ trí, lực và bản lĩnh đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng
Khoảng quản lý.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban

TVTU Xiêng Khoảng quản lý từ khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị số 02-NQ/BCT ngày
14/07/2003 về bố nhiệm, luân chuyển cán bộ.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luân văn là công tác LCCB trong hệ thống chính trị ở tỉnh
Xiêng Khoảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


- Về không gian: Công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng
Khoảng quản lý.
- Về thời gian: Đi sâu nghiên cứu, khảo sát công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện
Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý từ khi có Nghị quyết số 02/BCT của Bộ chính trị ngày
14/07/2003 về bố trí, luân chuyển cán bộ, bên cạnh đó có tham khảo công tác này trong
thời gian qua của nước Công hoà dân chủ nhân dân Lào và một số lý luận và thực tiễn của
Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quan điểm của Đảng nhân dân cách
mạng Lào về công tác cán bộ nói chung và công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản là: phương pháp khảo sát
thực tế, thống kê, phân tích tổng hợp; phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp phân
tích hệ thống, phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ quan niệm luân chuyển cán bộ và những tư tưởng chỉ
đạo cơ bản của việc luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý giai
đoạn hiện nay, giúp cho hoạt động thực tiễn có cơ sở lý luận và không nhầm lẫn trong công

tác cán bộ.
- Góp phần đánh giá đúng thực trạng công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban
TVTU Xiêng Khoảng quản lý trong thời gian qua, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề
xuất những giải pháp chủ yếu giúp công tác luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU
Xiêng Khoảng quản lý đạt hiệu quả tốt hơn, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý nói chung và đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản
lý nói riêng.
- Những giải pháp luận văn nêu ra có thể giúp lãnh đạo tỉnh và các cơ quan làm
công tác tổ chức - cán bộ tham khảo, rút kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo thực tiễn công
tác luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý ở từng cấp.


- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu giảng dạy môn xây dựng
Đảng ở hệ thống các trường chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


Chương 1
Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
tỉnh uỷ Xiêng Khoảng quản lý - những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn

1.1. Khái quát về tỉnh, Ban Thường vụ tỉnh uỷ và cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Xiêng Khoảng quản lý
1.1.1. Khái quát về tỉnh Xiêng Khoảng
1.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Xiêng Khoảng là một tỉnh miền núi và cao nguyên, nằm ở vùng Đông Bắc của
đất nước Lào, phía Bắc giáp tỉnh Hoá Phăn, phía Đông Bắc giáp tỉnh Nghệ An, (Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Tỉnh có chiều dài đường biên giới là 164 km, có một cửa

khẩu quốc gia Nằm Cắn (thuộc huyện Nóng Hét, phía Tây giáp tỉnh Luống Phạ Bang, phía
Nam giáp với tỉnh Viêng Chăn và tỉnh Bo Ly Khăm Xay. Tỉnh Xiêng Khoảng có 8 huyện,
toàn tỉnh có 564 bản, có 39.771 hộ dân, dân số 249.287 người, trong đó 123.478 nữ, dân số
tăng 2,94% so với năm 2007-2008. Dân trong tỉnh thuộc các bộ tộc lớn: dân tộc Lào Lùm
44,5%, dân tộc Lào Thơng 8,1%, dân tộc Lào Xúng 38,4%, dân tộc Tay 5%, dân tộc
Phóng 2,4%, và dân tộc khác 1,6%.
Tỉnh có Diện tích 15.880 Km3, trong đó, diện tích rừng 551.252 ha, diện tích đất
nông nghiệp 37.324 ha (trong đó, đất làm ruộng 37.249 ha).
Tỉnh Xiêng Khoảng có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, cho phát triển nền kinh tế, có
núi, rừng, sông, đồng cỏ tự nhiên, có diện tích trồng trọt và chăn nuôi khá lớn có khá năng
nuôi trâu, bò, dê, lợn và trồng cây nông nghiệp.
Tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú như: mở sắt, than đá, vàng ở Phu Bia, đông ở
Phu Thén, Phu Sắn, nhưng các tài nguyên đó các công ty nước ngoài như Trung Quốc và
úc đang kiểm điểm.
Tỉnh có đường quốc lộ số 7 qua tỉnh từ Tây Nam sang Đông, từ tỉnh Luông Phạ
Bang qua các huyện và thị xã Phôn Xạ Văn, kéo dài đến cửa khẩu Nằm Cắn vào tỉnh Nghệ
An (Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Với chiều dài 269 km, quốc lộ 7 rất thuận lợi
cho giao thông vận tải và thương mại trong nước và nước ngoài như Cộng hoà xã hội chủ


nghĩa Việt Nam. Ngoài ra tỉnh còn có đường số 6 tỉnh, từ huyện Khăm đến biên giới tỉnh
Hoá Phăn có chiều dài 96 km...và các con đường khác của địa phương, thuận lợi cho việc
giao lưu kinh tế trong tỉnh và các tỉnh trong nước.
Trong tỉnh có nhiều vùng du lịch tự nhiên và văn hoá cổ xưa như cánh đồng Trum
thuộc huyện Péch cách thị xã Phôn Sạ Vắn 7 km, hồ nước Nóng Tằng thuộc huyện Phu
Cụt cách thị xã Phôn Sạ Vắn 34 km, nguồn nước nóng thuộc huyện Khăm cách thị xã
Phôn Sạ Vắn 65 km, đây là một khu du lịch nổi tiếng của tỉnh khách nước ngoài và các
lãnh đạo từ Trung ương đến tỉnh phải đi tắm nước nóng này.
Tỉnh có nhiều con sông như: nguồn Nắm Ngừm, Nắm Mồ chạy theo phía Đông Bắc
đến huyện Kỹ Sơn tỉnh Nghệ An (Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nắm Xiêng,

