Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

CÂY ĐA VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN KÝ HIỆU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.46 KB, 13 trang )

Cây đa là một hình ảnh thân thuộc trong tâm tưởng của bao người dân
Việt Nam. Không ai biết dân ta đã bắt đầu trồng và yêu quý cây đa từ khi nào,
nhưng từ lâu, cây đa cùng với bến nước, mái đình đã trở thành bộ ba biểu
tượng sinh động gắn với, đất nước, với làng quê truyền thống của người Việt
Nam từ xưa đến nay. Những hình ảnh thân thương ấy có từ khi ta chào đời
rồi in dấu trong tiềm thức suốt cuộc đời, đặc biệt là những người phiêu bạt xa
quê hương. Từ đây, cây đa đi vào văn học dân gian, đặc biệt là ca dao và cả
trong văn học bác học, vừa gần gũi, mộc mạc, lại rất đỗi thiêng liêng, thoát
tục.
Cây đa (tên khoa học banyan tree, thuộc chi ficus) phát xuất từ Ấn Độ
là một loài cây thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), thích hợp vùng nhiệt đới khí
hậu ẩm. Đa có phương thức sinh trưởng khá lạ. Nó mọc từ hạt, sống như loài
tầm gởi, nhờ các loài chim ăn quả mà hạt được phân tán đi khắp nơi. Từ cây
mẹ, các rễ khí nhanh chóng phát triển từ các cành và phát triển thành thân
cây thực thụ khi chúng chạm tới mặt đất. Cây mẹ cuối cùng bị phủ trùm hoặc
bị phân chia ra. Đặc trưng này cho phép đa có thể phát triển thành loài cây
khổng lồ mà tán của nó che phủ đến một vài nghìn mét vuông. Có những cây
đa ôm luôn ngôi miếu, phủ cả cổng tam quan.
Cây đa là một biểu tượng trực quan, nó vừa mang ý nghĩa thực tiễn,
vừa có ý nghĩa xã hội và tâm linh. Về mặt lợi ích, cây đa không thể so sánh với
tre, bạch đàn, cau, mít… nhưng về mặt tinh thần, dường như cây đa đã mặc
nhiên trở thành biểu tượng được đặt ở vị trí cao hơn cả.
Đa là một loại cây khỏe. Thông qua sức sống phi thường và đáng ngạc
nhiên của nó, người ta gán cho loại thực vật này một biểu trưng đầu tiên là
sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Sau mỗi "một phen xuân", cây lại tiếp tục
sinh trưởng, đâm cành tươi tốt hơn, nảy lộc sum xuê hơn. Trong tiềm thức
1


của người Việt, cây đa sừng sững nơi đầu làng qua bao nắng mưa và hiên
ngang trong gió táp bão bùng, vẫn tràn trề sức sống, vẫn vươn mình ngạo


nghễ với thời gian.
Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người đã có
nhiều thành tựu ở một lĩnh vực nào đó thường được đồng nghiệp và xã hội
coi là "cây đa, cây đề". Hình tượng sừng sững với sức sống mãnh liệt, bền bỉ
của cây đa cũng tượng trưng cho sức dẻo dai, sự quên mình trong công việc,
cho sự tích lũy kiến thức phong phú, và cho cả sự vĩ đại, lớn lao của những
người trở thành gạo cội trong một lĩnh vực hay trong cuộc sống. Ta cũng có
thể thấy, hình ảnh một cây đa cổ thụ đã trở thành biểu tượng quen thuộc của
Hội những người cao tuổi Việt Nam cũng như thế giới.
Xuất phát từ ý nghĩa trường tồn, cây đa trở thành một hình tượng
nghệ thuật trong ca dao, dân ca như một nhân chứng của thời gian. Nhiều
cây đa đã sống với bao nhiêu thế hệ dân làng. Có cây đã sống đến hàng trăm
năm, chứng kiến bao sự đổi thay của bao thế hệ con người, của đất trời, đồng
hành cùng dân tộc trải qua bao bước thăng trầm của thời cuộc.
Cây đa là điểm ghi nhớ, điểm đánh dấu nổi bật, đại diện cho một nơi
chốn đáng được lưu ý: “Có cây đa biết mối tình đôi ta”. Gốc đa chính là nơi hẹn
hò, là địa điểm trao đổi tâm sự của trai gái trong làng.
Em đang dệt vải quay tơ
Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà
Hẹn giờ ra gốc cây đa
Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao.
Nào khi ngồi cội cây đa
2


