Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Lợi thế so sánh các mặt hàng nông sản việt nam và giải pháp để khai thác những lợi thế so sánh đó trong thời ký khủng hoảng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.83 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC1 NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----***----KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
-----***-----

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên LUẬN
ngành: Kinh
doanh
quốc tế
KHÓA
TỐT
NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh doanh quốc tế
Tên đề tài:
Lợi thế so sánh các mặt hàng nông sản Việt Nam và giải pháp để khai thác những lợi thế
Tên đề
so sánh đó trong thời ký khủng hoảng kinh
tế tài:
Lợi thế so sánh các mặt hàng nông sản Việt Nam và giải pháp để khai thác những
lợi thế so sánh đó trong thời ký khủng hoảng kinh tế.

Họ và tên sinh viên : Trương Thị Xuân Quỳnh
Mã sinh viên

: 0955010026

Lớp
: Anh23 - KT&KDQT
Họ và tên sinh viên: Trương Thị Xuân Quỳnh


Khoá
: 48
Mã sinh viên: 0955010026
Giáo viên hướng dẫn: Th.S. Nguyễn Hồng Trà My
Lớp: Anh23 - KT&KDQT
Khoá: 48
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Giáo viên hướng dẫn: Th.S. Nguyễn Hồng Trà My
Hà Nội, tháng 4 năm 2013


2

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
Chương 1........................................................................................................................... 4
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LỢI THẾ SO SÁNH VÀ NÔNG SẢN..............................4
Chương 2......................................................................................................................... 21
LỢI THẾ SO SÁNH CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM.................................................21
Chương 3......................................................................................................................... 54
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC LỢI THẾ SO SÁNH CỦA
NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TỪ
NĂM 2008 ĐẾN NAY....................................................................................................54
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 62
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã hoàn
thành các nhiệm vụ sau:................................................................................................62


1

DANH MỤC BẢNG BIỂU



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, ngành nông nghiệp vẫn luôn là ngành chiếm tỉ trọng lớn nhất
trong cơ cấu sản xuất của nước ta. Việt Nam đi lên từ nền văn minh lúa nước nên nông
sản cũng chính là một thế mạnh truyền thống của chúng ta chính vì chúng ta có lợi thế
so sánh trong lĩnh vực này. Hơn thế nữa, trong những năm tới đối với Việt Nam, nông
nghiệp vẫn là một ngành kinh tế quan trọng. Do vậy, việc phát huy lợi thế trong sản
xuất và xuất khẩu nông sản không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy phát
triển một nền nông nghiệp hàng hóa , đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, mà còn là
vấn đề có tính chiến lược đối với việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhận
biết được sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài này nên người viết đã lựa chọn đề tài
“Lợi thế so sánh các mặt hàng nông sản Việt Nam và giải pháp để khai thác
những lợi thế so sánh đó trong thời ký khủng hoảng kinh tế”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Qua khóa luận, người viết mong muốn phần nào làm sáng tỏ những lợi thế so sánh
của nông sản Việt Nam từ xưa đến nay đồng thời tìm ra những giải pháp để khai thác
những lợi thế so sánh đó trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Nông nghiệp đã, đang và
sẽ là một ngành thế mạnh và trụ cột của Việt Nam cho nên việc hiểu rõ và nắm vững
được những thế mạnh đó là rất quan trọng và có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chủ yếu là phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích để làm sang tỏ hơn từng
kết luận nghiên cứu.


2


Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp thu thập thông tin truyền thống,
phương pháp phân tích kinh doanh để tập hợp và phân tích các vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến lợi thế và việc phát huy lợi thế của sản phẩm hàng nông sản xuất
khẩu chủ yếu. Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến để làm sáng tỏ hơn các kết
luận trong quá trình phân tích và đánh giá các kết quả nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
• Đối tượng:
Khóa luận tập trung nghiên cứu về lợi thế so sánh của Việt Nam và qua đó tìm ra
phương pháp để phát huy những lợi thế so sánh đó đặt trong bối cảnh và phạm vi
nghiên cứu
• Phạm vi nghiên cứu đề tài:
+ Không gian:
Chủ yếu đối với vấn đề lợi thế so sánh của nông sản Việt Nam, ngoài ra còn so
sánh với một số quốc gia khác như Thái Lan, Philippine,.. là những nước có lợi thế về
khai thác nông sản
+ Thời gian:
Thời kì khủng hoảng kinh tế từ năm 2008 tới nay với những biến động về giá cả,
kinh tế, khả năng cung cấp, nhu cầu của thị trường về mặt hàng nông sản,..
5. Kết cấu
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm
3 chương chính:
-

Chương 1: Khái quát chung về lợi thế so sánh và nông sản
Chương 2: Lợi thế so sánh của nông sản Việt Nam


3


-

Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển lợi thế so sánh của Việt Nam
trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế từ năm 2008 tới nay

Do việc tìm tài liệu tham khảo gặp nhiều khó khăn đồng thời khả năng tư duy viết
bài của người viết còn non nớt nên khóa luận vẫn còn nhiều thiếu sót, người viết rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các Quý thầy cô.
Qua khóa luận tốt nghiệp, người viết muốn gửi lời cảm ơn đến trường đại học
Ngoại thương, khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế đã cho người viết cơ hội được thực
hiện công trình nghiên cứu này. Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo đã nhiệt
tình giảng dạy người viết trong suốt 4 năm học, đặc biệt là cô Nguyễn Hồng Trà My,
người đã giúp đỡ và chỉ dẫn người viết trong quá trình thực hiện khóa luận. Cảm ơn
khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, thư viện Quốc gia, thư viện trường đại học Ngoại
Thương đã giúp đỡ và cung cấp những tài liệu quý báu.