Nắm nhuôn, Nắm Săn chạy theo địa bàn của tỉnh, tạo điều kiện rất tuận lợi về xây dựng
kinh tế và cung cấp nguồn nước phục vụ đời sống nhân dân các bộ tộc trong tỉnh.
1.1.1.2. Đặc điểm về kinh tế
Hiện nay, toàn tỉnh có 8 huyện, trong đó có 3 huyện nghèo, dân số 242.149 người,
có 564 bản, có 39.771 hộ dân, trong đó có 6.207 hộ dân nghèo 196 bản nghèo; tổng sản
phẩm quốc nội của tỉnh tăng bình quân 7.8%, bình quân đầu người tính theo giá hiện
hành 4,718,618 Kíp, tính theo giá so sánh 520 USD/người/năm; trong đó nông-lâm
nghiêp tăng 3,6%, công nghiệp tăng 10,7%, dịch vụ tăng 16,5%. Tổng vốn đầu tư của
công ty trong nước và nước ngoài có 19 công ty, trong đo công ty nước ngoài 4 công ty,
đạt được 104.077 triệu kíp, giá so sánh 12235 ngàn USD, Đầu tư phát triển có trọng
điểm, trọng tâm hơn, góp phần làm thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp, tuy gắp khó khăn về giá cả, thời tiết, dịch bệnh nhưng cũng
đã phát triển tương đổi toàn diện, cơ câu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi đa dạng, tăng
tích luỹ nội bộ ngành; trồng trọt phát triển các vùng chuyên canh theo hướng sản xuất
hàng hoá gắn với thị trường; chăn nuôi đã có bước phát triển theo hướng công nghiệp,
quy mô lớn, tập trung; sản xuất lâm nghiệp được chuyển dần theo hướng xã hội hoá.
Các ngành dịch vụ, hoạt động thương mại tiếp tục phát triển theo hướng thị
trường hàng hoá phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng được mở rộng, đáp ứng được nhu cầu
mua và bán của nhân; các loại hình giao dịch thương mại văn minh, hiện đại. Ngoài nhân


dân buôn bán giao lưu hàng hoá trong tỉnh, còn có hàng xuất khẩu trong nước trị giá
6.911 triệu USD, phần lớn là xuất khẩu Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Trung
Quốc, hàng hoá chủ yếu là ngô, gạo, trâu, bò và cây nông nghiệp. Nhập khẩu trong nước
trị giá 13.738 triêu USD, chủ yếu là hàng hoá công nghiệp, máy móc phục vụ nông
nghiệp, vật liệu xây dựng và phụ tùng phương tiện.
Đặc điểm về chính trị, văn hoá- xã hội
Thực trạng về chính trị, đến nay có sự ổn định, cán bộ, đảng viên có yên tâm công
tác và đời sống của nhân dân tương đổi ổn định, cán bộ, đảng viên và nhân dân có sự tin
tưởng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Lãnh đạo của tỉnh đã hết sức mình chỉ đạo

và quản lý nhân dân toàn tỉnh; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố; vai trò và hiệu lực
lãnh đạo, quản lý của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân tiếp tục được tăng
cường; quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở ngày càng được phát huy; công tác xây dựng
Đảng được chỉ đạo thực hiện trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên
được chăm lo xây dựng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội
ngũ đảng viên được nâng cao từng bước; tỉnh uỷ đã xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện
có kết quả một số chỉ thị, nghị quyết, chuyên đề, chương trình và nhiều đề án lớn về công
tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ có chiến biến tích cực, cán bộ
được đi đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng lên.
- Về văn hoá - xã hội.
+ Về giáo dục, tỉnh đã chăm lo tuyên truyền, khuyến khích nhân dân góp phần đầu
tư để đẩy mạnh giáo dục, phát triển trường học các cấp. Trường học đã đến với nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, hiện nay toàn tỉnh có 53 trường phổ thông mầm non và mẫu giáo...,
trong đó tiểu học có 478 trường. Nhìn chung sự phát triển về giáo dục thể hiện khá rõ nét
sau mỗi năm.
+ Về y tế, tỉnh đã quan tâm và phát triển mạng lưới y tế xuống cơ sở. Toàn tỉnh có 1
bệnh viện và 1 bệnh viện 101 quân đội, các huyện có 1 bệnh viện, trạm xã: có 48. Các cơ
sở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có hiệu thuộc tạo điều kiện cho nhân dân các bộ tộc được
khám chữa bệnh nhiều hơn và chăm sóc sức khoẻ của bà mẹ, trẻ em. Việc hạn chế sự phát
triển của bệnh sốt rét, bệnh pô ly ô được đặc biệt quan tâm. Nhờ đó, tỷ lệ chết của bà mẹ


