Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN nâng cao hứng thú học tập môn lịch sử bằng phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.21 KB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ BẰNG
PHƯƠNG PHÁP LỒNG GHÉP KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ"

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay cuộc sống đang thay đổi và tiến lên từng giờ. Đó là sự phát triển như vũ
bão của khoa học kỹ thuật, của nền văn minh tin học, sự phát triển của nền kinh tế thị
trường và xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đây là cỏ hội và cũng là thách thức
đối với đất nước ta. Trong khi đó chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trở ngại do chất
lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn đang thấp hơn so với yêu cầu của sự phát triển
đó.
Mặt khác, trong xu thế hội nhập với thế giới, bên cạnh những nền văn hoá tiến bộ,
có rất nhiều mảng văn hoá đen vẫn còn len lỏi và dễ dàng lan nhanh trong giới trẻ. Điều
đó dẫn đến bản sắc dân tộc đang dần mất đi, mà nhiều người Việt Nam lại đang quên đi
nguồn gốc, lịch sử dân tộc. Vì vậy một trong những vấn đề trọng tâm của nước ta là đầu
tư phát triển nhân tố con người, tức là đầu tư cho giáo dục và đào tạo để tạo ra những con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân
cách và phẩm chất năng lực của công dân, nhất là bản lĩnh văn hoá vững vàng trước sự
hội nhập. Môn lịch sử có vai trò không nhỏ góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
Có thể nói học môn lịch sử ngoài việc để “ cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
thì lịch sử còn cung cấp cho học sinh nhiều kĩ năng quan trọng khác như: phân tích, đánh
giá, nhận xét, tổng hợp đánh giá quá khứ hiện tại, tương lai một cách đúng đắn phù hợp
với thời cuộc. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy chất lượng học môn lịch sử của học sinh
các trường THPT nói riêng, các cấp học nói chung còn nhiều điều đáng bàn, đặc biệt là ở


miền núi. Những năm gần đây kết quả thi tốt nghiệp THPT và thi đại học môn lịch sử quá
thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Tại sao lại như vậy? làm cách nào để khắc phục
tình trạng này?
Về phía học sinh, các em không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó là môn phụ,
không quan trọng lại có quá nhiều mốc thời gian và sự kiện khô khan, khó nhớ. Vì vậy
các em không hứng thú trong học tập môn này, hoặc chỉ học qua loa đối phó. Vậy phải
làm sao để thu hút được học sinh có hứng thú và chuyên tâm hơn trong học môn lịch sử?
Xuất phát từ thực tế bức thiết đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao hứng
thú học tập môn lịch sử bằng phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử”. Qua thời
gian thực hành và thấy có hiệu quả, vì vậy tôi mạnh dạn nêu ra để đồng nghiệp cùng tham
khảo.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2


2.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là những biện pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong dạy học
lịch sử ở trường trung học phổ thông.
2.2 Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu là việc dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Thông qua nghiên cứu lý luận và thực trạng dạy học lịch sử ở trường trung học phổ
thông Bá Thước, chúng tôi khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc lồng ghép kể chuyện lịch
sử trong dạy học lịch sử. Từ đó xác định những câu chuyện, giai thoại lịch sử phù hợp và
phương pháp sử dụng các câu chuyện, giai thoại đó trong dạy học lịch sử ở trường trung
học phổ thông để có hiệu quả dạy học tốt nhất.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng liên quan đến vấn đề sử dụng lồng ghép kề

chuyện trong việc dạy học lịch sử ở trường THPT Bá Thước.
- Tham khảo các tài liệu sử học, tài liệu văn học có liên quan đến nội dung câu
chuyện lịch sử.
- Tập hợp, thống kê, lựa chọn các câu chuyện, các giai thoại lịch sử, đề ra phương
pháp sử dụng thích hợp để dạy học lịch sử.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi, hiệu quả của việc vận dụng lồng
ghép kể chuyện vào dạy học lịch sử.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và vấn đề sử dụng các câu chuyện, giai thoại trong dạy học lịch
sử ở trường THPT.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, tài liệu tham khảo có liên quan để xây
dựng nội dung câu chuyện lịch sử ứng vào việc dạy học.
- Phương pháp thực nghiệm: tiến hành soạn và thực nghiệm các tiết dạy cụ thể để
khẳng định tính khả thi, hiệu quả của việc lồng ghép kể chuyện trong dạy học lịch sử.