Người thương có nhớ chăng là người thương.
Và "cây đa bến cũ" đã trở thành một cặp biểu tượng sóng đôi quen
thuộc trong khá nhiều câu ca dao thể hiện cho trường nghĩa thủy chung, ân
tình. Nó không chỉ gắn liền với quê hương, đất nước mà còn đóng vai trò như
vật chứng của tình cảm con người, gắn với tình cảm riêng tư, tình cảm đôi

lứa của con người Việt Nam.
Cây đa bậc cũ lỡ rồi
Đò đưa bến khác, bạn ngồi chờ ai
Cây đa bến cũ năm xưa
Chữ tình ta cũng đón đưa cho trọn đời.
Hay :
Chim than trái chín ăn xa,
Buồn tình nhớ gốc cây đa muốn về.
Cây đa gắn bó với người dân quê từ thuở bé và trở thành biểu tượng in
dấu suốt cuộc đời, nhất là đối với những người xa quê. Mỗi người lại có cho
mình những kỷ niệm, những câu chuyện riêng về cây đa làng. Cây đa dần dà
trở thành nơi tưởng nhớ, nơi gửi gắm và tái hiện những ký ức, hoài niệm,
những tình cảm một thời của nhiều người. Cuộc tình đã qua nhưng hình ảnh
vẫn còn nơi cây đa bến nước:
Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa;

3


Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.
Quán hàng có thể đổ sau một vài năm song cây đa thì còn lâu dài,
không chỉ ba năm mà có thể từ đời này sang đời khác.
Có quán tình phụ cây đa
Ba năm quán đổ cây đa hãy còn.
Cảm xúc của một người xa xứ nay trở về chốn xưa là sự ngỡ ngàng
trước sự thay đổi của người xưa (con đò khác đưa) trong cảnh cũ của quê
nhà (cây đa, bến cũ). Vạn vật luôn vận động, đổi thay là lẽ thường tình. Và
cuốn theo quy luật đó, lòng người cũng thay đổi. Người hồi hương chỉ còn

biết hoài niệm nhớ thương.
Cây đa là cây đa bến cũ, bến cũ là bến cũ đò xưa
Ôi thôi rồi, người khác sang đưa
Con đò đưa khách đã không còn ở bến nước là một ẩn dụ để chỉ người
xưa (là người yêu hoặc vợ/ chồng chưa cưới) của chủ thể trữ tình. Có thể
thấy ở đây, cây đa lại tượng trưng cho tình yêu đích thực, bền vững với
thời gian và chỉ có một mà thôi.
Tất cả những câu ca dao ấy đều mang một âm hưởng man mác buồn
khi nhìn lại cảnh xưa, khi bắt gặp cây đa già vẫn trầm mặc nơi chốn cũ như
một biểu tượng của thời gian.
Biết bao cây đa không chỉ chứng kiến mà còn đồng hành cùng dân tộc
qua những chặng đường lịch sử. Ngày xưa, thời khởi nghĩa Lam Sơn, người
ta đã từng thấy có dòng chữ hiện trên mỗi chiếc lá đa “Lê Lợi vi quân, Nguyễn
4


Trãi vi thần”. Nhờ đó mà lớp lớp trai tráng khắp nơi kéo nhau về đứng dưới
lá cờ “Lam Sơn tụ nghĩa”, cùng Lê Lợi, Nguyễn Trãi nếm mật, nằm gai, gian
khổ mười năm đánh tan giặc Minh xâm lược.
Rồi cây đa Tân Trào lịch sử là hình ảnh quê hương cách mạng mùa thu
không bao giờ phai mờ trong tâm trí người Việt nam qua câu thơ:
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
Ngày 22-12-1944, ba mươi tư chiến sĩ chân đất, súng thô dưới sự chỉ
huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khai sinh ra Quân đội nhân dân Việt
Nam anh hùng bách chiến, bách thắng.
Cờ búa liềm trên những ngọn đa.
Màu đỏ ấy thổi dậy hồn dân tộc...
(Chế Lan Viên)
Hồi Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở làng nào mà cũng có ngọn cờ
đỏ sao vàng, cờ búa liềm trên những ngọn đa đầu làng. Trong cách mạng,

trong kháng chiến còn có biết bao nhiêu đội dân quân, du kích, bộ đội từng
tập hợp dưới bóng đa làng mít-tinh, biểu tình rầm rập kéo đi phá kho thóc
lẫm, cướp chính quyền về tay nhân dân. Trai làng biết bao nhiêu lần tập hợp
đội ngũ chỉnh tề dưới bóng đa sân đình hô vang lời thề:
Ra đi giữ vững lời thề
Chưa hết giặc Mỹ chưa về quê hương.
Người Hà Nội thường hay nhắc đến cây đa Cổ thụ nổi tiếng: cây đa nhà
Bò. Qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, cây đa cũng gánh chịu trên mình đầy
những vết thương chiến tranh.
5