4

Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LỢI THẾ SO SÁNH VÀ NÔNG SẢN
1.1 Những vấn đề cơ bản của nông sản
1.1.1 Thế nào là nông sản?
“Hàng hóa được chia làm 2 nhóm chính: nông sản và phi nông sản. Nông sản
được xác định trong phụ lục Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản phẩm liệt kê từ
chương I đến chương XXIV (trừ cá và các sản phẩm cá) và một số sản phẩm thuộc các
chương khác trong Hệ thống thuế mã HS (hệ thống hài hòa hóa mã số thuế)” (WTO,
1995, tr.130). Với cách hiểu này, nông sản bao gồm một phạm vi khá rộng các loại
hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:

• Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như: lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động
vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, hoa quả tươi,…
• Các sản phẩm phái sinh như: bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt,…
• Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghệp như bánh kẹo, sản
phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu bia, thuốc lá, da động vật thô,..
EU không đưa ra một định nghĩa cụ thể về nông sản nhưng lại đưa ra danh sách
chi tiết các mặt hàng được coi là nông sản (Ủy ban Châu Âu, 2011, trích dẫn trong
Nguyễn Hoa Phượng,2011, tr.67) , bao gồm:








Động vật sống
Thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau khi giết mổ
Sản phẩm từ sữa
Các sản phẩm có nguồn gốc động vật
Cây sống và các loại cây trồng khác
Rau, rễ và củ, thân củ có thể ăn được
Quả và quả hạch có thể ăn được


5




















Cà phê, chè, phụ gia và các loại gia vị
Ngũ cốc
Các sản phẩm xay xát
Hạt và quả có dầu
Nhựa cánh kiến đỏ, gôm, nhựa cây, các chất nhựa
Các loại rau khác
Mỡ và dầu động vật và thực vật
Các chế phẩm từ thịt
Đường và các loại kẹo đường
Cacao và các chế phẩm từ cacao
Chế phẩm từ ngũ cốc, bột, tinh bột
Các chế phẩm từ rau, hoa quả, quả hạch và thực vật
Các phụ gia có thể ăn được hỗn tạp
Đồ uống, rượu mạnh và giấm
Phần còn lại và phần bỏ đi từ ngành công nghiệp thực phẩm

Thuốc lá và các sản phẩm tương tự “
Các sản phẩm khác: mannitol, sorbitol, tinh dầu, anbuminoit, tinh bột và hồ

đã biến đổi, hồ, da, lông,…
Tại Việt Nam, nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm nông
nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. (Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, 2005, theo trích dẫn của Nguyễn Minh Sơn,2010, tr.75). Các
ngành công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản lại được gộp vào lĩnh vực công nghiệp.
Do đó nông nghiệp theo quan điểm của Việt Nam còn bao gồm một số sản phẩm
không là nông sản (theo quan điểm WTO) như các sản phẩm thuộc lĩnh vực thủy sản,
nông nghiệp và diêm nghiệp.
Cách hiểu trong khóa luận
Vì đề tài được nghiên cứu là “Lợi thế so sánh các mặt hàng nông sản Việt Nam
và giải pháp để khai thác những lợi thế so sánh đó trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế”
nên khái niệm “nông sản” trong bài sẽ được hiểu theo quan điểm của Việt Nam. Bài
luận văn chủ yếu nghiên cứu các khía cạnh chung của nông sản và tập trung vào 3 sản
phẩm nông nghiệp chủ yếu của Việt Nam là gạo, cà phê và cao su.
1.1.2 Đặc điểm của nông sản
Nông sản chịu nhiều tác động của yếu tố ngoại cảnh khó kiểm soát


6

Chất lượng và sản lượng nông sản phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên đặc
biệt là các điều kiện về đất đai, khí hậu, thời tiết. Các sản phẩm nông nghiệp phản ứng
khá nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi thì cây trồng
sinh trưởng và phát triển bình thường, tỷ lệ sâu bệnh thấp, cho sản lượng và chất lượng
cao. Ngược lại, khi thời tiết khắc nghiệt, sâu bệnh nhiều sẽ làm giảm năng suất và chất
lượng cây trồng.
Khối lượng và chất lượng hàng nông sản phụ thuộc nhiều vào mùa vụ.

Mỗi loại cây trồng có một đặc điểm thích nghi riêng với sự biến thiên của điều
kiện thời tiết, khí hậu. Vào những lúc chính vụ, cây trồng phát triển thuận lợi cho sản
lượng dồi dào, chủng loại phong phú, chất lượng cao và đồng đều. Ngược lại những
nông sản trái mùa vụ thường cho năng suất thấp hơn và chất lượng, hương vị không
được như mong đợi. Ví dụ : mùa su hào và bắp cải là mùa đông, nhãn thì lại cho sản
lượng lớn nhất và chất lượng ngon nhất vào mùa hè.
Nông sản thuộc nhóm hàng khó bảo quản
Mặt hàng nông sản có đặc tính tươi sống nên dễ bị biến đổi phẩm chất theo thời
gian. Theo kinh nghiệm của người viết, thời gian bảo quản hoa quả ở điều kiện thông
thường chỉ khoảng 2-5 ngày, lúa gạo để lâu cũng bị thay đổi phẩm chất, dễ bị mọt, ẩm.
Hơn thế nữa, nông sản dễ bị dập nát và giảm giá trị trong quá trình vận chuyển. Do đó,
việc bảo quản và chế biến nông sản là cực kỳ quan trọng và có thể trở thành thế mạnh
của một quốc gia.
Nông sản có đặc tính hữu cơ, có hàm lượng dinh dưỡng cao
Lúa gạo, lúa mỳ là những nông sản có hàm lượng tinh bột cao nhất, không thể
thiếu trong các bữa ăn với hàm lượng tinh bột lên tới 80% (Nguyễn Minh Sơn, 2010,
tr.91)
Hoa quả là nguồn cung cấp vitamin dồi dào và đa dạng nhất (Nguyễn Trung
Trực, 2006, tr.455). Cụ thể như sau :
+ Xoài: rất giàu chất chống ôxy hóa, vitamins A,C, kali và chất xơ.
+ Đu đủ: rất giàu chất dinh dưỡng, với khoảng 118 calo/ quả. Ngoài ra, đu đủ
cũng rất giàu vitamin C, kali, folat và papain – một loại enzym giúp làm mềm thức ăn
và giúp cơ thể tiêu hóa các chất protein tốt hơn


7

+ Trái lựu: với ½ cốc nước ép trái lựu chứa khoảng 80 calo. Ngoài ra, loại quả
này cũng chứa nhiều thành phần natri, vitamin B2, sinh tố B, niaxin, vitamin C, canxi
và photpho.