3


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần 1: Cơ sở lý luận .
Lịch sử là môn học rất quan trọng không chỉ cung cấp cho chúng ta biết tường tận
quá trình phát triển của con người, đất nước và nhân loại từ khi hình thành cho tới nay
với biết bao biến động lớn lao, mà còn giúp chúng ta đúc rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhưng đặc trưng của khoa học lịch sử là các sự kiện, các nhân vật đều diễn ra trong
quá khứ nên nhận thức lịch sử có những nét đặc thù so với nhận thức chung của loài
người. Nhận thức lịch sử là nhận thức những gì đã qua và không lặp lại cho nên giai đoạn
nhận thức cảm tính không thể tri giác trực tiếp mà phải thông qua sự kiện lịch sử để tạo
biểu tượng lịch sử từ đó hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học lịch sử rồi vận
dụng vào thực tiễn.

Muốn tái hiện bức tranh quá khứ một cách sinh động chúng ta phải dựa trên cơ sở
tài liệu tham khảo trong đó có những câu chuyện, những giai thoại lịch sử. Thông qua
việc lồng kể các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong bài dạy, học sinh có thêm cơ sỏ
để nắm vững bản chất sự kiện và hứng thú hơn với môn học.
Phần 2: Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1. Thuận lợi.
- Tình hình chung về giảng dạy môn lịch sử ở trường: Đội ngũ giáo viên trẻ,
khoẻ, nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy. Có những giáo viên có kinh nghiệm nên thông
qua công tác dự giờ, thao giảng đã đóng góp ý kiến giúp cho bản thân rút nhiều kinh
nghiệm quý báu để vận dụng khi lên lớp.
- Tình hình trường lớp, học sinh:
Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép, vâng lời thầy cô. bên cạnh đó học sinh
cũng được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, các sách bài tập lịch sử...
Nhà trường xây dựng đầy đủ thư viện điện tử và sách tham khảo để phục vụ cho việc dạy
và học của giáo viên và học sinh.
- Ưu điểm khi sử dụng pgương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong dạy học
lịch sử:
Giáo viên có thể sưu tầm các câu chuyện, các giai thoại lịch sử từ các cuốn truyện,
từ nguồn tư liệu của thư viện nhà truờng để sử dụng cho bài dạy thêm phong phú, sinh
động, tiết học trở nên hấp dẫn

4


2.2 Khó khăn khi thực hiện đề tài:
- Về phía giáo viên: mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy nhưng vẫn còn
một số bài quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả giáo viên truyền
thụ lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh. Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên
cứu chắt lọc những kiến thức trọng tâm dể bài dạy có hiệu quả. Ngoài ra giáo viên phải
dành nhiều thời gian để sưu tầm các câu chuyện lịch sử liên quan đến bài dạy.

- Về phía học sinh: Là học sinh một huyện miền núi, nhiều em ở vùng sâu vùng xa
đi lại khó khăn, gia đình goàn cảnh ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập.
Đa số các em vẫn còn thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì vậy sẽ
mau quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các sự kiện lịch
sử.
Phần 3: Giải pháp và tổ chức thực hiện phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử
3.1. Những nguyên tắc cần tuân thủ trong sử dụng câu chuyện, giai thoại lịch sử
trong dạy học lịch sử
Để sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong dạy học lịch sử 1 cách hiệu
quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, đỏi
hỏi giáo viên phải tuân thủ 1 một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đảm bảo tính cơ bản, khoa học.
- Có nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện lịch sử nhưng điều quan trọng là giáo viên
phải xác định đúng những câu chuyện có liên quan đến các sự kiện mà bài học cần đáp
ứng.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức.
Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh
và trình độ nhận thức của học sinh. Ngôn ngữ phải trong sáng, sễ hiểu, biểu cảm....
- Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh.
Giáo viên cần phải lựa chọn các câu chuyện lịch sử cho phù hợp với những kiến
thức sự kiện lịch sử cơ bản, phục vụ cho bài học để từ đó học sinh hiểu sâu sắc bài học,
kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình. Giáo viên sử dụng phương pháp kể
chuyện không đơn thuần là để minh hoạ mà còn để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện nội
dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử.
3.2. Một số phương pháp lồng ghép kể chuyện trong dạy học lịch sử ở Trường
THPT