và trẻ em ở tỉnh đã giảm xuống rõ rẹt, tỷ lệ chết của trẻ dưới 5 tuổi 90,4/ 1000 người. Dân
số toàn tỉnh được chăm sóc và y tế ở những mức độ khác nhau.
+ Về văn hoá-xã hội, thể dục thể thao, tỉnh Xiêng Khoảng là một tỉnh bị chiến tranh
tàn phá nhiều nhất so với các tỉnh trong nước, các công trình kiến trúc cổ xưa về văn hoá
bị tàn phá hậu hết. Tuy nhiên, tỉnh Xiêng Khoảng có nhiều địa danh đặc sắc về văn hoá
trên cả nước như: Lăm Phuôn (Hát đôi nam nữ), Phon Bắng Phay (múa lễ hội); đặc biệt
tỉnh Xiêng Khoảng còn có văn hoá cổ xưa như cánh đồng Trum nổi tiếng trên cả nước và
thể giới, đang chuẩn bị thuộc về di sản văn hoá thể giới; tỉnh là một trong những địa

phương có truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng, truyền thống đó phát triển
cùng sự định hình của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, tiếp tục phát triển, vừa tạo phong trào
rèn luyện thân thể trong các tầng lớp nhân dân, vừa bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ vận động
viên nâng cao thành tích thi đấu ở tỉnh và trong nước.
+ Về an ninh quốc phòng, tỉnh Xiêng Khoảng là một địa bàn chiến lược của Vàng
Pao, lưc lượng đặc biệt của đế quốc Mỹ, trước giải phóng, cho nên tỉnh Xiêng Khoảng là
trọng điểm về an ninh quốc phòng. Từ khi giải phóng đến nay tỉnh thường xuyên và trực
tiếp bị tác động của tình hình khá phức tạp do hoạt động của bọn phỉ trong tỉnh, bọn phán
động quốc tế và phản động Lào lưu vong ở ngoài nước chống phá cách mạng. Trong
những năm qua tình hình bên trong, tuy có bước phát triển có lợi nhưng chưa vững chắc,
còn nhiều yếu tố có thể gây mất ổn định về chính trị.
Về mặt tâm lý và tin ngưỡng, qua khảo sát thực tế cư dân của tỉnh Xiêng Khoảng và
các huyện trong tỉnh có thể chia cư dân làm hai bộ phận, cư nhân tại chỗ và cư dân mới
đến:
Cư dân tại chỗ bao gồm cư dân các bộ tộc đã cư trú ở vùng sâu, vùng xa, hằng trăm
năm, thuộc ba thành phần lớn: Lào Lùm, Lào Thơng, Lào Súng. Các bộ tộc có hàng chục
nhóm địa phương khác nhau. Đặc điểm cơ bản của nhóm cư dân này là dựa trên nền tảng
của công xã nông thôn mang nhiều tính chất cổ truyền, sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp,
công cụ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động chưa phát triển.


Cư dân mới đến bao gồm cư dân thành thị và cư dân của tỉnh khác di cư đến làm ăn
sinh sống sau giải phóng do cán bộ của Đảng và nhà nước đưa lên với ý định làm một trong
những lực lượng trụ cột để xây dựng vùng kinh tế mới.
Tỉnh có đầu tư trong việc bảo tồn tôn tạo các khu di tích văn hoá nổi tiếng của tỉnh, của
địa phương, kết hợp việc phát triển kinh tế, khoa học công nghệ với việc bảo đảm giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc và an ninh - quốc phòng.
Tuy nhiên, đến nay Tỉnh Xiêng Khoảng vẫn là một trong tỉnh chậm phát triển: kinh
tế phát triển chưa vững chắc, mức tăng trưởng còn thấp so với khu vực và chưa tương

xứng với tiềm năng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu, doanh nghiệp còn nhỏ bé, khả
năng hội nhập kinh tế quốc tế còn thấp; cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng chưa theo kịp nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội. Một số vấn đề về y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, môi trường
còn bất cấp. Công tác xây dựng Đảng có mặt làm chưa tốt, năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm nhiệm vụ; công tác giáo dục tư tưởng chính trị
ở nhiều nơi hiệu quả thấp, một số cấp uỷ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị chưa thực
hiện tốt việc đánh giá cán bộ; công tác đào, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, dân tộc thiếu số còn một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Tổ chức, hoạt động
của bộ máy chính quyền các cấp có mặt còn kém hiệu quả. Tất cả những thành tựu và hạn
chế nói trên có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, những nguyên nhân trực
tiếp và quyết định nhất đó chính là đội ngũ cán bộ mà trước hết là đội ngũ cán bộ thuộc
diện Ban TVTU quản lý.
1.1.2. Khái quát về Ban Thường vụ Tỉnh ủy Xiêng Khoảng
- Đặc điểm của Ban Thường vụ tỉnh uỷ
Đại hội lần thứ V, ngày 15-17/06/2005 Đại hội Đảng bộ Tỉnh uỷ đã bầu Ban TVTU
gồm, 7 đ/c, 0 nữ. Độ tuổi, từ 50 đến 55 tuổi: 2/7; 56 đến 60 tuổi: 4/7; 61 tuổi có 1/7.
Trình độ chuyên môn: Đại học 2/7 (chiếm 28,57%); cao đẳng 3/7 (chiếm 42,85%);
trung cấp 1/7 và sơ cấp 1/7 (chiếm 14,28).
Trình độ lý luận: tiễn sĩ 1/7; cao cấp 6/7 đồng chí.
Nhìn chung, Ban TVTU Xiêng Khoảng trình độ chuyên môn thấp, độ tuổi cao,
nhưng các đồng chí đã có kiến thức, kinh nghiệm, có khá năng và mức độ thành thảo công