Trong làng, cây đa có mặt ở nhiều vị trí khác nhau nhưng hầu như nó
không vắng bóng ở các di tích, đặc biệt là đình chùa. Cây đa được gọi là cây
thiêng nơi thần trú ngụ. Trong trường hợp này, nó trở thành biểu tượng
tâm linh của con người.
Xuất phát từ tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh và tín ngưỡng thờ
cây – những tín ngưỡng bản địa quen thuộc lâu đời ở Việt Nam, cây đa hay
cây si từ lâu đã trở thành những loại cây vốn rất quen thuộc trong tín
ngưỡng dân gian. Cây đa nào càng già cỗi, càng xù xì, rậm rạp thì càng gắn
bó với thần linh. Cây đa xanh tốt tỏa bóng làm cho các di tích trở nên thiêng
hơn, con người khi bước đến di tích cũng cảm thấy được thư thái hòa đồng
hơn với thiên nhiên, tĩnh tâm bước vào chốn thiêng. Trong kho tàng truyện
dân gian của các làng quê có nhiều câu chuyện về những linh hồn trú ngụ nơi
gốc đa làng làm tăng tính huyền bí và linh thiêng của di tích.
Lá đa rụng xuống sân đình
Không ai tưởng bạn thì mình tưởng cho.
Cây đa tồn tại qua bao nhiêu thế hệ, lâu đến nổi dân làng đều tin rằng,
đó là nơi trú ngụ của thần linh, khiến cho bất kỳ ai cũng phải cúi đầu cung
kính khi đi ngang qua cây đa. Tục ngữ có câu: “sợ ông thần phải sợ cây đa”.

Bởi thế mà những quan niệm như “cây gạo có ma, cây đa có thần”, “thần cây
đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề” tồn tại khá phổ biến trong tâm thức dân gian
Việt Nam. Theo dòng tín ngưỡng ấy, trẻ con nhà nào có bệnh, đau ốm, bố mẹ
chúng lại mang nhang đèn ra khấn vái gốc cây đa. Tất nhiên bệnh không thể
chữa lành, nhưng lại tạo cho người ta một sự yên tâm, bởi tâm thức dân gian
là“có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.

6


Người ta nhìn lên mặt trăng huyền ảo, thấy những nét đậm nhạt mà
nghĩ ngay ở nơi đó có hình ảnh cây đa và chú cuội. Thế rồi cái huyền thoại ấy
ăn sâu vào lòng người:
Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ.
Cây đa trong Sự tích chú Cuội đã được dân gian thần thánh hóa bằng
cách gán cho nó đặc tính thần thánh, có thể cứu người chết sống lại. Trước
khi đi chữa bệnh làng xa, Cuội có dặn vợ: “Có đái thì đái bên tây, đừng đái bên
đông cây dông lên trời!”. Trong tứ phương đông, tây, nam, bắc thì hướng
đông được dân gian đặc biệt coi trọng. Theo ngũ hành, hướng đông là hướng
của hành Mộc, hướng của mặt trời mọc, hướng của sự sống nên rất linh
thiêng, cần được bảo vệ. Chính vợ Cuội đã phải trả giá cho hành động xúc
phạm đến cây đa thiêng của mình: mất cả chồng lẫn cây (1).
Cây đa ở phố Hàng Bông thì gắn với những câu chuyện bí ẩn. Cứ chập
tối, thỉnh thoảng có những cô gái rất đẹp ngồi trên những chiếc xe tay có
người kéo, đi thăm các cây đa quanh vùng Hà Nội rồi biến mất lúc nào không
biết. Ngày hôm sau, người phu xe sẽ rất đắt khách.
Cây đa còn tượng trưng cho tư duy dân chủ của tâm thức dân gian
đối với thế giới thần linh. Nó còn trở thành nơi ngự trị của cả các thần linh
dân dã và các linh hồn bơ vơ, không chốn nương thân.
Chanh chua anh để giặt quần

Người chua anh để làm thần gốc đa.