5



3.2.1. Một số phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong bài nội khoá
* Thứ nhất: sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử để tạo biểu tượng về
nhân vật lịch sử.
Đi cùng với các sự kiện lịch sử thường gắn với 1 nhân vật lịch sử cụ thể. Những
anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Nguyễn Tri
Phương, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng... và đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh. Những nhân vật này có vai trò rất lớn với lịch sử dân tộc do vậy trong dạy học giáo
viên không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật đó, sử
dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử một cách
sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc.
Giáo viên có thể kể chuyên kết hợp với tranh ảnh để tạo biểu tượng. Trong bài nội
khoá do thời gian có hạn giáo viên tạo biểu tượng về những nét chính, tiêu biểu đủ để
khắc hoạ nên nhân vật đó. Ví dụ giáo viên tạo biểu tượng về Tôn Thất Thuyết.
“Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29/3/1839 tại thôn Phú Mộng xã Luân Long nay thuộc
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông chủ trương loại bỏ tất cả những ông vua và
bọn quan lại có tư tưởng thân Pháp, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho cuộc
kháng chiến trong triều đình mà ông dự đoán sẽ bùng nổ. Triều thần, người nào chủ hoà
đều bị coi là kẻ thù chung của nước Nam và thù riêng của Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất
Thuyết là 1 tử tù của nước Pháp. Nhưng đối với người Pháp chỉ có oán với trọng mà
không có khinh”.
* Thứ hai: Sử dụng các giai thoại lịch sử để giải thích từ đó rút ra bản chất một sự
kiện, một hiện tượng lịch sử.
Để cho học sinh nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử tức là trả lời
được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện, các giai thoại lịch sử rồi từ đó
nêu tình huống có vấn đề.
Ví dụ: Bài 20- lịch sử lớp 10: “ Xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc trong các
thế kỷ X- XV”. Để học sinh hiểu được vì sao thời Lý phật giáo được coi là quốc giáo.
Giáo viên kể câu chuyện sau:
“ Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp ( Từ sơn- Bắc Ninh) sinh năm Giáp Tuất
( 974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ năm 3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho

rằng ông là con ruột của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh Văn.
Cũng theo truyền thuyết bố Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng ở chùa Tiên Sơn
(An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ rồi làm nàng có thai,bị nhà sư đuổi đi nơi
khác.

6


Hai vợi chồng đi đến rừng Báng, dừng lại nghỉ. Người chồng khát nước đến chỗ
giếng nước giữa rừng uống chẳng may xảy chân ngã chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy
đến xem thì đất đã đùn lấp giếng. Người phụ nữ xin vào ngủ nhờ ờ Chùa Ứng Tầm gần
đấy. Sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm trước nằm mơ thấy Long thần về báo mọng rằng
“Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hoàng đế đến”. Tỉnh dậy nhà sư sai chú Tiểu quét dọn
chùa sạch sẽ. Khi đó chỉ có người đàn bà mang thai đến. Đêm đấy bỗng nhà chúa phát
sáng, hương thơm toả ra ngào ngạt, sư trụ trì dạy xem thì người đàn bà đã sinh được 1
cậu con trai, 2 bàn tay có 4 chữ “Sơn hà xã tắc”. Sau đó trời bỗng nổi trận mưa to, gió
lớn, người mẹ saukhi sinh chú bé thì chết và chú bé được nhà chùa nuôi nấng, khi chú bé
được 8, 9 tuổi được theo học sư Vạn Hạnh ở Chùa Tiên Sơn. Chú bé đó là Lý Công Uẩn.
Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá ở 1 đất vùng văn minh, văn
hiến, lại được sự dậy dỗ của vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người con
ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng Triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt.
Tóm lại trên đây là một số phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong dạy
học lịch sử chúng tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài học,
truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo,
linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết học....
3.2.2. Phương pháp sử dụng các câu chuyện lịch sử, các giai thoại lịch sử trong bài ngoại
khoá
Trong bài ngoại khóa môn lịch sử, giáo viên có thể tổ chức một buổi tham quan
học tập ở bảo tàng lịch sử đối với học sinh ở các trung tâm thành phố. Đối với học sinh
trường THPT Bá Thước, do điều kiện về kinh tế, về địa lý gặp nhiều khó khăn, giáo viên

có thể tổ chức một bài ngoại khóa với hình thức kể chuyện lịch sử.
Kể chuyện lịch sử là một hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có hiệu quả giáo
dục cao.
Kể chuyện lịch sử không phải là thông báo khô khan, kể chuyện lịch sử phải đưa
người nghe sống lại quá khứ, như đang được chứng kiến tận mắt. Để làm được điều này
trước hết học sinh phải chuẩn bị kỹ càng, phải đọc thuộc truyện, kể không những khúc
chiết, rõ ràng tái hiện lại được nội dung sự kiện lịch sử mà còn cuốn hút, hấp dẫn người
nghe.
Có nhiều cuốn sách trong đó có nhiều câu chuyện lịch sử liên quan đến các bài học.
Đó là các tác phẩm “Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, viết về các nhân vận lịch sử, các
công trình văn hoá nổi tiếng thế giới như công trình vườn treo Ba-Bi-lon, cung A phòng,
khu lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng.