việc để thực hiện và làm chọn nhiệm vụ; được nhân dân tin tưởng, có uy tín và trách nhiệm
cao.
Về cơ cấu: Tỉnh Xiêng Khoảng là một tỉnh có đặc diểm riêng và khác với tỉnh khác,
các tỉnh khác của Lào thì Bí Thư Tỉnh uỷ và Chủ tịch Tỉnh là chung một người, nhưng ở
tỉnh Xiêng Khoảng Bí thư và Chủ tịch Tỉnh là hai người. Vì vậy, ở cấp tỉnh về tổ chức
Đảng có Bí thư và Phó Bí thư Tỉnh uỷ; về tổ chức chính quyền có Chủ tịch Tỉnh và Phó
Chủ tịch Tỉnh. Trong Ban TVTU có một Ban thường trực Tỉnh uỷ và một Ban Thường

trực công tác chính quyền. Bí thư Tỉnh uỷ là người lãnh đạo trực tiếp để tiến hành đường
lối, chính sách của Đảng, Nghị quyết, quyết định của cấp trên và Nghị quyết Đại hội Đảng
cấp mình trở thành kế hoạch để thực hiện và chỉ đạo tổ chực thực hiện; chỉ đạo các tổ chức
Đảng và công tác Đảng. Chủ tịch Tỉnh là đảm bảo tổ chức thực hiện hiến pháp, pháp luật,
quy định và trật tự của nhà nước; thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế –
xã hội và an ninh – quốc phòng; quy định và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
– xã hội và kế hoạch ngân sách hàng năm của tỉnh; chỉ đạo công tác nhà nước. Trong đó
Ban TVTU đã phân chia lĩnh vực phụ trách như công tác kinh tế – xã hội; công tác xây
dựng Đảng và cán bộ; văn hoá, tôn giáo; công tác đoàn thể quần chúng và an ninh- quốc
phòng.
- Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ban TVTU
+ Vị trí, vai trò: Ban TVTU là những người được Tỉnh uỷ viên bầu cử
hoặc Ban Chấp hành Trung ương cử để lãnh đạo – quản lý mọi công việc, là người đứng
đầu trong tổ chức Đảng và chính quyền cấp tỉnh và thay mặt cho tổ chức Đảng và Chính
quyền cấp Trung ương tại địa phương. Ban TVTU là người đưa đường lối đổi mới cuả
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến nhân dân trong tỉnh và chỉ đạo tổ chức thực
hiện.
+ Chức năng, nhiệm vụ, Trong điều lệ Đảng nhân dân cách mạng Lào, điều 21 đã
quyết định chức năng, nhiệm vụ của Ban TVTU như sau:
- Phụ trách trực tiếp với Ban Chấp hành Trung ương về kết quả và thiệt hại
trong tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, đường lối, chính sách,
điều lệ, pháp luật của Đảng và Nhà nước.


- Lãnh đạo hoạt động toàn đảng uỷ giữa hai Đại hội trong tổ chức thực hiện
Nghị quyết của Đại hội cấp mình, tăng cường củng cổ đoàn kết thống nhất và
kiển cách làm việc giữa Đảng uỷ với cơ quan chính quyền cơ sở và đoàn thể.
- Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị và lãnh đạo các tổ chức ở cơ sở
làm chọn nhiệm vụ chính trị của mình.
- Xây dựng Đảng uỷ và các tổ chức Đảng cấp mình trong sạch, vững mạnh;

góp phần xây dựng và quán triệt đường lối, chính sách của Đảng để tổ chức thực
hiện cụ thể; bàn bạc thoả thuận, thừa nhận các chính sách, nhiệm vụ quan trọng
của Đảng uỷ, xây dựng - quản lý cán bộ, đảng viên, quản lý tài chính của Đảng
thuộc quyền trách nhiệm của mình.
- Lãnh đạo cơ quan chính quyền, mặt trận tổ quốc, đoàn thể và cơ quan tổ
chức xã hội khác hoạt động đúng theo chức năng, nhiệm vụ của mình; lãnh đạo,
kiểm tra cơ quan quản lý địa phương tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, nâng cao cuộc sống của nhân dân, động viên
quần chúng nhân dân góp phần xây dựng cơ quan quản lý địa phương, đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân.
- Bàn bạc, thừa nhận chỉ thị của Đại hội và kết quả bầu cử Ban cán sự
Đảng cấp dưới; Bàn bạc phê duyệt nhận quần chúng tiến bộ vào Đảng; thực hiện
kỷ luật tổ chức Đảng và đảng viên thuộc quyền quản lý của mình.
- Tham khảo bố trí đảng viên, tổ chức Đảng uỷ cơ sở, tổ chức cơ sở Đảng
phù hợp với nhiệm vụ chính trị và tiến hành kiểm tra theo dõi, thường xuyên
thúc đẩy tổ chức Đảng cấp dưới. Quyết định về công tác cán bộ như, đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý, bố trí, xử dụng cán bộ và thực hiện chính sách đổi với cán
bộ, đảng viên thuộc quyền quản lý của mình [55, tr.48-51].
Dựa vào chức năng, nhiệm vụ đã nêu trên, Ban TVTU Xiêng Khoảng
đã phần chia phụ trách công việc và khu vực quản lý như sau:
1. Ban TVTU, Bí thư Tỉnh uỷ, phụ trách chỉ đạo chung mọi công việc, mọi lĩnh
vực; đi sâu phụ trách chỉ đạo công tác tư tưởng, công tác xây dựng Đảng và cán bộ, an
ninh - quốc phòng; chỉ đạo huyện Pách.