+ Kiwi:Mỗi trái, kiwi chứa khoảng 70 calo và nhiều chất vi lượng tốt cho sức
khỏe như kali, chất xơ, đặc biệt loại trái cây này chứa hàm lượng vitamin C gấp đôi
một trái cam.
+ Bưởi : Là thành viên của gia đình họ cam quýt, bưởi cũng là một nguồn bổ
sung vitamin C tuyệt vời làm tăng sức đề kháng của cơ thể. Bưởi còn là một chất
chống oxy hoá, vitamin C bảo vệ cơ thể chống lại stress, các bệnh liên quan với hen
suyễn và viêm khớp…,
Thịt cá lại là những thực phẩm rất giàu protein và rất quan trọng với sức khỏe của
con người
Các nông sản đều có đặc điểm chung là hữu ích với cơ thể và sức khỏe con
người.
1.2 Những vấn đề cơ bản về lợi thế so sánh
1.2.1 Khái niệm lợi thế so sánh
Từ lợi thế tuyệt đối
Nhà kinh tế học cổ điển người Anh Adam Smith đã chỉ ra rằng “ Thương mại quốc
tế mang lại lợi ích cho các quốc gia bắt nguồn từ nguyên tắc phân công lao động”
(Nguyễn Minh Sơn, 2010, tr.44). Là nhà kinh tế đầu tiên trên thế giới nhận thức
chuyên môn hóa mà ông gọi là phân công quốc tế, tiến bộ kinh tế và đầu tư là những
động lực của phát triển kinh tế. Adam Smith cũng đã phê phán những mặt hạn chế và
những mặt tích cực của thương mại quốc tế đã giúp cho các nước tăng được giá trị tài
sản của mình trên nguyên tắc phân công lao động quốc tế. Theo Adam Smith, các quốc
gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó
bán những hàng hóa này sang các quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước
ngoài sản xuất có hiệu quả hơn. Những tiêu chuẩn quyết định cho sự lựa chọn ngành
được chuyên môn hóa trong phân công quốc tế là những điều kiện tự nhiên về địa lý
và khí hậu mà chỉ nước đó mới có mà thôi. Nói cách khác, theo ông, sự khác nhau về


8


điều kiện tự nhiên là nguyên nhân của thương mại quốc tế và quyết định cơ cấu
thương mại quốc tế
Theo Adam Smith, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực và tài nguyên sẵn có của
mình như: đất đai, lao động, nguồn vốn, khoa học công nghệ và kinh nghiệm sản xuất
kinh doanh,… Như vậy các quốc gia cần tiến hành sản xuất chuyên môn hóa những
mặt hàng nào đó mà họ có lợi thế tuyệt đối về các nguồn lực, sau đó tiến hành trao đổi
với các nước khác thì các bên đều có lợi. Ông cho rằng hai quốc gia trao đổi thương
mại với nhau là dựa trên cơ sở tự nguyện và cùng có lợi, lợi thế của thương mại bắt
nguồn từ lợi thế tuyệt đối của một quốc gia. Từ lập luận đó, Adam Smith chủ trương là
phải tự do kinh doanh vì mỗi cá nhân và doanh nghiệp đều có mục đích là thu lợi
nhuận tối ưu. Do vậy, việc cho phép tự do kinh doanh sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã
hội. Trong quá trình trao đổi thương mại, nguồn lực của các nước sẽ được lựa chọn sử
dụng có hiệu quả cao hơn, tổng sản phẩm của toàn thế giới sẽ gia tang và bằng cách đó
mọi người dân của các nước đều được tiêu dung nhiều loại sản phẩm theo mức mong
muốn lớn hơn thông qua thương mại quốc tế. Như vậy, sản xuất chuyên môn hóa dựa
vào lợi thế tuyệt đối trong thương mại quốc tế đảm bảo có lợi cho các nước. Chính nhờ
vậy mà cho đến nay, nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam vẫn dựa vào lợi thế tuyệt
đối khi xây dựng chiến lược, chính sách thúc đẩy sản lượng cũng như là lợi nhuận từ
nông sản.
Tuy nhiên lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế. Bởi
lẽ trên thực tế, nếu như một vài quốc gia nào đó lại bất lợi vì không có tài nguyên dồi
dào và không có các tiềm năng to lớn như những nước khác thì những quốc gia đó sẽ
không nên tham gia vào thương mại quốc tế hay sao? Chính vì vậy, việc đẩy mạnh
thương mại quốc tế của nhiều nước phát triển vốn dĩ nghèo nàn tài nguyên thiên nhiên
như: Nhật Bản, Thụy Sĩ, Áo, Singapore, Hàn Quốc,…sẽ không giải thích được bằng
lợi thế tuyệt đối. Vì sự hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối trước tình hình phát triển