7


Hoặc tác phẩm “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” qua tác phẩm này học sinh có thể kể chuyện về Bác. Đặc biệt hiện nay đang phát
động phong trào kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ví dụ: Kể chuyện về những năm bôn ba của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian
Người ở Anh (1913).
“Vào khoản 1 năm trước đại chiến, một hôm tôi gặp ở phòng chùi thìa, nĩa một
người Á Đông trẻ tuổi. Tôi không để ý đến anh ấy vì tôi tưởng anh ấy là người Trung
Quốc. đến ngày thứ 3, chính anh ấy đến nói chuyện với tôi bằng tiếng ViệtNam. Cố nhiên
tôi rất sung sướng được gặp đồng hương. Từ ngày ấy chúng tôi trở nên đôi bạn thân.
- Ai đưa anh đến đây, đến nước Anh? Tôi hỏi anh Ba.
- Tôi đến đây một mình để học tiếng Anh.
- Hay đấy, nhưng Tiếng anh rất khó học. Đã hai năm nay tôi ở thành phố này mà
không biết hơn, ngoài 2 chữ Yes và No (vâng và không).
- Phải học chứ. Chúng ta sẽ cùng học.

- Trước khi đến đây anh làm gì ở đâu?
- Hôm thứ nhất tôi nhận việc cào tuyết. trong một trường học. Một công việc rất
nặng nhọc. Mình mẩy tôi đẫm mồ hôi mà chân tay thì rét cứng và cuốc được tuyết cũng
rất khó khăn vì trơn. Sau 8h làm công việc này, tôi mệt lử và đói bụng. Tôi đành phải bỏ
việc. ông Hiệu trưởng là một người tốt, ông ấy trả cho tôi cả ngày làm việc 6 đồng và vừa
nói, vừa cười “Chính thế, công việc này quá sức anh”.
Hai ngày sau tôi tìm được một việc khác lần này thì phải đốt lò. Từ 5h sáng, một
người nữa với tôi chui xuống hầm để nhóm lửa suốt ngày chúng tôi đổ than, thay than
trong lò. Ở đây thật đáng sợ, luôn luôn ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Tôi không
biết người ta đang làm gì ở tầng trên, vì không bao giờ tôi lên đấy. Trong hầm hết sức
nóng, ngoài trời hết sức rét, và không có đủ quần áo để mặc tôi bị cảm. Vì vậy tôi nghỉ
việc luôn 2 tuần lễ. Với số tiền để dành, tôi trả tiền phòng, tiền bơ và bánh mì và 6 bài
học chữ Anh. Khi chỉ còn 6 hào nữa, tôi đến sở tìm việc ở Sô hô, và người ta đưa tôi đến
đây.
Công việc từ 8h đến 12h và chiều từ 5h đến 10h. Hằng ngày, buổi sáng sớm và
buổi chiều anh Ba ngồi trong vườn hoa Hay- đơ, tay cầm một quyển sách và một cái bút
chì. Hằng tuần vào ngày nghỉ anh đi học Tiếng Anh với 1 giáo sư người Ý...”
Để kể chuyện hấp dẫn, học sinh phải biết đưa những câu biểu lộ sặc thái tình cảm
của mình vào thì câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn.

8


3.3. Một số câu chuyện, giai thoại lịch sử sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường
THPT
Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của bài, của chương và nguồn giai thoại
lịch sử, chuyện kể lịch sử thu thập được chúng tôi chọn lọc một số mẩu chuyện, giai
thoại phù hợp với kiến thức cơ bản với nội dung bài dạy đã xác định.
Ví dụ: Tiết 2 bài 4 - Lịch sử lớp 10: “Các quốc gia cổ đại phương tây Hy lạp
và Rô ma” để cho học sinh biết về nhà khoa học vật lý nổi tiếng là Ác - si - mét. Giáo