2. Ban TVTU, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Tỉnh. Phụ trách chỉ đạo mọi công việc
hành chính của tỉnh; đi sâu chỉ đạo công tác xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội, xây dựng kế hoạch ngân sách hằng năm, hằng kỳ đạt được mục đích,
yêu cầu; chỉ đạo công tác quản lý nhà nước – quản lý xã hội theo pháp luật; chỉ đạo huyện
Phu Cút.

3. Ban TVTU, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, phó Chủ tịch Tỉnh. Ban Thường trực nhà nước
Tỉnh. Chỉ đạo văn phòng tỉnh uỷ và các cơ quan thuộc văn phòng tỉnh; Chỉ đạo huyện
Mọc.
4. Ban TVTU, phó chủ tịch Tỉnh. Phụ trách chỉ đạo kinh tế, văn hoá - xã hội và
công tác Biên giới.
5. Ban TVTU; Trưởng Ban tổ chức tỉnh. Uỷ viên Ban thường trực Tỉnh uỷ. Chỉ đạo
công tác xây dựng Đảng – công tác cán bộ, công tác văn hoá - xã hội; chỉ đạo huyện Nóng
Hét.
6. Ban TVTU, Chủ tịch mặt trận tổ quốc tỉnh. Chỉ đạo công tác đoàn thể và tôn
giáo; chỉ đạo huyện Khun.
7. Ban TVTU, Trưởng Ban chỉ huy quân đội tỉnh. Giúp Bí thư Tỉnh uỷ chỉ đạo công tác
an ninh – quốc phòng. Ban thường trực về an ninh – quôc phòng.
1.1.3. Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ Xiêng Khoảng quản lý
- quan niệm, vai trò và đặc điểm
1.1.3.1. Quan niệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Xiêng Khoảng
quản lý
Cán bộ là một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới sắn sàng chịu
dựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập
tự do cho dân tộc. Tên gọi cán bộ đã từng để lại dấu ẩn đẹp trong lịch sử của Việt Nam
cũng như Lào.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ rõ, để
đặt chính sách cho đúng” [18, tr.269].


Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý là những cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt, quan trọng của cấp tỉnh, cấp huyện và các ban, ngành trong tỉnh, Đây là
những người giữ vai trò quyết định đề ra các chủ trương, chính sách trong tỉnh và tổ chức
thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung ương và địa phương.

Trong thời gian gần đây thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng NDCM Lào,
tỉnh Xiêng Khoảng đã dần dần hình thành sự phân loại cán bộ trong hệ thống chính trị, bao
gồm các loại chủ yếu sau: Cán bộ lãnh đạo (trong đó có cán bộ lãnh đạo chính trị các cấp,
các ngành, địa phương và cơ sở); cán bộ quản lý(quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản
lý sản xuất kinh doanh, quản lý các đoàn thể quần chúng); cán bộ chuyên gia. Trong đó, có
nói đến đội ngũ cán bộ thuộc diện BTVTU quản lý. Hướng phân loại trên có ý nghĩa thực
tiễn, vì nó gắn với công việc chủ yếu của từng loại cán bộ. Mỗi loại cán bộ đều có vị trí,
vai trò nhất định trong xã hội. Do đó, cần phân biệt các loại cán bộ trước hết là ccán bộ
lãnh đạo và cán bô quản lý.
Theo từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô (trước đây) thì cán bộ lãnh đạo có hai
nghĩa:
Thứ nhất, cán bộ lãnh đạo là chỉ người đứng đầu của một tổ chức, một phong trào.
Thứ hai, cán bộ lãnh đạo là những người làm thức tỉnh hành vi của người khác.
Hiểu theo cách thông thường thì khái niệm cán bộ lãnh đạo được hiểu là bao gồm
những ai giữ chúc vụ và trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hướng lớn đến hoạt
động của tổ chức, của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điểu khiển hoạt động của cả
bộ máy. Ví dụ như các uỷ viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Trưởng, Phó các đoạn
thể, cơ quan, đơn vị v.v...
Trong bộ phận cán bộ lãnh đạo, có một nhóm được gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một tập thể, có
quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều chính một tập thể,
một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoăc tổ chức ấy, thâm
chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Trong mỗi tổ chức đều có người lãnh đạo. Nhiều tổ chức có tập thể lãnh đạo, trong
tập thể lãnh đạo có người đứng đầu. Người đó là cán bộ chủ chốt. Vậy cán bộ lãnh đạo chủ


chốt là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối chính toàn bộ hoạt động của
một tổ chức nhất định.
Đây là một bộ phận cán bộ rất quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của tổ