9


mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên đã ra đời lý thuyết lợi thế tương đối, còn được
gọi là lợi thế so sánh.
Đến lợi thế so sánh
Năm 1815, nhà kinh tế học R.Forrens đã phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của
Adam Smith thành tư tưởng “lợi thế tương đối” hoặc “lợi thế so sánh”. Năm 1817, nhà
kinh tế học David Ricardo lại phát triển tư tưởng “lợi thế so sánh” thành thuyết “lợi
thế so sánh” còn gọi là quy luật “lợi thế tương đối”. Cơ sở của lý thuyết này chính là
luận điểm của David Ricardo về sự khác biệt giữa các nước không chỉ về điều kiện tự
nhiên mà còn về điều kiện sản xuất nói chung nhưng đều có lợi khi chuyên môn hóa
sản xuất một sản phẩm nào đó và cùng tham gia vào thương mại quốc tế.
Theo nguyên tắc của lợi thế so sánh: một quốc gia, cũng giống như một người, thu
lợi từ thương mại bằng cách xuất khẩu hàng hóa hoặc dịch vụ mà quốc gia đó có lợi
thế so sánh lớn nhất về khả năng sản xuất và nhập khẩu những hàng hóa mà quốc gia
đó có lợi thế so sánh nhỏ nhất. Điều đó cũng có nghĩa là bất kỳ quốc gia nào cũng có
lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế dù quốc gia đó có hay không có các điều kiện
tự nhiên thuận lợi hơn hẳn các quốc gia khác. Một mặt hàng được coi là có lợi thế
tương đối so với một quốc gia khác khi nó có chi phí cơ hội thấp hơn mặt hàng kia.
Như vậy, nếu xét riêng lĩnh vực nông sản, thì lý thuyết lợi thế so sánh là cơ sở lý luận
quan trọng trong việc xem xét, xây dựng chiến lược xuất khẩu của Việt Nam nói
chung và từng mặt hàng cụ thể nói riêng.
1.2.2 Những yếu tố tạo nên lợi thế so sánh (của hàng nông sản xuất khẩu)
Đặc điểm của sản xuất nông sản
Cũng như nhiều hàng hóa khác trên thị trường, quá trình sản xuất nông sản xuất
khẩu chịu sự tác động của một chuỗi các nhân tố, từ điều kiện tự nhiên, môi trường
chính sách, năng lực của các chủ thể kinh tế, sự biến động của thị trường trong nước


10

và thị trường nước ngoài. Những tác động này vừa có tính thúc đẩy, góp phần phát huy

những lợi thế, vừa gây ra những thách thức đối với hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng
nông sản xuất khẩu.
Quá trình tạo ra giá trị sử dụng hàng nông sản xuất khẩu thường trải qua các công
đoạn sau:
Đầu vào  San xuất nông sản  chế biến nông sản  xuất khẩu nông sản
Việc tạo ra giá trị sử dụng của hàng nông sản phải trải qua 3 khâu chính, đó là khâu
sản xuất nông sản (thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp), khâu chế biến nông sản
(thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp), khâu xuất khẩu hàng nông sản (thuộc khâu
thương mại). Ba khâu này liên quan và tương tác lẫn nhau.
-

Sản xuất: quá trình sản xuất nông sản xuất khẩu có đặc điểm khác biệt so với

những ngành sản xuất khác. Bởi sản xuất nông sản gắn liền với các điều kiện tự nhiên,
bên cạnh đó khi các quốc gia thành viên của WTO cam kết cắt giảm thuế và tiến tới
xóa bỏ hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu,v.v.. thì các quy định
về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm có xu hướng ngày càng khắt khe
hơn. Do đó, xu hướng sản xuất nông sản theo phương thức sản xuất hữu cơ, sản xuất
nông sản theo quy trình sản xuất sạch, đảm bảo dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực
phẩm phải được đặt lên hàng đầu và trở thành lợi thế.
- Lưu thông nông sản:
Đặc điểm của hàng hóa nông sản là tính chất tươi sống của sản phẩm và sản xuất,
thu hoạch theo mùa vụ và theo khu vực. Mặt khác, mỗi loại nông sản có một hình thức
tiêu thụ và chế biến riêng. Do đó, quá trình lưu thông nông sản (hệ thống mua) được tổ
chức tốt, nhanh chóng, thuận tiện sẽ góp phần đảm bảo chất lượng nông sản tốt hơn,
quá trình tái sản xuất diễn ra nhanh hơn. Ngược lại, hệ thống mua được tổ chức không
tốt sẽ làm chậm quá trình lưu thông của nông sản, do đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
và chi phí của hàng hóa
- Chế biến nông sản:



11

Nông sản là loại sản phẩm khó bảo quản, dễ bị hư hỏng, thối rữa. Sự phát triển của
công nghiệp chế biến nông sản tạo ra sự đa dạng của giá trị sử dụng, tăng thời gian bảo
quản sản phẩm, giảm tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch. Sự phát triển của công nghiệp chế
biến còn làm giảm sự phụ thuộc của sản xuất vào điều kiện tự nhiên, khắc phục những
hạn chế của yếu tố về thời gian và không gian đối với việc tiêu dùng sản phẩm nông
sản. Sự phát triển của công nghiệp chế biến mang tính quyết định đến việc nâng cao
chất lượng hàng nông sản, góp phần giảm bớt các chi phí trung gian, nâng cao chất
lượng nông sản và giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu.
- Dịch vụ cho nông sản xuất khẩu:
Hệ thống dịch vụ cho nông sản xuất khẩu yếu kém, chưa đồng bộ làm cho nông sản
được sản xuất ra không đến được với các nhà máy chế biến kịp thời và đầy đủ. Nếu
đến được thì cước phí vận chuyển sẽ cao, thậm chí nhiều nơi còn để nguyên liệu hư
hỏng. Những yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng và tính thiếu đồng bộ của các loại
hình dịch vụ khác góp phần làm tăng chi phí đầu vào của sản xuất và sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng cạnh tranh về giá cả của nông sản trên thị trường.
Các khâu trên có liên quan và tương tác lẫn nhau, tác động cùng lúc trực tiếp đến
các chủ thể tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản xuất
khẩu. Để phát huy lợi thế của hàng nông sản xuất khẩu, điều quan trọng là cần phải
gắn kết ba khâu trên một cách hiệu quả thông qua các hình thức liên doanh, liên kết
trên cơ sở các bên cùng có lợi.
Những nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế hàng nông sản xuất khẩu:
Thứ nhất, những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên
Sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất nông sản xuất khẩu nói riêng gắn liền
với các điều kiện tự nhiên, trong đó bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như đất đai, khí
hậu, thời tiết, nguồn nước, vị trí địa lý,… Khi nghiên cứu về năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất nông nghiệp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin khẳng
định, trong nông nghiệp, năng suất lao động bao gồm 2 nhân tố cấu thành là năng suất