viên kể đoạn chuyện sau:
“Ác - si - mét (287-212 TCN) quê ở Xi ra quy dơ, một thành bang Hy lạp ở đảo
Xi rin. Tương truyền rằng vua của thành bang Xi- ra- quy dơ có một cái vương miện làm
bằng vàng, ông nghi ngờ người thợ kim hoàn được giao làm mũ ăn bớt vàng nhưng
không làm cách nào để biết được. Một hôm nhà vua gọi Ác – si – mét đến và hỏi có thể
biết được tỷ lệ vàng ở trong mũ không?. Lúc đó Ác - si - mét chưa trả lời được, nhưng
sau đó nhờ một lần tắm trong bể nước, ông đã phát minh được nguyên lý quan trọng về
thuỷ lực đó là: tất cả mọi vật thả xuống nước đều phải chịu một lực đẩy từ dưới lên trên
bằng trọng lượng nước phải chuyển đi, ông đã giải được bài toán của nhà vua. Vui mừng
về phát minh đó, từ trong bồn tắm không mặc quần áo ông chạy ra phố và kêu to: “ ơ rê
ca! ơ rê ca!. Nghĩa là “ Ta đã tìm ra rồi “ trong sự cười trêu của người dân. Sau đó ông
đem vương miện thả xuống bồn nước đầy rồi đong lượng nước tràn ra, nhờ đó nhà vua
biết được số vàng đã bị ăn bớt.
Một lần Ác - si - mét đã nói một câu “hãy cho tôi một điểm tựa chắc chắn tôi sẽ
cất cả quả đất lên”. Nhà vua vô cùng tức giận cho rằng ông là kẻ kiêu ngạo khoác lác.
Nhà vua liền thách Ác - si - mét hãy làm cho con thuyền lớn vừa mới đóng xong có thể
xuống được mặt nước. Nếu không thực hiện được sẽ chịu tội chết. Ác - si - mét nhận lời,
ông đã dùng gỗ đặt các điểm tựa, rồi dùng ròng rọc cùng đòn bẩy. Sau đó một mình ông
đã từ từ nâng đòn băy lên và con thuyền từ trên bãi cát đã trượt xuông mặt biển trong
tiếng hò reo tán thưởng của người dân. Nhà vua vô cùng khâm phục và kính trọng Ác - si
– mét.
Ác - si - mét còn phát minh ra máy ném đá, gương 6 mặt để đốt thuyền địch khi
đất nước có chiến tranh.
Khi đất nước ông bị quân La mã tàn phá, quân giặc xông vào bắt ông khi ông
đang vẽ một đồ án khoa học. Trước khi bị sát hại ông đã quát quân giặc:” Chúng mày
muốn làm gì thì làm nhưng không được phá đồ án của tao”. Bọn giặc ngu dốt đã đâm
chết ông.

9



Ví dụ: Bài 5 – Lịch sử lớp 10: “Trung Quốc thời phong kiến”, phần 1 “Sự hình
thành nhà Tần – Hán”. Để học sinh hiểu vị vua có công thống nhất Trung Quốc nhưng
khét tiếng tàn bạo là Tần Thuỷ Hoàng. Giáo viên kể đoạn truyện:
“ Sau khi tiêu diệt 6 nước thời Chiến quốc và thống nhất Trung Quốc (221 tr. CN),
Tần Vương Chính bỏ danh hiệu “Vương” và thay bằng thay danh hiệu “Hoàng Đế” và
xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế Trung ương tập quyền. Tần thuỷ hoàng thi hành
đường lối pháp trị “mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định không dùng nhân đức, ân
nghĩa” để cai trị nhân dân. Ông ta còn thích chém giết để ra uy, chẳng hạn hai nhà nho
Hầu Sinh và Lư Sinh được Tần Thuỷ Hoàng giao cho nhiệm vụ đi tìm thuốc trường sinh
bất lão, hai người này đã lên án sự chuyên quyền của y và bỏ trốn. Tần Thuỷ Hoàng sai
tra xét tất cả các nhà nho. Kết quả 460 người bị phát giác phạm điều cấm, bị đưa ra chôn
sống ở Hàm Dương. Có lần một vẫn thạch rơi xuống ở Đông Quận, có người khắc lên
hòn đá mấy chữ “Thuỷ hoàng đế chết thì đất bị chia”, Tần Thuỷ Hoàng cho tra hỏi nhưng
không ai chịu nhận, y đã cho sai bắt tất cả những người ở gần đấy giết đi và đốt cháy hòn
đá.
Sự thống trị tàn bạo của Tần Thuỷ Hoàng đã làm cho cả xã hội căm phẫn. Do đó
mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt nhưng hai lần bị ám sát hụt.
Bài 26 – Lịch sử lớp 10: “Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỷ XIX và cuộc đấu
tranh của nhân dân”, ở mục II “Phong trào đấu tranh của nhân dân và binh lính có cuộc
khởi nghĩa của Cao Bá Quát”. Để học sinh hiểu thêm về tài năng và đức độ, sự kiên trì
của Cao Bá Quát giáo viên kể về câu chuyện “Cao Bá Quát quê ở Phú Thị - Gia Lâm –
Hà Nội (1808 – 1855) là người văn hay chữ tốt nhưng do chữ xấu nên đi thi hội không
đậu. Ông đã quyết tâm học viết chữ bằng cách cứ tối đến ông dùng dây buộc vào xà mái
nhà rồi nối vào bó tóc của mình. Khi luyện viết những lúc ông ngủ gật thì bó tóc lại giật
ngược lên khiến ông tỉnh dạy và tiếp tục luyện viết. Nhờ lòng quyết tâm và kiên trì ông
đã thành công. Chữ của ông đẹp nổi tiếng và được ca ngợi như chữ của Thánh.
Bài 19 – Lịch sử lớp 11: “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược
(Từ năm 1858 đến trước 1873)”. Giúp học sinh hiểu rõ tinh thần chiến đấu của nhân dân
ta. Giáo viên kể đoạn chuyện về Nguyễn Trung Trực.