Dẫn theo Nguyễn Ngọc Thơ – bài viết Triết lý cây đa />1()

7


Người chua ngoa sẽ chỉ trở thành những linh hồn bơ vơ, không nhà
cửa, trú ngụ nơi gốc đa mà thôi. Biểu tượng "thần gốc đa" trở thành bài học
giáo dục con người một cách nhẹ nhàng mà thâm thúy.
Gốc đa ở các di tích, đền chùa thường được dân chúng thắp hương
chung để tỏ lòng tôn kính các vị thần linh dân dã và còn cầu cho những linh
hồn bơ vơ về nương nhờ chốn cửa Phật, để không đi lang thang quấy nhiễu
dân làng.
Tư duy dân chủ này còn thể hiện ở việc mượn hình ảnh cây đa để
khuyên bảo nhau cách ứng nhân, xử thế:
Ở cho phải phải phân phân
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
Cây đa khi có thần ngự, tức là được linh thiêng hóa thì nó mới thành
cây thiêng. Ngược lại thần cũng cần có cây đa để nương nhờ bóng Phật,
hưởng lộc từ chúng sinh. Mối quan hệ hữu cơ, bình đẳng giữa thần và cây đa
đưa đến bài học giáo dục cho con người: cư xử phải có chừng có mực, vừa
phải, sống hòa hợp với cộng đồng bởi cuộc sống bao giờ cũng phải nương
nhờ vào nhau.
Cây đa đầu làng được sánh đôi cùng giếng nước, trở thành một cặp
biểu tượng của âm dương, của sự sinh sôi nảy nở, như trời – cha và đất
– mẹ. Nếu giếng nước là biểu tượng tính âm (nằm hướng xuống dưới lòng
đất) thì cây đa lại là biểu tượng ởdương tính (phát triển lên trên mặt đất).
Theo Nguyễn Ngọc Thơ (2) , giếng nước là tượng trưng cho đất – mẹ: nơi giữ
2() Dẫn theo Nguyễn Ngọc Thơ – bài viết Triết lý cây đa -


/>8


lại giọt nước – giao tử của trời cha gieo xuống lòng đất mẹ để vạn vật sinh
sôi, thì cây đa tượng trưng cho trời – cha: những nhánh rễ như những chiếc
sinh thực khí của trời – cha, xuất phát từ cành (nối với trời) trổ xuống cắm
sâu vào lòng đất mẹ, tạo nên thế giao hòa đất – trời, mẹ - cha, âm – dương
cho vũ trụ tiếp tục cuộc hành trình. Nhiều cây đa già cỗi, thân chính đã mất,
sự sống vẫn cứ tiếp diễn thông qua các thân phụ như thế.
Cây đa còn là biểu tượng của làng quê Bắc Bộ Việt Nam, tượng
trưng cho vẻ đẹp quê hương, góp thêm màu sắc, âm thanh cho làng quê êm
đềm. Cây đa lung linh soi bóng nước, rồi lại vút lên một bóng đa như tán ô
xanh giữa cánh đồng làng nắng gió mênh mang nơi ngã ba, ngã tư. Nó mang
ý nghĩa biểu tượng về sự sinh tụ trường thọ của cộng đồng, xóm làng, là niềm
hãnh diện của xóm làng. Vào đến Nam Bộ, hình tượng già cỗi, thâm u của
bóng đa hay những lũy tre dày đặc bao quanh làng nhường chỗ cho không
gian mở, khoáng đạt hơn với những miệt giồng, miệt sông. Nhưng không phải
vì vậy mà hình ảnh cây đa làng nơi cố hương bị lãng quên trong tâm hồn mỗi
con người đất phương nam. Người ta gọi cây đa làng, cây đa huyện, cây đa
bãi, cây đa bến sông, cây đa xóm, cây đa chợ… Bao hoạt động sinh hoạt của
làng diễn ra thật yên bình dưới bóng cả của cây đa. Cây đa giữa chợ là nơi bà
con quây quần họp chợ mua, bán đông vui, tấp nập. Gốc đa nơi trẻ nhỏ nô
đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân gian. Quán nước
dưới gốc đa là nơi nghỉ ngơi của người dân đi làm đồng, là nơi họ gặp gỡ
nhau trước khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi trâu làng gặm cỏ,
nơi hội tụ, tìm thức ăn và làm tổ của các đàn chim….
Trong không gian làng quê là đề tài bất tận cho ca dao cũng như rất
nhiều loại hình văn học nghệ thuật khác. Trong không gian làng quê trìu mến
ấy cây đa là hình tượng gợi cảm hứng sâu sắc. Những bức tranh quê trong ca