chức và của cả hệ thống chính trị.
Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý, tôi đã nói ở đây chính là
chính là cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý. Hiện nay
ở Lào cũng như ở Việt Nam, khái niệm cán bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ
quản lý; cán bộ quản lý cũng là người đứng đầu của một tổ chức, nhưng nhấn mạnh việc
điều hành của một tổ chức, việc sử dụng công cụ, phương tiện để điều khiển một loại hoạt
động nào đó.
Như vậy, nội hàm khái niệm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có những điểm
giống nhau: cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều là chủ thể ra quyết định, điều khiển
hoạt động của một tổ chức; người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện chức năng quản lý
và người cán bộ quản lý cũng phải thực hiện chức năng lãnh đạo, nên khó có thể phân biệt
rạch ròi đau là người lãnh đạo, đâu là người quản lý.
Tuy nhiên, khái niệm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý không hoàn toàn đồng nhất
với nhau. Trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng cho khách thể thông
qua hệ thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách làm thức tỉnh hành vi của đối
tượng, định hướng hoạt động của đối tượng và xã hội, Còn hoạt động quản lý mang tính
điều khiển, vận hành thông qua những thiết chế có tính pháp lệnh được quy định từ trước.
Cán bộ quản lý còn được hiểu với nghĩa là người điều hành, nhà quản lý. Họ là
những người có chức trách và nhiệm vụ diều khiển, tổ chức và phối hợp thực hiện hoạt
động chuyên môn trong một khâu, một công đoạn, một chương trình, dự án...
Xét trên tổng thể, chức năng quản lý là sự tiếp tục chức năng lãnh đạo, là yêu tố, là
khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo. Sự khác nhau giữa cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản
lý chỉ là tương đối, nhưng lại rất cần thiết cho công tác tổ chức cán bộ, làm cơ sở cho việc
xác định tiêu chuẩn, chức năng của người cán bộ quản lý, bộ máy quản lý; tránh sự trùng
lặp, chồng chéo giữa người cán bộ lãnh đạo và người cán bô quản lý.


ở cả hai phạm vi, người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý đều phải là người
giỏi nghiệp vụ chuyên môn, có đủ năng lực và phẩm chất để định hướng điều khiển, chỉ
huy, phải có khá năng tổ chức công việc và đoàn kết cộng đồng.

Như vậy, có thể hiểu cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý là người
đứng đầu trong hệ thống bộ máy đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã
hội tỉnh và các doanh nghiệp nhà nước; những người đứng đầu bộ máy đảng, chính quyền
cấp huyện và ở các sở, ban, ngành tỉnh, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đường lối,
nhiệm vụ chính trị, điều hành công tác, chỉ đạo cán bộ, công trực thuộc quyền quản lý của
mình hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của địa
phương. Vì thể, cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng Khoảng quản lý, chính là cán bộ lãnh
đạo, quản lý của tỉnh.
Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý còn gắn liền với vấn đề phân
cấp quản lý cán bộ. Theo đó, Bộ Chính trị quy định và xác định những chức danh cán bộ
mà Ban TVTU quản lý và quyền hạn, nhiệm vụ quản lý. Cụ thể hoá Quyết định số 02
NQ/BCT của Bộ Chính trị ngày 17/10/2006 về phân cấp quản lý cán bộ. Các chức danh
thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý gồm:
ở cấp tỉnh, Bí thư, phó bí thư Đảng bộ tỉnh; Trưởng ban, Phó Trưởng ban tỉnh. phó
trưởng ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch Mặt trận tố quốc tỉnh; Bí
thư, Phó Bí thư Tỉnh Đoàn thanh niên; Chủ tịch, phó Chủ tịch Họi Liên hiệp phụ nữ tỉnh;
Giám đốc, Phó Giám đốc các sở, ngành trong tỉnh và tương đương; Giám đốc, Phó Giám
đốc công ty doanh nghiệp nhà nước thuộc diện tỉnh; Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng Trường
Chính trị tỉnh; Chánh án, Phó Chánh Toà án nhân dân tỉnh; Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm,
Uỷ viên Uỷ Ban kiểm tra tỉnh uỷ; Chánh, Phó văn phòng Tỉnh uỷ;
ở cấp huyện, Phó Chủ tịch huyện, Phó Bí thư huyện uỷ và Huyện uỷ viên.
Qua các chức danh thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý theo thống kê
năm 2008 của Ban tổ chức tỉnh uỷ có 204 người
Có thể nói đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý là lực lượng
được lựa chọn, tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, về sự kiên định, vững vàng và có


khá năng đáp ứng yêu cầu các nhiệm vụ được giao. Số lượng và chất lượng có bước phát
triển, có cơ cấu tương đối hợp lý.
1.1.3.2. Vai trò, đặc điểm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Xiêng

Khoảng quản lý
+ Vai trò, cán bộ là người đem đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước để
tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân; gương mẫu đi đầu và cùng nhân dân thực hiện.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, cán bộ phải nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,
thu nhận được kinh nghiệm thực tiễn để phản ánh với Đảng và nhà nước hoàn thiện đường
lối, chính sách ngày càng phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Chính vì vậy mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” “Công việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [18, tr.269, 273]. và Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, chỉ rõ: “Cán bộ có vai trò
quan trọng quyết định sự thành công và thất bại về tổ chức thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước” [54, tr.45].
Trong đội ngũ cán bộ, thì cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý là
những người đứng đầu một ngành, một địa phương, một đơn vị công tác chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính tri, điều hành công tác, chỉ đạo cán bộ, công
chức thuộc quyền quản lý của mình hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Vì vậy, Cán bộ
thuộc diện Ban TVTU quản lý là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ cán bộ, là nhân tố quan
trọng nhất trong bộ máy tổ chức của Đảng và nhà nước ở địa phương.
Thời kỳ mới của cách mạng hiện nay đòi hỏi rất lớn ở đội ngũ cán bộ nói chung,
trước hết là cán bộ lãnh đạo quản lý. Đảng nhân dân cách mạng Lào đã trở thành đảng cầm
quyền, hoạt động của Đảng và Nhà nước mở ra rất nhiều lĩnh vực hơn trước, từ kinh tế,
văn hoá, xã hội, đến an ninh-quốc phòng, từ đối nội đến đối ngoại...phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý giàu trí tuệ, có năng lực và phẩm chất cách mạng,
được phân bố trên nhiều lĩnh vực khác nhau, được bố trí ở các ngành từ Trung ương đến
cơ sở.
Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý là những người có vai trò
quan trọng trong việc định ra và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiêm vụ, mục tiêu kinh tế