“Nguyễn Trung Trực tên thật là NguyễnVăn Lịch, người của Phủ Tân An, Định
Tường (nay thuộc Long An”. Khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông đã cùng nhân dân đứng
lên chống Pháp, Trận đánh nổi tiếng của ông là vụ đốt cháy chiến hạm Hi vọng của Pháp
trên Sông Vàm cỏ trưa ngày 10/12/1862. Ông đã cùng 1 toán nghĩa quân dụ giặc lên bờ
rồi cầm đầu 5 chiếc thuyền áp tới khiến quân giặc trở tay không kịp, bị tiêu diệt gần hết.
Sau trận đó ông được triều đình phong chức Quân cơ coi giữ vùng Hà Tiên.

10


Ngày 16/8/1868, ông đưa quân đánh úp đồn Kiên Giang tiêu diệt toàn bộ địch ở đó.
Tháng 9/1868, ông bị giặc bắt, dụ dỗ nhưng ông cương quyết không đầu hàng, ông
đã nói 1 câu nổi tiếng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam
đánh Tây”. Ngày 27/10/1868 giặc Pháp đã hành hình ông ở Rạch Giá.
Bài 21 – Lớp 11: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong
những năm cuối thế kỷ XIX”, mục II “Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần
Vương”. Để giúp học sinh hiểu về vua Hàm Nghi – Một vị vua yêu nước đã ban chiếu
Cần Vương.
Giáo viên kể đoạn:
“Vua Hàm Nghi tên thậy là Ưng Lịch lên ngôi 13 tuổi. Khi cuộc tấn công quân
Pháp của Tôn Thất Thuyết bị thất bại, ông cùng Tôn Thất Thuyết chạy lên Sơn Phòng –
Tân Sở (Quảng Trị) thảo chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân Phò Vua cứu nước. Thực
dân Pháp vô cùng lúng túng trước phong trào Cần Vương, đãm tìm cách bắt cho được
Vua Hàm Nghi để dẹp phong trào từ đầu não.
Pháp đã mua chuộc tên hầu cận vua là Trương Quang Ngọc bắt vua Hàm Nghi đưa
xuống thuyền về Huế. Ngày 14/11/1888, lúc đó vua Hàm Nghi mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi
cách thuyết phục Hàm Nghi công tác, làm bù nhìn song đều bị nhà vua thẳng thắn khước
từ. Ông nói “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn giám nghĩ đến cha mẹ, anh chị em ruột”.
Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà vua đi an trí tại Angieri (Thuộc đia
của Pháp). Về sau người mới học và làm chủ được ngôn ngữ Pháp. Trở thành một hoạ sĩ

có tài. Dù vậy Vua vẫn giữ nguyên tập tục dân tộc: Đầu búi bó, quần the áo dài Việt
Nam. ông sống ở Angiêri 47 năm.
- Bài 24 – Lịch sử 11: “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918)” Mục 2: “Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Tất Thành (19111918)”. Cho học sinh thấy được quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc, giáo viên kể đoạn chuyện sau:
“..... Một hôm tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên anh mới nếm mùi kem.
Sau ít hôm anh đột nhiêu hỏi: “Anh Lê, anh có yêu nước không? Tôi ngạc nhiên và
đáp “Tất nhiên là có chứ”
- Anh có thể giữ bí mật không?
- Có