dao thường có cây đa:
9


Đầu làng có cây đa xanh
Trăng thanh gió mát lọt vào tận nơi;
Cát Chính có cây đa xanh
Có đường cái lớn chạy quanh xóm làng.
Cây đa không chỉ là vị thần thiêng liêng mà còn gần gũi như đấng sinh
thành, như “bóng cả” của làng. Tán ô xanh rộng ấy là nơi che nắng, che
mưa cho dân làng, làm cho con người yên tâm với nụ cười, nước mắt, hướng
về vĩnh cửu. Ở đâu dân làng cần bóng mát, cần cảm giác yên bình thì ở đó có
cây đa... Và có những khi, một cây đa bình dị nơi làng quê lại gắn bó, chở che
cho dân hơn cả nhiều vị quan, tướng có "tài lương đống" lại chẳng quan tâm
gì đến dân.
Tuy đa chưa có tài lương đống
Bóng cả như còn rợp đến dân.
(“Cây đa già” – Nguyễn Trãi)
Còn đối với khách qua đường, cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông
làng với thế giới bên ngoài (3). Người bên ngoài muốn vào làng hay người bên
trong muốn ra khỏi làng thì thường phải qua đây. Nó mô phỏng phong tục
truyền thống chào hỏi của dân tộc: đến chơi nhà bạn thì phải chào hỏi cha mẹ
bạn, con cái ra khỏi nhà thì phải xin phép và chào cha mẹ.
Cuối cùng, xin khép lại bài viết bởi một biểu trưng nữa của cây đa: đại
diện cho giới bình dân và cho những gì thuộc về giới bình dân trong xã
hội Việt Nam. Đa không là giống cây quí trong vườn Thượng Uyển, không
3() Dẫn theo Trần Ngọc Thêm 1999 – Cơ sở văn hóa Việt Nam – NXB Giáo dục, tr.98.

10



phải cây cho lớp người cao sang đài các làm cảnh. Đa cũng không có hoa rực
rỡ, không có quả ngọt ngon như nhiều cây trái khác nhưng đến mùa ra hoa,
ra quả cây đa cũng đẹp lạ. Cây đa bình dị nhưng đường bệ, chững chạc, như
đấng đại trượng phu ít nói mà thâm hậu.
Thi sĩ dân gian đã viết:
Không tiền ngồi gốc cây đa
Có tiền thì hãy lân la vào hàng.
Với người dân quê truyền thống, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không
có sự phân biệt ngôi thứ bởi ai cũng có thể lưu lại, kể cả người bình
dân“không tiền”. Cây đa được coi là nơi ngự trị của thánh thần linh thiêng
nhưng cũng là nơi bình dân, không nặng về ngôi thứ trên dưới như đình
chùa. Dân làng sau một ngày cấy cày mệt nhọc, về ngang gốc đa tự do ngồi
nghỉ ngơi trò chuyện, không cần phép tắc.
Thứ nữa, cây đa khi trong không gian chùa chiền thì không chỉ mang
một lớp áo linh thiêng. Thực ra thiêng nhất ở chùa phải là cây bồ đề, sau đó
là cây gạo, cây sung, cây tre... chứ không phải là cây đa. Mặc dù cây Bồ đề là
biểu tượng thuộc phạm trù tôn giáo còn cây đa nghiêng về phạm trù thần
giáo trong tín ngưỡng dân gian người Việt song cả hai biểu tượng này cùng
được sử dụng trong truyện cổ Phật giáo Việt Nam với ý nghĩa là nơi thành
đạo của các Phật tử. Trên thực tế ở Việt Nam chỉ chùa lớn mới có bồ đề (do
điều kiện khí hậu và cây giống khó khăn), còn những chùa nhỏ thì thường vẫn
khiêm tốn bên gốc đa già cỗi (4).
4() Dẫn theo Nguyễn Phương Châm – Biểu tượng cây đa -

/>
11


Như vậy có thể thấy, theo dòng thời gian, cây đa luôn là giữ trong mình

biểu tượng thật đẹp hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực: vừa hiện hữu lại vừa
tiềm ẩn, vừa huyền bí nhưng vẫn mang hơi thở cuộc sống, vừa đậm yếu tố
tâm linh thiêng liêng nhưng lại rất gần gũi, dân dã. Chính sự kết hợp đó mà
biểu tượng cây đa có sức sống bền lâu trong tâm hồn mỗi con người Việt
Nam, được biểu hiện trong cả văn học dân gian lẫn văn thơ bác học, như
chính đặc tính sinh học vốn có của nó vậy.

12


Tài liệu tham khảo
1. Trần Ngọc Thêm 1999 – Cơ sở văn hóa Việt Nam – NXB Giáo dục.
2. />
viet-nam/557-nguyen-phuong-cham-bieu-tuong-cay-da.html
3. />
13



×