-xã hội tròng thời kỳ phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình này, Tỉnh
uỷ truyền đạt và trực tiếp cụ thể hoá, tổ chức tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân

dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; những chương
trình hành động cụ thể, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương; tổ chức lãnh đạo
cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch đó. Với nhiệm vụ
này, Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý giữ vị trí, vai trò là trung tâm
định hướng, điều khiển hoạt động của các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, các huyện, đảng
uỷ trực thuộc, tác động trực tiếp và quyết định đến sự phát triển trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong tỉnh.
Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý chủ trì toàn bộ các công việc
của cấp uỷ, cấp huyện; công việc của các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh; trực tiếp nắm
các khâu trọng yếu, trọng tâm, những vấn đề mới phát sinh, cơ mật của địa phương. Cán
bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý có vai trò là trung tâm đoàn kết trong
Đảng bộ tỉnh, mà trực tiếp là các huyện, đảng uỷ trực thuộc, các sở, ban, ngành, đoàn thể
tỉnh; là nguồn bổ sung cán bộ cho cấp trên, nhất là cán bộ chủ chốt của tỉnh, các bô, ban,
ngành, đoàn thể Trung ương.
Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý trên cơ sở những quan điểm,
đường lối, chủ trương chung của Đảng và nhà nước, đồng thời xuất phát từ tri thức của
mình, từ sự am hiểu điều kiện thực tế về tự nhiên, kinh tế-xã hội...của tỉnh, họ là những
người đầu tiên nêu ra phương hươnngs, nhiệm vụ để tập thể có thẩm quyền ở địa phương,
đơn vị quyết định và họ là những người chủ trì tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ
đó theo trức trách của mình. Nếu định ra phương hướng, nhiệm vụ đúng, phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương và tổ chức thực hiện tốt, rút ra được những kinh nghiệm thực
tiễn, thì đường lối, chính sách của Đảng trở thành kết quả cụ thể, thúc đẩy kinh tế-xã hội
của tỉnh phát triển; nều không đúng và không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển đó.
Cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý là người tuyên truyền, tổ chức,
hướng dẫn, duy trì các hoạt động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh. Chính các
phong trào hoạt động thực tiễn ấy lại là môi trường rèn luyện, thử thách, sàng lọc và phát
triển cán bộ; là những chịu trách nhiệm trực tiếp trong xây dựng tổ chức, đặc biệt là trong


công tác cán bộ vận hành có hiệu quả, đồng thời họ cũng là người đảm trách công việc

chuyển giao thế hệ, bố trí, tổ chức bộ máy, là người chịu trách nhiệm về tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ đồng bộ, phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng
khoảng quản lý phải có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức ngang tầm nhiệm vụ
mới; phải là tấm gương để những người dưới quyền và quần chúng nhân dân noi theo, là
trung tâm đoàn kết tập hợp mọi nguồn nhân lực, trí lực, vận lực ở địa phương, tổ chực và
phát huy sức mạnh tập thể.
+ Đặc điểm:
Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý là những người có chức
vụ, có vai trò nòng cốt trong hệ thống chính trị của tỉnh, có tác động ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của hệ thống chính trị của tỉnh, góp phần quyết định vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng
Đảng... ở địa phương.
Nhìn chung, trong quá trình hình thành và phát triển, đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
TVTU Xiêng khoảng quản lý có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và tư tưởng của Bác Kay-Xỏn Phôm-Vị-Hản, mục tiêu, con đường mà Đảng
nhân dân cách mạng Lào đã lựa chọn; quán triệt và chấp hành nghiêm tục các chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, pháp luật của nhà nước...
- Số đông cán bộ giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, có lối sống
lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; truyền thống đoàn kết
được giữ vững, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
- Năng động, hăng hái thực hiện chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và nhà
nước. Trình độ, kiến thức và năng lực quản lý kính tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng
cao, nhiều cán bộ được thông qua công tác và đào tạo tại các trường lý luận của Đảng,
nhiều đồng chí thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm.
Tuy vậy, nhìn tổng quát đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản
lý hiện nay vẫn còn hẫng hụt, vừa chưa đồng bộ, nhất là trên một số mặt như cơ cấu giới