11


- Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra
cũng có điều mạo hiểm, ví khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?
- Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
- Đây, tiền đây – Anh bạn của tôi vừa nói vừa giơ hai bàn tay.
- Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi.
- Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành xuống tàu buôn Pháp mang tên La – tu – sơ –
Tơ – rê- vin.
Giáo viên lại tường thuật về ngày lao động trên tàu của Người để thấy 1 phần gian
khổ trong quá trình đi tìm đường cứu nước.
“Hằng ngày, Thành phải cọ rửa gian bếp lớn trên tàu, sau đó nhóm lò, rồi khuôn
than, kéo những sọt rau quả, thịt cá, nước đá... từ dưới hầm lên. Có lần trong lúc giông
bão, Thành đang kéo một sọt nặng trên boong thì 1 đợt sóng lớn chồm tới, cuốn lấy thân
thể mảnh dẻ của anh, và xuýt lôi anh xuống biển. Thật may mắn vào khoẳnh khắc cuối
cùng thi anh bám được vào dây cáp và nhờ đó thoát chết”.
- Trong bài 20 – Lịch sử 12: mục “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”. Để làm

nổi bật Chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta. Giáo viên kể đoạn chuyện về anh
hùng Phan Đình Giót.
“Ngày 13/3/1954, quân ta tấn công Him Lam. Sau 1 đợt pháo bắn yểm hộ, bộ binh
ta tiến lên chiếm các cứ điểm Đại đội bộc phá của anh Phan Đình Giót được lệnh tiến lên
trước. Địch bắn ráo riết, tuy bị thương vong nhiều nhưng các chiến sỹ bộc phá vẫn tiến và
phá được 4 hàng rào, 1 mảng lô cốt 1, Anh Giót đã bị thương, song lô cốt 3 vẫn phụt lửa
như mưa, ngăn bước tiến của đồng đội. Anh quyết định bò lên dưới làn mưa đạn, đến tận
chân tường lô cốt 3, rồi nhổm lên áp chặt lưng vào lỗ châu mai. Hoả lực của địch tắt hẳn,
xung kích của ta ào ạt xông lên. Nửa giờ sau lá cờ chiến thắng của ta phất cao trên cứ
điểm Him Lam.
Bài 21 – Lịch sử 12: “Nhân dân hai miền Nam Bắc trực tiếp chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược (1965 – 1973)”, để nhấn mạnh chiến thắng Vạn Tường giáo viên kể
đoạn chuyện:
“Mờ sáng ngày 18/08/1965, sau khi chiếm đóng vùng Chu Lai (Quảng Nam), Mỹ
huy động gần 9 nghìn quân gồm phần lớn lính thủy đánh bộ, sử dụng cả hải, lục, không
quân, với 6 tàu đổ bộ, 105 xe tăng, xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay
chiến đấu, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường (nay thuộc vùng xây dựng nhà máy
lọc dầu Dung Quất, Quảng Ngãi).

12


Sau khi dùng pháo, máy bay bắn phá dọn đường, quân địch chia làm bốn mũi tiến
về Vạn Tường. Quân Mỹ khép chặt vòng vây dồn quân ta vào thôn Vạn Tường rồi tung
hỏa lực tiêu diệt.
Lúc đó ta có một trung đoàn đang đóng ở Vạn Tường đang huấn luyện, củng cố sẵn
sàng nhận nhiệm vụ, đã phối hợp với quân du kích và bộ đội địa phương đánh địch.
Ngay từ đầu, tất cả các mũi tiến quân của địch đều vấp phải hệ thống bãi mìn, hố
chông, vật cản và các chiến sĩ ta chặn lại. Sau một ngày chiến đấu ác liệt toàn trung đoàn
rút khỏi khu vực càn quét của địch lúc 3 giờ sáng ngày 18/08/1965. Kết quả ta đẩy lùi

cuộc hành quân của địch, diệt 919 tên, bắn cháy 22 xe các loại và 12 máy bay lên thẳng,

Phần 4: Kết quả kiểm nghiệm và kinh nghiệm rút từ sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình tìm tòi, vận dụng cụ thể phương pháp trên vào trong thực tiễn giảng
dạy tại Trường Trung học phổ thông Bá Thước, tôi nhận thấy kết quả học tập môn lịch
sử được cải thiện rõ nét.
Cụ thể trong năm học 2010-2011 như sau:
- Kết quả học kỳ I
Chất Giỏi
lượng

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL

%

%

%

SL


%

11A2(31)

0

0

9

29.1

20

64.5

2

6.4

11A3(30)

1

3.3

8

26.6


18

60

3

10

- Kết quả học kì II
Chất Giỏi
lượng

TB

Khá

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

11A2(31)

3

9,6

14

45.2

14

45,2

0

0

11A3(30)

3

10

14


46.7

13

43,3

0

0

13


Tuy kết quả trên đây còn khiêm tốn nhưng nó phần nào khẳng định hiệu quả của
việc áp dụng giải pháp vào quá trình giảng dạy. Đồng thời tôi cũng rút ra một số kinh
nghiệm để góp phần sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử vào dạy học lịch sử có hiệu
quả hơn.
1. Giáo viên trước hết phải nắm vững nội dung bài dạy lịch sử từ đó
nắm vững các câu chuyện, giai thoại lịch sử làm cơ sở cho việc lựa chọn câu chuyên phù
hợp.
2. Giáo viên phải sử dụng phương pháp kể chuyện như thế nào và mức độ ra sao
để vừa thu hút học sinh vừa phát huy tính tích cực của các em.
3. Trong bài giảng, phương pháp kể chuyện phải sử dụng kết hợp với các phương
pháp dạy học lịch sử khác một cách đồng bộ và nhuần nhuyễn như phương pháp sử dụng
đồ dùng trực quan... để nâng cao tính tích cực của học sinh, làm bài giảng sinh động có
hiệu quả.