12

lao động gắn liền với các yếu tố tự nhiên và năng suất lao động gắn liền với các yếu tố
kinh tế- xã hội. Vì thế sản lượng nông nghiệp tạo ra trên một đơn vị thời gian lao động
hoặc sản lượng nông sản được tạo ra trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp phụ
thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên.
Đất đai
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất.
Khi con người tiến hành khai phá đưa đất hoang vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho
con người thì ruộng đất đã kết tinh lao động con người và đồng thời trở thành sản
phẩm của lao động. Đất tốt làm cho năng suất cây trồng có thể tăng lên, lượng cung
ứng sản phẩm trên thị trường cũng được tăng lên tương ứng. Không kể các yếu tố khí
hậu, sự khác nhau trong mức độ phì nhiêu tự nhiên được quyết định bởi sự cấu thành
hóa học của lớp đất trên mặt hay là sự khác nhau trong dung lượng các chất dinh
dưỡng cần thiết cho cây. Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng, con người phải
không ngừng cải tạo và bồi dưỡng ruộng đất, làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn.
Tính chất màu mỡ và dinh dưỡng của đất đai góp phần vào việc tăng năng suất cây
trồng, tạo ra các nông sản, đặc sản riêng có của từng vùng, từng quốc gia.
Thời tiết khí hậu
Vị trí địa lý thuận lợi, đất đai màu mỡ tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông
sản nhưng ảnh hưởng của khí hậu cũng rất quan trọng đối với việc phát huy lợi thế.
Thời tiết khí hậu tốt tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, góp phần tăng năng suất, cho
thu hoạch các sản phẩm có chất lượng. Trãi lại, nếu gặp thời tiết bất lợi sẽ làm cho
năng suất cây trồng giảm, sản lương và chất lượng hàng nông sản giảm xuống, ảnh
hưởng đến nguồn cung ứng cho chế biến xuất khẩu. Ngoài ra, thời tiết bất lợi cũng là
điều kiện để các côn trùng, các loại bệnh phát sinh, phát triển phá hoại sự sinh trưởng
và phát triển của cây trồng



13

Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và khí hậu giữa các vùng đã làm cho sản xuất
hàng nông sản trở nên phong phú và đa dạng cả về số lượng và chủng loại, đáp ứng
được nhu cầu đa dạng của con người. Trong cùng một vùng, khí hậu giữa các mùa
cũng ảnh hưởng và chi phối đến các loại cây trồng. Cho nên mỗi vùng, mỗi địa
phương, mỗi quốc gia chỉ có thể lựa chọn giống cây trồng phù hợp để sản xuất và xuất
khẩu những hàng nông sản mà họ có ưu thế về tự nhiên hay lợi thế so sánh thực sự.
Thứ hai, khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra công cụ lao động mới, mà cả phương pháp
sản xuất mới. Hay nói cách khác, việc ứng dụng khoa học công nghệ tạo ra khả năng
mới về kết quả sản xuất và tăng năng suất lao động. Các nguồn lực sản xuất được mở
rộng, kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua khả năng phát hiện, khai thác và đưa
vào sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên cả tái sinh và không tái sinh thông qua
việc đầu tư khoa học công nghệ vào nâng cao chất lượng dinh dưỡng của đất, giống,
phân bón và công nghệ chế biến góp phần tăng năng suất cây trồng và giảm các chi phí
sản xuất
Thứ ba, vốn
Xác định vai trò của tư bản (vốn) trong quá trình phát triển nông nghiệp. “Do
những quy luật tự nhiên chi phối trong nông nghiệp, nên khi việc canh tác đã đạt đến
trình độ nhất định và khi đất đã bị kiệt màu đi một cách tương ứng thì tư bản sẽ trở
thành một yếu tố nhất định” (Các Mác, theo trích dẫn của Nguyễn Hoa Phượng, 2011)
Do diện tích canh tác có xu hướng ngày càng bị thu hẹp nên giải pháp đó là thực hiện
thâm canh thông qua đầu tư vào đất, giống hay hệ thống công nghiệp phục vụ sản xuất
và lưu thông nông sản góp phần tăng năng suất và giảm chi phí trong xuất khẩu.
Thứ tư, những nhân tố thuộc về cơ chế, chính sách