(tỷ lệ nữ rất thấp); cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo còn hạn chế; số lượng đội ngũ cán
bộ koa học kỹ thuật còn mỏng, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ
ngày nay; cơ cấu độ tuổi chưa hợp lý, nhiều huyện tuổi bình quân vẫn còn cao, thiếu cán
bộ kế cận, dự bị, kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý còn có mặt bất cấp, nhất là kiến
thức về quản lý kinh tế, về pháp luật, về cơ chế tổ chức và phương thức công tác. Một số
cán bộ còn bị động, lúng túng, thiếu năng động sáng tạo để thích ứng với cơ chế mới,
phong cách lãnh đạo, điều hành chậm đổi mới. Nhìn chung, năng lực lãnh đạo trong điều
kiện hiện nay còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban TVTU Xiêng khoảng quản lý
còn nhiều cán bộ chưa có bằng lý luận chính trị, nhất là ở các cơ quan doanh nghiệp nhà
nước, trình độ chuyên môn thì cao, trình độ ly luận thì chưa có.
1.2. Quan niệm, vai trò, nguyên tắc và quy trình luân chuyển cán bộ thuộc diện
Ban thường vụ tỉnh uỷ Xiêng Khoảng quản lý
1.2.1. Quan niệm và vai trò của luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Xiêng Khoảng quản lý
1.2.1.1. Quan niệm về luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Xiêng Khoảng quản lý
Luân chuyển cán bộ là tính thường xuyên của công tác cán bộ trong các tổ chức
đảng, nhà nước và đoàn thể, là chu chuyển đảm nhiệm chức vụ ở nơi cũ để chuyển đảm
nhiệm chức vụ ơ nơi mới theo yêu cầu của công việc.
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ luân chuyển là một từ ghép Hán-Việt, trong đó luân
là sự thay đổi có tính chất thứ tự, lần lượt, luân phiên; còn chuyển ở đây có nghĩa là dịch
chuyển từ chỗ này đến chỗ khác. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì luân chuyển có nghĩa là
chuyển đổi lần lượt theo vòng.
Thuật ngữ luân chuyển cán bộ, đặt dưới góc độ xây dựng Đảng để xem xét thì đó là
một khái niệm chỉ sự thay đổi tương đối toàn diện đối với một cán bộ, trước hết là thay đổi
về vị trí thực thi nhiệm vụ, chuyển đổi từ chức vụ lãnh đạo, quản lý này sang chức vụ lãnh
đạo, quản lý khác; đồng thời kèm theo sự thay đổi về quyền hạn, trách nhiệm, địa điểm
công tác và những thay đổi về chế độ, chính sách của cán bộ. Cùng với sự thay đổi về cá



nhân cán bộ. Đổi với tổ chức, đó là sự biến động về nhân sự ở cơ quan nơi cán bộ đi và
đến cũng có sự thay đổi nhất định.
Trong các khâu của công tác cán bộ có một số hoạt động nội dung gần như nhau,
đòi hỏi phải chỉ ra những điểm đặc thù dể gây nhầm lẫn về mặt nhận thức và thuận tiện
trong chỉ đạo thực hiện; đó là những khái niệm về điều động, Bổ nhiệm, bố trí và luân
chuyển cán bộ mà chúng ta cần làm rõ. Các khái niệm này đều có điểm chung nhau và có
điểm khác nhau, nhưng ở đây tôi chỉ làm rõ khái niệm về luân chuyển cán bộ.
Luân chuyển cán bộ là, sự thay đổi có thời hạn mang tính luân phiên, tức là có
chiều đi và có chiều về như tác giả Bùi Văn Tiếng đã nói: “Nói đến luân chuyển cán bộ là
nói đến sự hoán chuyển vị trí thực thi công vụ giữa cán bộ này với cán bộ khác, là thay đổi
nhiệm sở theo kiểu quay vòng nhằm tạo nên chất lượng công tác cao hơn” [25, tr.26]. Theo
tác giả Bùi Đức Lại: Nội dung luân chuyển cán bộ có hai vòng, nhiều dạng. LCCB không
phải đơn thuần là “Quay vòng” cán bộ như cách hiểu của một số đồng chí. Nếu chỉ là quay
vòng đơn thuần thì tác dụng của luân chuyển rất hạn chế. Tuy theo tính chất của sự luân
chuyển (luân chuyển nhằm mục đích gì, cán bộ thuộc diện đối tượng nào trong ba đối
tượng: cán bộ kế cận trong quy hoạch cần tiếp tục được đào tạo trong thực tiễn một số lĩnh
vực, nhất là thực tiễn lãnh đạo toàn diện ở cấp dưới; cán bộ một số chức danh lãnh đạo đã
giữ cùng chức vụ ở cùng một nơi hai nhiệm kỳ; cán bộ một số chức danh lãnh đạo, quản lý
có chủ trương hạn chế bố trí người địa phương), yêu cầu đào tạo cụ thể và sức phấn đấu,
tiến bộ của từng cán bộ, theo yêu cầu của công việc, sau “vòng đi”, đối với một số trường
hợp có “vòng về”, với nhiều dạng khác nhau.
“Vòng đi” có nhiều dạng sau: chuyển lĩnh vực hoạt động (Đảng, chính quyền, đoàn
thể, chuyên môn, nghiệp vụ, lãnh đạo, quản lý); chuyển ngang cấp, ngang chức sang địa
phương, đơn vị khác; chuyển xuông cấp dưới, lên cấp trên có vị trí tương đương hoạc đôi
khi thấp hơn(có một số trường hợp nhằm mục tiêu đào tạo là chính). Nghị quyết quy định
thời gian luân chuyển tối thiểu là 3 năm. Đây là thời gian cần thiết để việc luân chuyển
phát huy tác dụng. Điều này không có nghĩa là đối với mọi trường hợp luân chuyển, sau 3
năm nhất thiết phải kết thúc “vòng đi”, có những trường hợp đi do yêu cầu công việc, sự
phát triển và nguyện vọng của cán bộ thì người cán bộ đó tiếp tục công tác, phát huy tác



×