14



C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay của đất nước, việc nâng
cao chất lượng giáo dục là vô cùng cần thiết. Giáo dục miền núi như huyện Bá Thước với
những đặc trưng riêng của nó càng phải được quan tâm chú trọng và đầu tư. Ngoài sự
quan tâm của các cấp lãnh đạo về cơ sở vật chất thì điều quan trọngnhất quyết định đến
hiệu quả, chất lượng của học sinh chính là các đội ngũ thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy
trên lớp. Với thực tế giảng dạy 5 năm ở Trường THPT Bá Thước, tôi thấy rằng giải pháp
này có thể áp dụng để tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả giảng dạy học lịch sử. Đây là
giải pháp không mới, không đặc biệt nhưng đôi khi chúng ta có thể thấy không để ý và
không thấy hết tác dụng của nó khi áp dụng vào bài dạy. Với kinh nghiệm bản thân tôi
mạnh dạn đưa ra đây để đồng nghiệp cùng tham khảo.
2. Đề xuất
Qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao hứng thú học tập môn lịch sử bằng
phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử” tôi thấy rằng: Sử dụng các câu chuyện, các
giai thoại lịch sử trong dạy học lịch sử là điều thực sự cần thiết, có ý nghĩa lớn trên cả 3
phương diện giáo dục, giáo dưỡng và phát triển toàn diện học sinh. Đồng thời tôi xin đề
xuất một số ý kiến sau:
- Các cấp lãnh đạo và giáo viên phải quan tâm thật sự tới chất lượng đại trài của
học sinh.
- Các giáo viên giảng dạy phải có ý thức thường xuyên trau dồi tri thức và tìm tòi
những sáng kiến mới có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm từng nơi để áp dụng vào trong
giảng dạy.
- Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi mang tính chất vừa chơi, vừa học, vừa thể
hiện sự hiểu biết, vừa tạo điều kiện để học sinh bộc lộ năng khiếu khác của mình.
Trên đây là một vài đề xuất của bản thân tôi trong sáng kiến giáo dục này. Rất
mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của nhà trường, đồng nghiệp để sáng kiến đạt
hiệu quả.


15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các triều đại phong kiến Việt Nam – Tác giả: Quỳnh Cư, Đỗ Đức Huy – NXB
Thanh niên.
2. Hồ Chí Minh những tên gọi đi cùng năm tháng – Tác giả: Bá Ngọc – NXB Quân đội
nhân dân.
3. Những mẩu chuyện lịch sử thế giới – Đặng Đức An (chủ biên) – NXB Giáo dục.
4. Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Bác Hồ.
5. Thiết kế bài giảng lịch sử trung học phổ thông – Giáo sư Phan Ngọc Liên (chủ biên)
– NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

16


MỤC LỤC
Phần 1: Đặt vấn đề..................................................................... Trang 1
1.1 Lý do chọn đề tài ..................................................................Trang 1
1.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................Trang 2
1.3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..............................................Trang 2
1.4 Phương pháp nghiên cứu........................................................Trang 2
Phần 2: Giải quyết vấn đề ........................................................Trang 4
2.1 Cơ sở lý luận.......................................................................... Trang 4
2.2 Thực trạng ............................................................................. Trang 5
2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện .............................................Trang 5
2.3.1 Nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng lồng ghép kể chuyện lịch sử trong dạy học lịch
sử................................................................................................. Trang 5
2.3.2 Một số phương pháp sử dụng các câu chuyện lịch sử, các giai thoại lịch sử trong
dạy học lịch sử ở trường THPT ...................................................Trang6

2.3.3 Một số câu chuyện, giai thoại lịch sử sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường THPT
................................................................................................... Trang 10
2.4 Hiệu quả sáng kiến và kinh nghiệm rút ra từ SKKN ...........Trang 16
Phần 3: Kết luận và đề xuất....................................................Trang 18
3.1 Kết luận .............................................................................. Trang 18
3.2 Đề xuất................................................................................. Trang 19

17



×