14


Trong khi vốn, khoa học công nghệ là những nguồn lực khan hiếm ở các nước
đang phát triển, vai trò của chính sách đối với phát huy lợi thế xuất khẩu nông sản thể
hiện ở chỗ: nó vừa là những nhân tố trực tiếp, vừa là những nhân tố gian tiếp đến việc
phát huy lợi thế của nông sản xuất khẩu. Bởi chính sách không chỉ giúp khai thác có
hiệu quả các nguồn lực sẵn có mà thông qua việc đầu tư vốn, khoa học công nghệ mở
ra việc khai thác những nguồn lực mới cho xuất khẩu nông sản theo hướng bền vững.
Thứ năm, sự kết hợp xã hội trong sản xuất
Khi nghiên cứu về vấn đề này, bản thân C.Mác cũng cho rằng con người không
thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động
chung và trao đổi hoạt động với nhau. Tức là thông qua những mối liên hệ và liên
quan chặt chẽ với nhau đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên và sản xuất.
Sự kết hợp có hiệu quả không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quy mô sản
xuất, mà còn thuận tiện trong việc ứng dụng những thành tựu mới về khoa học công
nghệ vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất
sản phẩm.
Thứ sáu, phong tục, tập quán của người tiêu dùng
Việc tiêu dùng hàng nông sản phụ thuộc chủ yếu vào khẩu vị của người tiêu dùng
nên nhu cầu về hàng nông sản phụ thuộc lớn vào thói quen cũng như phong tục tập
quán của người tiêu dùng. Đặc điểm này đóng vai trò rất quan trọng trong việc nghiên
cứu, xác định cơ cấu cây trồng nhằm đáp ứng nhu cầu hàng nông sản tại các khu vực
thị trường khác nhau, đặc biệt khi muốn mở rộng thị trường tiêu thụ chiếm lĩnh thị
phần xuất khẩu.
Do những điều kiện khác nhau về địa lý , đất đai , nguồn nước, khí hậu lượng mưa
trong năm ...mà năng lực sản xuất trên các khía cạnh quy mô năng suất , sản lượng,
chi phí sản xuất và giá thành, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất


15


nông nghiệp ở các nước trên thế giới khác nhau.Vì thế đã tạo ra mức giá sản xuất ,
năng suất riêng của mỗi quốc gia trong việc sản xuất cùng loại và khả năng tiêu thụ
trên thị trường thế giới .Những nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình
thành và phát huy các lợi thế trong xuất khẩu nông sản.Chính sự khác biệt đó tao ra
những lợi thế riêng cho mỗi quốc gia khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế.
1.2.3 Các tiêu chí thể hiện lợi thế của nông sản
Lợi thế của nông sản được thể hiện ở những chỉ tiêu định tính và định lượng như
sau:
Thứ nhất, năng suất và sản lượng nông sản
Trong nông nghiệp, giải định chi phí sản xuất ngang nhau, năng suất đầu ra trong
nông nghiệp nói chung và sản xuất nông sản nói riêng được xác định bằng sản lượng
thu hoạch của một loại cây hoặc một nhóm cây nông nghiệp thu hoạch được trên một
đơn vị diện tích. Để đánh giá mặt hàng có lợi thế hay không, người ta dùng phương
pháp so sánh. Khi đạt được sản lượng cao hơn trên một đơn vị so sánh thì mặt hàng đó
được đánh giá là có lợi thế. Đối với hàng nông sản, tiêu chí này thường được so sánh
với hàng nông sản cùng loại của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường
Thứ hai, chi phí sản xuất và giá cả của nông sản
Thước đo của nó là chi phí và giá cả trên một đơn vị của sản phẩm có tính đến
chất lượng sản phẩm. Khả năng cạnh tranh về chi phí của sản phẩm sẽ phụ thuộc vào
hiệu quả của tất cả các khâu, bao gồm sản xuất, mua, vận chuyển, chế biến, kho bãi,
cầu cảng, vận chuyển quốc tế để tạo ra và đưa sản phẩm đó đến thị trường quốc tế.
Việc so sánh giá thành sản xuất (chi phí) để làm ra sản phẩm giữa các nước cùng sản
xuất trong điều kiện tự do hóa thương mại, loại trừ các rào cản xuất nhập khẩu sẽ giúp
đánh giá lợi thế của sản phẩm nước này so với nước khác. Quy luật chung là giá thành


16

sản xuất của một đơn vị nông sản thấp hơn giá thành trung bình của sản phẩm đó trong
khu vực và thế giới chứng tỏ sản phẩm có lợi thế và ngược lại

Thứ ba, chất lượng nông sản
Chất lượng của hàng nông sản thể hiện ở giá trị sử dụng và thời gian sử dụng của
sản phẩm. Bao gồm cả chất lượng dinh dưỡng và chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm có tác động trực tiếp tới yêu cầu dinh dưỡng và sức khỏe, tính mạng của người
sử dụng. Những yếu tố cấu thành chất lượng của hàng nông sản như: sự tiện lợi trong
tiêu dùng, an toàn cho người sử dụng, phù hợp với thị hiếu và văn hóa của mỗi dân
tộc,… có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định của người mua.
Ngày nay, trên thị trường các nước phát triển, xu hướng cạnh tranh không chỉ
bằng chất lượng mà còn bằng các yếu tố môi trường và an toàn sử dụng, đặc biệt đối
với hàng nông sản. Do đó, ngoài việc nâng cao chất lượng hàng nông sản, các nhà sản
xuất cần phải chú trọng tới xây dựng thương hiệu sản phẩm.
Thứ tư, thị phần và thị trường tiêu thụ
Lợi thế này thể hiện khả năng chi phối thị trường thương mại trao đổi sản phẩm
thương mại trên thị trường quốc tế. Độ lớn của chỉ tiêu này phản ánh khả năng chiếm
lĩnh của quốc gia trên thị trường thế giới. Đó cũng là một tiêu chí thể hiện lợi thế của
nông sản xuất khẩu. Một mặt hàng có thị phần càng lớn trên thị trường thì mặt hàng đó
càng có lợi thế cạnh tranh lớn.
Thứ năm, nhóm chỉ tiêu định lượng, bao gồm:
Hệ số chi phí tài nguyên nội địa (Hay hệ số đo lường lợi thế sản xuất nội địa)DRC. Chỉ số DRC cho biết hiệu quả sử dụng các nguồn lực nội địa để tạo ra giá trị
xuất khẩu ròng. Nói cách khác, DRC cho phép xác định hiệu quả sử dụng tài nguyên
nội địa để sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là chỉ số thường được dùng để đánh giá lợi
thế so sánh của ngành hàng. Nếu chỉ số DRC lớn hơn hoặc bằng 1 tức là việc sản xuất


17

nông sản không hiệu quả. Ngược lại, DRC <1 là sản xuất có hiệu quả, thu được ngoại
tệ, sản xuất với mức chi phí tài nguyên nội địa nhỏ hơn. DRC càng tiến về 0 thì sản
xuất và xuất khẩu càng hiệu quả.
Hệ số cạnh trah RCA (lợi thế so sánh trông thấy hay lợi thế so sánh hiển thị) Hệ

số này do nhà kinh tế học Balassa công bố năm 1965 và được tính bằng tỷ lệ giữa tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu một mặt hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một
nước so với tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng đó của thế giới trong tổng
1.3 Những vấn đề cơ bản về khủng hoảng kinh tế
1.3.1 Khủng hoảng kinh tế là gì?
The Bussiness dictionary định nghĩa Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm các hoạt
động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế chính trị
của Mác-Lênin. Khủng hoảng kinh tế được hiểu là khoảng thời gian biến chuyển rất
nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái
sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa
các giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình
tích tụ tư bản mới. Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Mác cho rằng tự bản
thân Mác không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng hoảng kinh tế trong
chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý luận khác nhau
mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một đặc điểm chủ yếu của những lý luận này là
khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và không tự nhiên mà nó bắt nguồn từ bản chất
của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái xã hội.
Theo Mác, những biểu hiện của khủng hoảng kinh tế bao gồm :
-

Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng chung

của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm
chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng hoảng.


18

-


Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai cấp

với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị
thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu
dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng
cung.
-

Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê mướn tăng

lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi
nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái kinh tế.
Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và có thể
đóng vai trò là những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng hoảng kinh tế.
Khủng hoảng sản xuất thừa là bản chất của khủng hoảng kinh tế. Biểu hiện của
khủng hoảng ở một số khía có thể nhận thấy như sau : hàng hóa không tiêu thụ được,
tư bản không tiêu thụ được chi phí sản xuất, nhiều xí nghiệp bị phá sản, đóng cửa, số
người thất nghiệp tăng lên. Trong thời kỳ khủng hoảng, sản xuất thừa hàng hóa không
phải tuyệt đối mà là tương đối. Nghĩa là thừa hàng hóa chỉ là thừa so với khả năng
thanh toán, chứ không phải thừa so với nhu cầu thực tế của xã hội.
1.3.2 Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007- 2008 là cuộc khủng hoảng tài chính
mà thực chất là sự mất khả năng thanh toán của các tổ chức tài chính, ngân hàng do sự
đổ vỡ bất động sản nhà ở. Tiếp theo là sự khan hiếm tín dụng do sự mất khả năng
thanh toán đó gây ra. Đây là cuộc khủng hoảng có tính thế kỷ, bởi nó không chỉ có quy
mô lớn và tác động sâu rộng khắp thế giới, mà đây cũng là lúc để người ta nhìn lại mô
hình và các lý thuyết làm cơ sở cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong những
năm qua.



19

Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp
đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh
đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ lực chưa từng có của các nền kinh tế để chống
chọi với cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có
một lần", theo lời ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), đã
được dự báo từ năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng như phân tích của nhiều nhà kinh
tế đã không đủ sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và châu
Âu có biện pháp đề phòng.
Những tác động của khủng hoảng kinh tế
Phân tích trọng tâm về khu vực phi chính thức ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy Việt Nam là quốc gia duy nhất trong số các nền kinh tế đang nổi lên ở
khu vực Đông nam Á không rơi vào tình trạng suy thoái năm 2009 dưới tác động của
cuộc khủng hoảng toàn cầu. Dẫu vậy, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cũng đã cho thấy rằng
cuộc khủng hoảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế.
Tốc độ tăng GDP của cả năm đã giảm chậm lại từ 8,5% năm 2007 xuống còn 6,0 %
năm 2008 và tiếp đó là 5,0 % năm 2009 trước khi hồi phục trở lại mức 6,5% năm
2010. Sự giảm nhịp tăng trưởng đặc biệt diễn ra vào khoảng thời gian giữa quý I năm
2008 và trong năm 2009. Trong khoảng thời gian này, tốc độ tăng GDP chỉ đạt được
một nửa so với trước đó, giảm từ 8% xuống còn 4% và quy mô xuất khẩu đến Liên
minh Châu Âu (là thị trường số một cùng với Hoa Kỳ) đã thay đổi từ mức tăng trưởng
60% trở thành giảm 0% (IMF, 2010). Lạm phát cũng là dấu hiệu báo động với tốc độ
tăng chỉ số giá tiêu dùng lên đến 28% vào tháng 9 năm 2008 và thậm chí còn lên đến
65% đối với nhóm mặt hàng lương thực (gạo và ngũ cốc).
Nhìn chung, với bước tiến về năng suất và sự gia tăng nhanh nguồn lao động do
Việt Nam đang tiến gần đến kỷ nguyên “dân số vàng”, tốc độ tăng trưởng 7,5% như đã
đạt được trong thời kỳ 2000 - 2008 khó có thể đáp ứng yêu cầu cung cấp việc làm cho



20

lực lượng mới tham gia vào thị trường lao động (Cling, Razafindrakoto and Roubaud,
2010a). Ngay cả khi đạt được tốc độ tăng trưởng cao như vậy thì cũng có khoảng một
phần tư số lao động mới gia nhập (quy mô hàng năm lên đến gần một triệu người) phải
tham gia vào khu vực phi chính thức. Khu vực này do vậy cung cấp việc làm cho bộ
phận lao động mà khu vực nông nghiệp và khu vực chính thức không thể đáp ứng.
Do vậy, sự giảm nhịp tăng trưởng kinh tế năm 2008 - 2009 được dự báo là có
tác động mạnh mẽ đến việc làm và thị trường lao động ở Việt Nam, đặc biệt là đến khu
vực phi chính thức bởi vì khu vực này có vai trò như một biến số điều chỉnh trên thị
trường lao động. Cũng cần lưu ý rằng cơ chế điều chỉnh này ở các nước đang phát
triển như Việt Nam khác với ở các nước phát triển nơi mà hầu hết những tác động của
khủng hoảng kinh tế đến việc làm đã biểu hiện qua sự gia tăng nhanh chóng của tình
trạng thất nghiệp.


21

Chương 2

LỢI THẾ SO SÁNH CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM
2.1 Những lợi thế so sánh chung của Việt Nam trong việc khai thác nông sản
2.1.1 Những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên
Việc phát huy lợi thế trong xuất khẩu nông sản chịu sự chi phối của nhiều nhân
tố chủ quan và khách quan khác nhau. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến
việc phát huy lợi thế của Việt Nam trong xuất khẩu nông sản và là nhân tố mà tất cả
các quá trình sản xuất xét trên phạm vi toàn thế giới đều không thể thiếu được, đặc biệt
đối với một nước đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển như Việt Nam.
Thứ nhất, đất đai

Đất nước Việt Nam hình chữ S trải dài từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau với
diện tích 331.150,4 km2, trong đó miền núi và trung du chiếm gần ¾ diện tích. Quỹ
đất canh tác hiện nay là 8,2 triệu ha và có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu
ha hoặc cao hơn. Trong đó, có một phần đất bằng, đa số là đất dốc dưới 15 độ. Diện
tích đất sản xuất nông nghiệp hiện nay là 9420,3 nghìn ha, trong đó diện tích đất canh
tác lúa đạt 4105,8 nghìn ha, diện tích gieo trồng hàng năm là 2203,8 ha, diện tích trồng
cây lâu năm là 3110,7 ha và diện tích nuôi trồng thủy sản là 728,6 ha
Đất đai và nước đa dạng về loại hình và chủ yếu phân thành hai nhóm: nhóm đất
núi và nhóm đất hình thành trên sản phẩm bồi tụ. Nhóm thứ nhất chiếm khoảng ½ diện
tích tự nhiên với hơn 16,5 triệu ha, chủ yếu là các loại đất feralit. Loại đất này được
hình thành trong quá trình phong hóa nhiệt đới, có tầng đất sâu, dày, ít mùn, chua và
thường có màu vàng đỏ. Đất feralit đặc biệt là đất đỏ bazan (có hơn 2 triệu ha ở Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ), thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp dài ngày
trong đó có cây cà phê và cao su Nhóm thứ hai tập trung ở các châu thổ và dọc theo
các thung lung rộng lớn, đây là loại đất trẻ màu mỡ. Trong nhóm này thì phì nhiêu hơn
cả là đất phù sa với diện tích 3,12 triệu ha, phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có độ pH trung tính, hàm lượng dinh dưỡng
khá thích hợp cho việc trồng lúa và nhiều loại cây khác.


22

Hiện nay, quỹ đất mà chúng ta đã đưa vào sử dụng (cho mục đích nông nghiệp,
lâm nghiệp, chuyên dùng và cư trú) là 18.8818240 ha, chiếm khoảng 57% tổng quỹ
đất, đất chưa sử dụng là 14.217.845 ha, chiếm 43%. Quỹ đất thuận lợi cho việc trồng
lúa hầu như đã khai thác hết. Để nâng cao sản lượng lúa, nông dân chỉ còn cách tang
vụ để nâng cao hệ số sử dụng đất và đầu tư thâm canh. Quỹ đất thuận lợi cho việc
trồng cây công nghiệp dài ngày có hơn 2 triệu ha, song mới khai thác được rất ít chủ
yếu là trồng cây cao su và cây cà phê
Xét về tổng thể, quỹ đất cho canh tác công nghiệp của nước ta là không lớn

những quỹ đất mà chúng ta đưa vào sử dụng có nhiều đặc điểm thuận lợi cho sản xuất
nông sản. Có một số nhóm đất có chất lượng tốt như đất bazan rất thích hợp để phát
triển cây cà phê, cao su, hồ tiêu và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhờ đặc điểm riêng
của đất đai đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh. Trong đó, vùng đồng bằng
sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng được đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế
giới. Độ màu mỡ và những đặc điểm của thời tiết, khí hậu mùa vụ cho phép đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long sản xuất lúa quanh năm trên diện tích rộng
và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc chủng có năng suất cao. Nhiều
chủng loại và sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng trên thế giới. Vùng Đông
Nam Bộ với điều kiện tự nhiên phong phú cho phép sản xuất nhiều cây trồng có hiệu
quả kinh tế như cao su, cà phê,… Đặc điểm của đất đai này cho phép Việt Nam phát
triển những loại cây trồng cho năng suất cao, có giá trị kinh tế lớn mà không phải quốc
gia nào cũng có được
Thứ hai, khí hậu và nguồn nước
Nước là tài nguyên sống còn của sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
nông sản nói riêng. Tài nguyên nước của Việt Nam khá phong phú bao gồm nước trên
mặt và nươc dưới đất. Hằng năm, lượng nước mưa cung cấp cho lãnh thổ nước ta trên
900 tỷ m3 nước. Lượng mưa lớn đã tạo cho nước ta một mạng lưới sông ngòi dày đặc
với 2345 con sông dài trên 10km, mật độ sông ngòi là 0,5-2,0 km2, trung bình cứ 20
km bờ biển lại có một cửa sông (Tổng cục thống kê, 2011)


×